Xuân trên vạn nẻo đường đất nước
Theo các nguồn sử liệu lưu truyền thì họ Hồng Bàng dựng nước
Văn Lang vào năm Nhâm Tuất 2879 trước Tây lịch, nhưng nền độc lập đã bị gián đoạn
gần mười thế kỷ vì sự đô hộ của người Tầu. Trong giai đoạn tối tăm, ô nhục
này, Bắc quân đã dùng ngàn muôn thủ đoạn để đồng hóa dân ta nhưng đã hoài công
và người Việt tuy không bị mất gốc nhưng vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề về văn hóa,
tín ngưỡng của Trung Hoa khi sống chung với họ.
Năm 939 Ngô
Vương Quyền đánh tan quân Nam Hán trên Bạch Đằng Giang, thu hồi lại nền độc lập
cho quốc gia, mở đầu nền tự chủ, tự cường cho dân tộc thì cũng kể từ đó, qua
bao đời, tổ tiên ta đã cố gắng lựa lọc lại những ảnh hưởng ngoại ban, tiêu hủy
các hủ tục, chấp nhận những thuần phong mỹ tục của người, đồng thời pha trộn
vào đó tất cả tinh hoa của người Việt, tạo thành nếp sống đặc trưng, đặc thù của
dân tộc Việt Nam nhưng vẫn giữ bản sắc Đông phương. Trong các cổ tục còn lưu
truyền đến ngày nay, Tết Nguyên Đán là một biểu tượng phong phú, toàn vẹn và ý
nghĩa nhất, đã thu hút mọi người, mọi giới phải quên hết mọi điều để chỉ có tết,
lo cho tết sao cho mấy ngày đầu năm được đầy đủ, vui vẻ như hàng xóm, bõ công đầu
tắt, mặt tối, làm ăn vất vả trong 365 ngày, đúng là:
“Tết đến
sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu lại lo“.
1- NGÀY TẾT NGUYÊN ĐÁN
Ngay
từ thời Hồng Bàng, dù còn sống lạc hậu, tổ tiên ta đã biết ăn Tết. Nếu căn cứ
vào các công trình khai quật tại Đông Sơn mà biểu tượng là trống đồng có chạm
trổ trên mặt hình vẽ ngày hội Tết với bông lau thì ngày đầu năm lúc đó chắc là
mùa thu vì bông lau chỉ trổ đặc biệt mùa này vì mùa xuân không có bông lau.
Ngoài ra các sự tích về bánh chưng, bánh dầy, trầu cau, dưa hấu đỏ, theo sách
Việt Sử đại Toàn, đã có từ thời vua Hùng thứ 6.
Riêng
Tết Nguyên Đán hiện nay, đã được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Ăn Tết
Nguyên Đán là ăn mừng ngày đầu năm vào ngày mồng một tháng giêng và Tết bắt đầu
vào giờ Tý (giữa khoảng từ 23 giờ năm cũ đến 1 giờ sáng năm mới). Thời khắc
này là Giao Thừa, đêm 30 tháng chạp là đêm trừ tịch .
Nhà Hạ
(2205-1766 trước TL) vì thích màu đen nên chọn tháng Dần là tháng giêng để ăn Tết. Đời Thương (1766-1122 trước TL) thích màu trắng, đổi lại Tết vào tháng chạp.
Nhà Châu (1122-256 trước TL) ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý là tháng 11 làm nguyên
đán. Đời Đông Châu Liệt Quốc, các nước ăn Tết theo quan niệm của Khổng Tử, chọn
tháng giêng như nhà Hạ nhưng khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa (256-206
trước TL) lại lựa tháng Hợi tức là tháng mười để ăn Tết mãi cho tới khi nhà Hán
làm chủ Trung Nguyên (206 trước TL – 221 sau TL ), theo Khổng Tử, chọn tháng
giêng làm ngày đầu năm và phong tục này được giữ cho tới ngày nay.
Tết
Nguyên Đán theo Tàu hay Việt đều giống nhau ở các nghi thức tống cựu, nghênh
tân Tống cựu gồm có lễ tiễn Táo quân về trời đêm 23 tháng chạp, lễ cúng rước tổ
tiên, ông bà quá cố ngày 30 tháng chạp, sau đó là lễ phong tỉnh (cúng giếng nước, tảo địa (quét dọn nhà cửa trước giờ giao thừa mừng tuổi, phong môn v. V... Còn nghi thức nghênh tân quan trọng nhất là cúng giao thừa, mở rộng
cửa nhà để bái thiên địa, cúng gia đường, táo quân, tục lì xì, chúc mừng tuổi
v. v....
Bên
cạnh những phong tục, tập quán vay mượn của người Tầu, người Việt còn có nhiều
tập tục nổi tiếng đặc thù dân tộc lưu truyền đến ngày nay như tục cướp
đầu pháo của đồng bào thiểu số tại miền Thượng du Bắc phần và mot6. Vài bộ lạc
trên cao nguyên Trung phần, lễ viếng mộ đầu xuân cũng như dãy mả vào những ngày
sắp tết, tục cướp cầu ở làng Yên Xá ((Bắc Ninh), thi thơ đầu xuân, tổ chức các
phiên chợ đặc biệt ngày tết tại vùng mạn ngược, vùng xuôi cũng như ở thành thị,
tục ném cầu và phóng sinh ở Thanh Hóa, tục dành nhan ngày tết, hát quan họ, hát
trống quân ở đất Bắc, hát bài chòi vùng Bình Định - Phú Yên, đánh đu ngày Tết ở
Nam phần v. v ... Tóm lại những trò chơi, tập tục của người Việt Nam trong những
ngày Tết đều có tính cách bình dân, phổ quát, mang nội dung lành mạnh, đem đến
niềm vui thỏa mãn cho con người sau một năm làm lụng vất vả, phiền lụy. Do đó,
các nhà phong tục học trên thế giới khi chứng kiến hay nghiên cứu về phong tục
tập quán của ta đã kết luận: ”Tết của người Việt Nam phong phú, thực tế và vui
vẻ hơn tết của người Trung Hoa và Âu Mỹ “
2- TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM TỪ THƯỢNG CỔ TỚI TRƯỚC 1945
Thời
Thượng Cổ: Ngay từ thời Hồng Bàng của buổi bình minh lập quốc, dù người Việt
còn sống lạc hậu nhưng tổ tiên ta đã biết tới Tết. Thật vậy, qua một mùa đông
rét mướt, lạnh lẽo, mùa xuân bỗng trở về rực rỡ với cảnh hoa đồng cỏ nội sặc sỡ
trong ánh nắng hồng ấm lung linh. Tinh thần của con người dù là con người thượng
cổ còn hồn nhiên, chất phác nhưng họ vẫn thấy sinh tình trước sự kích thích của
vũ trụ bao la, mang đến cho con người nguồn sinh lực dồi dào.
Trai
gái trước cảnh xuân nồng mới, đã biết tìm đến nhau trên khắp các nẻo đường quê
hương đất nước, phát sinh ra những trò chơi mộc mạc, hoặc đánh vòng, tung cầu
hay họp nhau hát hò đối đáp dẫn đến câu chuyện trầu cau đầu mối của chuyện hôn
nhân giữa nam nữ cũng như sự tích bánh chưng, bánh dầy, quả dưa đỏ đời Hùng
Vương thứ 6, không theo truyền thống Nho giáo truyền ngôi cho con trưởng mà lại
truyền ngôi ho con thứ 18, nói lên tính chất đặc biệt của truyền thống Việt Nam
lúc nào cũng thực tế không trừu tượng, lễ giáo quá đáng như người Tầu.
- Tết
Cổ truyền dưới thời Lý Trần:
Sau
khi đánh tan quân Nam Hán trên Bạch Đằng Giang, Ngô Vương Quyền đã cởi ách nô lệ cho dân tộc sau mười thế kỷ bị Bắc thuộc. Đó là năm 939, mở đầu cho thời đại tự
chủ, tự cường của dân tộc.
Tới
đời Lý Trần, người Việt đã tiến bộ nhờ ảnh hưởng của Nho, Lão, Phật. Nhiều
phong tục tập quán thuần khiết được tạo dựng. Ngoài những năm chinh chiến chống
ngoại xâm như Tống Nguyên và nội loạn, dân chúng an cư lạc nghiệp, đất nước
thanh bình.
Ngày
tết bắt đầu từ 30 tháng chạp, dân được phép đốt pháo. Pháo thời đó là những ống
lệnh chứa thuốc nổ, có ngòi, chứ không phải loại pháo có ngòi làm bằng giấy bọc
thuốc như ngày nay. Pháo được đốt khắp nơi, từ ngoài cổng làng, cổng nhà hay
đình chùa. Dân chúng giết lợn, gà, vật trâu bò, dê để cúng tạ trời phật, ông
bà, cha mẹ quá cố liên tiếp trong ba ngày Tết.
Ngày mồng
5 Tết, nhà vua cho làm tiệc khai hạ rồi cùng với văn võ bá quan yến tiệc vui vẻ. Mọi người trong nước đều đi lễ chùa và du ngoạn. Ngoài ra khắp nơi đều có
các sân khấu lộ thiên để cá phường chèo đến giúp vui cho dân chúng trong mấy
ngày Tết. Tại các nơi công cộng còn có các trò chơi lý thú như đánh vật, chọi
gà, đá cầu...
Trong mục
đích khuyến nông, tập tục vua đánh vào trâu đất trong ngày lập xuân được lưu
truyền cho đến cuối đời Nguyễn (thời Bảo Đại), theo An Nam Tạp Chí của Lê Tắc
đời Trần cho biết, mỗi năm vào mồng ba tết, cá vua Trần ngự ra gác Đại Hùng để
xem các thái tử thi đá cầu. Riêng các quan thi đánh cầu bằng tay, có khi cỡi
ngựa. Đá cầu là môn thể thao thịnh hành trong những ngày Tết vào dịp đó, phổ
biến từ giai cấp quý tộc cho tới giới bình dân ở kinh đô, thành thị cũng như tại
thôn quê.
Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, một bộ sử cũ nhất của nước ta còn lưu lại đến ngày nay
thì nam nữ Đại Việt trong ba ngày Tết đã bắt đầu chơi đánh đu từ năm 1365 là
niên lịch ghi rõ ranh giới Việt Nam đã chạy tới Hóa Châu (Thừa Thiên) và nam
nữ Hóa Châu lại là những người sành sỏi về trò chơi này. Sách Hồng Đức Quốc Âm
Thi Tập xuất bản vào thế kỷ thứ XV có in một bài thơ chữ Hán, vịnh lại cảnh
trai gái đánh đu có từ thời Trần.
Bốn
cột lang nha ngắm để trồng
Ả
thì đánh cái, ả lòn ngông
Tế
thiên, hậu thổ khom khom cật
Van
vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám
bức hồng quần bay phất phới
Hai
hàng chân ngọc đứng song song
Chơi
xuân hết tất xuân dường ấy
Nhổ
cọc đem về, để lỗ không
- Tết
Việt Nam dưới thời vua Lê chúa Trịnh:
Từ
thế kỷ thứ XVI, nhà Hậu Lê đã suy tàn, dọn đường cho Mạc Đăng Dung cướp ngôi, đất
nước chia năm xẻ bảy, chính sự đổ nát, dân chúng lầm than. Đại Việt lâm vào cảnh
nội chiến triền miên kéo dài gần 300 trăm năm, lấy sông Gianh trong tỉnh Quảng
Bình làm ranh giới, phía Bắc thuộc quyền chúa Trịnh, vua Lê chỉ ngồi làm vì.
Trong Nam thì chúa Nguyễn xưng hùng một cõi. do đó những lễ Tết dưới thời vua
Lê chúa Trịnh có phần nào khác biệt so với các đời Lý Trần là thời cực thịnh của
Phật giáo.
Lễ
Tết trong cung vua phủ chúa
Trước tết, tình hình trong cung vua và phủ chúa rộn rịp hẳn lên, nào là lo tổ chức lễ tiến xuân ngưu (tiến trâu đất vào tiết lập xuân ), một tập tục ó từ lâu đời với mục đích khuyến nông. Các nghi thức về Tết Nguyên Đán được sửa soạn vào cuối tháng chạp. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì ngày 25 tháng chạp, triều đình đã làm lễ phong kín các ấn tín đem cất vào kho và sẽ sử dụng lại sau tết. Tất cả các quan quân đều được nghỉ Tết mười ngày để vui chơi.
Trước tết, tình hình trong cung vua và phủ chúa rộn rịp hẳn lên, nào là lo tổ chức lễ tiến xuân ngưu (tiến trâu đất vào tiết lập xuân ), một tập tục ó từ lâu đời với mục đích khuyến nông. Các nghi thức về Tết Nguyên Đán được sửa soạn vào cuối tháng chạp. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì ngày 25 tháng chạp, triều đình đã làm lễ phong kín các ấn tín đem cất vào kho và sẽ sử dụng lại sau tết. Tất cả các quan quân đều được nghỉ Tết mười ngày để vui chơi.
Ngày
đầu năm, bá quan văn võ vào điện để chào mừng vua Lê tại điện Kính Thiên. Dẫn
đầu bách quan là thế tử của chúa Trịnh gọi là quan Tiết Chế, sau đó cùng kéo
qua lạy mừng chúa Trịnh tại phủ chúa và được chúa ban tiền thưởng cho tất cả
các quan từ hàng nhất phẩm cho tới cửu phẩm, rồi cùng chúa dự tiệc đầu năm vui
vẻ. Sau đó lại kéo về dinh quan Tiết Chế để chúc tụng lần nữa mới giải tán.
Trong
ba ngày xuân còn có lễ tế giao (lễ này bắt nguồn từ thời Hậu Lý), với mục
đích cúng tế Trời Đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, trăm họ vui vẻ yên ổn làm ăn. Thời vua Lê chúa Trịnh, đàn Nam Giao được thiết lập tại Thăng Long (Hà Nội). Trong ngày tế lễ chính thức, vua Lê là chánh tế, hai cha con chúa Trịnh là bồi
tế, ngoại trừ các năm vua Lê bị tang chế thì chúa Trịnh được cử làm chánh tế.
Căn cứ
vào tập du ký của nhà du hành người Hòa Lan Tavernier có tên là “Recueil de
Plusieurs Relations et Traites Singuliers et Curieux“ diễn tả dân đàng ngoài
ăn Tết như sau
Trước Tết
ba ngày dân chúng đàng ngoài tại kinh đô Thăng Long cũng như các thành thị khác
lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn bàn thờ tổ tiên, ông bà có bày nhiều bài vị viết
tên người quá cố. Tại kinh đô, hơn 40.000 binh lính và quan lai tấp nập vui tết. Trong cung, vua Lê cũng bày nhiều bàn thờ, bài vị để cúng tế tổ tông tiên triều. Trong khi vua làm lễ trước bàn thì súng lớn, súng nhỏ được lệnh khai hỏa thay
pháo mừng xuân Cúng tế xong, vua đốt tiền giấy luôn cả bàn thờ để tế lễ
Nơi nhà
của dân chúng, mọi người dùng vôi vẽ những hình bát quái trên cửa, tường, mục
đích làm ma quỷ sợ hãi không dám vào nhà phá phách. Tục xem chân gà đoán họa
phúc bắt nguồn từ đó cũng như sự kiêng cử khi xuất hành đầu năm, đến nay vẫn
còn được dân chúng tin theo
Theo
sách Gia Định Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Đức thì tập tục đánh đu có từ thời
Trần đã theo chân chúa Nguyễn vào tận Nam từ đầu thế kỷ XIV, lúc đó người Việt
vùng đất mới vừa khai phá ở miền Thủy Chân Lạp đã chơi đánh đu bằng bốn loại đầu
tiên, đu thang, đu giằng xoay và đu rút. Cũng trong thời kỳ này, người Việt đã
sáng chế thêm một môn chơi ngày Tết hết sức trang nhã đó là hát trống quân, rất
được phổ quát trong tất cả nơi chốn công cộng, tế lễ, đình đám này xuân. Sự
tích trống quân cũng như chiếc trống cơm theo tác giả từ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,
Bưu Văn Phan Kế Bính, Vũ Ngọc Phan, Maspero v. v.. đều có ý chung về nguồn gốc
lịch sử dân tộc, nói lên sự phấn đấu hào hùng và tinh thần thượng võ của người
Việt cũng như tình cảm thiêng liêng ẩn ức trong những lúc chia lìa:
“Tống quân
nam phố, thương như chi hạ“... có nghĩa là tiễn người lên đường về Nam chinh
chiến, lòng thiếp đau đến độ nào, có ai hiểu thấu?
- Tết Nguyên
Đán và cuộc du xuân thường niên dưới triều Nguyễn:
Trước tết một
tháng, trong cung nội đã tổ chức lễ Ban sóc (Phân phát lịch mới cho các quan) và
lễ Phát Thức (do các quan đại thần lau chùi các ấn vua, kim sách, ngân sách).
Ngày 30 tháng chạp, Bộ Lễ cử người mang phẩm vật đến cúng tại các lăng, miếu
còn các hoàng thân, tôn tước khi tới các chùa, đình làm lễ. Từ giờ đó, cá Công
thự, Chùa Đình bắt đầu dựng nêu.
Đại triều được thiết tại Điện
Thái Hòa rất nghiêm chỉnh với cờ quạt, nghi trượng, lính nhạc và voi ngựa dàn hầu
từ ngoài cầu Kim Thủy vào tới tận Điện.
Vua ngự trước tiên tại Điện cần
Chánh, đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, cầm hốt, được xa giá rước sang Điện
Thái Hòa giữa tiếng chuông, trống và 9 phát súng lệnh chào mừng.
Sau đó các hoàng tử, bá quan
vào Điện lạy vua 5 lạy với lời chúc Tết được vua ban yến và tiền thưởng xuân.
Ngày mồng một tết, vua
thiết đại yến đãi các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên, cùng các hoàng thân,
hoàng tử tại Điện Cần Giờ và hai dinh Tả, Hữu Vụ .
Mồng 2 Tết, vua, hoàng hậu
và các quan đại thần đến cúng bái tại Điện Phụng Thiên, sau đó ban yến cho các
quan từ ngũ phẩm trở xuống tại dinh Phủ Doãn Thừa Thiên.
Lễ Tết Nguyên Đáng kéo
dài trong 7 ngày. Các hoàng thân, hoàng tử được thưởng tết 20 lạng bạc còn các
quan văn võ tùy theo phẩm trật được lãnh từ 1 lạng đến 12 lạng.
Tục du xuân của các
đấng quân vương đã có từ thời nhà Lê nhưng gián đoạn ở các vua đầu triều Nguyễn,
Mãi tới đời Đồng Khánh mới tổ chức lại. Trong dịp du xuân, ngoài nhà vua với
cung tần mỹ nữ trong cung, các hoàng thân, hoàng tử, công chúa và các quan đại
thần đều được tham dự trên các thuyền rồng rực rỡ, du hành trên sông Hương thơ
mộng, từ cửa Thượng Tứ cho tới các lăng tẩm đền đài của tiền nhân nằm trên núi
Ngự Bình chạy song song với dòng sông, Lễ du xuân được tổ chức trong 3 ngày Tết,
ngoài du thuyền, vua còn du hành trên bộ bằng kiệu khắp kinh thành Huế, vừa thưởng
ngoạn và xem dân chúng ăn Tết.
3- Tết Việt Nam Hiện Tại:
- Tại các thành thị:
Hà Nội: Hà Nội
hay Thăng Long là thủ đô của Việt Nam qua nhiều triều đại . Là đất ngàn năm văn
hiến, có 36 phố phường và dân số đông nhất đất Bắc, nên những ngày Tết ở đây thật
độc đáo, vui nhộn. Khu vực buôn bán thường tập trung ở phía bắc Hồ Gươm và phố
Tầu.
Người Hà Nội lo Tết từ
tháng 11 âm lịch, chuẩn bị các loại gạo nếp, các thứ đậu để gói bánh, nấu chè,
các loại đồ khô nhất là măng, miến, nấm và nhiều nhà còn nuôi gà, vịt
để dùng hay cúng trong dịp tết.
Đến tháng chạp
bắt đầu làm các món đặc biệt như dưa hành, trứng muối, cải bắc thảo là món rất
được ưa thích vì chất bùi béo của quả trứng được muối sau 20 chục ngày, biến
thành màu nâu đen sẫm có mùi thơm ngon lạ lùng. Sau đó làm mứt hạt sen, lạc, gừng,
phật thủ, quất dừa, dứa, bí v. v.. các loại bánh chè lam, bánh vẽ, bánh huê cầu
và những đặc sản trên đất Bắc xuất phát từ hai làng Vẽ và Xuân Cần. Đặc biệt của
Hà Nội là 36 phố phường, mỗi phố bán một loại hàng chẳng hạn như phố Hàng Đào
bán tơ lụa, vải vóc, áo quần và nơi này thật nhộn nhịp vì ai cũng phải
ghé đến để mua vải về may quần áo mới cho kịp tết. Hàng Ngang bán các loại
trà, Hàng Bồ bán tranh Tết và là nơi các cụ đồ nho bán chữ thánh hiền như viết
câu đối hoặc các bức liễn bằng chữ Hán như Vũ Đình Liên đã diễn tả trong thi phẩm
bất hủ “Ông Đồ“ vào thập niên 30 trước tiền chiến, Hàng Bồ còn là nơi bán
pháo nhưng pháo đã bị Việt Cộng theo Trung Cộng cho dẹp bỏ từ năm 1994.
Những ngày cuối
tháng chạp, phố Hàng Mã cũng tấp nập vì nhà nào cũng lo cho tổ tiên, ông bà hoặc
cha mẹ, anh em đã quá cố. Bàn thờ được quét dọn sạch sẽ, mọi người mua sắm
vàng, tiền giấy và đồ thợ mã về để cúng thần linh, tổ tiên sau đó đốt theo các
ngài để dùng dưới cõi âm. Riêng chợ Đồng Xuân, ngoài bán các loại hương trầm
còn là chợ hoa nổi tiếng của Hà Thành. Trong các phiên chợ Tết, chợ hoa lan rộng
qua tới Hàng Khoai, Hàng Lược, đầy trăm hoa nghìn tía của các vườn hoa Ngọc Hà,
Nhật Tân, Nghi Tàm, Yên Phu...Chợ hoa khai trương từ 25 tết cho tới chiều 30 mới
tan, dập dìu nam thanh nữ tú, người pha lẫn với hoa và cả hai đều đẹp. Hà Nội
có đủ các loại hoa như trong Nam nhưng họ thích nhất vẫn là hoa đào, cúc, quất
và thủy tiên.
Thế rồi 23 tháng chạp,
nhà nhà lo tiễn táo quân về trời. Ngoài vàng mã, người Hà Nội còn cúng cho ông
một con cá chép thật to bằng ba bàn tay để ngài cưỡi về thượng giới, cá này được
phóng thích khi qua lễ.
Bây giờ mới
thật là Tết, nhà nào cũng lo gói bánh chưng, gói giò làm mứt, dọn dẹp bàn thờ,
trang hoàng nhà cửa và tính sổ nợ để sang năm mới không bị xúi quẩy, phiền hà bởi
bọn nặc nô huyên đi đòi nợ thuê. Rồi thì quà cáp để biếu xén trong họ, ngoài
làng cho trọn tình.
Nhưng thiêng liêng
và ý nghĩa nhất vẫn là ngày 30 mươi tết. Mọi nhà dù theo bất cứ đạo nào, nghèo
hay giàu cũng đều có mâm cơm cúng tất niên rất đặc biệt Hà Nội gồm 4 bát, 6 dĩa
và nếu giàu có hơn thì đủ 8 bát 8 dĩa như tập tục cổ truyền.
Ngày 30 mươi Tết
còn là ngày đoàn tụ gia đình, anh em, cha mẹ, con cái quây quần quanh mâm cơm
cúng gia tiên vừa dọn xuống, trong làn hương trầm tỏa thơm ngát từ các bàn thờ
trang trọng, ấm cúng. Mọi người vừa ăn uống kể chuyện, ôn cũ, bàn mới trong
không khí hòa thuận của gia đình.
- Tại Huế: Thành Phố Huế là cố đô của Việt
Nam đã được chọn làm kinh đô từ thời chúa Nguyễn Phúc Trai (1687) vua Quang
Trung (1788) và suốt triều Nguyễn từ 1802-1945.
Cũng giống như những
phần đất khác trong nước, dân Huế chuẩn bị tết trước cả tháng, ngoài ra còn lo
việc chay ma để các cụ chuẩn bị về ăn tết chung với con cháu.
Gần tết nhà cửa vườn
tược được sang sửa tươm tất, sạch sẽ . Hoa được trồng trong vườn riêng quanh
nhà hoặc mua sắm tại chợ Đông Ba với các loại mai, đào, cuc, quất, thược dược,
thủy tiên, vạn thọ ...
Từ ngày 23
tháng chạp, không khí tết đã có mặt tại Huế. Khắp đình, chùa và nhà, đâu đâu
cũng bắt đầu dựng nêu tết và cúng tiễn táo quân về trời với hoa quả và đồ mã.
Người Huế
ngoài đặc tính nhân hậu, hiền lành, nam giỏi văn chương thi phú, ca nhạc và nữ
thì công dung ngôn hạnh nên các món ăn ngày tết cũng thật đặc biệt. Những ngày
tết cũng là dịp đặc biệt để các bà mẹ truyền nghề cho con gái trước khi xuất
giá tòng phu để khỏi bị mang tiếng mai sau, ngoài các loại mức người Huế còn lo
gói bánh chưng, bánh tét, bánh phu thê (xu xê) làm bằng bột sắn nhưng đậu xanh
ngào đường dừa hoặc nhân tôm cháy, bánh hỏi, bánh sen cháy, bánh dừa mận, bánh
măng.
Mâm cỗ tết
cúng chiều 30 tết của người Huế khác với người Hà Nội, nhìn bề ngoài trông đạm bạc
hơn nhưng thật ra rất cầu kỳ vì người Huế thích ăn các món rau cải hơn thịt cá. Bởi vậy chỉ riêng món gỏi Huế đã có mười thứ như đu đủ xanh, giá sống, vừng,
lạc, thịt ba chỉ, tôm, da gà rán trộn với dấm, đường, tỏi, ớt, ngò và rau ngổ.
Ngoài ra trong mâm cỗ, không bao giờ thiếu dưa món được làm trước độ tuần lễ,
món hành ngâm dấm, xà lách gân bò, tré, chả tôm, nem bò lụi, giò thủ, giò bì,
giò lụa.
Tóm lại các
món ăn của Huế trong ba ngày tết gồm loại chay, bình dân và ngự thiện. Món
chay được dùng trong các đình chùa, những tín đồ Phật giáo, có tên gọi giống
như các món mặn như vịt tìm, vi cá, nem nướng, hạnh nhân xào v. v.... nhưng thật
ra toàn được chế biến bởi thảo mộc tươi, khô hay đã lên men. Riêng các món ăn
ngự thiện và bình dân sau này không còn ranh giới vì chế độ vua chúa đã cáo
chung, ai có tiền cũng có quyền hưởng giò, tré, gỏi. Riêng rượu dùng trong ba
ngày tết rất phổ biến là loại rượu nếp và rượu thuốc được chôn dưới đất nhiều
ngày để tăng thêm nồng độ và hương vị. Người Huế nhất là giới trung niên và
cao niên cũng thích uống trà trong ba ngày tết nhưng cầu kỳ hơn người Hà Nội vì
ngoài các loại trà đắt tiền của Tầu như Tam Hỷ, Ô Long .... trà còn được đem về
ướp, xảy với các loại hoa thơm như lài, sen, sói, mộc.
Phụ
nữ Huế đi chợ tết Đông Ba ngoài mua sắm còn đi gội đầu trong các cửa hiệu bằng
nước Hương Bôi, hoa bưởi, hoa chanh. Phong tục này chỉ có ở Huế mà thôi.
Tuy không phải là đất ngàn năm
văn hiến của Việt Nam như Hà Nội, Huế nhưng từ thế kỷ XVIII nhờ hoàn
cảnh địa lý thuận lợi, Sài Gòn – Gia Định đã trở thành thương cảng lớn nhất ủa
nước ta và là trung tâm buôn bán từ buổi đầu đã tập trung tại chợ Bến Thành, Chợ
Sỏi (Chợ Cầu Ông Lãnh) và chợ Sài Gòn Mới (Chợ Lớn). Tính đến nay Sài Gòn –
Chợ Lớn được thành lập hơn ba trăm năm.
Tại Sài Gòn -Chợ Lớn,
không khí lễ tết đã nhộn nhịp từ lễ Giáng Sinh kéo dài cho tới tết . Khác với
người Tầu Tảo mộ và dãy mả vào tiết tháng ba, ngườ i Việt ở Trung và Nam phần
dãy mả vào cuối tháng chạp .
Dân Sài Gòn là dân tứ chiêng
nhưng vì chung sống lâu năm nên đã hòa hợp vào tạo cho mình một phong cách đặc
biệt . Tóm lai người Sài Gòn ăn tết không xa hoa như người Hà Nội, cầu kỳ như
như người Huế, rất bình dân nhưng lại tốn nhiều tiền hơn, vì ngày tết người Sài
Gòn thích ăn nhậu theo phong cách Tây phương với nhiều món nhấm nên ngày tết
nhà nào cũng chuẩn bị sẵn nhiều loại đồ khô cá, khô tôm, khô thịt.
Không khí tết đã bắt đầu
từ tháng chạp đến tận tối Giao thừa . Người Sài Gòn thích chơi hoa mai và vạn
thọ được bán khắp nơi chứ không tập trung một chỗ như Hà Nội, Huế . Hoa được
đưa về Sài Gòn từ Đà Lạt, Bà Điểm, Hốc Môn.
Người Sài Gòn có tục
bói dưa ngày tết và dưa hấu được đưa tới Sài Gòn từ Trảng Bàng, Cao Lãnh, Trà
Vinh, tập trung nhiều nhất tại chợ Bến Thành và chợ Cầu Ông Lãnh. Nhà nào cũng
mua dưa hấu để cúng, ăn và đãi khách trong ba ngày tết.
23 tháng chạp tiễn
đưa táo quân về trời, lễ vật cũng khác biệt với các nơi Hà Nội, Huế gồm ó món lễ
là một đĩa xôi, một miếng thịt lợn luộc, một lọ hoa, đôi hia cùng áo giấy. Nhiều
nhà trước khi Việt Cộng cấm đốt pháo, luôn kèm theo một tràng pháo để tiễn táo
quân về trời.
Tết Sài Gòn cũng có
mứt, bánh nhưng mứt và bánh Sài Gòn cũng khác biệt với các loại thổ Sản ở miền
Nam như mứt sầu riêng, dâu, chùm ruột và nhất là mứt gừng, dừa. Bánh thì ăn
bánh tét, nhiều nhà cầu kỳ trộn thêm tôm khô, lạp xưởng và nếp gạo để nấu bánh
. Mâm cỗ cúng tất niên luôn luôn có bánh tét, thịt kho, dưa giá, củ kiệu, củ cải
muối và nem bì .
Cái đặc điểm
tết ở Sài Gòn là nhà nào cũng có mâm ngũ quả ơ trên bàn thờ và trên bàn trong
phòng khách với đu đủ, xung, cam quýt, sầu riêng, măng cụt... với ngụ ý cầu
mong năm mới đủ ăn, xung túc hơn năm cũ.
Đêm
giao thừa dân Sài Gòn còn có tục đi lễ chùa, hái lộc đầu năm. Người Hoa có lệ
rước tượng ông Quan Công, bà Thiên Hậu di hành trong ba ngày tết với sự tham dự
của các bang hội Tầu và các đội múa lân, múa rồng, múa sư tử cùng các đoàn hát
Quảng, Tiều.
Riêng tại Chợ
Lớn, tết là dịp để người Việt tìm đến ăn uống với các món đặc biệt như trăn, rắn
(xem như rồng), rùa để hy vọng được thêm sức mạnh, sống lâu. Riêng người Hoa
trong ba ngày tết, thi nhau làm đèn lồng, các chùa, hội quán sơn phết sặc sỡ,
lòe loẹt, nam thanh nữ tú Việt lẫn Hoa đến cúng bái không dứt suốt ngày đêm.
- Tết tại miền Đồng Tháp Mười:
Đồng
Tháp Mười là vùng đất trũng thấp ở phía tây Nam phần, bao gồm hai tỉnh Kiến
Phong (Cao Lãnh) và Kiến Tường (Mộc Hóa) ngày nay, kinh rạch chằng chịt, hoang
địa mông mênh, dân chúng trong vùng trước kia đi lại bằng xuồng, thuyền . Nhà cửa
dân cư thưa thớt, chỉ cất trên những gò đất cao để tránh lụt lội nên mật độ dân
số năm 1960 chỉ có 15 người/ 1km2 và năm 1978 là 50 người/ km2, dân chúng
nghèo nàn vì thiếu mọi phương tiện cho nên ngày Tết Nguyên Đán hầu như chỉ
quanh quẩn ở thôn xóm quạnh hiu và trong gia đình.
Dân chúng Đồng
Tháp Mười là dân giang hồ tứ chiếng, hoặc vì chiến nạn, vì sinh kế nên bỏ quê
hương xứ sở đến vùng đất bùn lầy, hoang địa, muỗi, đỉa, rắn rít và chướng khí,
nước độc để an thân, lập nghiệp. Do đó, ngày tết rất đơn sơ, giản dị và cư dân
vùng nào giữ tết theo phong tục miền đó, chẳng hạn như người Bắc tết đến có tục
làm bánh chưng, chè lam, bánh ít, bánh bột lọc, bánh trôi, bánh lá, bánh tro v.
v.. Dân miền Trung nhất là Huế thì gói bánh chuối, kẹo mần quân, kẹo kéo, chè
lam pha mè đen, mè xửng Huế, bánh rán phòng da lươn, bánh đa Còn dân miệt vườn
từ các tỉnh Nam phần thì ăn tết với bánh tét, bánh giò, nem lá ổi, kẹo trái
cây, bánh ướt, xôi ướp cốt dừa, bánh chuối.
Nhưng trong ba ngày
tết, nhà nào dù Bắc, Trung, Nam cũng đều có thêm các món đặc sản ở vùng Đồng
Tháp Mười, trong mâm cơm cúng tất niên hay món đãi khách lạ vào những ngày đầu
năm . Đó là món “ngũ xà thất vị”, tức là thịt năm con rắn chế thành bảy món,
“thập cẩm trang viên” tức là các loại rau trồng quanh vườn như sắn, rau súng,
ngó sen, rau mác, rau tì láng trộn lẫn với cơm và nước cốt dừa ăn với bánh
tráng nướng, các món chiên xào các loại cá đồng, cá sông nhưng tuyệt nhất vẫn
là món “ ngự long tụ lầu “ chế bằng thịt rắn và chuột đồng, bằm nát vò viên đem
nướng trên lửa than đỏ, lai rai với đế Gò Đen, chờ đón giao thừa, giữa cảnh trời
nước mênh mông thì tuyệt diệu .
- Tết nơi miền biên địa Hà Tiên:
Hà Tiên là
vùng đất xưa nhất của Nam phần, cõi biên đình giữa Việt Nam và Cao Miên, giang
sơn của dòng họ Mạc trong thế kỷ XVIII trước khi trở thành một tỉnh của nước
ta, nơi pha trộn 4 dòng máu Việt, Hoa, Miên, Chàm những phong tục tập quán dân
tộc vẫn được thể hiện rõ ràng qua cổ tục Tết Nguyên Đán .
Như các nơi
khác trong nước, ngày Tết Nguyên Đán quan trọng nhất là lễ tiễn đưa táo quân về
trời, cúng đêm giao thừa, những ngày tết đầu năm và tảo mộ . Riêng lễ tiễn táo
quân về trời có sự khác biệt với các nơi khác trong nước dù thời gian tiễn táo
quân vẫn là đêm 23 tháng chạp .
Khắp Việt
Nam, nhà nhà thờ táo quân tại nhà bếp nhưng đặc biệt tại Hà Tiên, táo quân được
phụng thờ rất trang trọng, ngay phía sau bức bình phong ngăn nhà trước và nhà
giữa, ngó ra bếp . Bàn thờ táo quân được treo trên cao, có đủ lư hương, bình
hoa và hai câu chữ Hán để thờ Táo quân, viết trên giấy hờn đơn có kim óng ánh:
Công
binh hữu đức năng tư hóa,
Chính
trực vô tư khả đạt thiên
Trong
nghi lễ cúng tiễn táo quân, ở Hà Tiên cũng khác biệt, Ngoài hương, hoa, đèn, quả
còn cúng thêm món cổ truyền “ mì sợi nấu đường “ có nêm thêm nước gừng dã.
Ngoài ra người Hà Tiên còn có tục bán con nít cho táo quân và trả lễ vào những
năm đứa trẻ lên 3, 7 tuổi cho tới năm 10 tuổi mới xin chuộc con về . Tục này chỉ
dành cho con trai và chỉ có người Việt gốc Hoa mới theo, đây cũng là quan niệm
trọng nam khinh nữ có từ lâu đời của người Tầu
4- Tết của người Việt
ở Hải ngoại:
Trên
thế giới, người Việt là dân tộc duy nhất cam phận sống nghèo cực trên mảnh đất
quê hương, ngoại trừ các trường hợp quá sức chịu đựng vì kẻ cai trị độc tài, độc
ác vô nhân đạo nên họ phải gạt lệ bỏ nơi chôn nhau cắt rún để tìm sinh lộ, đó
là trường hợp của những Việt kiều sống trên đất Cao Mên trước 1975 do nạn chém
giết vì cấm đạo, bị thực dân Pháp dụ dỗ vào làm tại các đồn điền và những người
trốn tránh vì liên can tới chính trị. Ngoài ra hiện nay có khoảng 2 triệu người
Việt tỵ nạn Cộng sản khắp nơi trên thế giới, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là cộng đồng
Việt tỵ nạn tại Pháp và Mỹ. Hàng năm, cứ đến Tết Nguyên Đán, người Việt xa quê
hương lại tạo dịp gặp nhau để cùng ôn cố tri tân và hứa hẹn một ngày về khi đất
nước đã được quang phục, ngày đó sẽ là một tết vĩ đại nhất của đời người Việt
Nam hiện tại. Tóm lại dù sống ở đâu, người Việt vẫn cố gắng tổ chức tết cổ
truyền của dân tộc mình để hồi tưởng lại những ngày còn sống thanh bình vui vẻ
nơi quê hương khi Cộng sản Hà Nội chưa cưỡng chiếm Miền Nam vào ngày 30-4-75.
- Tết Việt trên đất Miên:
Người Việt bắt đầu đến lập nghiệp
trên đất Miên từ thời Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên và tính đến tháng 4/ 75 có
khoảng 200.000 người, đa số tập trung tại Nam Vang, Battam Bang, Kompong Cham,
Kampot, Svey Rieng, Biển Hồ và các đồn điền cao su của thực dân Pháp.
Tại Miên, người Việt hưởng hai
cái tết: Dương lịch và Âm lịch dù theo bất cứ tôn giáo nào nhưng vui vẻ hơn vẫn
là Tết Nguyên Đán cổ truyền của Việt Nam. Trong dịp này, các trường học có
đông đảo học sinh Việt Nam đều được nghỉ phép tết từ 23 tháng chạp, tức là ngày
đưa táo quân về trời cho tới ngày mùng 5 tết. Trước 1975, tại Nam Vang ching’
phủ Miên dành cho Việt và Hoa Kiều hai ngôi Chợ Lớn và Chợ Boong để nhóm các
phiên chợ tết. Chợ buôn bán kiểu Việt Nam, được mở cửa suốt ngày đêm từ 28
tháng chạp tới cuối năm, bán đủ các món hàng dành cho ngày tết như các loại mứt,
bánh chưng, bánh dầy, dưa hấu v. v... cùng các loại hoa quen thuộc dùng trong
ngày tết Việt Nam như vạn thọ, trường sanh, huệ, mồng gà, cúc v.v
Riêng về mai, món hoa quốc hồn
của dân Việt miền Trung- Nam thì không có bán tại hai chợ trên nên đồng bào Việt,
trong những ngày sắp tết rủ nhau về Kampong Spen để chặt mai, nơi đây cách Nam
Vang chừng 40 Km.
Người Việt tại Miên thường
chung nhau làm Heo, nấu bánh tét vào những ngày sắp tết. Tất cả mọi thứ đều
chuẩn bị trước lúc đón giao thừa.
Đêm trừ tịch trên đất khách
thôi là buồn vì chỉ có người Việt tha hương mới ăn tết Việt . Họ cũng đốt pháo
vào giờ giao thừa để Làm lễ tống cựu nghinh tân và tiếng pháo tết của những kẻ
xa xứ thường được nối tiếp từ khu này đến làng nọ, nơi có người Việt cư ngụ,
kéo dài đến vài tiếng đồng hồ.
- Tết Việt trên đất Pháp:
Tết Việt thường đến sau lễ
Giáng Sinh và tết Dương Lịch cộng thêm cuộc sống máy móc và chạy gạo nơi xứ người,
hơn nữa người Việt sống lẻ loi, riêng rẽ không tập trung như người Hoa nên tết
Việt trên khắp đất Pháp thật lạt lẽo dù người Việt tha hương đã cố gắng vào
hàng năm có tổ chức tết cổ truyền của dân tộc mình.
Để mua sắm tết, những
ngày cuối tháng chạp, người Việt rủ nhau xuống chợ Tàu, nằm quanh quẩn theo các
đại lộ Ivry, Choisy hoặc khu Belle Ville để mua sắm tết. Không khí tại đây từa
tựa vùng Chợ Lớn, với các trò múa lân của các bang hội người Tầu và sự trang
hoàng lòe loẹt trong cá cửa hiệu chạp phô Hoa Kiều, làm cho người Việt ly hương
phần nào đỡ nhớ nhà và náo nức trước thềm năm mới. Họ lo mua sắm mọi thứ kể cả
bánh chưng, bánh dầy, giò, chả, mức, cốm, dưa hành, củ kiệu v. v... để chuẩn bị
làm cỗ cúng kiến tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhân tiện thết đãi bạn bè.
Cũng trong khu vực này, hầu
như thứ gì cũng có, từ lịch Việt loại treo tường cho đến trà, hoa từ thủy tiên
(Tàu) hoa đào (VN) cho tới các loại hoa cúc, mai tại địa phương. Riêng trà
thì đủ các loại ngon nổi tiếng của Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ và Tích Lan nhưng người
Việt vẫn quen dùng trà Việt, nhất là các loại trà danh tiếng của Miền Nam Việt
Nam tại Bảo Lộc, Ban mê Thuột ...
- Tết Việt trên đất Mỹ:
Không giống như những nơi
khác trên thế giới, người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ sống tề tựu đông đúc tại các
thành phố lớn trong các Tiểu bang, Hoa Thịnh Đốn, Texas, Hạ Uy Di và nhất là
California.
Từ bao năm qua khi có
phong trào rầm rộ của người Việt vượt biên, vượt biển, đoàn tụ, con lai, HO thì
đa số người Việt rủ nhau về miền đất ấm California để tạm dung, lập nghiệp và
năm nào cũng như năm nào thủ đô Việt tỵ nạn San Jose và Tiểu Sài Gòn đều thi
nhau tổ chức chợ tết Việt Nam để đồng bào khắp nơi có dịp về ăn tết, vui tết và
nghe chửi vì:
Vừa
đến đây, xuân đã vỡ tan,
ta
ngồi nhìn bữa tiệc liên hoan
Giữa
rừng xuân vắng nghe dìu dặt
Tiếng
vọng mùa xuân nét võ vàng ...
Có sống tha
hương mới thấm thía được cuộc đời ăn nhờ ở đậu của kẻ mất quê hương. Có làm
thân lữ thứ mới thấy não lòng trong những giờ phút đoàn tụ, trong buổi xuân về,
nhất là những lúc tình cờ nhìn những cánh hoa cúc đủ màu đang rực rỡ bên thềm gió,
chen lẫn những nụ hoa đào, hoa mai đang ngạo nghễ trước gió đông hoặc vang vọng
từ đâu đó trên bầu trời mênh mông, từng tiếng chim hải âu gọi đàn trở về lối
xưa sau những ngày trốn rét khiến lòng ta cũng bồn chồn náo nức trong buổi xuân
về.
Ngày xưa, thời tuổi
nhỏ, sống nghèo cực nơi xóm nhỏ nhưng mỗi lần nhìn hoa vông vang đỏ rực trời,
và đàn chim sếu từ hải đảo bay khắp trời Phan Thiết lại nôn nóng chờ chực mẹ hiền
dẫn đi sắm tết. Rồi những ngày chinh chiến, những năm tháng dài sống lưu vong,
năm nào cũng như năm nào đều hy vọng là năm cuối cùng trong cuộc đời xa xứ, sẽ
được trở lại quê nhà để cùng mẹ già ăn một cái tết rực rỡ, vĩ đại nhất trong đời
nhưng than ôi xuân nào cũng là xuân ly hương, tết nào cũng là tết biệt xứ và
quê hương Việt Nam gần trong gang tấc nhưng vẫn mãi xa tít muôn trùng:
Xuân
về trên đất khách,
Ta
ngồi đón mông lung
Hắt
hiu đêm trừ tịch
Một
mình uống rượu suông ...
Để rồi:
Soi
gương chợt thấy lạ
Sau
một đêm đợi chờ!.
Tháng 1-2014
Mường Giang
Nguồn: Vietbao.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét