Nguyễn Du không dịch “Kim Vân Kiều truyện”
của Thanh Tâm Tài Nhân ra tiếng Việt
Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài
Nhân viết vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã
mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là
bình thường, nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu.
Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc
đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las
Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le
Cid rất nổi tiếng…
Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân
Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến
khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn
Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm 1925, Tân Dân tái bản
năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện
Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng tái bản năm 1994 và NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của Tô Nam Nguyễn
Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản năm
1971. Gần đây có Tình sử Vương Thúy Kiều (Phong Tình Cổ Lục) do
Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện Kiều đối
chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải Phòng tái bản
năm 1999…
GIÁ TRỊ “TRUYỆN KIỀU” HƠN HẲN
“KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
“KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
Tuy mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện nhưng cách cải
biên kỳ diệu của Nguyễn Du đã biến câu chữ tầm thường trở nên tác phẩm kiệt xuất,
được mọi người yêu thích lại được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Nếu xét diễn biến của 2 truyện: từ khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng… trải qua 15 năm
lưu lạc cho đến ngày Kim-Kiều tái hợp… cả gia đình Vương Viên ngoại hạnh phúc đề
huề, Kim Trọng, Vương Quan đỗ đạt, vinh hiển v.v… là tương tự nhau, song sức
sáng tạo của Nguyễn Du rất lớn: nhiều tình tiết rườm rà, dung tục đã được lược
bỏ, lại thêm vào nhiều đoạn kể chuyện, tả cảnh, tả tình ý vị khiến cho truyện
trở nên cân đối, hợp lí. Đặc biệt nhất là tính cách của từng nhân vật trong Truyện
Kiều khác nhiều so với Kim Vân Kiều truyện.
Xin trích sau đây làm ví dụ một trường hợp thể hiện sự chênh lệch
khá rõ nét về trình độ của 2 tác phẩm: đoạn Thúy Kiều báo oán:
“… Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao? "
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi, thịt nát, tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương!
Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi…”
* Xử Hoạn Thư:
“…Hoạn thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Khen cho: thật đã nên rằng:
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”
Xem đoạn thơ trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du tả cảnh
báo oán khá nhẹ nhàng ở trên rồi đối chiếu với đoạn văn xuôi rườm rà và ghê rợn
sau đây do Thanh Tâm tài nhân kể trong Kim Vân Kiều truyện của Trung
Quốc:
“…Một tiếng trống vang lên, một người cầm cờ lam gọi tên từng phạm
nhân. Biện Báo (1) dẫn Hoạn thị, Kế thị (2), Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển,
Bạc bà vào, tháo gông xiềng cho quỳ dưới sân.
Phu nhân nói: Bạc bà đẩy người xuống giếng, Bạc Hạnh bán người
lương thiện vào nhà xướng ca. Nay theo đúng lời thề trước của Bạc Hạnh, lấy dao
vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn, còn Bạc bà thì đem chặt đầu bêu lên cây. Đao
phủ nghe lệnh dạ ran một tiếng, tức thì lôi Bạc bà ra chặt đầu, còn Bạc Hạnh
thì dùng chiếu cỏ bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người
giữ, một người cầm dao (3), chặt từ chân lên đầu thành hơn trăm đoạn. Ghê
thay một con người mới đó mà trong giây lát biến thành một đống thịt như bùn,
người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong,
phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn.
Kế đó, gọi đến Hoạn thị. Hoạn thị run rẩy, kêu xin phu nhân tha mạng.
Phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà ngươi có nhiều kế sách và cũng thật
nhẫn nại, ngươi lại thích lấy điều ác làm vui. Vậy nhưng phàm việc gì cũng nên
chừa lại một lối, để về sau có thể vui khi gặp lại. Nay gặp nhau đây, nhất định
ngươi chẳng sống được nữa rồi.
Hoạn thị khấu đầu lia lịa thưa rằng: Phu nhân! tiện thiếp thật đáng
muôn chết, chỉ xin phu nhân niệm tình cho ngày trước lúc viết tờ cung trạng,
lúc chép kinh… rồi khi phu nhân bỏ đi, thiếp cũng chẳng hề tra xét. Thiếp không
phải không tôn kính phu nhân mà chẳng qua vì thế buộc chẳng thể đứng chung, cắt
đôi tình yêu chia lòng sủng ái mà xui nên tội lỗi oan gia, xin phu nhân nghĩ lại
mà rộng lòng lượng thứ cho.
Vương phu nhân cúi đầu hồi lâu rồi nói: Thực ta chỉ muốn ăn thịt, lột
da ngươi, để tiêu mối hận hai năm trước. Nhưng giờ đây, sở dĩ cho ngươi được khỏi
tội chết là nhờ lúc ta bỏ đi, ngươi chẳng đuổi theo, có ý mở lồng thả cho chim
bay đi, nhưng còn tội sống thì ngươi chẳng thể thoát được đâu. Hoạn thị thưa:
Thiếp xin nhận tội, chỉ xin Phu nhân phát lạc nhẹ cho. Phu nhân hỏi: Ngày
trước, lúc bắt ta ở Lâm Tri, thuộc hạ của ngươi là những tên nào? Hãy nói ta
nghe, tội ngươi sẽ nhẹ bớt đi.
Hoạn thị thưa: Những kẻ thi hành mưu kế tuy là Hoạn Khuyển, Hoạn
Ưng, nhưng người ra lệnh lại chính là tiện thiếp. Quân vâng lệnh tướng mà làm.
Thật là tội của thiếp; bọn chúng chẳng qua chỉ biết y lệnh mà thôi. Nếu đem
chúng ra gánh tội thay thì thiếp chẳng yên lòng.
Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là kẻ dám nhận cả phần oan cừu
vào mình đó chăng? Bèn gọi đao phủ đem bọn Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển ra chém bêu đầu
để răn bọn hào nô nhà họ Hoạn. Đao phủ dạ ran, lôi tuột hai tên ra chém đầu; chỉ
trong khoảnh khắc đã dâng lên hai đầu lâu đẫm máu.
Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính
nhất tề ra tay. Hoạn thị ôm chầm lấy mẹ xin chịu thay hình phạt.
Phu nhân nói: Tội ngươi ta sẽ tính, còn 30 roi này là của mụ ta, chẳng
thể tha được.
Mụ quản gia thấy vậy cũng vội quỳ xuống xin chịu đòn thay cho
chủ mẫu.
Phu nhân nói: Thôi thì ta nể lời, tha chết cho thị, hãy nhận lấy
mà đem đi.
Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài doanh trại. Kế thị năm ấy
tuổi đã sáu mươi, thân là nhất phẩm phu nhân, chưa từng chịu cảnh gió sương nhọc
nhằn mà nay bị bắt giải từ huyện Vô Tích đến, khổ sở vô cùng, lại thấy ba quân
giết người như rạ, tuổi đã già lại sợ mất mật, tức thì lăn ra chết. Mụ quản gia
đành ngồi ngoài cửa dinh để trông nom thi thể.
Vương phu nhân thấy mụ quản gia lãnh Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh
cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh một trăm trượng.
Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ chừa
lại một cái khố, tóc buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để
lôi giăng ra, trước và sau có hai cung nữ khác cầm roi ngựa đồng loạt ra tay, một
người đánh từ trên đánh xuống, một người đánh từ dưới đánh lên, đánh như con chạch
rơi trên đống tro, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời.
Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ một trăm
roi, phu nhân truyền lệnh đem Hoạn thị ra giao cho Thúc Sinh. Quân sĩ dạ
ran. Cởi tóc Hoạn Thư mang xuống thì đã nửa sống nửa chết, mang ra ngoài cho Thúc
Sinh nhận lãnh. Thúc Sinh luôn miệng tạ ơn, nhìn đến Hoạn Thư thấy chỉ còn thoi
thóp thì than rằng: Nàng ôi, chỉ vì thủ đoạn, phương pháp lớn lao của nàng mà
nàng mà phải tự cầm dao cắt thịt của mình… Rồi bèn gọi hai tớ gái là Xuân Hoa ,
Thu Nguyệt vào đỡ lấy Hoạn Thư. Thúc Sinh quay vào dinh tạ tội Phu nhân rồi ra
ngoài một mặt thu nhặt thi thể Kế thị, một mặt mang Hoạn Thư về nhà chạy chữa đến
nửa năm trời mới khỏi. Kế đó Sử Chiêu giải bọn Mã Bất Tiến (Mã Giám
sinh), Mụ Tú, Sở Khanh vào dinh.
Phu nhân hỏi: Mụ Tú, mi có nhận được ta là ai không?
Mụ Tú đáp: Thưa bà, con hát hèn mọn này không nhận ra!
Phu nhân thét bảo: Mi hãy ngẩng đầu lên nhìn xem ta là ai?
Quân sĩ nạt lớn một tiếng, túm tóc mụ kéo lật về phía sau. Bấy giờ
mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn miệng kêu rằng: Tội của kẻ hèn này
thật đáng muôn lần chết chém. Chỉ xin phu nhân thương cho phần nào.
Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn mơ tưởng đến sự sống sao? Lời
thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan thế nào được? Bèn lệnh cho
quân sĩ, lôi mụ Tú ra, lấy dầu bách tưới đẫm vào người, rồi dựng ngược
cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, như ngọn đèn trời để làm tròn lời thề
ngày trước. Còn tên Mã Bất Tiến thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho thẳng căng ra,
rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để ứng lời thề của nó. Lại nấu
một nồi tùng hương trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và lấy chum nước lớn để
bên, đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc dầu tùng hương đun sôi
tưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo.Quân sĩ được lệnh lôi
ba phạm nhân ra ngoài. Trong chốc lát, mụ Tú đã cuốn thành một cây sáp lớn,
phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Bất Tiến thì bị căng xác. Sở Khanh hóa thành một
thỏi sắt nguội.
Đoạn rồi phu nhân hô to: “Đốt sáp”, quân sĩ đứng lên cao châm lửa
vào chân mụ Tú. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng:
Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng hủy hoại da thịt người khác? Mụ
Tú chết ngất, không trả lời được nữa.
Kế đến Phu nhân hạ lệnh rút gân, xẻ thịt Mã Bất Tiến, lại lệnh cho
quân sĩ lột da Sở Khanh.
Nghe lệnh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi
dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh một cái. Mã Bất Tiến lập tức
chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm cho thi thể Bất Tiến rời ra
từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng xác ra biển cho cá ăn để đền tội bạc tình.
Còn Sở Khanh bị tẩm dầu tùng hương và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn
còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy đến bóc miếng vỏ gai
nơi đầu ra, thì da đã bị dầu tùng ăn loét ra, chẳng cần dùng đao kiếm, chỉ tuốt
một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục
máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức
thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái bọt lớn. Chỉ trong chốc lát đã rữa nát
thành mủ máu, rớt thịt trơ xương mà chết...”(4) .
Người đọc nhận ra hai truyện khác xa nhau về tài năng xây dựng tính
cách, tâm lí nhân vật, nghệ thuật biểu cảm, miêu tả, tự sự…đồng thời khác xa
nhau về ý nghĩa, về tính người trong ứng xử.
Khác hẳn Truyện Kiều của Nguyễn Du, đọc Kim Vân Kiều
truyện của Tàu, người đọc mất hết cả cảm hứng với một nàng Kiều tài sắc…
mà dã man. Đâu đây thấp thoáng hình bóng những mỹ nhân diễm lệ mà vô cùng tàn
ác trong sử sách Trung Quốc: Lã Hậu, Lệ Cơ, Triệu Phi Yến, Võ Tắc Thiên, Vạn
Trân Nhi…
Kim Vân Kiều truyện mang tính cách luận đề với dấu ấn của tư
tưởng Phật giáo: từ việc bố trí các nhân vật, sắp xếp diễn biến, tình tiết, kết
cấu truyện… đều hướng vào mục đích nhằm chứng minh cho đề thuyết: ác giả-ác
báo: hễ gieo nhân xấu thì gặt quả dữ; nghiệp quả chồng chất sẽ phải trả… và trả
khi nào cho hết nghiệp chướng thì mới mong hưởng phúc nhờ vào nhân tốt đã
gieo…Vậy mà ở hồi 18, Kim Vân Kiều truyện lại mô tả một nàng Kiều tàn
ác đến man rợ. Rõ là Thanh Tâm tài nhân đã rơi vào mâu thuẫn nội tại - bởi làm
sao hợp lý được khi đến hồi cuối cùng lại bố trí cảnh đoàn viên cho Thúy Kiều,
một quả phúc không dành cho kẻ dữ.
Sự mâu thuẫn, bất hợp lý này là điểm kém của Kim Vân Kiều truyện. Chỗ
này Nguyễn Du đã cải biên, hóa giải chốt mâu thuẫn thật kì diệu bằng cách để Kiều tha
bổng Hoạn Thư.
Trong thơ Nguyễn Du, Kiều tùng phục lẽ phải, không vì
tình riêng mà bỏ qua chân lý. Tính cách nhân vật lại hoàn toàn nhất quán, hiện
rõ là người hiền lành lương thiện mà bị vùi dập đáng thương…
Quả là tài năng nghệ thuật Nguyễn Du đáng là bậc thầy của Thanh Tâm
tài nhân.
QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO SƯ TRUNG QUỐC ĐỔNG VĂN THÀNH
ĐÁNH GIÁ THẤP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU LÀ KHÔNG KHÁCH
QUAN
Sau khi đọc được Kim Vân Kiều truyện của nước mình tại
thư viện Đại Liên năm 1981, GS. Đổng Văn Thành liền viết bài chiêu tuyết
cho Kim Vân Kiều truyện, in trong Minh Thanh Tiểu Thuyết Giám
Thường từ điển (5). Tuy bài viết đã công nhận Truyện Kiều của
Nguyễn Du là tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới nhưng lại cho rằng Truyện
Kiều chẳng qua chỉ là dùng thể thơ lục bát của Việt Nam để dịch lại một cuốn
tiểu thuyết của Trung Quốc mà thôi.
MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG TỪ ĐIỂN
Hà Mãn Tử - Lý Thời Nhân
Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992
Tương tự như trên, trong bài “So sánh truyện Kim Vân Kiều Trung
Quốc và Việt Nam” trên “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng” GS. Thành cũng cho
rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà
dường như bê nguyên xi […] Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới
nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm tài
nhân...” (6)
Bài viết này nhắc lại lời khen - cho rằng là của Kim Thánh Thán - đối
với Kim Vân Kiều truyện: “…chữ nào cũng là đá ngũ sắc vá trời cả,
công của tác giả chẳng hề kém Nữ Oa” (7). Đánh giá ghê gớm như
thế khiến người đọc tưởng chừng như truyện này ngang tầm với Hồng Lâu Mộng.
Vậy là một mặt GS. Thành khen ngợi Kim Vân Kiều truyện nước
mình đến tột cùng, một mặt hết lời chê bai Truyện Kiều Nôm của Nguyễn
Du, cho Nguyễn Du là người của giai cấp quan lại Phong kiến nên cải biên nhiều
chỗ làm cho ý nghĩa của truyện bị lệch lạc, làm che lấp đi tính “đấu
tranh giai cấp”…
Chẳng hạn so sánh cảnh báo ân báo oán của Thúy Kiều giữa hai truyện, GS. Thành cho rằng cảnh được tả trong Kim Vân Kiều truyện tuy có hơi tàn khốc nhưng thể hiện hành vi chính nghĩa của người nô lệ phản kháng, còn trong Truyện Kiều: nội dung đấu tranh giai cấp sống động này đã bị ngòi bút Nguyễn Du làm biến dạng, Nguyễn Du đã nhẹ nhàng bỏ qua không cho Thúy Kiều bắt mẹ Hoạn Thư đồng thời lại khoan dung, tha bổng Hoạn Thư… và sở dĩ cải biên như thế là có sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Nguyễn Du đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình…
Chẳng hạn so sánh cảnh báo ân báo oán của Thúy Kiều giữa hai truyện, GS. Thành cho rằng cảnh được tả trong Kim Vân Kiều truyện tuy có hơi tàn khốc nhưng thể hiện hành vi chính nghĩa của người nô lệ phản kháng, còn trong Truyện Kiều: nội dung đấu tranh giai cấp sống động này đã bị ngòi bút Nguyễn Du làm biến dạng, Nguyễn Du đã nhẹ nhàng bỏ qua không cho Thúy Kiều bắt mẹ Hoạn Thư đồng thời lại khoan dung, tha bổng Hoạn Thư… và sở dĩ cải biên như thế là có sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Nguyễn Du đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình…
Bài viết dài nhưng xem ra là chủ quan, một là do GS. Thành không biết
tiếng Việt, phải đọc Truyện Kiều qua bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu -
bản dịch mà dịch giả chỉ mới dám coi là “bản dịch sơ bộ” - Quả vậy, gần đây PGS
Phạm Tú Châu đã có xem xét đánh giá bản dịch này, kê ra rất nhiều chỗ GS. Hoàng
Dật Cầu dịch sai Truyện Kiều của Nguyễn Du(8) và cũng vì thế, những
đoạn trích Kiều được Đổng Văn Thành mượn của GS. Hoàng Dật Cầu dùng
làm dẫn chứng chỉ là những đoạn văn vần thô cứng, chẳng còn đâu cái duyên dáng
mượt mà của thơ Nôm tiếng Việt; hai là GS. Thành chỉ nghĩ chuyện giai cấp mà
quên mất tính người, khác hẳn với Nguyễn Du.
Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu trong “Một số nhận
xét về Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân thanh” đăng trên tạp chí Sông
Hương số 2, 1994 đã tính toán tỉ mỉ: Kim Vân Kiều truyện có tổng
số 214 trang. Nguyễn Du đã lược bỏ 142 trang, chỉ dựa vào 72 trang để viết nên
1.313 câu trong tổng số 3.254 câu của Đoạn trường tân thanh. Vậy 1.941 câu
còn lại là do Nguyễn Du viết.
Trong bài viết gần đây nhất, PGS. Nguyễn Khắc Phi cũng viết trên
Trang điện tử Hội Nhà văn Việt Nam: “…trên thực tế, Đổng Văn Thành đã
coi Truyện Kiều của Nguyễn Du là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân. Tai hại hơn nữa, do không biết tiếng Việt, để đánh giá “bản
dịch” của Nguyễn Du, để so sánh “bản dịch” ấy với nguyên tác, Đổng tiên sinh lại
hoàn toàn căn cứ vào “bản dịch lại” Truyện Kiều của Nguyễn Du ra Trung văn hiện
đại của GS Hoàng Dật Cầu, một bản dịch mà với tất cả tâm huyết, công phu, Hoàng
giáo sư cũng chỉ mới dám coi là “bản dịch sơ bộ” và tự đánh giá là “còn những
chỗ cực vi diệu, khúc chiết của nguyên thi đương nhiên chưa có khả năng thực hiện
việc truyền đạt như thật được” (9).
Á Phi Văn Học Tùng Thư KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra chữ Hán.
GS. Hoàng Dật Cầu - Nhân Dân Văn Học xuất bản xã xuất
bản năm 1959.
Thật vậy, một điều hiển nhiên là khó có người Trung Quốc nào thông
thạo tiếng Việt đến mức có thể thưởng thức được cái vi diệu, độc đáo của câu chữ
Việt trong thơ Nôm Nguyễn Du - nên nếu họ có cho rằng Truyện Kiều chẳng
qua chỉ là truyện dịch tiểu thuyết Tàu ra tiếng Việt thì cũng là điều dễ hiểu bởi
vì để cảm nhận đầy đủ ý vị một tác phẩm văn học của một dân tộc thì ngoài việc
thông thạo tiếng nói, chữ viết, người đọc còn phải thấm được nền văn hóa dân tộc
ấy như máu thịt. Đổng Văn Thành phê phán gay gắt Truyện Kiều Nôm nhưng
lại là người Trung Quốc không biết tiếng Việt thì các phê phán này chưa hẳn
đúng, bởi chưa hiểu được nghệ thuật, ý nghĩa của từng câu, chữ thì sao có thể
phê bình cả tác phẩm? Đến đây ta có thể phủ nhận ý kiến của Đổng Văn Thành và
khẳng định: Nguyễn Du không dịch Kim Vân Kiều truyện ra tiếng Việt
mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt.
CHÚ THÍCH:
(1) Biện Báo 卞豹: một bộ tướng của của Từ Hải. Các bản dịch quốc ngữ của ta trước đây
đã đọc nhầm thành “Hạ Báo” vì hai chữ “biện” 卞 và “hạ” 下chỉ hơn kém nhau một chấm
nhỏ ở trên.
(2) Kế thị: mẹ của Hoạn Thư (Hoạn phu nhân) là vợ
của Thiên quan Lại bộ.
Sau khi bị bỏ thuốc mê bắt về nhà mẹ Hoạn Thư, Kiều đã bị Kế
thị cho a hoàn đánh đập tàn nhẫn. Truyện Kiều của Nguyễn Du tuy
có tả việc Hoạn phu nhân trừng phạt Kiều nhưng lại không kể
tên và kể việc Kế thị bị trừng trị trong hồi báo ân oán.
(3) Nguyên tác viết: 一人舉剉 Nhất nhân cử tỏa (Một người cầm “tỏa”). “tỏa” 剉 là một loại dao dùng cắt cỏ
chứ không phải là “cưa” như một số dịch giả trước đây đã dịch.
(4) Trích dịch từ Thanh tâm tài nhân, Kim Vân Kiều truyện, hồi
thứ 18: “Vương Thúy Kiều kiếm tru vô nghĩa hán; Từ Minh Sơn kim tặng hữu ân
nhân” (開放文學, 金雲翹傳 Khai phóng văn học; Kim Vân Kiều truyện -
http://open-lit.com).
(5) MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG TỪ ĐIỂN; Hà Mãn Tử - Lý Thời
Nhân, Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992
(6) Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc
và Việt Nam”; 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội 2005.
(7)Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc qua cái nhìn văn học so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 - 189.
(8) Phạm Tú Châu; “Sóng gió bất kỳ từ một bản dịch”; Tạp chí Văn
học nước ngoài, số 5, 1997.
(9) GS-TS. Nguyễn Khắc Phi; Truyện Kiều - một tác phẩm Việt Nam.
Nguồn: Kiến thức ngày nay số 762, ngày 10/ 10/ 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét