Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

Thương nhớ hoa đào

Thương nhớ hoa đào
Ôi, màu hoa đào Hà Nội - Thăng Long đã mấy trăm năm là nỗi ám ảnh khôn cùng, là tên gọi của nỗi sầu xa xứ của cha ông ta đi mở đất phương Nam? Tôi cứ hình dung những trăm đêm mai vàng của lịch sử trước phút giao thừa, nơi cha ông ta nhớ về cố quận, thở một câu vọng cổ lên trời, nhìn những vằn lửa riu riu trên thanh củi ướt mà thương nhớ hoa đào đến quằn quại trong hồn vía vô biên vô thức của mình.
Năm cũ như một niềm mưa bụi đã phất qua trời, nhường lá non và lộc biếc cho mùa xuân mới. Tôi nghiêng nghiêng cùng vạt nắng mới nghe tóc mình râm ran hồn vía muối tiêu mà rưng rưng hiểu rằng, ngót nghét năm mươi mùa xuân rồi mình đã xa đất Bắc. Từ hồi có hàng không dân dụng, mỗi năm, cứ đến những ngày giáp tết, tôi lại lò dò đến sân bay Tân Sơn Nhất để ngắm hoa đào. Những chuyến bay đào hoa chở đầy hoa đào mang từ Hà Nội vào đây cái hồn vía của mùa xuân đất tổ. Giữa cái nắng chói chang nóng bức của Sài thành, được nhìn ngắm thoả thuê những cành đào Hà Nội mới tinh khôi còn ngây ngất gió sông Hồng, cả người tôi chợt quặn lên niềm nhớ rét toát mồ hôi.
Với tôi, chỉ một mình hoa mai đâu đã làm nên cái tết nếu không được nhìn thấy hoa đào. Hoa mai Nam Bộ đẹp một cách hồn nhiên, giản dị. Nó nở ào ạt một màu vàng mạnh mẽ, vàng chói lọi, cái vàng của nghệ pha với vàng hoa dành dành, cái vàng của ánh trăng trộn lẫn sắc vàng của thái dương. Sau tết, hoa mai rụng cũng theo tính cách phương Nam khoẻ khoắn và dứt khoát của nó. Nghĩa là, nó rụng một cách ào ào, một cách tập thể. Nhưng hoa đào linh hồn của mùa xuân phương Bắc quê hương tôi, hay nói chính xác là quê hương dân tộc Việt Nam thì có cách nở rất khác với hoa mai.
Có phải hoa đào đã học được phép tiệm tiến, phép ướt át vô chiêu ấm ớ của mưa phùn làm cách nở rất riêng, rất kiêu kỳ của mình? Nếu mùa xuân không trang điểm, không đánh tí phấn mưa phùn lên tạo vật, chưa chắc cây đào đã biết cách nở hoa? Do đó, hoa đào nở rồi mà đôi khi ta còn ngờ chưa nở, rụng rồi mà như chưa rụng. Nó đi vào mắt ta, vào xúc giác và vào hồn ta bằng phép tắc hư ảo của mưa phùn, bằng sự vô hình vô phương của rét ngọt, bằng cái nửa hư nửa thực của vòm trời mùa xuân mà chỉ đất Bắc mới có. Riêng tôi, màu hoa đào kia sao rất khó gọi tên. Nó là hồng thắm, hồng tươi, hồng non, hồng khói hay hồng đượm? Đôi khi, như một kẻ tình nhân vô vọng của hoa đào, xin lỗi cụ Dương Khuê, tôi vô phép gọi cái màu hoa đào là màu hồng hồng tuyết tuyết, tức hồng đào vậy!
Chợt nhớ Nguyễn Du: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Có lẽ, chỉ những câu thơ tuyệt vời như thế này mới xứng với vẻ đài các, sang trọng và quý phái của hoa đào. Trong cái rét chồi rét lộc của mùa xuân, hoa đào nở ra như một chấm nến của tạo hoá làm ấm không gian, ấm lại mắt và hồn người. Ngược lại, giữa cái tết nóng nực của phương Nam, đêm giao thừa Sài Gòn, nếu có một nhành đào nhỏ trên bàn thờ tết, bạn và tôi sẽ cảm thấy dịu mát hơn, thấy tâm hồn mình, thậm chí thể xác mình rất cần thiết một cái gì để sưởi ấm.
Hoa đào chính là nỗi sưởi ấm của trời đất, là niềm sưởi ấm của thi ca. Xin cám ơn những nhành đào Nhật Tân, Ngọc Hà đã hoá thành cây gậy của tâm hồn tôi, dắt nỗi niềm thương nhớ quê hương của kẻ xa xứ này đi qua đêm giao thừa, như nắng xuân dắt chim én về trước cửa.
Ôi, màu hoa đào Hà Nội - Thăng Long đã mấy trăm năm là nỗi ám ảnh khôn cùng, là tên gọi của nỗi sầu xa xứ của cha ông ta đi mở đất phương Nam? Tôi cứ hình dung những trăm đêm mai vàng của lịch sử trước phút giao thừa, nơi cha ông ta nhớ về cố quận, thở một câu vọng cổ lên trời, nhìn những vằn lửa riu riu trên thanh củi ướt mà thương nhớ hoa đào đến quằn quại trong hồn vía vô biên vô thức của mình.
Giờ đây, chỉ cần chưa đầy hai tiếng đồng hồ, hoa đào đã vút bay như chớp mắt qua hành trình khắc khoải nhớ thương của lịch sử hành phương Nam của dân tộc, để có một chỗ đứng bên cạnh hoa mai trong chợ hoa Sài Gòn.
Tôi là đứa con út ít còi cọc của sông Hồng. Tuổi thơ và tuổi thanh niên của đứa con một dòng họ truyền đời làm ruộng chưa một lần được thấy Hà Nội thủ đô đã phải vượt Trường Sơn vào tận miền Đông Nam Bộ. Những đêm giao thừa sống trong căn hầm vùng giáp ranh, hay dưới tán rừng già Phước Long, Lâm Đồng, chỉ có những nhánh mai vàng thay ngọn đèn soi sáng, không hiểu sao một nỗi nhớ đến cháy bỏng, đến ngất ngư về Hà Nội, nơi chưa một lần tôi được tới. Tâm hồn tôi thuở đi học từng đã nhập vào làm một với mảnh đất nghìn năm văn vật bằng văn chương của Tự Lực văn đoàn. Nhánh đào hoa trước vườn nhà tôi thơ ấu mỗi độ tết đến từng rủ rê trí tưởng tượng của tôi theo một thứ ong bướm siêu việt mà rù rì tới tận Thăng Long. Hà Nội - hình ảnh tình nhân của tâm hồn tôi, một người tình chưa rõ mặt mà sao nỗi nhớ lại cụ thể, đắm say và mủi lòng đôi khi đến tê tái mây trời chừng này?
Cái khoảng cách từ Hà Nội thật đến cái Hà Nội trong tưởng tượng của tôi chính là khoảng cách từ hoà bình đến chiến tranh, giữa hậu phương và tiền tuyến, là khoảng cách giữa sự sống và cái chết, giữa hi vọng và tuyệt vọng. Những năm rừng núi bom đạn ấy, đêm nằm ngủ dưới ánh hoả châu của đạn thẳng, pháo bầy, đôi khi tôi hay nghĩ dại: lỡ mình chết giữa chiến trường thì mãi mãi không thể có hi vọng nhìn thấy Hà Nội, dù chỉ một lần duy nhất trong đời. Bên bờ sông Đặc - Quýt dưới trận B.52, đêm trong hầm tối, trước khi chết, người bạn vừa bị tử thương của tôi thều thào: mày với tao chưa hề biết thủ đô, cố sống mà về, nhớ thay tao đến ngắm sông Hồng chỗ cầu Long Biên...Bạn chết. Những dòng máu cuối cùng của bạn chảy đẫm ướt áo tôi. Sông Hồng không còn cuồn cuộn chảy trong động mạch của bạn nữa.
Ôi, trong hành trình xuôi phương Nam của lịch sử dân tộc, có người Việt nào ra đi mà lại không mang theo dáng chảy của sông Hồng trong huyết quản mình? Khi mỗi người Việt ngã xuống trên chiến trường, cũng có nghĩa là máu sông Hồng đã đổ thành linh hồn của phù sa trên khắp quê hương? Tôi chợt nghĩ cái màu đỏ tươi của hoa đào kia chính là sứ giả của sông Hồng gởi vào phương Nam cho mỗi đứa con tha phương trọn vẹn cái tâm huyết của lịch sử, cái chấm phá của hồn thiêng đất nước tổ tiên thương nhớ gọi cháu con về.
Chính ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi đã gặp Sài Gòn trước khi biết Hà Nội. Từ cuối sông Hồng, để đến được Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, tôi đã phải đi bộ hàng chục năm trời, vượt Trường Sơn xuôi Nam theo hành trình lịch sử, băng qua cuộc chiến tranh, băng qua cái chết, vuốt mắt cho bao nhiêu đồng đội, nhận lấy bao lời trăn trối, lầm lũi sống sót cho đến ngày hòa bình. Và tết năm 1976, thay mặt nhiều bạn bè đã khuất, được đặt bàn chân chiến trường lên đất thiêng Hà Nội mà lòng tôi, mắt tôi sao còn rưng rưng khói lửa? Tôi tìm ra cầu Long Biên, đi lạc vào những phố hoa đào, để đứng ngắm sông Hồng trong chiều ba mươi tết năm 1975 - 1976.
Sông Hồng hay chính ngọn đuốc Lạc Long Quân soi nước Văn Lang thuở ấy? Giáp tết, sông Hồng chảy ngầm như máu, như một dòng hoa đào kì vĩ vừa đổ từ trời xuống, lượn từ thượng lưu theo dáng một con rồng có vẻ sắp bay lên. Sông Hồng rót xuống đáy lòng mình hết thảy mùa đông, hết thảy rét mướt, để dành trọn mùa xuân ấm áp cho đôi bờ. Sông Hồng nâu sẫm và gầy guộc như một nhành đào khổng lồ của trời đất đang bế Hà Nội lên như bế một nụ đào vĩ đại và vĩnh cửu.
Cái xương sống của nền văn minh lúa nước Giao Chỉ, nền văn minh bay lên bằng đôi cánh chim Lạc, cớ sao lúc này Người lại im lặng đến chừng ấy, để mặc đôi bờ cát phơ phơ ngon lành như da thịt? Có phải sông Hồng từng để quên những giấc ngủ mơ hồ triệu năm xưa, để quên những giấc chiêm bao hùng vĩ thời Sơn Tinh, Thuỷ Tinh của mình lại giữa lòng Hà Nội thành những chiếc hồ lãng mạn như Hoàn Kiếm, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Hồ Tây...? Đó chính là những dòng chảy ngắt quãng của sông Hồng khi chuyển dòng, nơi tâm hồn dòng sông nghỉ ngơi và mơ mộng cùng với Hà Nội muôn đời.
Cuối đông, đầu xuân, sông Hồng chợt trầm tĩnh lại với tuổi tạo hoá minh triết của mình, hát ru cho phù sa ngơi nghỉ đặng hoá nên ruộng đồng châu thổ. Gương mặt sông chợt sáng lên theo dáng những mặt hồ. Rồi sông Hồng bí mật gởi lên những nhánh hoa đào cái màu máu phù sa bất tử, cái màu đã làm nên châu thổ và văn minh Lạc Việt chúng ta.
Đêm nay, đêm giao thừa của Sài Gòn náo nhiệt chói lọi hoa mai vàng và đỏ rực rỡ dưa hấu, tôi lặng ngồi chiêm ngưỡng Hà Nội, gởi hồn vía ra thủ đô nghìn năm thương nhớ bằng cuộc độc thoại với hoa đào. Giờ đây, chắc gió xuân đang mơn mởn chảy trên các phố phường Hà Nội để dẫn niềm vui đi hái lộc. Cho lòng tôi làm hạt sương năm mới rơi trên trên nhành cỏ non năm cũ của vạt đất chân Tháp Rùa, được ngắm những chùm pháo hoa mô phỏng cách bung nở của hoa đào. Ôi, cái rét ngọt đầu năm, những vạt mưa phùn hư thực, cái trã thịt đông trong chạn, cái vị dưa hành còn ngấm nỗi cay nồng của giá rét, giữa Sài Gòn dầu có bỏ ra bạc tỉ đi nữa, dễ gì mua được?
Phút giao thừa, nghĩ đến đất Bắc quê hương, tự nhiên đứa con phiêu bạt này chợt cay cay khoé mắt nhớ mẹ già ngồi tựa cửa trông con.Nay mẹ đã theo sương gió lên trời. Bỗng nhiên tay tôi chợt vịn lấy nhánh hoa đào làm chiếc gậy, để hành trình cùng thiên nhiên, cùng đất nước và dân tộc đi vào một năm mới đầy hứa hẹn. Những chấm hoa đào đang chúm chím kia làm tôi có cảm tưởng là chính những giọt mồ hôi của sông Hồng vừa chảy qua năm cũ, chảy qua lịch sử máu xương hùng vĩ để làm nên tình yêu và nỗi nhớ của tôi trong mùa xuân ngút ngát hoa đào này.,.
Trần Mạnh Hảo.
Theo http://tacphammoi.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xóm Quýt, quê xa

Xóm Quýt, quê xa… “Tháng chạp, quýt to bằng nắm tay trẻ nhỏ, da bóng lưỡng như ướt mỡ. Khi ấy gió dịu, trời ửng hồng sáng trong, nắng mới ...