Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, những
tên gọi đó đã gợi biết bao nhiêu thi tứ. Có một nguồn cảm hứng vô tận vẫn từ
lâu chảy suốt chiều dài lịch sử. Yêu Hà Nội, ta yêu những câu thơ viết về Hà Nội.
Hà Nội xưa - nay đã
cách nhau hàng ngàn năm lịch sử, vẫn còn đây những lối cũ rêu phong. Màu thời
gian ngưng đọng khiến ta nhớ đến câu thơ tiêu tao của người xưa:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long thành hoài cổ- Bà Huyện
Thanh Quan)
Thăng Long với Bà
Huyện Thanh Quan chỉ còn trong hoài niệm. "Xe ngựa", "lâu
đài" là những hình ảnh tượng trưng cho quyền uy và cơ đồ nguy nga của các
tiên triều giờ chập chờn như trong giấc mộng: "hồn thu thảo", "bóng tịch dương". Cái ngày xưa hiện hữu, cái đương thời mong manh hư ảo.
Đó là nỗi xót xa, luyến tiếc đến day dứt, khắc khoải. Vẫn biết rằng quy luật khắc
nghiệt của lẽ thịnh suy là tất nhiên, nhưng những câu thơ này vẫn gợi buồn khôn
tả. Người đọc nhớ những câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ bởi tình yêu
Hà Nội mà còn bởi nó gợi nhắc những kỷ niệm huy hoàng trong quá khứ.
Nhắc đến thủ đô là
nhắc đến Hồ Gươm. Hà Nội thật dấu yêu trong đôi mắt hồn nhiên, trẻ thơ, giàu sức
tưởng tượng của Trần Đăng Khoa:
Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh như pha mực
Bên hồ ngọn Tháp Bút
Viết thơ lên trời cao.
(Hà
Nội)
Giản dị như một chân
lý, Hà Nội trở thành niềm tự hào của bao nhiêu bạn trẻ. Điều Trần Đăng Khoa muốn
nói không phải là dáng uy nghi đường bệ của một thành phố lớn mà là chất thơ,
nét văn hiến, tựa như mảng đất này bước ra từ những trang sách, tựa như Hà Nội
là mảnh đất của những con người "lưng đeo gươm, tay mềm mại bút
hoa". Ý nguyện của người xưa gửi vào ba chữ "Tả thanh thiên"
trên tháp bút là dấu ấn văn hoá một thời, đã được cháu con lĩnh hội. Những vần
thơ nhỏ nhắn, xinh xắn của Trần Đăng Khoa thể hiện một nét bản sắc của dân tộc
Việt Nam trước bạn bè năm châu, bốn biển.
Mùa thu đang về, Hà
Nội bất chợt ngân vang trong ta những câu thơ Đất nước:
Sáng chớm lạnh
trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Cái chớm lạnh mùa
thu, và hơi may (hơi may chứ không phải là heo may), thềm
nắng, lá rơi đầy- những gì gần gũi thân quen mang theo linh hồn Hà Nội- đã trở
thành hành trang của người đi xa. NHà thơ đã cảm nhận chúng không chỉ bằng trực
cảm mà còn bằng linh cảm, bằng nhịp thức của trái tim hoài niệm. Không ồn ào, cầu
kỳ, những vần thơ của Nguyễn Đình Thi lắng đọng, neo giữ vững bền trong tâm hồn
người đọc.
Viết về Hà Nội, dường
như các nhà thơ đều cố gắng nắm bắt những gì thật đặc trưng, mang nhiều chất
thơ, chất hoạ nhất. Đó chính là những câu thơ chưng cất từ tình yêu tha thiết đối
với mảnh đất này. Hà Nội trong ấn tượng của người đọc là một thành phố nghiêng
về vẻ đẹp tinh thần hơn là vật chất. Vì thế không có sự hữu hình thuần tuý. Với Chiều
Phủ Tây Hồ của Thái Thăng Long, người đọc bắt gặp Hà Nội ở một vẻ đẹp
thật độc đáo:
Sương dăng đỉnh
núi mờ xa
Phủ
Tây Hồ bâng khuâng huyền thoại
Xa xa hạc trắng bay về
Hồn
ta tĩnh lặng bên chùa nắng
Gió
Tây Hồ thổi mãi mái rêu phong.
Hồn tĩnh lặng để lẵng nghe
tất cả những thanh âm, màu sắc dội về từ một tâm thức xa xôi nào đó, như phút
giác ngộ của một thiền nhân. Chiều Phủ Tây Hồ linh thiêng, hư ảo. Những câu thơ
này không thể cảm nhận một cách thông thường trên bề mặt ngôn ngữ. Nó được cảm
nhận bằng trường liên tưởng quá khứ- hiện tại, thực - mộng, bằng cả tình yêu
thơ như một thứ tôn giáo. Thái Thăng Long thật tài hoa khi thể hiện cái thần của
cảnh vật Phủ Tây Hồ. Vẻ đẹp ấy như được thoát thai từ một câu hát cổ, một triều
đại nào đã xưa. Cánh hạc trắng ảo mộng hơn là thực. Quá khứ đang hiện về thực tại.
Vẫn là một ý tưởng về Hà Nội ngàn năm văn hiến, Hà Nội cổ kính, thiêng liêng
nhưng đã được nhà thơ khẳng định thêm một giá trị vĩnh hằng: "Gió Tây Hồ
thổi mãi mái rêu phong".
Chiều Phủ Tây Hồ là
một tứ thơ rất lạ trong rất nhiều bài thơ hôm nay. Đó là tứ thơ biểu đạt trạng
thái phiêu du, thoát tục, bằng an và tĩnh tại. Không gian, thời gian như đang
ngưng đọng để trầm tư mặc tưởng. Phủ Tây Hồ trở thành linh hồn được vật thể hoá
của Hà Nội giống như Hồ Gươm và Tháp Bút...Trong dòng chảy ào ạt của cuộc sống
dô thị hôm nay, những câu thơ của Thái Thăng Long tựa như một lời ru làm yên ả
tâm hồn.
Đến với thơ Ngô
Minh, ta lại gặp một mùa đông Hà Nội ngọt ngào trong se sắt. Khác hẳn mùa đông
Nga đầy tuyết, mùa đông Luân Đôn sương mù phủ trắng, mùa đông Hà Nội được gợi
nhắc bằng một con đường "co ro", một dòng sông "đắp áo nằm
mơ dáng kiều":
Co ro đường sấu nhớ mùa
Sông Hồng đắp áo nằm mơ dáng Kiều
Hương đưa
gió ngọt xiêu xiêu
Cánh đồng Hà Nội
trắng điều nhớ nhung.
(Mùa đông Hà Nội )
Quả là một cái nhìn
thi vị, cảnh vật Hà Nội như một tình nhân say đắm. Có cái gì đó thật lãng đãng
khi Ngô Minh gọi tên sự vật.
Qua bao nhiêu thăng
trầm, Hà Nội giờ đây thật nhiều thay đổi. Có bao nhiêu câu thơ viết về Hà
Nội? Bao nhiêu câu thơ đã đi vào trí nhớ? Thật khó có thể kể hết. Cảm ơn các
nhà thơ đã viết nên những câu thơ làm say đắm lòng người. Yêu thơ hay về Hà Nội
ta thêm yêu thủ đô ngàn năm văn hiến.
Lê Anh
Nguồn Văn học và tuổi trẻ,
tập 52,
H.2000, tr.14-16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét