Bảy chiều không
gian thơ
Một nên
thơ luôn thể hiện trách nhiệm cao đối với cộng đồng, với thời đại. Khi thịnh,
khi suy, nỗi sướng khổ … đều in đậm trong thơ ca với tất cả chiều sâu tâm
huyết… Đặc biệt trước những khúc ngoặt của lịch sử, trước bờ vực của sự tồn
vong, trước máu xương của đồng bào đổ xuống…các nhà thơ đều tự nguyện đứng ngay
vào hàng ngũ của nhân dân với tư cách một chiến sĩ. Đánh giặc xong, thơ lại hòa
vào nỗi niềm củi lửa cháo rau.
Nàng thơ
luôn kiêu kì, đổng đảnh nhưng lại cũng rất đáng yêu bởi soi vào thơ, người đọc
tìm thấy bảy chiều không gian, ở đó chứa đựng bao nỗi niềm, cảm xúc, cả những
triết lí cuộc sống sâu xa…
Kẻ đắp
chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha
cái kiếp lấy chồng chung
(Hồ
Xuân Hương)
Đó là
chiều trực cảm. Cái rét căm căm như cắt da cắt thịt, lại thêm cảnh cô đơn tủi
phận, nhưng Bà chúa thơ Nôm dẫu muốn chửi rủa cái cảnh làm lẽ ngang trái
vẫn nhớ là thơ rất kị nói trực tiếp
nên Bà chọn hình ảnh “chăn bông” để tương phản với “lạnh lùng”. Cái lạnh lẽo cô
đơn buốt nhói qua xúc giác, khiến cảm xúc rung lên, ý nghĩa
câu thơ vượt xa hơn: phản kháng mạnh mẽ chế độ đa thê phong kiến.
Hình tượng
thơ lọc qua thính giác, cảm thấu đến nội tâm:
Trong như
tiếng hạc bay qua
Đục như
nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoa
như gió thoảng ngoài
Tiếng mau
sầm sập như trời đổ mưa.
(Nguyễn Du)
Cảm nhận
màu sắc, hình ảnh qua cửa sổ tâm hồn thị
giác, đưa hồn phiêu lãng tới Bồng lai:
Mây hồng
dừng lại sau đèo
Mình cây
nắng nhuộm bóng chiều không đi
Trời cao
xanh ngắt ô kìa
Hai con
hạc trắng bay về Bồng lai…
(Thế Lữ)
Cảm nhận
gián tiếp qua vị giác:
Rằng “Hay
thì thật là hay
Nghe ra
ngậm đắng nuốt cay thế nào”
Nhà thơ
bồn chồn, đau đáu không yên, thấp thoáng có nỗi oan trái, sự bất hạnh nào đấy đang rình rập nàng Kiều và
thi nhân đã mượn vị đắng cay để diễn tả điều nay.
Qua khứu giác:
Đường
trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng
tôi đi dạo giữa đường thơm.
(Huy Cận)
Câu thơ
tiêu tao, kì ảo đa chiều đã biến con đường làng chỉ có những chùm hoa dại với
rơm phơi bề bộn thành đường thơm. Từ thực chuyển sang mơ, từ mặt phẳng hạn chế sang không gian
rộng lớn.
Đàn cừu đi
giữa tung tăng
Làm hương
cỏ rối dậy hăng núi đồi.
(Lê Đình Cảnh)
Mến yêu
những bạn mới từ phương Bắc đến, nhà thơ đã sáng tạo chuyển “tung tăng” vốn chỉ
giữ vai trò động từ vào vị trí của danh từ.
Tác động
trực tiếp vào tình cảm:
Giờ em một
nách hai con mọn
Lệch phía
vai gầy gánh gió sương.
(Anh Vũ)
Gió đang
chiều tháng 4
Trong vườn
chùm nhót đỏ
Dãy bàng
lên búp nhỏ
Xanh như
là thương nhau
(Lưu Quang Vũ)
(Lưu Quang Vũ)
Tác động
trực tiếp vào nhận thức - Xin mượn câu ca dao làm ví dụ:
Con ơi nhớ
lấy câu này
Cả hai
dòng lục bát đều nói trực tiếp, nhưng vẫn thuộc đẳng cấp cao hơn thơ mặt phẳng.
Nhà thơ dân gian đã lượm được cái vảy vàng tài hoa ở hai chữ “cướp ngày” (suy
nghĩ khác thường) làm toát lên tính chất trắng trợn, gian tham của lũ tam quan.
Nhiều câu, nhiều đoạn thơ trữ tình chính luận cũng đều có những nét tài hoa
nhiều hình nhiều vẻ.
Đằng sau
những hình ảnh, ý tứ hiện trên mặt giấy, còn một tầng ý nghĩa khác thấy thoáng
qua ám dụ (thường là ám dụ đơn), hay nói cách khác đó là chiều tâm cảm:
Cái còn
sinh nở mai sau
Chính là
cái đã nhập vào phù sa
(Nguyễn
Chí Hiếu)
Tứ của câu
lục bát tập trung ở “cái sinh nở” và “cái nhập vào” tưởng như nói về cây trái,
đất đai nhưng thực ra gợi cho ta nghĩ tới điều gì đó thiêng liêng hơn, sự hy
sinh của lớp người đi trước và sự kế thừa của thế hệ sau… Tầm vóc của câu thơ
được mở rộng.
Trong bài
Vịnh cây thông của Nguyễn Công Trứ:
Ngồi rồi
lại trách ông xanh
Khi vui
muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau
xin chớ làm người
Làm cây
thông đứng giữa trời mà reo!
Cả bốn
dòng thơ đều thể hiện sự khác thường rất độc đáo - Tại sao lại tránh ông xanh?
Tại sao vui muốn khóc? Buồn lại muốn cười? Sao không muốn làm người mà muốn làm
cây? Tác giả mang nặng tâm trạng day dứt không yên về thế thái nhân tình chăng?
Sống ngay thẳng giữa cuộc đời này khó lắm chăng? Bài thơ khái quát rộng, tứ thơ
lớn, không biết có động đến ông xanh (ông Trời) hay không? Nhưng day dứt, lay
động lòng người ở nhiều thế hệ.
Nghe hơi
thở dập dồn trên gạch vỡ
Dùng hình
ảnh nhỏ: Viên gạch vỡ, hạt cát để khái quát điều cao lớn, sự đổi đời.
Một số
đoạn thơ hay, tiêu biểu khác phản ánh chiều sâu tâm cảm:
Đất nghèo
nuôi trẻ mồ côi
Khoai lang
héo cả mặt người tháng ba
(Trần Tâm)
(Trần Tâm)
Người ra
đi thường mang gió mười phương
Tình ở lại
như một giàn thiên lý
(Xuân Hồng)
(Xuân Hồng)
Những mái
nhà rông sắc lẹm lưỡi rìu
Chém ngược
vào trời xanh truyền thuyết
(Lương Định)
(Lương Định)
Bao giờ
mới gặp lại nhau
Qua sông
đứng đợi kiếp sau gọi đò
(Trịnh Đường)
(Trịnh Đường)
Thời gian
như chuyến tốc hành
Mang theo
lá đỏ và anh trở về
Tóc xanh
vừa lỗi lời thề
Thoắt
thành mây trắng cuối hè bay ngang
(Lê Quốc Hán)
(Lê Quốc Hán)
Thơ ở
chiều không gian trực cảm và tâm cảm có thế mạnh là dễ phổ cập, đông đảo công
chúng tiếp nhận, phù hợp với nhu cầu “Thi dĩ ngôn chi”, “chở bao nhiêu đạo
thuyền không khẳm”… Nó từng đóng góp không nhỏ vào đời sống tinh thần xã hội,
có công xây dựng đạo đức truyền thống, nâng cao và mở rộng nhận thức, thẩm mỹ
trong công chúng. Trong một số hoàn cảnh trên, thơ đã cổ vũ lôi cuốn hàng triệu
người, sức mạnh tinh thần biến thành sức mạnh vật chất vô bờ bến. Đó là những
cống hiến đáng được nể trọng - lịch sử và văn học cần đánh giá và ghi cùng một
cách công bằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét