“Triết học nhẹ nhàng” của Trịnh
Công Sơn
Đạo Phật với Trịnh Công
Sơn là hơi thở, là triết học làm cho con người yêu đời
hơn chứ không phải là lãng quên sự sống. Đạo Phật đến với ông
qua nếp sống gia đình, và rồi đi vào âm nhạc của ông
ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm giữa cuộc đời này. Âm
nhạc Trịnh Công Sơn được nhìn qua nhiều góc độ. Trong dịp kỷ niệm ngày mất của
ông, VHPG giới thiệu đến độc giả một bài viết về Trịnh Công
Sơn của Giáo sư John C. Schafer, một người Mỹ, qua con đường nghiên cứu và tiếp
xúc văn hóa đã trở về với đạo Phật, với văn hóa Việt,
như thể kiếp trước là người Việt. Bài viết được ông chuyển trực tiếp
cho tòa soạn Văn Hóa Phật Giáo. BBT xin cảm ơn tác giả về
mối duyên tốt đẹp này.
Đã có rất nhiều sách viết về
Trịnh Công Sơn là hơi thở là triết học làm cho con người yêu
đời hơn chứ không phải là lãng quên sự sống nhưng có một đề tài mà theo tôi đã
không được đề cập đến nhiều, đó là triết lý của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn
có viết: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào
những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai
ai cũng có thể hiểu được”. Bài này sẽ trình bày rằng thứ “triết học nhẹ nhàng”
này chính là triết học Phật giáo.
Trong Tứ Diệu Đế của đạo
Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài
rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Tin buồn từ ngày mẹ
cho mang nặng kiếp người”, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc
đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả. TheoKinh Kim
Cương, Tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như ánh chớp”. Đây
là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại trong nhiều lời
ca của mình. Giống như “con chim ở đậu cành tre” và một “con cá...trong khe nước nguồn”, không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh
viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này. Trong khi tạm cư ở chốn trần
gian này chúng ta tìm chỗ ẩn náu trong tình yêu, nhưng rồi
tình yêu cũng mất đi. Tình yêu như tất cả mọi sự khác đều vô thường như
Trịnh Công Sơn đã viết trong bàiĐóa hoa vô thường và nhiều bài ca
khác. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn là những lời tuyên bố siêu
hình rằng những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai nho nhỏ
trên con đường đời đẹp đẽ vô song. Các bài tình khúc của Trịnh
Công Sơn, như Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, là những “bài kinh cầu bên vực
thẳm”. Các bài ca này là những lời nhắc nhở cho chúng ta về lẽ vô
thường.
Một đề tài Phật giáo khác
trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. “Hạt bụi nào hóa kiếp
thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi”, ông hát trong Cát bụi. Hay “Ta
thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô”, trong Rừng xưa đã
khép. Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo
Phật rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là
hình bóng của hiện tại”. Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết
luân hồi của nhà Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên
giới giữa đi và về, như trong bài Phôi pha: “Có những ai xa đời quay
về lại / Về lại nơi cuối trời”. Nếu chết là để đi đến tái sinh thì
khi ta ra đi nghĩa là ta trở lại. Nhìn sống và chết cũng như
nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước đang ra đi hay nước đang trở về.
Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: “Những ngàn
xưa trôi đến bây giờ / Sông ra đi hay mới bước về”. Theo đạo Phật không
có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong cái ta đã mất được tiếp
nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường được so sánh như
khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra đi và cũng có cái trở
lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài ca cùng nhan đề.
Một ảnh hưởng khác
của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là sự mập
mờ và siêu lý luận của các câu văn. Nhạc, lẽ dĩ nhiên là
tiếng nói của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này
cũng chưa đủ dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như
không muốn làm cho lời ca rõ ràng. Tôi nghĩ rằng đây là ảnh hưởng của Phật
giáo, rằng người ta không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình
an cho tâm hồn, rằng ý niệm giác ngộ vượt qua biên
giới của ngôn ngữ và lý luận.
Cái mập mờ danh tiếng của
Trịnh Công Sơn là do sự phá bỏ biên giới giữa các điều mà chúng
ta thường xem là khác biệt, một phương pháp mà Cao Huy Thuần gọi
là “đối hợp”. Trịnh Công Sơn hay dùng lối văn đối nghịch, một nghệ thuật ngôn
ngữ hay dùng để nhấn mạnh sự khác nhau của hai điều, nhưng ngược
lại, Trịnh Công Sơn hay đem đối nghịch làm trùng hợp như trong các
câu này: “Tình không xa nhưng không thật gần”; “Không xa đời và cũng
không xa một người”; “Một phố hồng một phố hư không”. Trịnh Công Sơn giống
như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì trắng, quạ thì đen, với mục
đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải tránh xa cái đối lập giữa
“có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa. Lời ca của Trịnh Công Sơn giống
như các công án trong Phật giáo, chẳng hạn như công án nổi
tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và cũng giống như công
án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích được bằng
đầu óc.
Khi nói về triết lý trong nhạc
Trịnh Công Sơn chúng ta cũng cần nói tới ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinhnữa. Các bạn thân của Trịnh Công Sơn xác nhận rằng,
ông cũng như một số đông các nhà trí thức miền Nam vào cuối thập niên
năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, rất bị lôi cuốn bởi chủ
nghĩa hiện sinh. Thái Kim Lan bảo rằng: ở Huế hồi đó nhiều người nói về lo
âu (angst), hư vô (nothingness), nôn mửa (nausea) và nỗi hoài
công phi lý của Sisyphus. Nguyễn Văn Trung hồi đó mới từ Bỉ về, theo
Bửu Ý là “nòng cốt” của các cuộc tranh luận về triết lý tại Huế. Nguyễn
Văn Trung viết nhiều bài về hiện sinh và đăng trong tạp chí Đại
Học, do ông làm chủ nhiệm. Các bạn của Trịnh Công Sơn bảo rằng ông rất ham đọc
sách của Camus về huyền thoại Sisyphus. Các bạn này cũng bảo Trịnh Công Sơn rất
thích các phim trong đó có tài tử James Dean đóng vai của một người lưu lạc cô
đơn. Chúng ta thấy hình ảnh chàng cô đơn này
trong nhiều bài của Trịnh Công Sơn trong đó có bài Dã tràng ca. Trong bài
này Trịnh Công Sơn muốn so sánhmình với Sisyphus, qua một hình ảnh đã
được Việt Nam hóa là con dã tràng suốt ngày “xe cát biển đông” trong Nghe
thân lưu đày.
Trong cuốn Huyền thoại
Sisyphus, Camus nói: trong cái thế giới phi lý này, chúng
ta thường hay bị quyến rũ bởi hai cách trốn thoát: một
là tự vấn thân xác, hai là tự vẩn triết lý, tức là nuôi dưỡng niềm hy
vọng rằng mình sau này khi chết đi sẽ được lên chốn thiên đàng vĩnh
cửu. Theo Camus, chúng ta phải từ chối hai con đường giải
thoát này và phải chọn một con đường khác: con đường chống
đối thế giới phi lý này giống như nhân vật Sisyphus trong huyền
thoại vậy. Ông Nguyễn Văn Trung đã giải thích thuyết của Camus theo một
cách khác. Ông viết về tự vẫn triết học như thế này: “Hy vọng một
đời khác, hoài niệm một quê nhàsau tù đầy là một cách phủ
nhận tình trạng phi lý khác, mà không chấm dứt được phi
lý. Camus gọi những giải pháp thoát ly đó là một tự vẫn triết lý
(Suicide philosophique)”. Nguyễn Văn Trung cho rằng, theo Camus, chúng ta phải chấp
nhận rằng “Tù đày chính là quê nhà”.
Rất có thể Trịnh Công Sơn đã
bị ảnh hưởng của Camus qua cách giải thích của Nguyễn Văn
Trung. Giáo sư Trung đã Việt Nam hóa lý thuyết về lưu đày và thiên
đàng vĩnh cửu của Camus. Lời giải thích của Nguyễn Văn
Trung đã làm lẫn lộn hoài vọng về một cõi thiên đàng trong kiếp
sau với hoài vọng về quê nhà. Trịnh Công Sơn quả thật đã
bị lôi kéo từ hai dòng lực tù đày và quê nhà. “Nhiều đêm muốn đi về con phố
xa/ Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà”, ông đã
hát trong Lời thiên thu gọi. Nhưng vì đã được uốn nắn trong
một nền văn hóa mà trong đó tình yêu quê nhà đóng một vai
trò rất mạnh, Trịnh Công Sơn đã không do dự chọn quê nhà.
Ông đã hát “Chân đi xa trái tim bên nhà”, trong Có nghe đời nghiêng và
“Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá/ Góc phố nào cũng thấy quê nhà” trong Tình
yêu tìm thấy.
Do đó ta thấy Trịnh Công Sơn không chấp nhận sự nổi loạn chống lại thế giới phi lý như Camus đã cổ võ. Trịnh Công Sơn không thể nào chọn lưu đày làm nơi quê nhà. Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạnhiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: “Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây” Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. “Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này”.
Do đó ta thấy Trịnh Công Sơn không chấp nhận sự nổi loạn chống lại thế giới phi lý như Camus đã cổ võ. Trịnh Công Sơn không thể nào chọn lưu đày làm nơi quê nhà. Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạnhiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: “Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây” Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. “Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này”.
Hiện sinh khuyến khích cá
nhân đứng lên một mình để chống lại xã hội và văn
hóa. Phật giáo, ngược lại, dạy thuyết vô ngã, dạy rằng không có gì
khác biệt giữa ta và tha nhân, rằng mọi sự mọi việc trên đời đều hỗ
tương ảnh hưởng vào nhau. Tôi tin rằng Trịnh Công Sơn có ý nói đến
thuyết vô ngã trong các bài ca của ông. Ông có nói đến “phụ người”
như trong bàiRu em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân
thế. ‘Yêu em yêu thêm tình phụ/ Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” (Ru
em). “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna),
hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.
Lúc mới bắt đầu sự nghiệp,
Trịnh Công Sơn cũng như nhiều thanh niên trí thức khác tại miền Nam,
thích bàn luận về thuyết hiện sinh. Triết lý nói chung và thuyết hiện
sinh nói riêng hồi đó là một đề tài rất phổ thông trong giới trẻ.
Các bài hát đầu của Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được nguyên vọng
này của giới trí thức miền Nam. Phật giáo và hiện sinh quả
thật có gần nhau ở một vài điểm. Cả hai đều tin rằng con ngườiphải đối
diện với cái chết và với ý niệm hư vô trước khi có thể thực
sự sống một đời sống đích thực. Trịnh Công Sơn lúc mới vào nghề nổi
tiếng vì đã “chịu chơi” với thuyết hiện sinh nhưng theo tôi Trịnh
Công Sơn đã sáng tác nhạc của mình dựa trên các đề tài của Phật
giáo. Nếu hồi đó ít ai để ý tới cái tính cách Phật giáo trong
các bài của ông, có thể là vì Phật giáo và hiện sinh gặp
nhau ở một vài điểm và người ta chỉ để ý đến khía cạnh hiện
sinh mà thôi. Tuy nhiên lý do chính vì sao Trịnh Công Sơn vẫn tiếp
tục thành côngtrong một thời rất dài là vì những ưu tư có tính
cách rất Phật TCSơn đã gởi gắm trong lời ca của mình.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.
Nguồn Tạp chí Văn hóa Phật giáo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét