Những sóng nước biển xưa
Đi về trong giấc ngủ
Mù sương xuân mờ phủ
Một châu quận bên đèo
Một bình minh mang theo
Một hoàng hôn cô tịch
Những sóng nước trong veo
Dọi ánh trời chuyển dịch
Những cảnh ngộ bên đời
Bao hàm sự huống cũ
Những cảnh huống bao dung
Trong mùa xuân ký ức
Ở cuối một chân trời
Ẩn tàng một chân đất
Ở cuối một chân đất
Tàng ẩn một chân mây
Ở cuối một chân mây
Mở một chân ngàn bước
Một ngàn chân bước trước
Một vạn bước chân sau
Một con đường bước mau
Một con đường đi chậm
Hai đường mau chậm mở
Khép con mắt chiêm bao
U tầm tận xứ sở
Từ bến cũ nghiêng chào
Đó là bài thơ Bùi Giáng tặng
Trần Đới, trước khi Trần Đới xuất bản tập thơ đầu tay Tảo mộ lênh đênh ở Sài
Gòn vào năm 1973. Bài thơ gợi nhớ về một vùng bãi biển Lăng Cô thơ mộng
xanh ngần nằm sát dưới chân đèo Hải Vân, chốn miền cố quận quê nhà nơi Trần Đới
sinh ra. Bãi biển trầm lắng Lăng Cô, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế như một kiệt tác
của thiên nhiên, vừa lung linh sơn thủy hữu tình vừa bát ngát mênh mang kỳ
ảo một vẻ đẹp nguyên sơ quá đỗi tuyệt vời. Chính nhờ lớn lên giữa rừng thơ biển
mộng mông mênh như thế mà Trần Đới đã tự bao giờ trở thành một nhà thơ với trọn
nghĩa của danh từ. Từ thuở nọ, từ năm 1933 xa mù sương khói, thi sĩ sinh ra
trên mặt đất này, nơi làng chài bãi biển cát trắng Lăng Cô rào rạt sóng vỗ ngàn
năm ấy, dường như chỉ thi hành một sứ mệnh duy nhất, đó là chỉ làm thi sĩ mà
thôi. Với một hồn thơ bẩm sinh, hấp thụ dưỡng chất vô ngần của hồn thiêng sông
núi từ khi mới mở mắt chào đời nơi quê hương cẩm tú, thi sĩ Trần Đới đã may mắn
chiêm ngưỡng, thưởng thức trọn vẹn biển rộng sông dài những phong cảnh thiên
nhiên ngoạn mục suốt thời thanh xuân nên thường xuyên rung động kỳ cùng để rồi
bật dậy thành những tiếng thơ Dấu chân trên biển, Tảo mộ lênh đênh, Nắng
chợ mưa chùa, Bụi đời ca, Võng nắng, Sầu ca, Thân quen, Trăm năm đèo biển Lăng
Cô… bay bổng lồng lộng, dập dìu bướm hoa phất phới:
Trời hồng lồng lộng nắng bay
Mai vàng rực ngõ gió đầy vườn
xanh
Non cao cây uống mây lành
Biển dài sóng trải bãi gành
mặn hơi
Tảo hoa đường rộn tiếng cười
Giữa núi rừng điệp trùng
hùng vĩ tiếp giáp với biển ngàn khơi đại hải bao la, đột nhiên nhô lên một bãi
cát vàng thành làng xóm Lăng Cô độc đáo với những địa danh quanh đó như Ngạnh
Rùa, Mũi Đá, Suối Ba, Suối Bạc, Ba Dốc, Hồ Tiên, Bại Kả, Bãi Chuối đã đi vào
thi ca của nhà thơ một cách tự nhiên:
Nắng trôi chiều rải khoang
thuyền
Bâng khuâng nước dọi chim miền
núi Lam
Ngạnh Rùa Mũi Đá rêu nham
Đèo nghiêng xe xuống miệng hầm
tàu qua
Nắng về giặt áo Suối Ba
Tay vờn Suối Bạc vóc ngà lõa
hương
Cành khe đá núi chập chờn
Gió từ cổ tích xuyên mòn
ngàn sâu
Hải Vân mộng chở qua cầu
Cá ra Nghệ Tĩnh củi vào Ngãi
Nam
Phú Gia đỉnh ngã tóc chàm
Về truông Ba Dốc tìm nàng Hồ
Tiên
Sóng gành Bại Kả lên yên
Mon qua Bãi Chuối chiều
nghiêng nắng đèo
Chuông thu dội biếc lam chiều
Ngõ về ngọn nắng đăm chiêu
giữa vời
Một thời tuổi trẻ dạt dào vô
hạn những mộng đời bất tuyệt, những tâm tình thiết tha với tình yêu diệu ảo vô
vàn, chàng thi sĩ tha hồ bơi lội giữa biển ngàn sớm trưa chiều tối, tắm nắng ăn
sương, dầm mưa dãi gió sông hồ. Tâm hồn luôn luôn nhạy cảm với cái đẹp hoang dại
ban sơ, run rẩy sững sờ trước một vệt nắng chiều tà xuyên qua triền núi, quỳ xuống
rưng rưng uống ngụm nước đầu nguồn suối Khe Hàu mát rượi hay bàng hoàng cười
vang lên trên đỉnh đèo Hải Vân chất ngất chập chùng trăng nước thiên thai:
Trăng về vàng đổ trên Doi
Thuyền ra bóng lộn rớt lời
chèo khuya
Gành xa đá ngửng tình cờ
Bạc đầu rêu chải sóng vờ
vĩnh lăn
Khe Hàu ngọn nước sương
giăng
Triền nghiêng tu hú vượn đằng
Dốc Ông
Rù rì xe ngược Hải Vân
Ngạnh Rùa chấp chóa nửa lừng
đèn xe
Mù khơi leo lét mành nghề
Nước trăng vời vợi mấy bề
mông mênh
Mênh mông mấy bề trăng nước
sương khuya hỡi biển đồi hoang liêu, dìu dặt ru hồn tiếng sóng ngàn đời vang vọng
mãi trong lòng chàng thi sĩ mộng du. Vi vu vi vút từng trận gió chiêm bao lai
láng thổi bồi hồi. Ôi trăng, ôi sương, ôi em, ôi nàng thơ rực rỡ, choáng ngợp cả
vũ trụ càn khôn dưới trời đêm lênh đênh gót bụi đi về trên cung cầm huyền mộng
như có như không, như hư như thực mà lâng lâng lãng đãng mơ màng trong một trạng
thái xuất thần kỳ lạ:
Gió phất phơ triền ngày rơi
vội vã
Thôn ngủ yên từ đêm tận mơ
màng
Tôi lờ mờ đi giữa cõi trăng
hoang
Chó thức giấc sủa hời trên nẻo
vắng
Đường thầm lặng mà chân còn
thầm lặng
Sương mơ màng như hồn có hồn
không
Nghe bâng khuâng mà lòng
thoáng lâng lâng
Nhìn ngơ ngác mà trời sâu đắm
đuối
Tôi lênh đênh dưới trăng
khuya rực rỡ
Lòng nhớ ai còn nhớ mãi về
em
Dưới nhà kia giấc ngủ có gì
riêng
Chiêm bao ấy có tôi đang thơ
thẩn
Trăng sáng quá núi cao thêm
biển rộng
Nước mơ vàng vắng tạnh rải đầy
vơi
Nửa cho đời và nửa tặng
riêng tôi
Trăng sáng quá em ơi em có
thấy
Em có thấy gì không hỡi nàng
thơ thiên thu diễm tuyệt? Em có nghe gì chăng hỡi vầng trăng thiên cổ vô biên? Em có biết từ buổi em về là đã mang về cho thi nhân biết bao nguồn cảm
hứng thiêng liêng làm hồi sinh mãnh liệt trong con rung động choáng váng diệu
huyền:
Em về đó cho cuộc đời bất diệt
Tháng ngày đi phất phới giữa
muôn tình
Nắng thong dong từ thuở có
bình minh
Mưa êm ái từ lần sông có nước
Em về đó đất trời không dám
bước
Quỷ thần mừng người lả lướt
trên mây
Muôn thơ về vắng tạnh giữa
tôi say
Say đời, say đạo, say thơ,
say mộng bồng bềnh trên gót ngọc em về. Em về đây trên tay có cầm một đóa hoa
và một chiếc lá như là món quà tặng vật cho mặt đất trần gian. Em đến như suối
mát giữa lòng sa mạc khô khốc làm phục sinh cho kẻ lữ hành cô độc sống vượt qua
cơn trôn xoáy ác liệt của hư vô. Chao ơi ! Em đã đến rồi. Em đến nối liền đôi bờ
mộng thực, có không, sống chết…và mở ra phương trời mới lạ yêu thương.Thương
yêu theo thể điệu Krishnamurti: “Có thể yêu thương nhưng không mắc vướng vào một
người nào, vào bất cứ gì. Đó là mức chí thiện của đời sống tình cảm. Phải tách
lìa tất cả nhưng cũng vẫn thương yêu tất cả, vì tình thương là sự bừng nở của
cuộc sống.”
Vâng, em chính là cái yêu
thương. Hãy đến với em bằng thái độ vô cầu, không chiếm hữu. Bởi vô cầu nên
không hướng đến một mục đích nào cả mà hòa điệu vào giữa lòng thực tại đang là
trinh tuyền khiết tịnh tinh anh:
Bầu trời xanh vẫn thẳm xanh
Nắng vàng mây trắng anh nhìn
vẫn cây
Bởi em chiếc lá cũng đầy
Nắng mưa và cả đêm ngày mọc
cao
Rụng vàng chuyện để về sau
Lá xanh nay vẫn nguyên màu
xuân xanh
Trên cây có những nhánh cành
Có bao tình đất nở thành đài
hoa
Kiếp cây kiếp lá không nhà
Kiếp anh lang bạt tình ta
hóa gần
Đất người từng hạt bảo trân
Với tình yêu thương vô điều
kiện như thế, thi nhân quảy lên vai bầu rượu túi thơ lên đường, tạm biệt đèo
truông gió hú, mưa trào sóng nắng Lăng Cô, cất bước đăng trình phiêu linh viễn
phương hành qua vùng trung du rồi vào tận xứ miền Nam bộ, bắt đầu sống cuộc đời
lãng tử từ trước năm 1970. Đó là thời kỳ lang bạt bụi đời ca quá độ long đong đẫm
mưa nắng phong trần, túy lúy cuồng say từng trận trận phiêu hốt tột cùng. Buông
mình xuống hố thẳm tồn sinh bức bách, giáp mặt cuộc đời trong thái độ vô sở cầu,
vô sở trú, vô mục đích. Không hướng tới đâu cả mà chỉ sống và sống hết mình, hết
xương xảu máu me theo thể điệu phiêu bồng Bùi Giáng hý lộng Tế Điên ca ngất ngưởng:
Bài thơ viết ngã ba đường
Nửa hoen nắng bụi nửa hoang
gót người
Bềnh bồng cây cỏ lên ngôi
Gió mây xuống tóc đá ngồi Tu
di
Trăm năm cuộc thế em về
Trăm năm mộng chở anh đi
hoang đàng
Bài thơ lấm tấm lên trang
Bài thơ viết giữa hai hàng tỉnh
say
Lang thang đập vỡ chén này
Chén sau làm biển mời ai xuống
thuyền
Gót chân biển núi lang thang
về phố thị Sài Gòn, trôi lênh đênh giữa dòng đời xuôi ngược, bước ngày sang đêm
chập choạng bóng sầu thiên cổ vọng âm, dầm mưa dãi nắng đầm đìa nơi góc chợ
hiên chùa. Mùa mưa gió kéo dài như nỗi buồn lê thê trên hoang vắng ngậm ngùi đại
lộ tàn khuya mỏi mệt, khói thuốc nào còn vàng võ trên đôi bàn tay buông thõng
trong những chiều mưa tầm tã ướt đẫm mộng u hoài:
Sài Gòn có những giọt mưa
Dài như nỗi nhớ trong ta một
ngày
Một ngày có những ngón tay
Vuốt mưa trên tóc dính mây
nghìn trùng
Sài Gòn mưa vẫn ướt chung
Riêng ta ướt hết nửa vùng
mưa chia
Ướt đi từ cõi ướt về
Ướt qua ướt lại dầm dề trang
thơ
Sài Gòn lá cuối cành thu
Rẩy run nghe gió hoang vu thổi
về
Lạnh dài là những tiếng xe
Nhớ xa là tiếng tỉ tê trong
hồn
Vẫn đi ta với Sài Gòn
Mưa mưa gió gió đầy đường đầy
tim
Đèn xanh là giọt lệ chìm
Nhạc vàng khói thuốc nổi
nênh ngàn trùng
Vẫn về vô thủy vô chung
Nhớ thương là trận bão lòng
bao la
Vắng ai ngày vắng đêm xa
Rồi tiếp tục rong rêu giữa
nhộn nhịp phồn hoa phố hội, thi sĩ Trần Đới với tướng người cao lớn, bồng bềnh
mái tóc dài đạo sĩ xỏa kín bờ vai, đặc biệt nổi bật trên khuôn mặt phương phi hảo
hán là bộ râu dài quai nón rậm rạp như thi sĩ Wart Whitman. Chàng khoác trên
vai cây đàn măngdolin cũ kỹ và một túi thơ bạc màu sương gió dãi dầu, thường
xuyên lội bộ và lội bộ suốt đêm ngày như một gã cuồng say thơ say nhạc, say mộng
say mơ, say rượu hồng nhan chuếnh choáng, lu bù quán nhậu vĩa hè khề khà đánh
chén lai rai túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, đọc thơ sang sảng vang động khắp phố
đỏ phường xanh. Thỉnh thoảng ghé Đại học Vạn Hạnh thăm viếng Phạm Công Thiện,
Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Hữu Hiệu…Khuya về ngủ nhờ ở
trọ nhà bạn bè, thường lê la qua các chùa chiền, tịnh xá, nhất là chùa Kỳ Viên
của sư Viên Minh, nằm mắc võng đong đưa giữa hai tàng cây lá sa la xanh vàng mộng
biếc:
Chùa Kỳ Viên chùa Kỳ Viên
Nắng về giăng võng nằm
nghiêng góc chùa
Sầu sầu nhìn ngọn lá trưa
Gió bay ngang võng xa mờ tiếng
ru
Ai đi ngàn hướng mịt mù
Ta nằm trong giọt nắng thu nở
vàng
Sài Gòn nẻo dọc đường ngang
Ngàn sau bước cũ ai còn lại
qua
Trưa sầu chiều nhớ mai xa
Biệt ly dậy giữa lòng ta
muôn trùng
Nắng chia bốn biển năm rừng
Ta nằm uống giọt rưng rưng
góc chùa
Chùa phố chùa quê, chùa biển
chùa núi, những ngôi chùa, tịnh xá rải rác đó đây dọc khắp ven đường lang bạt kỳ
hồ luôn luôn tỏa bóng mát từ bi che mát bóng đời thi sĩ ngao du. Thế rồi bao
mùa mưa nắng quặn hồn đau lữ thứ, bao tháng năm dài cuồn cuộn trôi qua với biết
bao bão tố cuồng phong, dâu biển đoạn trường, bước đi của thi sĩ vẫn quá mộng bồng
bềnh lênh đênh trên ngút ngàn viễn xứ mười phương. Đường của thơ là những nẻo
đường ngược gió, là bến khói bờ mây ngây ngất chập chùng. Vũng Tàu, Long Hải bỏ
lại sau lưng, lên rừng cao nguyên Lâm Đồng, Đà Lạt, xuống dọc vùng ven biển Nha
Trang, Đà Nẵng, Hội An… Cuộc lữ thi ca trùng trùng những ngã năm ngã bảy chập
chùng nơi cõi lạ:
Đã về đất nắng sao bay
Cánh hồng hoang vắng tự ngày
bể dâu
Khóc xưa xuân đã qua cầu
Dòng thu phai mộng còn ngầu
thanh âm
Đá vàng ngọn bấc khua trầm
Khêu hồn lửa rộng tháng năm
chảy dài
Bước mòn đầu thuở man khai
Nguồn văn nẻo tưởng quanh
ngoài núi sông
Lê thê gió tộc mây dòng
Bờ hoang bến lạ còn trong nổi
chìm
Níu ngày sầu hoảng qua đêm
Sinh tử đại sự, vấn đề sống
chết là việc lớn nhất trong cuộc đời cần phải giải quyết một lần cho rốt ráo
thì mới mong được tự tại tự do. Vì thế cho nên, sau những dặm dài cô lữ,
sau những chuyến viễn hành rờn rợn máu xương da cóng buốt miền tuyệt lộ, vào
năm 1989 nhà thơ phiêu lãng dừng gót giang hồ ở thiền viện Thường Chiếu, phát
tâm xuất gia học thiền với thiền sư Thanh Từ, một bậc cao tăng thời hiện đại. Từ
đây Trần Đới có pháp danh Thông Bác. Thế là cửa không tịch mở ra, toàn nhiên hiển
lộ một thứ ánh sáng huy hoàng khác lạ phi thường, tương dung tương nhiếp, tương
nhập vào cảnh giới tự tâm tự tánh thanh tịnh rỗng rang, mở ra những phương trời
thênh thang bát ngát ban sơ:
Trở về nghe máu trong tim
Giọt trôi loãng tháng giọt
chìm đỏ năm
Giọt không màu sắc đang rằm
Vàng trăng có giọt chẳng tăm
hơi gì
Trở về cùng gặp lối đi
Xưa sau mỗi bước hồi quy
đang là
Quê mình tỉnh tại bao la
Tâm dừng tánh lặng gặp ta nằm
cười
Trở về với thực tại hiện tiền,
với cái đang là luôn luôn mới lạ nên nhà thơ reo vui trên cung bậc hân hoan
sáng tạo, ngôn ngữ thi ca bây giờ chuyển nhịp muôn chiều phiêu nhiên hào phóng,
óng ánh rực màu thanh sắc lặng trầm mà nhẹ bổng bồng tênh:
Thênh thênh lặng lẽ một bầu
Ta trong ngọn lá xanh màu
thiên thu
Ví dầu trời đất phù du
Ta trong hư ảo tuyệt trù
pháp thân
Hương ngàn gió thoảng tơ
xuân
Nắng yên mấy vạt giữa rừng vạn
hoa
Xuân qua ta lại về ta
Giữa lòng vũ trụ gần xa một
mình
Nhìn lên cây cỏ xuân nghìn
Mù sương bắc đẩu hóa hình biển
khơi
Tuyệt tình xuân giữa môi cười
Mắt xanh vạn thuở về ngồi
thênh thênh
Mắt xanh vạn thuở làm gợi nhớ
bài thơ của một thiền sư mây trắng nào đó vẫn hoài đồng vọng ngân nga:
Bình bát cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dặm xa
Mắt xanh xem người thế
Mây trắng hỏi đường qua
Con đường mây trắng lồng lộng
phong quang ngút ngàn khiến cho hồn thơ phấn chấn cảm nhận bằng trực giác bén
nhạy, nhảy tung vào cảnh giới tâm nội tối thượng thừa tuyệt hảo vô ngần bất khả
tư nghì, đến độ vô ngôn thuyết, vô ngôn thuyết mà thôi. Tuy nhiên thi sĩ vẫn ghi
lại thành những tác phẩm văn nghệ thi ca như Đá vọng, Tông thừa tụng, Thi hóa Sử
33 vị tổ Thiền tông Ấn Hoa, Yên Sơn trẩy hội, Nắng nhạt qua bờ, Mộng thực, Tùy
duyên, Hiền nhân, Hành trạng tâm linh…tràn đầy chất thiền vị, thấu thị chính
mình trong nhịp thở sinh động khôn dò của bầu không khí tự do vô quái ngại. Phải
chăng nhà thơ đã liễu nhập thấm nhuần lãnh hội được bản thể nguồn tâm vi diệu?:
Liễu xanh hoa thắm cùng về
Cùng đi giữa cội nguồn mê tỉnh
toàn
Thầm trao chừ đó dung nhan
Xưa như vũ trụ xanh vàng thậm
thâm
Phó ngoài thành Phật Oai Âm
Tọa trong thầm nhận Pháp
thân vĩnh hằng
Truyền trao Thầy Tổ một lần
Đời đời kiến Phật tưng bừng
khai hoa
“Hoa khai kiến Phật ngộ vô
sanh” rồi thì tự nhiên nhảy vào Hoan hỷ địa vô phân biệt trí, diệu quan sát trí,
tha hồ tùy duyên tùy thuận tất cả mọi sự ở đời, xem như một cuộc đại hòa điệu
chơi, thi sĩ biến thành hài nhi ca hát hồn nhiên:
Hài nhi từ thuở qua miền
Sóng treo đầu ngọn gậy thiền
phong ba
Chân tình đất rót vào da
Hương người vắng một bài ca
muôn trùng
Hoa cầm miệng mỉm viên dung
Tiếng chày xuyên đá một lần
rồi thôi
Một lần kiến tánh, thấy được
tánh không của vạn pháp là mỉm nụ cười viên dung vô ngại, tuy chưa đạt đến cảnh
giới siệu việt đó, nhưng thi nhân vẫn thong dong thõng tay vào phố chợ tấp nập
xô bồ như dạo cảnh Tịnh Độ Niết Bàn rỗng lặng thênh thang. Bước chân thi sĩ nhẹ
nhàng thanh thản trong một trạng thái an lạc ca hát hoan say:
Cười xòa nắng mới trên cây
Biếc xanh thiên nhạc rót
ngày tinh khôi
Nắng xuân hé dựng trán người
Về thênh thang cõi dát lời
vào thơ
Phố hương nẻo mộng giang hồ
Cỏ cây chợt bước qua bờ ảo
hương
Tiếng lòng giăng bủa quê
hương
Chuông vàng nhạc dạo ướp
ngàn lá hoa
Hoa lá thanht tân gần xa nhã
nhạc vọng vang khắp chốn bụi hồng, đồng thanh tương ứng từng bước thượng thừa
trên cung bậc Nhất Như tâm cảnh xanh vàng tím đỏ viên dung. Một lần cửa nẻo tâm
hồn mở toang là thênh thang muôn chiều diệu dụng vô ngần:
Mở toang cửa nẻo một lần
Ngoài trong chẳng dính mảy
trần bóng mây
Mặt trời sáng rực trên cây
Bốn phương gió mát thổi đầy
tòa cao
Hồ trong ánh sáng dạt dào
Thênh thang đồng nội cỏ chào
hương hoa
Đồng bày hải ấn sum la
Nơi nơi diệu dụng chơn cơ
bình thường
Nhất như tâm cảnh trên đường
Mảy trần chẳng lập rõ ràng
vô dư
Với phong thái tự tại phiêu
bồng, tiêu dao vô sự, nhà thơ nghiêng vai quảy túi càn khôn vũ trụ, đi giữa mười
phương vô sở trú với một tấm lòng không biên giới, vượt ngoài không gian và thời
gian để rong chơi giữa phù vân nhân thế:
Nơi nào cũng một hương quê
Một tâm vũ trụ bốn bề thời
không
Mười phương chung một tấm
lòng
Ba đời một cõi vô cùng trước
sau
Ba đời là quá khứ, hiện tại,
vị lai đều gặp nhau giữa cái đang là, ngay bây giờ và ở đây, ngay trong trái
tim nhịp thở với trời mây nhật nguyệt cùng ru điệu du dương, thư thả hòa hài:
Trái trời trái đất ru nhau
“Sắc tức thị không, không tức
thị sắc” là cốt tủy của Tâm Kinh Bát Nhã đã tiêu dung vào hồn thơ một cách diệu
kỳ. Đó là lý Bất Nhị, bình đẳng đến chỗ Nhất Như, chẳng còn phân biệt nào giữa
không và có, khổ và vui, luân hồi và Niết Bàn, chợ búa và đạo trường, phiền não
và Bồ Đề, vô minh và Phật Tánh. “Tánh thực vô minh tức Phật Tánh” thiền sư Huyền
Giác đã phát biểu như vậy trong Chứng đạo ca. Cảm nhận thấy ra và trực ngộ được
điều đó nên thi nhân tha hồ cất bước hân hoan:
Về không là vũ trụ toàn
Hoa trăng vườn nắng xuân thường
đất tâm
Thảnh thơi ngọn gió trong ngần
Thoảng quanh thế kỷ tri âm
hiện tiền
Nẻo về lặng sáng bản nguyên
Bản tâm chư Phật bí truyền Tổ
khai
Mặc cho gió bụi reo ngoài
Nguồn trong Pháp Nhãn chẳng
lời là thơ
Là thơ là nhạc vang lên
phóng khoáng từ cõi tịch mịch vô ngôn, nơi chốn miền không có đâu mà vô cùng
thâm thúy trong tận đáy linh hồn:
Chơn Không tủy của Phật Đà
Chảy trong pháp thể bao la vạn
loài
Trở về tự kỷ mà soi
Cội nguồn ngũ uẩn chẳng nơi
chốn nào
Thênh thang vô tướng nhiệm mầu
Tâm không vin cảnh cảnh nào
đến tâm
Thiền nguyên bặt dấu truy tầm
Hiện tiền rỗng suốt chẳng lầm
ngoài trong
Chẳng gì chẳng phải vô công
Vô tư dụng hạnh nới không buộc
ràng
Phật là tánh sống tỉnh an
Bình thường tâm pháp sống
đang là thiền
Ngộ liền thực tại y nguyên
Tử sinh chẳng chốn trọn miền
Chơn Không
Chơn Không mà diệu hữu, cho
nên thi sĩ Trần Đới dù bây giờ là thiền sư Thông Bác rồi vẫn tiếp tục
làm thơ, vẫn sáng tạo và sáng tạo vô vàn trên vạn nẻo đường thông lộ ngao du
như thiền sư thi sĩ Basho Nhật Bản:
Một lữ khách
Tên tôi là như thế
Giữa nhân gian này
Kẻ viết bài này cũng là một
du sĩ lang thang, vì thế đi đến tận chân trời góc bể nào rồi thì cũng đều gặp gỡ
trùng phùng thi sĩ Trần Đới như gặp ở Vũng Tàu, Đồng Nai, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng,
Lăng Cô, Hội An…Có một lần tao ngộ ở Huế cùng ngủ lại chung một đêm hát hò văn
nghệ tàn khuya tại nhà Hải Tuệ, bên bờ sông Hương thơ mộng, tôi có ngâm nga
riêng tặng thi sĩ một bài thơ:
Tảo mộ lênh đênh từ vô thủy
Đi về sương khói cõi vô
chung
Tóc râu gởi lại cho râu tóc
Bầu rượu lưu linh cũng trao
cùng
Bùng vỡ cái thân ồ bèo bọt
Vốn là duyên hợp với duyên
tan
Duyên sinh như huyễn đâu thực
có
Giả tạm mà thôi chó mơ màng
Bùng vỡ cái tâm ồ hư vọng
Vọng tưởng thương yêu lẫn hận
thù
Trăm năm rồi cũng chừng ấy
chuyện
Nghìn thu chỉ một thoáng phù
du
Thân tâm chuyển hóa trong một
niệm
Chao ơi! Trời đất bỗng
thành thơ
Từ đây mây trắng ngàn mây trắng
Phiêu du vạn dặm khắp muôn bờ
T.N
Thơ Trần Đới trích trong các
tác phẩm:
Trăm năm đèo biển Lăng Cô.
Nhà xuất bản Tổng Hợp, 2006
Đá vọng. Nhà xuất bản Tổng Hợp,
2007.
Nguồn www.lieuquanhue.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét