Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

Thấy gì qua bài phê bình văn học của Trần Minh Tạo

Thấy gì qua bài phê bình văn học của Trần Minh Tạo?
(Trao đổi về bài viết: “Thấy gì qua một số bài viết về 
văn học của Võ Tấn Cường?” của Trần Minh Tạo)
1. Phê bình kiểu so sánh nhưng thiếu… phương pháp so sánh.

Trần Minh Tạo so sánh phong cách ngôn ngữ trong bài phê bình: “Lê Đạt-người phu chữ thanh xuân” của tôi ấn tượng giống phong cách ngôn ngữ của F.Nietzsche khi viết “Zarathustra đã nói như thế”. Kiểu phê bình so sánh của Trần Minh Tạo hoàn toàn mang tính chủ quan và không dựa vào phương pháp so sánh mang tính khoa học.
Do không dựa vào sự tương đồng về thể loại và không dựa trên cái trục lịch sử nên cách so sánh của Trần Minh Tạo khập khiễng, không thuyết phục. Tác phẩm của F.Nietzsche có sự hòa trộn, dung hòa giữa nhiều thể loại nhằm bộc lộ cái nhìn, quan điểm của ông về nhân sinh, con người và vũ trụ. Bài viết của tôi thuộc thể loại phê bình thơ và chỉ nhằm khám phá phong cách thơ của Lê Đạt. Hai phong cách ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau và khác nhau về thể loại nên sự so sánh của Trần Minh Tạo đã rơi vào khiên cưỡng, khập khiễng.
2. Phê bình theo kiểu…áp đặt người khác diễn đạt theo cách của mình.
Tôi tâm đắc ý kiến của nhà phê bình văn học Pháp Roland Barthes (1915-1980) đại ý rằng, người ta không thể có cách nào khác, ngoài cách dùng vẻ đẹp văn chương để viết về vẻ đẹp văn chương. Phê bình thơ đối với tôi chính là khám phá ý nghĩa hàm ẩn của ngôn từ, sự biến đổi, chuyển động về tâm trạng, tư tưởng của chủ thể trữ tình (cái tôi trữ tình của nhà thơ) và khám phá con người thẳm sâu của chính mình trong qúa trình tiếp nhận thế giới của cái đẹp trong bài thơ. Tôi quan niệm viết phê bình một bài thơ, một tập thơ hoặc một phong cách nghệ thuật của nhà thơ chính là tạo dựng một bài-thơ-văn-xuôi dựa trên một hoặc nhiều phương pháp, hệ hình phê bình văn học nào đó. Hầu hết các bài phê bình của tôi đều viết theo phương pháp phê bình trực giác, phê bình phân tâm học và phê bình cấu trúc, thể hiện sự phát ngôn tự tại của bản thân, ít hoặc không dựa vào quan điểm hoặc cách đánh giá của một nhà tư tưởng hoặc một nhà lý luận phê bình nào. Tôi cảm thụ bài thơ và ký mã ngôn ngữ trong bài phê bình một cách tức thời, ngẫu hứng, dựa vào trực giác và ấn tượng của chính mình. Tôi tin vào những hình tượng vụt hiện, lóe sáng trong tâm trí. Chính vì thế, dù hiểu nghĩa tự nguyên của từ ngữ nhưng trong qúa trình viết phê bình thơ, tôi cho rằng người viết phải vượt qua nghĩa tiêu dùng để tạo dựng, phát hiện lớp nghĩa phát sinh khi cho các từ ngữ kết hợp, hôn phối với nhau. Tập thơ: “Ngực cỏ” của Lam Hạnh có nhiều bài thơ khắc họa sự sinh sôi nảy nở của sự vật và sự giao hòa mang vẻ đẹp nhục thể trong tình yêu của con người. Vẻ đẹp sinh sôi, nảy nở trong quan hệ tính giao của sự vật và con người ẩn chứa vẻ đẹp phồn thực. Tôi viết: “Phồn thực cỏ, phồn thực yêu”  và “Sự phồn thực trong thơ Lam Hạnh” là hoàn toàn dựa trên ấn tượng của mình qua các bài thơ của Lam Hạnh. Trần Minh Tạo cần đọc thơ của Lam Hạnh mới có thể chia sẻ với cách diễn đạt của tôi...Ở đây, nghĩa phát sinh của từ: “Phồn thực” chính là biểu hiện sự sinh sôi của sự sống, của tình yêu tuôn chảy trong thơ Lam Hạnh. Tiến sĩ văn hoá học Đỗ Lai Thúy cũng từng viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương và sự hoài niệm phồn thực. Trần Minh Tạo cho rằng: “anh đã đánh đồng một cách sai trật nội dung nghĩa của nó với bản thể ái tình, với dục tính (Libido) nơi vạn vật nói chung và loài người nói riêng” là hoàn toàn suy diễn và áp đặt. Sự phồn thực trong thơ Lam Hạnh không hề bị đánh đồng với “bản thể ái tình” mà chỉ là đối tượng để nhà thơ bộc lộ cảm hứng thẩm mỹ và khắc họa sự sinh sôi, nảy nở của sự vật, tình yêu của con người trong thế giới thi ca mà thôi.
Trần Minh Tạo đã “viết lại” phong cách phê bình thơ của tôi theo cách diễn đạt nôm na, dễ hiểu, dễ cảm và theo cách nghĩ của anh. Trong bài: “Tuyết: Tinh khiết hồn-Tinh khiết thơ”, tôi viết: “Thơ của ông giàu tính chiêm nghiệm, ngôn ngữ thơ cô đúc, dồn nén, và đều hàm chứa năng lượng của tình thương đối với con người và nỗi niềm nhân thế. Ý thức về sự đào thải nghiệt ngã của thời gian, nhà thơ Vũ Phán hướng cảm hứng sáng tạo về vẻ đẹp thanh khiết, trinh trắng của tâm hồn và sự vật”.Trần Minh Tạo cho rằng: “Theo tôi,Võ Tấn Cường cứ viết như sau: “Thơ ông giàu tính chiêm nghiệm, ngôn ngữ thơ cô đúc, dồn nén, và đầy tình thương đối với con người và nỗi niềm nhân thế ” thì vẫn đủ và rõ (dù có chút chưa sáng sủa về cách hành văn ); cần gì phải vất vả gồng gánh trộn nhào bê-tông chữ nghĩa rồi đem đổ “tấm” lên một ngôi nhà ý tưởng bé nhỏ, chỉ toàn vách lá với tràm làm kèo làm cột mà thôi? Chẳng  lẽ tư duy ngôn ngữ và đường lối diển đạt trong giao tiếp xã hội của người cầm bút thời công nghiệp hóa -hiện đại hóa bây giờ là phải “bêtông hóa”, “cao ốc hóa” như vậy hay sao..”. Rõ ràng, Trần Minh Tạo không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng giọng điệu trong bài văn, trong tác phẩm phê bình và cách diễn đạt của mỗi tác giả hoàn toàn khác nhau, thể hiện nét độc đáo riêng của mỗi người. Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật cho thấy: mỗi một hình thức nghệ thuật đều hàm chứa nhiều nội dung khác nhau và mỗi một nội dung có thể diễn đạt bằng nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau. Thử hỏi, nếu Trần Minh Tạo yêu cầu Hoài Thanh phải diễn đạt giống Hải Triều, Phương Lựu diễn đạt giống Trần Đình Sử, Đỗ Lai Thúy diễn đạt như Đỗ Minh Tuấn hay phải diễn đạt theo cách cảm, cách nghĩ của anh thì phong cách ngôn ngữ của các nhà phê bình sẽ như thế nào? Đây là yêu cầu hoàn toàn vô lý và vô tình trong qúa trình tiếp nhận văn bản của người khác, Trần Minh Tạo đã thủ tiêu phong cách, giọng điệu của mỗi nhà phê bình .
Trong bài: “Nhận diện thơ ĐBSCL” tôi viết: “Các nhà thơ ĐBSCL cần đào luyện và tạo dựng một hệ thống ý thức triết học, quan niệm sáng tác và quan niệm thẩm mỹ riêng. Quan niệm thẩm mỹ trong ca nhạc tài tử và vọng cổ không thể vận dụng vào thi ca bởi vì cái ước lệ và uỷ mị có nguy cơ tổn hại đến cái đẹp của thi ca. Sự phóng khoáng, chịu chơi và hào hiệp của con người tài tử Nam Bộ chỉ là chất liệu của bài thơ chứ không thể hình thành nên tính cách và tầm vóc tư tưởng của nhà thơ. Những thuật ngữ trong đoạn văn trên chỉ là thuật ngữ văn học, không phải thuật ngữ triết học và cũng không có gì qúa cao xa, rắc rối cả. Thế mà, Trần Minh Tạo viết: “…
Xin phép nói thêm với anh rằng, sự diễn đạt ý tưởng như trên của anh là rất không sáng sủa vì sự cố ý rắc rối hóa nó bằng những thuật ngữ khái quát triết học quá cao xa mà lại không cần thiết, có khi còn rơi vào trường hợp không chuẩn về nghĩa nữa .Giá như anh bảo rằng: “Chúng ta cần nâng cao trình độ văn hóa các mặt, trong đó có lãnh vực triết học đông tây kim cổ để có thể nâng cao trình độ tư duy khái quát cao hơn, sâu hơn, rộng hơn về các mặt tồn tại của nhân thế và thế nhân, đồng thời ý thức hơn nữa về tính thẩm mỹ tương ứng trong tiến trình sáng tạo nghệ thuật thơ ca của mình” thì người đọc mới không phải cảm thấy phân vân nhiều thứ hơn....”. Trần Minh Tạo đòi viết lại đoạn văn của tôi theo cách diễn đạt của riêng anh. Kiểu phê bình của Trần Minh Tạo đã bỏ qua và bất chấp phong cách ngôn ngữ của tác giả mà anh viết bài phê bình. Anh chỉ cảm nhận ý nghĩa diễn đạt trong ngôn ngữ của người khác qua tấm lăng kính chủ quan của chính mình. Đây không phải là tư duy phê bình mà chỉ là sự độc đoán và thô bạo khi tiếp nhận văn bản phê bình của người khác.
3. Tư duy phiến diện khi giải mã ý nghĩa văn bản của người khác.
Trần Minh Tạo đã thể hiện trong bài viết kiểu tư duy phiến diện, suy diễn lệch lạc khi giải mã ý nghĩa của từng câu văn, từng đoạn văn trong các bài phê bình thơ của tôi. Tôi hoàn toàn không yêu cầu các nhà thơ phải sáng tác theo quan niệm của các trường phái, trào lưu thơ ca của phương Tây. Điều tôi muốn thổ lộ là các nhà thơ cần hướng cảm hứng và khai thác các thủ pháp nghệ thuật của các trào lưu, trường phái để mở rộng quan niệm sáng tác và làm phong phú phong cách sáng tạo của mình. Lịch sử thi ca hiện đại của Việt Nam đã cho thấy, thành tựu thơ của phong trào Thơ Mới và nhóm Xuân Thu Nhã Tập những năm nửa đầu thế kỷ XX chính là sự tiếp thu có sáng tạo quan niệm sáng tác của các trào lưu, trường phái thơ Pháp và phương Tây. Trong bài: “Nhận diện thơ ĐBSCL” của tôi có một đoạn như sau: “Theo tôi, các nhà thơ ĐBSCL cần mở rộng không gian sáng tạo, hướng cảm hứng và tư tưởng đến các trào lưu, trường phái thơ như: ấn tượng, tượng trưng, siêu thực, hậu hiện đại, tân hình thức để khai thác thủ pháp sáng tạo nhằm tạo dựng những phong cách thi ca độc đáo”.Thế mà, Trần Minh Tạo cho rằng: “Thông qua lời khuyên này, mới thấy anh có một quan niệm về thơ nói chung và thơ hiện đại (trong quan niệm của anh) nói riêng rất non cạn. Non cạn vì anh nghĩ rằng muốn có một “phong cách thi ca độc đáo” thì cứ “khai thác thủ pháp sáng  tạo” vốn đã và đang nằm sẵn trong các trào lưu, trường phái thơ như: ấn tượng,tượng trưng, siêu thực, hậu hiện đại, tân hình thức là xong. Có nghĩa là xúm nhau đi “bắt chước” thủ pháp nghệ thuật của các trường phái này. Rõ ràng, anh không biết rằng, trong nghệ thuật thơ ca, người ta không thể xây dựng phong cách cho mình bằng sự “bắt chước” thủ pháp của người khác…”
Trần Minh Tạo cố tình không hiểu rằng: nghĩa của cụm từ:”Khai thác thủ pháp sáng tạo” hoàn toàn khác nghĩa của từ:”Bắt chước”. Điều tôi muốn diễn đạt ở đây là các nhà thơ cần tiếp thu có sáng tạo các tinh hoa của các trào lưu, trường phái thi ca phương Tây, chứ đâu phải “bắt chước” hoặc “rập khuôn”. Sự sáng tạo thi ca sẽ thụt lùi hoặc đi vào ngõ cụt nếu nhà thơ lặp lại chính mình hoặc bắt chước các nhà thơ đi trước. Trần Minh Tạo đã nông cạn khi hiểu việc tiếp thu và khai thác đồng nghĩa với việc bắt chước. Chẳng có nhà thơ nào ngây thơ và dại dột theo kiểu Trần Công Tạo nghĩ đâu…
Tôi không hề mâu thuẫn khi cho rằng: “Khi ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Lê Đạt chỉ là trò chơi của tiềm thức với sự kết hợp đơn thuần giữa các lớp vỏ âm thanh với nhau, không có sự thăng hoa của cảm xúc và hình tượng thì những câu thơ của Lê Đạt bị sa vào "vết lầy" của chủ nghĩa Đađa, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa siêu thực. Trần Minh Tạo không hiểu rằng việc tôi đã dùng từ: “Vết lầy” nhằm để nhấn mạnh rằng, ngoài những tinh hoa đã khẳng định, thử thách qua thời gian thì vẫn còn những hạn chế hoặc lỗi thời của những trào lưu, trường phái thơ phương Tây. Khi ngôn ngữ chỉ là trò chơi của tiềm thức thì nó sẽ là “vết lầy” và là nó chỉ là trò chơi vô nghĩa….
Trần Minh Tạo viết phê bình văn học mà lại dị ứng với những thuật ngữ văn học, triết học. Anh không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, ngôn ngữ hình tượng vừa là chất liệu vừa là mục đích sáng tạo của nhà thơ và thuật ngữ văn học và triết học là phương tiện, chất liệu của người viết phê bình. Chính vì thế, kết thúc bài viết, Trần Minh Tạo đã khuyên tôi: “Riêng tôi, tôi thấy anh là người tiếp xúc với chữ nghĩa nơi sách vở khá nhiều, nhưng tiếc rằng, khi đọc hay học xong, anh không chịu vứt hết nó đi, để mọi hiểu biết còn lại mới có cơ hội trở thành máu thịt nơi chính anh và trên cơ sở này, anh mới có cơ hội cảm và  nghĩ trước mọi vấn đề bằng chính những gì là của anh, ở trong anh, xuất phát từ anh...Bằng không, dễ  làm cái chong chóng chỉ biết xoay chiều theo những gì vừa thổi vào anh mà thôi...”. Cám ơn Trần minh Tạo. Tôi sẽ suy ngẫm về lời khuyên của anh. Tôi muốn chia sẻ với anh rằng, để viết được bài phê bình vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, anh cần trang bị cho mình một hệ thống lý luận phê bình và các hệ hình lý luận phê bình văn học khác nhau, đồng thời cần tạo dựng một hệ thống ngôn ngữ độc đáo của riêng mình. Có như vậy, khi viết phê bình văn học anh mới không bị sa vào tư duy suy diễn và áp đặt, chủ quan vốn xa lạ với tư duy của người viết phê bình văn học và mới có thể tạo dựng được thế giới ngôn từ độc đáo của riêng mình.
Võ Tấn Cường
Theo http://www.thotre.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tuổi chớm thu

Tuổi chớm thu Dòng nắng ấm rửa trôi màu lá cũ lá không vàng để mùa bước vào thu ào cơn mưa run lẩy bẩy trên cành gió đan vuốt … sợi thu và...