Gà, từ biểu tượng văn hóa
Từ lâu, gà luôn xuất hiện trong
đời sống văn hóa nhiều nước trên thế giới. Từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, gà
đã trở thành biểu tượng xuyên văn hóa, mang sức mạnh biểu trưng cho ý niệm đa
diện, đa chiều về vũ trụ, thiên nhiên, nhân sinh, tâm linh, nhân tính. Danh
xưng “gà” đã đi vào ngôn ngữ đời sống qua lời ăn, tiếng nói hằng ngày, qua
thành ngữ, tục ngữ, ca dao và trở thành hình tượng đặc sắc, sinh động trong
nhiều sáng tác văn chương Việt. Với những giá trị biểu trưng đa dạng của hình tượng
gà, chúng ta nhận ra đặc tính tư duy, tâm thức văn hóa của tiếng Việt, người
Việt và dân tộc Việt.
Gà - biểu tượng xuyên văn hóa
Là vật nuôi được thuần hóa từ lâu trong tự nhiên, gà (với các
chủng loại: gà giò (poulet), gà gô (perdrix), gà gô đen (tetras), gà lôi
(faisan), gà sếu (outard), gà tây mái - gà tây trống (dinde - dindon), gà mái
(poule), gà trống (coq) gắn bó mật thiết với cuộc sống con người, trở thành
loài vật linh thiêng trong các nền văn hóa, gắn chặt với nhiều hệ thống tín
ngưỡng và thờ cúng tôn giáo.
Gà trong nghi lễ hiến tế, lễ vật
Trong thần thoại Hy Lạp, gà trống có mặt bên cạnh Léto, khi nữ
thần này có mang với thần Zeus, sinh ra Apollon và Artémis. Vì thế nó được cung
hiến cùng một lúc cho cả các vị nam thần ở thái dương (Zeus, Apollon) lẫn các
vị nữ thần ở thái âm (Léto, Artémis). Mặc dù đã có lời khuyến dụ của Pythagore
rằng “hãy nuôi gà trống và đừng giết nó bởi vì nó được cung hiến cho mặt trời
và mặt trăng”, gà trống vẫn bị hiến tế cho Asclépios (thần y học). Có thể nhận
thấy sứ mệnh dẫn dắt linh hồn của gà trống trong câu chuyện huyền thoại này, nó
báo tin cho thế giới bên kia và dẫn dắt linh hồn người quá cố sang cõi ấy. Vai
trò dẫn dắt linh hồn người chết về thế giới bên kia cũng được người La Mã trao
cho gà trống khi chúng có mối liên hệ với thần Mercure, vị sứ giả đi ngược xuôi
khắp ba cõi sinh tồn từ Âm phủ lên Thiên giới để đưa tin cho các vị thần. Bên
cạnh ý nghĩa quan trọng về mặt tôn giáo ấy, người La Mã còn xem gà như một nhà
tiên tri. Họ tin rằng, khi mở lồng cho gà ăn, nếu gà đập cánh hoặc bay đi thì
đó là điềm xấu, còn nếu nó ăn ngấu nghiến thì lại là điềm tốt. Khác với tín
ngưỡng người Hy Lạp - La Mã, trong các nghi lễ thụ pháp và bói toán của một số
bộ tộc châu Phi, vai trò sứ giả dẫn linh hồn người chết được một số bộ tộc ở
đây giao cho gà mái (poule)1.
Với người Do Thái giáo chính thống, nghi lễ hiến tế gà hoặc cá
(nghi thức kapparos) mang ý nghĩa vật hiến tế sẽ đem đi mọi tội lỗi của người
làm lễ. Cái chết của vật hiến tế như một lời nhắc nhở những kẻ sám hối rằng mọi
sinh mệnh của họ đều nằm cả trong tay Thượng đế. Gà trống, cùng với chó và
ngựa, cũng là con vật dẫn hồn người chết được hiến sinh trong các tang lễ của
người Đức cổ. Trong nghi lễ hỏa táng của đạo Hindu ở Indonesia, gà đóng vai trò
vô cùng quan trọng, nó được xem là đường nối cho những linh hồn xấu xa. Tiếng
gáy của nó mang lại sự thịnh vượng, may mắn, bình yên cho mọi người.
Gà - biểu tượng của mặt trời, nguồn sáng, trí minh tuệ
Trong văn hóa và tôn giáo của nhiều quốc gia, gà trống là một biểu
tượng phổ biến của mặt trời, tiếng gáy của nó báo hiệu mặt trời mọc; nó cũng là
biểu tượng của trí minh tuệ, sự sáng suốt. Trong đạo Hindu ở Ấn Độ, gà trống là
vật hiệu của thần Skanda (thần chiến tranh), là hiện thân của năng lượng mặt
trời. Trong Thánh Kinh, Giêsu mượn hình ảnh “gà mẹ túc con mình lại ấp trong
cánh” để nói lên tình yêu thương đặc biệt Người dành cho dân Hebrew (Do Thái).
Nhưng cũng chính Ngài thấy được ở gà trống biểu tượng của sự cảnh giác, sự phản
bội và sự thức tỉnh. Ba lần chối mối quan hệ với Thầy của Phêrô đã được Giêsu
tiên báo từ trước (kinh Tân Ước): “Thầy bảo thật anh, nội đêm nay, gà chưa kịp
gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. Ba trong bốn cuốn sách Phúc âm trong Tân Ước
viết về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu (Phúc âm Mátthêu,
Phúc âm Máccô, Phúc âm Luca) đều đề cập chuyện gà trống đóng vai trò là hiện
thân của Chúa. Với ý nghĩa biểu trưng cho mặt trời: ánh sáng và sự phục sinh,
vào thế kỷ VI, Giáo hoàng Grêgôriô I, vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công
giáo đã tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Đến thế kỷ IX, Giáo
hoàng Nicôla I, vị giáo hoàng thứ 105 của Giáo hội Công giáo đã ra lệnh đặt
hình gà trống lên tất cả các chóp tháp và tháp chuông nhà thờ. Với vị trí trên
đỉnh các thánh đường ấy có thể “gợi nhớ về sự ưu thế của tinh thần trong đời
sống con người, về nguồn gốc từ trên trời của ánh sáng cứu rỗi, về sự cảnh tỉnh
của tâm linh chăm chú nhận bắt trong bóng tối đang tan của đêm những tia sáng
đầu tiên của tinh thần sẽ chiếu rọi khắp thế gian”2.
Bởi vì gà trống, bằng tiếng gáy của mình kêu gọi mọi người cầu
nguyện khi đêm dần trở về sáng, gà trống được nhà tiên tri Mahammad ban cho
những kích thước của vũ trụ. Trong đạo Hồi, so với các loài vật khác, nó nhận
được một sự ngưỡng mộ vô song. Chính nhà tiên tri của đạo Hồi đã thừa nhận: “Gà
trống trắng là bạn của ta; nó là kẻ thù của kẻ thù của Thượng đế... Tiếng gáy
của nó chỉ báo sự có mặt của thiên thần”3.
Ở Nhật Bản, trong câu chuyện thần thoại Kojiki (Cổ sự ký), tiếng
gáy của gà trống hòa quyện cùng tiếng hát của các vị thần đã khiến nữ thần Mặt
trời Amaterasu phải rời khỏi Thiên Nham cung (hang trời) đem lại ánh sáng cho
dương gian. Amaterasu là vị thần quan trọng nhất trong Thần đạo (Shinto), bà
không chỉ là vị thần của mặt trời, mà còn là vị thần của vũ trụ. Sự xuất hiện
của nữ thần ứng với việc mặt trời mọc và sự phát lộ ánh sáng. Điều này giải
thích tại sao những con gà trống thiêng được nuôi dưỡng, đi lại tự do trong sân
vườn các đền thờ lớn của đạo Shinto.
Trong kinh điển nhà Phật, gà là một trong thập nhị súc, hay còn
gọi là 12 thời thú, bắt nguồn từ Đại phương đẳng đại tập kinh, quyển 23- Tịnh
mục phẩm. 12 loài vật này là biểu hiện của Bồ Tát độ hóa chúng sinh, một ngày
một đêm có một con vật lên trời để giáo hóa chúng sinh, sau 12 ngày, có 10 con vật
tu đức, được đầu thai. Trong Phật điển thường dùng “kim kê” (gà vàng) để ví với
tự tính thanh tịnh của chúng sinh. Trong Tạo tượng lượng độ kinh thì lấy “mặt
gà” để hình dung khuôn mặt của Bồ Tát4. Gà cũng xuất hiện trong các trường từ
vựng liên quan đến Phật giáo Thiền tông (“Lấy gà làm phượng” ám chỉ sự không
phân biệt được chính pháp và vọng tưởng, “Chim gà đi trên tuyết” ví với sự vận
dụng kỳ diệu sự khác biệt giữa chân lý sự việc và sự bình đẳng, “Giả làm tiếng
gà” hàm chỉ ý đồ lừa gạt) và câu chuyện trong kinh Phật (“Câu chuyện về gà và
mèo” trong Tạp bảo tạng kinh quyển 3).
Trong quan niệm Á Đông, Gà (Dậu) đứng hạng thứ 10 của 12 con vật
trong Thập Nhị Địa Chi. Nó đi vào đời sống qua năm dậu, tháng dậu, ngày dậu,
giờ dậu. Trong tiếng Hán, “đại kê” (gà trống) gần âm với chữ “đại cát”. “Đại
cát” là nội dung một quẻ bói tốt nhất cho công việc hoặc tương lai của con
người, được sử dụng trong tranh thay cho lời chúc tốt lành người ta gửi đến
nhau vào dịp tết truyền thống.
Như vậy, từ Đông sang Tây, tự cổ chí kim, dù có đậm nhạt khác nhau
ở các nền văn hóa, gà trở thành một biểu tượng xuyên văn hóa, có sức mạnh biểu
trưng phong phú, đa dạng cho những ý niệm đa chiều, đa diện và thâm sâu về vũ
trụ, nhân sinh, nhân dạng, nhân/ tâm tính. Biểu tượng này làm nên độ sâu, sức
nén, tiếng vang ngân trong sự tri nhận của mỗi tộc người gắn với mỗi đặc tính
tư duy, mỗi nền văn hóa khác nhau.
Gà trong văn hóa tín ngưỡng người Việt
Sự hiện hữu của gà trong tín ngưỡng của người Việt góp phần quan
trọng trong việc kiến tạo nên một biểu tượng văn hóa truyền thống. Cùng với
những vật nuôi quen thuộc như trâu, lợn, chó, gà gắn với người nông dân trồng
lúa nước như hình với bóng. Ngay từ những buổi sơ khai, gà và tiếng gáy của nó
đã đi vào đời sống vật chất và tinh thần người Việt. Không phải ngẫu nhiên mà
gà (cùng với chim) là loài vật được thể hiện khá nhiều trên trống đồng Đông
Sơn. Hình ảnh của nó cũng được lưu lại trong các câu chuyện thần thoại còn sót
lại của người Việt (Thần Sét, Cường Bạo đại vương), truyền thuyết về An Dương
Vương Thục Phán, Sơn Tinh - Thủy Tinh...
Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, con gà có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Những bức tranh dân gian về gà của làng tranh Đông Hồ (Bắc
Ninh), Làng Sình (Huế), tranh khắc gỗ đồ thờ (Nam Bộ) vừa có chức năng trang
trí, vừa mang công năng thờ tự. Nó chứa đựng những ngưỡng vọng, ước mơ mang
tính tâm linh sâu sắc: xua đuổi tà ma, xui xẻo, cầu mong sự may mắn, phúc lộc,
an khang... Biểu tượng gà trống phong thủy qua những bức tranh dân gian về gà
như Đại Cát, Vinh Hoa... được đặt ở vị trí trang trọng trước điện thờ Mẫu,
Thánh, Ngũ Phủ công đồng (miền Bắc); hay hình ảnh Thập nhị thời thần sát trong
điện thờ Mẫu (Nam Bộ) được thể hiện dưới hình thức tranh khắc gỗ (đồ thế) mười
hai viên quan mặc áo đỏ đứng cạnh nhau hay vẽ thành hình mười hai con vật:
chuột, trâu, hổ, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn; hay hình ảnh gà
nằm trong bộ tranh cầu cho gia súc, gia cầm tránh được dịch bệnh (Làng Sình,
Huế) đều xuất phát từ tín ngưỡng mang đậm màu sắc dân gian5.
Đặc biệt, theo quan niệm cổ xưa, gà trống ứng vào tháng Giêng,
ngày mồng một cũng mang cầm tinh gà (mồng một sinh gà, mồng hai sinh chó, mồng
ba sinh lợn... mồng chín sinh trời, mồng mười sinh đất), do đó, gà biểu tượng
cho ngày Tết Nguyên Đán, ngày mở đầu cho một năm mới. Ngoài tục cúng gà, việc
treo hay tặng những bức tranh Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng (Đại Cát, Vinh
Hoa, Phú Quý, Gà Đàn, Gà Thư Hùng, Trống Mái và Đàn con...) là một tín ngưỡng,
phong tục đẹp không thể thiếu mỗi độ Tết đến Xuân về. Đó không chỉ là một thứ
bùa để xua đuổi tà ma, người Việt còn gửi gắm vào mỗi bức tranh gà những ước
vọng vinh hiển, giàu sang, thịnh vượng, sung túc, phồn thực; những nguyện cầu
sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, bình an, thuận hòa...
Gà trống được xem như vật thông linh giữa thế giới con người và
thế giới thần linh, là cầu nối để con người giao tiếp với thần linh. Trong tín
ngưỡng dân gian, người Việt còn giữ phong tục cúng tế thần linh bằng gà trống.
Phong tục này một phần xuất phát từ quan niệm của người Việt xem con gà là loài
tam sinh, đại diện cho trời, đất và nước: đầu giống rồng, mình giống công, đuôi
giống tôm. Mặt khác, hình ảnh gà dáng dấp oai vệ, cánh lông sặc sỡ, tiếng gáy
lảnh lót còn tượng trưng cho năm đức tính tốt: Văn (cái mào đỏ tựa mũ cánh
chuồn của quan văn), Vũ (cựa gà sắc nhọn như lưỡi gươm), Dũng (đấu chọi mạnh mẽ
với đối thủ), Nhân (có thức ăn thì gọi nhau cùng hưởng), Tín (gáy sáng đúng
giờ, không ngày nào quên). Gà dùng làm lễ vật để dâng cúng thần linh, tổ tiên
vào những dịp lễ, Tết; gà gọi hồn người chết trong lễ mở cửa mả; gà mang lại
sức khỏe, bình an cho trẻ nhỏ (tục ra gà). Bởi là lễ vật giao cảm với thế giới
linh thiêng, thần bí, được thần linh gửi gắm những điềm báo, trong tín ngưỡng
dân gian, gà còn là biểu tượng của sự bói toán (bói chân gà). Người ta tin
rằng, những “chỉ dấu” trên đôi chân gà là cách thần thánh “báo hiệu” cho con
người về tương lai, số mệnh. Người Việt có hẳn những bài phú bói chân gà nhằm
giải mã các lời tiên báo của thế giới thần bí.
Có thể thấy, gà không chỉ là vật nuôi gần gũi, thân thuộc mà còn
là loài vật linh thiêng đối với người Việt từ khởi thủy đến nay. Hình ảnh gà
luôn thường trực trong đời sống, từ sinh hoạt cộng đồng (chọi gà), võ thuật cổ
truyền (Hùng kê quyền) đến tín ngưỡng, phong tục, tôn giáo, nghệ thuật và ngôn
ngữ.
Các nhà khoa học đều thừa nhận rằng giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn
ngữ dân tộc và văn hóa dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Ngôn ngữ là một
trong những thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa dân tộc nào. Nói một
cách biểu tượng như P.M. Dostoievski thì: “ngôn ngữ là dân tộc”, hay Albert
Camus: “Tổ quốc của tôi là tiếng Pháp”. Chính sự đặc thù của văn hóa được biểu
hiện trong ngôn ngữ đã quy định đặc trưng văn hóa - dân tộc của hành vi nói
năng ở những người thuộc cộng đồng văn hóa - ngôn ngữ khác nhau.
Người Việt vốn thoát thai từ nền văn hóa lúa nước, bên cạnh con
trâu, con cò, hình ảnh con gà cũng trở nên gần gũi, thân thuộc trong tâm thức
mỗi người dân Việt. Gà và những đặc tính của nó đã đi vào lời ăn tiếng nói dân
gian, nơi đúc kết những kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên, xã hội, con người;
nơi gìn giữ những triết lý sống nhân bản, hồn hậu, chất phác. Dựa vào các bộ
phận của gà, người Việt đã sáng tạo kho từ vựng phong phú liên quan đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống: cánh gà (màn che hai bên sân khấu), lưỡi gà (một bộ
phận của kèn hơi), ruột gà (một bộ phận làm nóng trong ấm điện hoặc làm lạnh
cho hơi nước ngưng đọng), cựa gà (chốt để giữ then cửa)... Với những đặc tính
rất riêng, “gà” được sử dụng trong một số thuật ngữ chuyên môn của ngành y và
thú y: cúm gà, ho gà, sùi mào gà, quáng gà, hóc xương gà, nổi da gà...; của
ngành giao thông: ổ gà.
Hình ảnh gà cũng thường được ví von, liên tưởng, ám chỉ về con
người: hình dáng (“Mặt như gà mái”, “Mặt đỏ như gà chọi”, “Mặt tái như gà cắt
tiết”, “Da trắng như trứng gà bóc”, “Da gà, tóc hạc”, “Thư sinh trói gà không
chặt”...), hành vi - tâm trạng (“Ngây ngô như gà mờ, lờ đờ như đom đóm đực”,
“Ngơ ngác như gà con mất mẹ”, “Nhớn nhác như gà con gặp quạ”, “Dáo dác/te
tái/rối như gà mắc đẻ”, “Ủ rủ như gà rù/gà phi trời mưa”, “Gà mở cửa mả”, “Lúng
túng như gà mắc tóc”, “Lờ đờ như gà ban hôm”, “Lép bép như gà mổ tép”, “Lộp độp
như gà mổ mo”, “Chửi như mất gà”...), đức tính - phẩm chất (che chở, yêu
thương, hy sinh, chịu thương chịu khó - “Con rắn không chưng (chân) lượn năm
rừng bảy rú/Con gà không vú nuôi đặng chín mười con”, “Cuốc keo réo rắt đầu
non/Gà rừng táo tác gọi con tha mồi”; khôn ngoan, lanh lợi - “Gà khôn giấu đầu,
chim khôn giấu mỏ”; hiếu khách, thân thiện - “Khách đến nhà không gà thì vịt”),
thân phận (hẩm hiu, cô độc - “Gà trống nuôi con”; khổ sở, bất hạnh - “Gà què bị
chó đuổi”, “Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến”; buồn tẻ, nhàm chán, vô vị - “Đuổi
gà cho vợ”; may mắn, gặp thời - “Bìm bịp bắt gà trống thiến”, “Gà ri mâm
gạo”)...
Dân gian đã tạo dựng kho kinh nghiệm sống (túi khôn) liên quan đến
con gà: chuyện ăn uống (“Gà ba tháng vừa ăn, ngựa ba tháng vừa cưỡi”, “Gà cựa
dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm”, “Gà độc thịt, vịt độc trứng”, “Gà lấm
lưng, chó sưng đồ”, “Cau hoa gà giò”, “Chó tháng ba, gà tháng bảy”, “Con gà cục
tác lá chanh/Con lợn ủn ỉn củ hành để tôi”, “Ếch tháng ba, gà tháng bảy”, “Cơm
chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà nhảy ổ”, “Gạo tám xoan, chim ra ràng,
gái mãn tang, gan gà giò”, “Đầu gà đít vịt”, “Vịt già, gà tơ”), chuyện chữa
bệnh (“Chó liền da, gà liền xương”), chuyện chọn giống, chăn nuôi, buôn bán
(“Gà đen chân trắng mẹ mắng cũng mua, gà trắng chân chì mua chi giống ấy”, “Vịt
rằn, gà cúp chớ nuôi”, “Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn”, “Giàu lợn
nái, lãi gà con”, “Lợn nhà gà chợ”, “Lợn thả, gà nhốt”, “Gà ngày gió, chó ngày
mưa”), chuyện thời tiết (“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”, “Cỏ gà loang lổ
trời đổ mưa ngay”, “Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa”, “Ráng mỡ gà, ai
có nhà thì chống”, “Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết”...), chuyện tương lai -
điềm báo (“Gà gáy canh một hỏa mai, gà gáy canh hai đạo tặc”, “Gà mái gáy mai,
lụn bại cửa nhà”, “Chó lê trôn, gà gáy gở”...).
Đặc biệt thông qua hình ảnh về con gà, dân gian cũng gửi gắm những
bài học, triết lý nhân sinh sâu sắc, qua đó thể hiện nét văn hóa, lối sống,
cách ứng xử mang đậm căn tính dân tộc. Đó là lời nhắn nhủ thận trọng, cân nhắc
trước mỗi lời nói, việc làm của mình: “Bút sa gà chết”, “Gà ba lần vỗ cánh mới
gáy, người ba lần ngẫm nghĩ mới nói”, “Chó ba quanh mới nằm, gà ba lần vỗ cánh
mới gáy”; lời khuyên nhủ phải biết yêu thương, đùm bọc, tránh gây xung đột, mâu
thuẫn: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, “Gà nhà
bôi mặt đá nhau”, “Chân gà lại bới ruột gà”, “Gà nhà lại bươi bếp nhà”; lời
cảnh báo về tâm lý ăn thua, ghen tị, nhỏ nhen, đua đòi, làm theo có thể gây
những hậu quả khôn lường: “Con gà tức nhau tiếng gáy”, “Gà chết vì tiếng gáy”,
“Gà người gáy, gà ta cũng đập cánh/le te”. Đó còn là lời chê bai ai đó ỷ vào
thế có lợi của mình mà hung hăng bắt nạt người khác: “Chó ỷ thế nhà, gà ỷ thế
vườn”, “Chó cậy nhà, gà cậy chuồng”; người kém cỏi, thiển cận, không biết nhìn
xa trông rộng, không dám đi xa, chỉ quanh quẩn một nơi: “Gà què ăn quẩn cối
xay”, “Giết gà lấy trứng”; phê phán kẻ hám lợi, keo kiệt, bủn xỉn: “Gà béo bán
bên Ngô, gà khô bán láng giềng”, “Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà lấy hạt
tấm”; kẻ có thói trăng hoa, lăng nhăng, không đứng đắn: “Mèo mả gà đồng”; lên
án hành động mang kẻ ác, kẻ nham hiểm đến làm hại người thân của mình, rộng hơn
là hành động phản bội đồng bào, đưa giặc vào giày xéo tổ quốc: “Cõng rắn cắn gà
nhà”; châm biếm những việc làm không phù hợp, chẳng đi đến đâu, có khi lại phản
tác dụng: “Mổ gà dao trâu”, “Dùng dao mổ trâu cắt tiết gà”, “Học như gà đá
vách”...
Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, là hình ảnh trực tiếp của tư
duy. Hình tượng gà ánh xạ trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt phần
nào đã thể hiện nét văn hóa cũng như tâm hồn Việt qua cách nói, cách nghĩ, cách
làm. Lắng nghe từ những lối/điệu nói ấy, chúng ta sẽ nhận ra gương mặt, tiếng
nói của dân tộc. Gần gũi, bình dị, có khi thông tục, suồng sã nhưng mỗi câu từ
lại mang một chiều sâu của thứ triết học tự nhiên - văn hóa - nhân sinh sâu
sắc.
Biểu trưng gà trong ngôn ngữ văn chương Việt
Từ ngôn ngữ đến văn hóa hay từ danh xưng đến biểu tượng, không
phải lúc nào hình ảnh con gà cũng bao quát hết ý nghĩa “mẫu gốc” của nền văn
hóa. Tùy theo sự tri nhận, đặc trưng tư duy của từng dân tộc mà có những nét
biểu trưng nổi trội, được chuyển hóa từ các “mẫu gốc” và hiện thực hóa qua các
từ - biểu tượng. Qua đó nó phản ánh đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và
tư duy trong tiếng Việt, văn hóa Việt và người Việt. Hình ảnh gà không chỉ xuất
hiện trong ngôn ngữ đời sống người Việt, mà còn đi vào ngôn ngữ văn chương với
những biểu trưng đa diện, đa sắc thái.
Gà biểu trưng cho thời gian tự nhiên và thời gian tâm trạng
Từ thời xa xưa, tiếng gà gáy như một tín hiệu biểu trưng cho thời
gian ngày và mùa, gắn với đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất của người nông
dân. Âm điệu của tiếng gáy trong từng khoảnh khắc của một ngày và từng mùa của
một năm mang những sắc thái riêng biệt. Gắn với thời gian chảy trôi tự nhiên
theo ngày và mùa là những cảm xúc, trạng huống, những điệu hồn thẳm sâu của con
người. Tiếng gà gáy sáng, có khi giục giã bước chân người nông dân ra ruộng
đồng: “Lao xao gà gáy rạng ngày/Vai vác cái cày, tay dắt con trâu/ Bước chân
xuống cánh đồng sâu/ Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày” (ca dao); có lúc thôi
thúc, thức tỉnh con người trước một vận hội mới: “Dậy! Dậy! Dậy/ Bên án một
tiếng gà vừa gáy (...)/ Trời đã mới người càng nên đổi mới” (Bài ca chúc tết
thanh niên, Phan Bội Châu); có lúc lại bâng khuâng, nuối tiếc, xót thương cho
kiếp người: “Tiếng gà đã rộn trong thôn/ Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay”
(Giang hồ, Lưu Trọng Lư). Tiếng gà trưa thì xa xôi, quạnh vắng: “Mỗi lần nắng
mới hắt bên song/ Xao xác gà trưa gáy não nùng/ Lòng rượi buồn theo thời dĩ
vãng/ Chập chờn sống lại những ngày không” (Nắng mới, Lưu Trọng Lư); tiếng gà
chiều thì hoang liêu, nao lòng: “Tới ngã ba sông, nước bốn bề/ Nửa chiều, gà lạ
gáy bên đê” (Em về nhà, Huy Cận). Mùa xuân, tiếng gà gáy náo nức, tươi vui, hớn
hở; hè đến thì day dứt, bồn chồn, xao xác; thu qua thì kiêu bạc, mơ màng, dịu
buồn; đông về thì đìu hiu, hoang lạnh, xa vắng.
Gà biểu trưng cho không gian sinh thái - văn hóa làng quê và không
gian tâm tưởng, nội cảm
Bên cạnh hình ảnh gốc đa, mái đình, bến nước, bờ đê, hàng cau,
cánh diều, dòng sông, cánh đồng thơm hương lúa mới, cánh cò bay lả bay la,
tiếng chuông chùa, tiếng sáo diều, trẻ mục đồng, hương bồ kết, hương cau...,
hình ảnh con gà từ lâu đã hằn in trong tâm thức người Việt và đi vào thế giới
nghệ thuật vô cùng độc đáo. Một làng quê thanh bình, yên ả: “Gà gáy đầu thôn,
gáy giữa thôn/Mưa tinh sương mát tận tâm hồn/ Đêm qua tắt gió cây không ngủ/
Mưa sớm hàng cây đứng ngủ ngon” (Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa, Huy
Cận); ở đó chứa đựng sự ấm cúng, thân thuộc: “Người dậy cả, bà già lần thổi
bếp/ Thằng cu con rụi mắt quét quàng sân/ Cũng trong lúc gà lồng kêu chiếp
chiếp/ Và lợn chuồng ủn ỉn giục cho ăn” (Sáng hè, Anh Thơ); có cả những niềm
vui đời thường, bình dị: “Tiếng gà gáy ơi! Gà gáy ơi! Nghe sao ấm áp tựa nghe
đời (...)/ Cha dậy đi cày trau kịp vụ/ Hút vang điếu thuốc khói mù bay” (Sớm
mai gà gáy, Huy Cận). Đặc biệt, hình ảnh con gà không thể thiếu trong những
phiên chợ quê ngày Tết, làm nên nét đặc sắc của văn hóa làng quê: “Lũ trẻ con
mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi” (Chợ Tết - Đoàn Văn
Cừ).
Chính vì cái không gian gần gũi, quen thuộc như vậy, nên mỗi khi
đi xa, bất chợt nghe tiếng gà gáy, trong tiềm thức mỗi người Việt chúng ta rộn
lên bao niềm thương, nỗi nhớ da diết. Ở đó có những kỷ niệm êm đềm, ngọt ngào,
tràn đầy yêu thương thuở ấu thơ: “Trên đường hành quân xa/ Dừng chân bên xóm
nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ “Cục... cục tác cục ta” /Nghe xao động nắng trưa/ Nghe
bàn chân đỡ mỏi/ Nghe gọi về tuổi thơ”: (Tiếng gà trưa, Xuân Quỳnh); được đánh
thức trong mỗi hình ảnh thân thuộc và thiêng liêng: “Con gặp trong lời mẹ hát/
Cánh cò trắng, dải đồng xanh/ Con yêu màu vàng hoa mướp/ “Con gà cục tác lá
chanh” (Trong lời mẹ hát - Trương Nam Hương). Để rồi vương vấn, luyến tiếc nhớ
thương, tìm lại chốn bình yên và thời gian đã mất: “Đâu rồi/ mái ngói đỏ tươi/
con gà cục tác/ trâu nằm nhai rơm/ bát cơm gạo tám/còn thơm/ ăn vừa ngon miệng/
lại ươm tình đời” (Đâu rồi quê hương - Ngô Nguyễn).
Gà biểu trưng cho tâm trạng, cảm xúc đa chiều của con người
Không chỉ biểu trưng cho không gian và thời gian, hình ảnh con gà
còn gọi dậy tâm trạng, cảm xúc cùng những điệu hồn thẳm sâu nơi con người. Đó
là sự côi cút, lạc lối, hoang hoải giữa mênh mang biển đời, dòng người qua hình
ảnh: “Một con gà nhỏ lạc giữa thôn/ Mất mẹ bi thương gọi đứt hồn/ Có phải lòng
tôi đau quạnh quẽ/ Kêu tìm lòng bạn giữa hoàng hôn?” (Hoàng hôn - Tế Hanh). Đó
là nỗi buồn nhức nhối, đau đớn tột cùng trong nỗi niềm riêng và cuộc đời chung,
nỗi buồn của cả một thế hệ: “Tiếng gà gáy buồn như máu ứa/ Chết không gian khô
héo cả hồn cao” (Hè - Xuân Diệu). Đó là nỗi nhớ đong đầy, dịu vợi, chứa chan
những ký ức gọi về từ tuổi thơ: “Nhớ biển miền Trung tiếng sóng đùa/ Nhớ nhà
cha mẹ, cảnh trường xưa.../ Nhớ chao ôi nhớ! Trời xanh thế!/ Gà lại dồn thêm
tiếng gáy trưa” (Nhớ tuổi thơ - Chế Lan Viên). Đó còn là những đêm dài không
ngủ, lo lắng, bồn chồn của bà mẹ quê dành cho con: “Bà Bủ gan ruột bồn chồn/
Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi” (Bà Bủ - Tố Hữu); là nỗi nhớ, trằn trọc năm
canh trông ngóng chồng của người chinh phụ: “Buồn rầu nói chẳng nên lời/ Hoa
đèn kia với bóng người khá thương/ Gà eo óc gáy sương năm trốn/ Hè phất phơ rũ
bóng bốn bên” (Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm). Để rồi,
trong sự ngổn ngang, bề bộn của cuộc sống, sự phức tạp, xáo trộn của cảm xúc,
hình ảnh gà lại hiện về với tất cả sự giản dị, bình thường, nhưng lại chứa đựng
trong nó những tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất của con người - tình yêu gia
đình: “Khi con gà nhường thức ăn cho bầy con/ Anh chợt hiểu tình gia đình rất
thật” (Điều bình thường - Nguyễn Bắc Sơn).
Gà biểu trưng cho sự chia ly và những điềm báo bất an
Tiếng gà gáy báo sáng, không những xua đi màn đêm đen tối, mịt
mùng, mà còn báo hiệu đêm bình yên, viên mãn đã kết thúc, khiến lòng người
không khỏi luyến tiếc, buồn thương, sợ hãi. Ca dao người Việt đã nhiều lần ghi
lại những tiếng thở dài khắc khoải của sự chia ly: “Trách gà sao vội gáy tan/
Chung tình chưa mãn, chuông vàng vội rung”, “Trách gà vội gáy tàn canh/ Không
lâu tí nữa cho tình thở than”, “Trách con gà gáy vô tình/ Chưa vui sum họp đã
đành chia phôi”. Âm hưởng ly biệt của tiếng gà gáy tiếp tục dội về trong thơ ca
hiện đại. Đó là nỗi niềm của người kỹ nữ, sau một đêm yêu đương nồng đượm với
khách làng chơi, nay phải biệt ly, không hẹn ngày gặp lại: “Xao xác tiếng gà.
Trăng ngà lạnh buốt/ Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi/ Du khách đi/ Du khách đã
đi rồi” (Lời kỹ nữ - Xuân Diệu). Không chỉ gợi nỗi niềm ly biệt, tiếng gà gáy
còn mang điềm báo bất an. Bước chân nàng Kiều khi đêm trở về sáng trở nên ngập
ngừng, bối rối, hoang mang trước những tháng ngày mịt mờ, đầy bất trắc khi nàng
mắc mưu bỏ trốn theo Sở Khanh: “Tiếng gà xao xác gáy mau/ Tiếng người đâu đã mé
sau dây ràng/ Nàng càng thổn thức gan vàng/ Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du). Một lần nữa tiếng gà giữa đêm trăng mịt mù, hoang
lạnh lại trở về mang dự cảm bất hạnh, buồn đau trong đêm Kiều tìm đường bỏ trốn
khỏi bàn tay nanh vuốt của Hoạn Thư: “Mịt mù dặm cát đồi cây/ Tiếng gà điểm
nguyệt dấu giày cầu sương/Canh khuya thân gái dặm trường/ Phần e đường xá, phần
e dãi dầu” (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Kết luận
Từ một biểu tượng xuyên văn hóa, gà đã in “dấu chân” trong tín
ngưỡng, phong tục, văn hóa người Việt từ thuở xa xưa; “bước vào” trong đời sống
con người qua lớp ngôn từ đời thường và ngôn ngữ nghệ thuật. Quá trình dịch
chuyển, thẩm thấu từ “mẫu gốc” ấy đã thể hiện đặc trưng văn hóa, dân tộc trong
cách nghĩ, lối nói của người Việt. Khám phá về biểu tượng gà trong văn hóa dân
gian, trong ngôn ngữ và đời sống cũng là cách để chúng ta tiếp cận, khám phá và
luận giải những biểu hiện đa diện, nhiều chiều, phức tạp của văn hóa, tâm thức,
dân tộc tính - một dân tộc sống chan hòa với thiên nhiên, sống nghĩa tình với
đồng loại, sống trách nhiệm với bản thân. Bằng điểm nhìn văn hóa, triết học
nhân sinh, tinh thần nhân bản sâu sắc, biểu tượng gà đã gọi dậy, nối kết những
ký ức văn hóa của nhân loại với cuộc sống hiện đại, từ tộc người này đến tộc
người khác về các vấn đề vũ trụ, tự nhiên, thế giới quan, nhân sinh quan sâu sắc
trong mỗi cá nhân, dân tộc, nhân loại.
1, 2, 3 Jean Chevalier (chủ biên, 2002), Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, tr 341, 343.
4 Thích Điền Tâm (2012), Các loài động vật trong Phật giáo, Nxb.
Hồng Đức, Hà Nội, tr 262.
5 Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh,
tr 482, 485.
An Hòa, cuối 2016
Nguyễn Văn Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét