Âm nhạc cổ điển phương Tây
qua các thời kỳ
qua các thời kỳ
Âm nhạc đầu thời kỳ Trung cổ
Ở thời Trung cổ, hầu hết các nhạc sĩ chuyên nghiệp đều được
nhà thờ Cơ đốc giáo tuyển dụng. Vì đối lập với ngoại giáo liên quan đến Hy Lạp
và La Mã cổ đại nên nhà thờ không khuyến khích việc biểu diễn âm nhạc Hy Lạp và
La Mã. Hậu quả là loại âm nhạc này bị tàn lụi.
Người ta biết rất ít về thể loại thánh ca không nhạc đệm được
sử dụng trong những nghi lễ nhà thờ thời kỳ đầu. Tuy nhiên thể loại thánh ca Cơ
đốc giáo xuất hiện được bắt nguồn từ âm nhạc lễ nghi của đạo Do Thái và những
giai điệu thế tục thời đó. Những giai điệu thánh ca phát triển ở Roma được sáng
tác và ấn định cho những trình tự cụ thể trong những nghi lễ nhà thờ trong thời
kỳ từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 7. Thánh ca La Mã được biết tới như thánh ca
Gregorian theo tên của Giáo hoàng Gregory, giáo hoàng Vĩ đại, người có thể đã
sáng tác một số giai điệu và là người tích cực khuyến khích các nhà thờ sử dụng
âm nhạc được lễ nghi hóa theo thứ tự. Vì Gregory và các giáo hoàng về sau ưa
thích thánh ca Gregorian hơn những thể loại khác đã phát triển ở châu Âu, thánh
ca Gregorian cuối cùng đã thế chỗ cho hầu hết những thể loại khác. Phong cách
thánh ca Gregorian và các thể loại thánh ca khác được gìn giữ trong nhiều bản
thảo viết tay. Các ký hiệu âm nhạc được sử dụng trong những bản thảo viết tay
này thuộc hệ thống ký hiệu neumes , cội rễ sớm nhất của hệ thống ký hiệu âm nhạc
hiện đại.
Ít nhất cũng phải đến thế kỷ thứ 9 nhiều nhạc sĩ mới cảm thấy
sự cần thiết phải có một thứ âm nhạc phức tạp hơn kiểu giai điệu không nhạc đệm.
Họ bắt đầu thêm vào bè giọng hát được hát đồng thời với những đoạn của thánh
ca. Kết quả là sự ra đời của phong cách âm nhạc gọi là organium (hình thức âm
nhạc phức điệu sớm nhất). Trong phong cách organium thời kỳ đầu, bè giọng hát
được thêm vào chạy song song một cách đơn giản với giai điệu thánh ca nhưng được
hát trên đó một quãng tư hay quãng năm. Về sau bè thêm vào trở thành một giai
điệu đối âm độc lập. Organium có vị trí quan trọng trong lịch sử âm nhạc vì đó
là bước đầu tiên hướng tới sự phát triển của kết cấu âm nhạc được biết đến là
phức điệu (polyphony), việc sử dụng nó ở phạm vi rộng là đặc trưng nổi bật nhất
của âm nhạc phương Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 12, organium được viết theo ba hoặc bốn
bè giọng hát, hình thành những tác phẩm dài có thể choán đầy không gian rộng lớn
của những nhà thờ Gothic bằng âm lượng lớn. Những trung tâm phát triển chính của
organium là ở Pháp, tại Tu viện Saint Martial ở Limoges và tại Nhà thờ Đức Bà
Paris. Kỹ thuật organium kiểu Anh, gọi là gymel, đến giai đoạn này cũng đã phát
triển.
Để các nhạc sĩ có thể đọc và biểu diễn một số bè giọng hát
khác nhau một cách đồng thời, một hệ thống ký hiệu âm nhạc tỉ mỉ đã được phát
triển. Ký hiệu cao độ được giải quyết bằng việc sử dụng một khuông nhạc gồm 4,
5 dòng kẻ hoặc hơn thế, với mỗi dòng hay khoảng trống giữa chúng đại diện cho một
cao độ cụ thể, như là ký hiệu âm nhạc ngày nay. Sự hoàn hảo của hệ thống này là
nhờ ở tu sĩ Ý dòng Benedictine Guido d’Arezzo thế kỷ 11. Ký hiệu về nhịp thời
gian tỏ ra khó hơn. Giải pháp được rút ra trong thế kỷ 11 và 12 là dựa vào một
nhóm những mẫu hình nhịp điệu ngắn gọi là những kiểu nhịp. Mẫu hình hay kiểu nhịp
tương tự được lặp đi lặp lại cho đến khi nhà soạn nhạc chỉ ra bằng một ký hiệu
theo đó một kiểu nhịp khác thế chỗ nó. Nhờ việc sử dụng “ký hiệu cách thức” này
trong âm nhạc, một sự đa dạng các chương nhịp đạt được bằng cách sử dụng những
kiểu khác nhau một cách đồng thời trong các bè giọng khác nhau và bằng cách
thay đổi các kiểu trong tiến trình một tác phẩm. Đến cuối thế kỷ 13 người ta đã
bỏ kiểu ký hiệu cách thức và những ký hiệu đầu tiên của hệ thống những giá trị
nốt dài và ngắn hiện đại đã được đưa vào sử dụng.
Organum là một bước phát triển âm nhạc phức tạp ban đầu được
những giáo sĩ có trình độ trong nhà thờ Cơ đốc giáo khuyến khích và đánh giá
cao. Một truyền thống âm nhạc thế tục, đơn giản hơn trong cấu trúc, đã tồn tại
bên ngoài nhà thờ. Đây là thứ nhạc đơn âm của các nhạc sĩ lưu động, những người
hát rong và con cháu họ, những người hát rong Pháp và Đức.
Cả âm nhạc tôn giáo và thế tục đều sử dụng nhiều loại nhạc cụ,
gồm các đàn dây như lyre, psaltery và fiddle thời trung cổ, hoặc đàn viele. Các
nhạc cụ phím gồm cả organ. Các nhạc cụ gõ gồm cả trống nhỏ và chuông nhỏ.
Âm nhạc cuối thời kỳ Trung cổ
Một sự thay đổi lớn về phong cách xảy ra trong âm nhạc suốt đầu
thế kỷ 14. Phong cách mới được giáo sĩ cấp cao người Pháp Philippe de Vitry, một
trong những nhà soạn nhạc hàng đầu của thời kỳ này, gọi là ars nova (tiếng
Latin nghĩa là “nghệ thuật mới”). Kết quả là âm nhạc thời kỳ này phức tạp hơn mọi
tác phẩm được viết trước đó, phản ánh một tinh thần mới ở châu Âu làm nổi bật sự
tài tình và khéo léo của con người. De Vitry cũng tìm ra một hệ thống gồm cả những
kí hiệu về thời gian. Điều này cho phép các nhạc sĩ thế kỷ 14 đạt được một sự tự
do về nhịp điệu mới trong sáng tác của họ.
Những phức tạp mới mang một số hình thức. Nới rộng nguyên tắc
của những thể thức nhịp ngắn, các nhà soạn nhạc ars nova đã sử dụng những mẫu
hình nhịp gồm 12 nốt hoặc nhiều hơn mà chúng lặp đi lặp lại trong một hoặc nhiều
bè giọng của tác phẩm. Nguyên tắc mới được gọi là nhịp tương tự (isorhythm,
trong tiếng Hy Lạp iso nghĩa là “tương tự”). Các nhà soạn nhạc đã sử dụng một
bè giọng được sắp xếp tương tự về nhịp như nền tảng của các tác phẩm lớn và đan
kết những giai điệu lên đó để trình bày những ý đồ đa thanh phức tạp. Giọng nền
thường được tiếp quản từ một phần của thánh ca Gregorian. Giai điệu vay mượn
này được biết đến là cantus firmus (tiếng Latin nghĩa là “giai điệu cố định”. Thể
loại âm nhạc trong đó các nhà soạn nhạc sử dụng nguyên tắc nhịp tương tự với mức
độ lớn nhất là motet (tạm dịch là thánh ca ngắn). Một số motet, thêm vào sự phức
tạp về cấu trúc còn có một số lời ca được hát một cách đồng thời.
Điều phức tạp thứ hai của ars nova liên quan đến cấu trúc tổng
thể của âm nhạc được viết cho thể loại mass (thánh ca). Trước năm 1300, những
tác phẩm phức điệu đôi khi đã được viết thành những phần riêng rẽ của mass. Vào
thế kỉ 14, lần đầu tiên, cả năm phần cấu tạo nên một mass như thông lệ được xem
như một tổng thể hòa nhập. Người đầu tiên làm điều này là giáo sĩ, nhà thơ và
nhà soạn nhạc Pháp Guillaume de Machaut. Tuy nhiên tiền lệ của ông không được
đi theo cho đến tận thế kỉ tiếp đó.
Một đặc trưng nổi bật của ars nova là sự quan tâm hơn đến âm
nhạc thế tục. Lần đầu tiên những nhà soạn nhạc lớn đã viết cả nhạc thế tục và
nhạc tôn giáo. Những giai điệu không được phối hòa âm mà những người hát rong
thế kỷ 13 hát đã được các nhà soạn nhạc thế kỷ 14 phát triển thành những tác phẩm
ba giọng gọi là chanson (tiếng Pháp nghĩa là “bài ca”). Những mẫu hình lặp lại
dòng trong lời ca áp dụng cho những chanson này quyết định hình thức tổng thể của
âm nhạc. Các hình thức phối hợp thường được sử dụng nhất ở Pháp là rondeau,
virelai và ballade. Ở nước Ý madrigal, caccia và ballata là những kiểu được ưa
thích hơn. Nhà soạn nhạc Ý nổi bật nhất thời kỳ này là Francesco Landini.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
Nguồn: nhaccodien.vn
Nguồn: nhaccodien.vn
Chống lại những phức tạp của ars nova, hầu hết các nhà soạn
nhạc đầu thế kỷ 15 ưa thích phong cách âm nhạc đơn giản hơn với những giai điệu
chảy trôi êm ả, những hòa âm nghe êm tai hơn và ít nhấn mạnh vào đối âm hơn.
Nhà soạn nhạc Anh John Dunstable là người đầu tiên đẩy mạnh việc hướng tới một
phong cách đơn giản hơn. Những nét thanh nhã trong phong cách của ông sớm được
các nhà soạn nhạc khác ở lục địa châu Âu tiếp thu, đặc biệt là những người phục
vụ các công tước Bourgogne miền bắc nước Pháp. Những nhà soạn nhạc Bourgogne
này nổi tiếng bởi những chanson trong đó một bè giọng thể hiện giai điệu chính
và một hoặc hai bè khác đảm nhiệm vai trò phần đệm. Những người Bourgogne, đầu
tiên là Machaut, cũng phát triển thông lệ sáng tác mass với các phần như một tổng
thể hòa nhập. Kết quả là mass trở thành một thể loại bất hủ, về tầm vóc có thể
sánh với các giao hưởng thế kỷ 19. Các mass sử dụng một cantus
firmus (bè chính, bè cao nhất) thường được dựa trên những chanson hay những
giai điệu thế tục khác. Thực tế này phản ánh ảnh hưởng gia tăng của mối quan
tâm đến mảng thế tục trong thời Phục hưng.
Trong viết nhạc đối âm, những nhà soạn nhạc thời Phục
hưng dựa nhiều vào việc mô phỏng, sự trình bày liên tiếp, gần gụi về khoảng
cách trong một hay nhiều bè giọng có cùng ý đồ giai điệu. Kỹ thuật mô phỏng đã
được sử dụng từ cuối thế kỷ 14 nhưng trong thời Phục hưng nó đã trở thành một yếu
tố cấu trúc chính trong âm nhạc. Nếu một bè giọng bắt chước một bè giọng khác một
cách nhất quán trong một khoảng cách thời gian dài vừa phải, hai bè giọng sẽ
hình thành nên một canon(tạm dịch là “luân khúc”). Trong âm nhạc thời Phục
hưng, những cặp bè giọng chuyển dịch trong một canon suốt cả tác phẩm hay một
phần tác phẩm trong khi những mô phỏng ngắn hơn diễn ra trong những bè giọng
khác.
Nhà soạn nhạc nhiều tài nhất đầu thời Phục hưng là
Guillaume Dufay. Ông đã viết các motet có sự phức tạp gần với phong cách của
ars nova cũng như các chanson theo một kiểu mới hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhà soạn
nhạc nổi bật về thể loại chanson là Gilles Binchois.
Ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc Bourgogne đến giữa thế
kỷ 15 đã suy giảm. Từ khoảng năm 1450 đến khoảng 1550 hầu hết các chức vụ về âm
nhạc quan trọng ở châu Âu do những nhà soạn nhạc sinh vào thời đó ở Hà Lan, Bỉ
và những vùng của nước Pháp kề cận đó nắm giữ. Những nhà soạn nhạc này thường
được gọi là Người Hà Lan theo tên vùng đất quê hương họ.
Nói chung những Người Hà Lan ưa thích kiểu âm thanh đồng
nhất hơn, chẳng hạn như do một hợp xướng không nhạc đệm tạo ra. Kết cấu âm nhạc
chiếm ưu thế của họ là đối âm với mọi bè giọng có tầm quan trọng ngang bằng.
Các đặc trưng âm nhạc này tương phản với kiểu âm thanh Bourgogne điển hình,
trong đó mỗi bè giọng có mầu sắc riêng (chẳng hạn như một giọng solo được hai
nhạc cụ solo khác đệm cho) và trong đó một giọng sẽ trội hơn các giọng khác.
Những Người Hà Lan tiếp tục truyền thống Bourgogne về
sáng tác chanson, motet và mass. Mặc dù nhiều tác phẩm mass xuất sắc được sáng
tác vào cuối thế kỷ 15 và thế kỷ 16 nhưng thể loại mass khi đó không tạo ra một
sự thách thức như nó đã từng làm đối với những nhà soạn nhạc Bourgogne. Các kỹ
thuật cơ bản để thống nhất một bản mass toàn vẹn đã trở thành đặc tính chung của
mọi nhà soạn nhạc, lời ca của mass, vẫn luôn giữ nguyên, khơi gợi ít kiểu phổ
nhạc hơn. Phần lớn vì những lý do này, thể loại motet trở thành phương tiện biểu
lộ để thử nghiệm. Lời ca, rút ra từ mọi phần của Kinh Thánh cũng như từ các nguồn
khác, gợi ra cho các nhà soạn nhạc nhiều ý tưởng âm nhạc mang tính minh họa.
Chanson của thế kỷ 16 đã xa rời hẳn vẻ hấp dẫn đơn giản của các bài tình ca
Bourgogne. Chúng có xu hướng được đối âm tỉ mỉ hoặc là được rót đầy bằng các ngụ
ý âm nhạc dí dỏm ám chỉ tiếng gọi chim, tiếng rao của những người bán dạo ngoài
phố và tương tự thế. Những chanson của các nhà soạn nhạc người Paris Claudin de
Sermisy và Clément Janequin minh họa cho phong cách thứ hai.
Những Người Hà Lan hàng đầu là Johannes Okeghem, Jacob
Obrecht, Josquin Desprez và Orlando di Lasso. Trong số những nhạc sĩ Ý nổi bật
nhất cuối thời Phục hưng có Giovanni da Palestrina. Âm nhạc của ông điển hình
cho dòng phức điệu hợp xướng ngang bằng, điều là tiêu chuẩn chính của phong
cách âm nhạc Phục hưng. Những nhạc sĩ danh tiếng khác của thời kỳ này gồm cả
nghệ sĩ organ, nhà soạn nhạc người Anh William Byrd và nhà soạn nhạc người Tây
Ban Nha Tomás Luis de Victoria. Điều quan trọng đối với sự phát triển của âm nhạc
là sự phát triển của các kỹ thuật in ấn tác phẩm âm nhạc. Được một thợ in
Venice tên là Ottaviano dei Petrucci sáng chế ra lần đầu tiên, các kỹ thuật như
vậy mau chóng được đưa vào sử dụng ở Antwerp, Nürnberg, Paris và Rome.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
Nguồn: nhaccodien.vn
Thời kỳ tiền cổ điển và cổ điển (1730-1820)
Sự phản ứng lại phong cách Baroque này có những hình thức
khác nhau ở Pháp, Đức và Ý. Ở Pháp một trào lưu mới thường được gọi là rococo
hay style galant (tiếng Pháp có nghĩa là “phong cách nhã nhặn”), có đại diện là
nhà soạn nhạc người Pháp François Couperin. Phong cách này nhấn mạnh kết cấu
cùng một chủ điệu, nghĩa là giai điệu cùng với phần đệm có sự hài hòa âm thanh.
Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mỹ chẳng hạn như những tiếng rung
(trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời
Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những
đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây
ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh
phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn
Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều
suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.
Ở miền Bắc nước Đức, phong cách tiền cổ điển được gọi là
“Empfindsamer Stil” (tiếng Đức-nghĩa là “phong cách nhạy cảm”). Nó chứa đựng một
phạm vi những cảm xúc trái ngược rộng hơn hơn phong cách Galant-thường có xu hướng
tao nhã và vui vẻ một cách đơn thuần. Các nhà soạn người Đức luôn viết các tác
phẩm dài hơn so với các tác phẩm của người Pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật âm nhạc
thuần túy để thống nhất các tác phẩm của mình. Họ không dựa vào các hình tượng
phi âm nhạc như người Pháp đã làm. Người Đức, do vậy, đã đóng một vai trò quan
trọng trong sự phát triển của các hình thức trừu tượng, như hình thức sonata,
và trong sự phát triển của thể loại lớn như concerto, sonata và symphony.
Ở Italy, phong cách tiền cổ điển không có một cái tên dành
riêng cho nó, có lẽ bởi vì nó không cắt đứt một cách đột ngột với âm nhạc thời
ngay trước đó. Tuy nhiên các nhà soạn nhạc Italy cũng đã góp phần rất lớn cho sự
phát triển của các thể loại mới, đặc biệt là symphony. Opera overture của người
Ý thường được gọi là sinfonia, thường không có sự kết nối về âm nhạc hay tính kịch
với chính vở opera mà nó giới thiệu. Thỉnh thoảng các nhạc công Italy chơi các
Opera overture trong các buổi hoà nhạc và các nhà soạn nhạc rốt cuộc đã bắt đầu
viết các bản khí nhạc độc lập theo quy mô Overture. Quy mô này gồm 3 chương,
chương đầu và cuối với tốc độ nhanh và chương giữa với tốc độ chậm. Trong mỗi
chương sự phát triển của các ý tưởng âm nhạc thường theo một khuôn mẫu mà cuối
cùng phát triển thành hình thức sonata.
Các nhà soạn nhạc người Ý đã từng hình thành ý tưởng viết một
sinfonia khí nhạc độc lập, thế rồi Người Đức đã tiếp tục ý tưởng và áp dụng
tính khéo léo nhiều trí tuệ vào đó. Các trung tâm hoạt động chính của người Đức
là ở Berlin, Mannheim và Vienna. Như là kết quả của các hoạt động trên quy mô lớn,
các hình thức, thể loại và cách thức truyền đạt âm nhạc khác nhau đã được sinh
ra. Sự khác biệt phát sinh giữa phương tiện truyền đạt của âm nhạc thính phòng
(chamber music), trong đó mỗi nhạc cụ sẽ chơi phần của mình, và phương tiện
truyền đạt của âm nhạc giao hưởng (symphonic music), trong đó nhiều nhạc cụ
cùng chơi một phần. Trong phạm trù âm nhạc thính phòng các nhà soạn nhạc bắt đầu
phân biệt một số phương tiện truyền đạt như string quartet (tứ tấu đàn dây),
string trio (tam tấu đàn dây) và keyboard sonata (sonata đàn phím)với phần đệm
của violin. Với các thể loại cho dàn nhạc, các nhà soạn nhạc không chỉ viết các
symphony mà còn cả các concerto cho nhạc cụ solo cùng dàn nhạc.
Symphony, sonata, concerto và string quartet đều theo những đề
cương có hình thức tương tự. Chúng đều có ba hoặc bốn chương, một hoặc nhiều
hơn trong số các chương đó ở hình thức sonata. Được việc sử dụng khóa nhạc phức
tạp, đã phát triển đến cuối thời Baroque, tạo cho khả năng, hình thức sonata đã
hồi sinh vào giữa quãng thế kỷ 18 và khai thác được mạng lưới phức tạp các quan
hệ hoà âm giữa các âm và hợp âm riêng biệt trong cùng một điệu hay giữa các điệu
khác nhau. Hình thức sonata được dựa trên một chương rời bỏ rồi lại quay lại điệu
chính. Thêm vào đó là sự trình bày những chủ đề đối lập tại đầu mỗi chương và
phát triển một hay tất cả các chủ đề một cách công phu hay riêng rẽ về sau.
Giai đoạn phát triển đỉnh điểm của âm nhạc thế kỷ 18 là vào
cuối thế kỷ này khi một nhóm các nhà soạn nhạc được biết đến như “Trường phái cổ
điển Vienna”, mà nổi bật nhất có Joseph Haydn, Wolfgang Amadeus Mozart, Ludwig
van Beethoven.
Opera thế kỷ 18 cũng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Ngay tại
quê hương của opera là Italy, nó cũng đã mất đi rất nhiều đặc tính nguyên thủy như là một vở kịch với âm nhạc. Thay vào đó nó đã trở thành một loạt các aria
được viết cho các giọng ca tài năng thể hiện. Một số nhà soạn nhạc châu Âu lại
đưa vào các bản interlude và accompaniment khí nhạc như một yếu tố quan trọng.
Họ tiến hành sử dụng các hợp xướng lớn hơn và đưa ra nhiều phong cách và hình
thức aria hơn trước. Họ cũng cố gắng để phối hợp các nhóm recitative, aria,
duet, chorus và các phần khí nhạc vào các lớp lang thống nhất. Cải cách quan trọng
nhất là nhà soạn nhạc sinh ra ở Bavarian, Christoph Willibald Gluck, người mà
các opera có ảnh hưởng nhất được viết ở Vienna và Paris từ năm 1764 đến 1779.
Opera thời kỳ Cổ điển đạt tới đỉnh cao nhất trong các tác phẩm sân khấu của
Mozart, trong đó đó mọi khía cạnh của thanh nhạc lẫn khí nhạc đều góp phần vào
sự phát triển của cốt truyện và sự mô tả tính cách nhân vật.
Lê Thanh Huyền (nhaccodien.info) dịch
Nguồn: nhaccodien.vn
Vào cuối thế kỷ 16, khi tính phức điệu thời Phục hưng vẫn còn
đang thịnh hành, những tiến triển mới ở Ý đã bắt đầu làm thay đổi âm giọng và cấu
trúc của âm nhạc. Rất nhiều nhạc sĩ Ý không thích phong cách đối âm của những
Người Hà Lan. Mong ước được tranh đua với nền âm nhạc cổ điển điển hình của người
Hy Lạp, họ thích những cấu trúc ít phức tạp hơn, được biểu lộ bằng những sự
tương phản thường gây xúc động, chủ đề dễ hiểu và sự tác động lẫn nhau của các
giọng hát và nhạc cụ. Những yếu tố như thế trở nên đặc biệt nổi bật trong thể
loại opera, một thể loại lần đầu tiên được trình diễn ở Florence vào cuối thế kỷ
16 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio
Monteverdi. Những thể loại mới khác của thanh nhạc (vocal music) gồm cócantata
và oratorio.
Khí nhạc cũng ngày càng trở nên nổi bật trong suốt thế kỷ 17 này, thường ở hình thức một tác phẩm đối âm liên tục với sự phân chia không rõ ràng giữa các đoạn hoặc các chương, nó đã sinh ra những cái tên như ricercare, fantasia vàfancy. Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.
Khí nhạc cũng ngày càng trở nên nổi bật trong suốt thế kỷ 17 này, thường ở hình thức một tác phẩm đối âm liên tục với sự phân chia không rõ ràng giữa các đoạn hoặc các chương, nó đã sinh ra những cái tên như ricercare, fantasia vàfancy. Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.
Với sự gia tăng của các thể loại mới ở thế kỷ 17, một vài
khái niệm cơ bản về cấu trúc âm nhạc đã bị biến đổi, đặc biệt là ở Ý. Thay vì
viết những bản nhạc mà trong đó tất cả các giọng từ soprano tới bass tham gia một
cách bình đẳng vào hoạt động âm nhạc, các nhà soạn nhạc chỉ tập trung vào các
phần của soprano hay bass và đơn thuần lấp đầy những khoảng trống còn lại bằng
những hợp âm. Sự cách quãng chính xác của những hợp âm không quan trọng và các
nhà soạn nhạc thường cho phép người chơi đàn phím ứng biến chúng. Các thuật ngữ
như basso continuo và figured bass liên quan đến bè trầm và việc lấp đầy âm,
cái làm thành một bố cục được sử dụng tất cả các thể loại âm nhạc, đặc biệt là
các bài hát solo.
Một sự cách tân quan trọng khác của thế kỷ 17 đã biến phong
cách hay thay đổi của âm nhạc gần cuối thời phục hưng sang một phong cách đặc
trưng bởi các yếu tố nhiều tương phản, người ta biết đến nhiều cái tên khác
nhau như concertato,concertate và concerto, từ concertare (tiếng Latin nghĩa là
“sát cánh chiến đấu”). Những tương phản xuất hiện ở nhiều cấp độ âm nhạc, chẳng
hạn như các nhạc cụ tương phản hoặc mật độ tương phản của âm thanh, ví dụ như với
một nhạc cụ solo đối đáp cùng một nhóm nhạc cụ, những tỉ lệ tương phản của tốc
độ và những mức độ tương phản của âm lượng. Những đặc trưng tương phản này được
tạo nên để ganh đua hay luân phiên bằng một nhạc cụ khác nhằm tạo ra một phong
cách âm nhạc năng nổ và kích động, được áp dụng vào âm nhạc viết cho mọi loại
nhạc cụ cũng như cho giọng hát và được dùng cho mọi hình thức và thể loại.
Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18
này bao gồm: các nhạc sỹ người Ý Arcangelo Corelli, Alessandro Scarlatti,
Domenico Scarlatti và Antonio Vivaldi, các nhạc sỹ người Đức Dietrich Buxtehude
và Heinrich Schutz , nhạc sỹ người Anh Henry Purcell , nhạc sỹ người Pháp gốc Ý
Jean Baptiste Lully, và nhạc sỹ người Pháp Jean Philippe Rameau.
Về cuối thế kỷ 17, một hệ thống những mối liên hệ hoà âm gọi
là “khoá nhạc” bắt đầu thống trị âm nhạc. Sự phát triển này tạo cho nền âm nhạc
một trào lưu ngầm những mối liên hệ hệ tầm xa giúp gọt giũa đi một vài chỗ còn
thô của những đối âm trong phong cách thời đầu Baroque. Đến đầu thế kỷ 18 các
nhạc sĩ đã đạt tới một sự kiểm soát chắn chắn đối với những bắt buộc phức tạp của
khóa nhạc. Cũng đến thời kỳ này, họ đã từ bỏ trên quy mô lớn quan niệm về sự
thay đổi thường xuyên trong “Điệu” (mood) và đã bắt đầu ưa thích một phương
pháp có mức độ hơn và đồng nhất hơn. Thường một bản nhạc hay chương nhạc hoàn
chỉnh là một soạn thảo công phu của một năng lực cảm xúc được gọi là “làm xúc động”.
Sự kiểm soát đối với khóa nhạc và sự nhấn mạnh vào các điệu đơn trên quy mô lớn
đã dẫn đến cảm xúc bảo đảm và chắc chắn trong âm nhạc thời kỳ này, kể cả âm nhạc
của hai nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức cuối thời Baroque là Johann Sebastian
Bach và George Frideric Handel.
Lê Thanh Huyền (nhaccodien.info) dịch
Nguồn: nhaccodien.vn
Thời kỳ lãng mạn (1800 - 1910)
Thời kỳ lãng mạn (1800 - 1910)
Đầu thế kỷ 19, các tác phẩm âm nhạc của trường phái cổ điển
Vienna với những tên tuổi như Haydn, Mozart, Beethoven chiếm lĩnh toàn bộ châu
Âu. Các nhà soạn nhạc đã thường viết các bản biến tấu theo phong cách này, một
phong cách có thể mang lại nhiều ấn tượng. Phong cách này có khuynh hướng
trở thành công thức ở trong bàn tay của những nhà soạn nhạc kém tài năng. Một
phần vì lý do này mà các cuộc thí nghiệm của những nhà soạn nhạc thời kỳ 1810 - 1820 dần dần bắt đầu tìm đến những phong cách mới.
Cuộc phiêu lưu của những nhạc sĩ cũng không kéo dài lâu, có cảm
giác rằng việc thiết yếu là kết hợp tất cả các yếu tố trong âm nhạc của họ cũng
là việc bảo vệ sự trọn vẹn của những nguyên tắc chung. Họ bắt đầu đề cao những
giá trị âm nhạc khác hơn là những giá trị truyền thống. Thay vì kiểm soát chúng,
họ lại bắt đầu đề cao những phẩm chất như sự bốc đồng và khác lạ. Sức mạnh của
họ, lấy ví dụ, họ phát triển những hợp âm ít thông dụng thậm chí những hợp âm
này không nằm trong cấu trúc hòa âm tổng thể của tác phẩm. Cũng như vậy, nếu âm
thanh của những nhạc cụ đặc thù dường như thu hút một cách đặc biệt theo suốt
quá trình diễn biến của bản giao hưởng, họ đã viết những đoạn độc tấu hoa mĩ
dài cho nhạc cụ này, cho dù những đoạn solo này làm hình thù tác phẩm thêm căng
cứng. Bằng cách này hay cách khác, những nhạc sĩ thế kỷ 19 bắt đầu phô ra sự
lãng mạn, đối nghịch lại phong cách cổ điển, đó là quan điểm nghệ thuật của họ.
Thẩm mĩ về trường phái Lãng mạn đặc biệt lên cao ở Đức và Trung Âu. Các tác phẩm
khí nhạc của nhạc sĩ người Áo, Franz Schubert và các tác phẩm piano và opera của
nhạc sĩ người Đức Carl Maria von Weber là những biểu hiện sớm sủa của sự phát
triển âm nhạc.
Những nhà soạn nhạc thời kỳ Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ
văn học, hội họa hay từ những nguồn không âm nhạc khác. Vì vậy, âm nhạc chương
trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.
Nhạc sĩ người Pháp Hector Berlioz và nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt trở nên
đặc biệt nổi bật trong thể loại này. Các bài thơ trong thế kỷ 18 và 19 là cơ sở
đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm
nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Những bài hát nghệ thuật của
Đức thường được biết đến dưới cái tên Đức là lied (số nhiều là lieder). Hàng
trăm lieder được viết trong thế kỉ 19, những nhà soạn nhạc đặc biệt thành công
trong thể loại này là Franz Schubert, Robert Schumann, Johannes Brahms, Hugo
Wolf và cuối thế kỉ là Richard Strauss.
Một trong những thể loại lí tưởng của thế kỷ 19 là opera. Tại
đây, tất cả những loại hình nghệ thuật hòa cùng nhau mở ra những quang cảnh
hùng vĩ, những cao trào của xúc cảm và là cơ hội tốt cho những giọng ca tuyệt vời
khoe giọng. Tại Pháp, Gasparo Spontini và Giacomo Mayerbeer sáng tạo ra thể loại
grand opera. Jacques Offenbach - một người Pháp khác đã phát triến thể loại
comic-opera (gọi theo tiếng Pháp là opéra bouffe). Những tác giả viết opera
quan trọng nhất của Pháp còn phải kể đến Charles Gounod và Georges Bizet. Ở Ý,
Gioacchino Rossini, Gaetano Donizetti và Vincenzo Bellini tiếp tục phong cách
opera truyền thống của Ý từ thế kỷ 18 bel canto (tiếng Ý có nghĩa là hát đẹp).
Tại Ý vào nửa cuối thế kỷ 19, Giuseppe Verdi đã làm giảm đi sự ảnh hưởng của lối
hát bel canto bằng cách nhấn mạnh đến sự kịch tính trong những mối quan hệ giữa
con người với con người. Giacomo Puccini thì quan tâm đến những mối tình ủy mị
và những cảm xúc mãnh liệt. Tại Đức, Richard Wagner sáng tạo ra một phong
cách opera mới mà chính ông tự gọi là nhạc kịch (drama music). Tại đây tất cả
những khía cạnh của tác phẩm đều hướng đến trung tâm kịch tính hoặc ý đồ triết
học. Không như Verdi luôn hướng đến đề tài con người, Wagner luôn quan tâm hơn
đến những yếu tố mang tính truyền thuyết, thần thoại và coi đó là khái niệm của
sự chuộc lỗi trước Chúa. Wagner thường phát triển những đoạn nhạc ngắn của giai
điệu và hòa thanh, gọi là leitmotifs (tiếng Đức motif chủ đạo) nhằm đại diện
cho con người, đồ vật, khái niệm và những thứ khác nữa. Những đoạn nhạc này được
lặp lại bằng giọng hát hoặc dàn nhạc bất kì lúc nào khi những chúng xuất hiện
trong suy nghĩ hoặc hành động của nhân vật.
Âm nhạc xuyên suốt thế kỷ 19 vẫn mang truyền thống trừu tượng,
âm nhạc tuyệt đối vẫn được duy trì thông qua các bản giao hưởng và âm nhạc
thính phòng. Schubert, Schumann, Brahms, nhạc sĩ người Đức Felix Mendelssohn,
nhạc sĩ người Áo Anton Bruckner để lại những dấu ấn đặc biệt quan trọng. Nhạc
sĩ người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky sáng tác giao hưởng và các tác phẩm thính
phòng cũng tuyệt vời như các vở opera hay âm nhạc có tiêu đề. Nhạc sĩ Ba Lan
Frederic Chopin thì sáng tác ra những thể loại âm nhạc không tiêu đề, mang
phong cách rất tự do, phóng khoáng.
Trong tất cả những thể loại âm nhạc, giá trị cao nhất vẫn được
đánh giá thông qua sự khác thường độc đáo của những biểu hiện nghệ thuật. Điều
này càng được tăng thêm không chỉ do sự mở rộng của những phong cách sáng tác
khác người mà còn do sự sùng bái những nhạc trưởng và những nghệ sĩ biểu diễn bậc
thầy. Hai người tiêu biểu nhất là Franz Liszt và nghệ sĩ violin người Ý Nicolo
Paganini. Nhạc trưởng và nhạc sĩ người Áo Gustav Mahler viết những bản giao hưởng
đều liên quan đến cuộc sống riêng tư của mình.
Phong cách âm nhạc của thời kỳ Lãng mạn đã thay đổi chút ít
theo những cách khác nhau vào cuối thế kỷ 19. Sự phát triển của những hợp âm ít
được sử dụng đã phá vỡ cơ cấu giọng. Nhiều nhạc sĩ, đặc biệt là Wagner thường
xuyên sử dụng những hợp âm nửa cung (Chromatic). Cách diễn đạt âm nhạc dân gian
ngày càng được mở rộng, trở thành một phần quan trọng trong những sáng tác của
những nhạc sĩ Nga, Tiệp Khắc, Na Uy, Tây Ban Nha. Ta có thể kể đến nhạc sĩ người
Nga Mikhail Glinka, Modest Mussorgsky và Nicolai Rimsky-Korsakov; nhạc sĩ Tiệp
Khắc Antonin Dvorak và Bedrich Smetana; nhạc sĩ người Na Uy Edvard Grieg. Sau
này còn nhiều nhạc sĩ sử dụng những yếu tố dân gian vào trong những tác phẩm của
mình như nhạc sĩ người Mỹ Louis Moreau Gottaschalk, nhạc sĩ người Đan Mạch
Carl Nielsen; nhạc sĩ Phần Lan Jean Sibelius và nhạc sĩ người Tây Ban Nha
Manuel de Falla.
Theo mạch dân gian này tiến lên phía trước cùng với những yếu
tố khác đã hình thành nên âm nhạc cổ điển thế kỷ 20, giới thiệu lại với nghệ
thuật âm nhạc những khái niệm cũ về hòa thanh và nhịp điệu. Sự nghiên cứu lịch
sử âm nhạc có hệ thống đã đem đến những kết quả giống nhau, trở lại thời kì đầu
thế kỷ 19. Với sự tan rã của giọng, sự liên kết yếu kém giữa các bộ phận trong
âm nhạc, sự phụ thuộc vào sự chuyển động của những hòa âm, cũng như sự lên xuống
của cường độ và mật độ của âm thanh. Cách sử dụng âm thanh như là một yếu tố
trong âm nhạc là một đặc điểm rất riêng của thời kì cuối lãng mạn theo phong
cách Pháp, được gọi là Ấn tượng, do nhạc sĩ Claude Debussy và Maurice Ravel khởi
xướng và phát triển. Những nhạc sĩ Pháp thậm chí còn viết theo phong cách châm
biếm hơn như Francis Poulenc và Erik Satie.
Cobeo
(nhaccodien.info) dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét