Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên
Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc
nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều
tác giả muốn đặt ra.
Bước vào những trang viết của Thạch Lam là ta bước vào một thế giới nghệ thuật
riêng, một thế giới hiện thực đậm chất thơ. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn bộc
lộ rất rõ thế giới nghệ thuật riêng đó của Thạch Lam. Nhà văn đã bày tỏ tấm
lòng sâu kín đầy trắc ẩn yêu thương của mình qua việc miêu tả bức tranh phố huyện
và diễn biến tâm trạng nhân vật Liên.
Là một trong bảy thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất
Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ) nhưng Thạch
Lam đã chọn cho mình một hướng đi riêng với một quan điểm nghệ thuật riêng.
Theo ông: “Thiên chức của nhà văn là nâng đỡ cái tốt, cái đẹp để cho cuộc đời
có nhiều công bằng và yêu thương hơn” và “văn chương không thể thoát ly, lãng
quên mà phải là một thứ vũ khí thanh cao góp phần cải tạo xã hội”.
Lúc bấy giờ, trên văn đàn, người ta đua nhau viết nhiều loại
tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kỳ hoặc nhiều chuyện tình ái
mùi mẫn của giới thượng lưu. Lối đi của Thạch Lam tưởng sẽ dẫn tới ngõ cụt, dẫn
tới “mảnh đất chết” của nghệ thuật. Đó là một loại truyện không có cốt truyện.
“Thạch Lam đến với văn chương như mang một sứ mệnh hòa giải, hòa giải giữa thơ
và văn xuôi, giữa hiện thực và lãng mạn” (Chu Văn Sơn). Truyện của Thạch Lam
chú trọng nhiều đến những biến thái tinh vi, mơ hồ trong đời sống tâm hồn (chứ
không phải phân tích tâm lý sắc lạnh như Nam Cao), và cứ thế trôi theo dòng cảm
xúc, tâm trạng khiến cho khi đọc người ta luôn có cảm giác xao xuyến rất lạ. Mỗi
truyện ngắn của Thạch Lam chính là một bài thơ trữ tình xót thương mà cũng vô
cùng ấm áp và thấm thía. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan gọi truyện của Thạch
Lam là truyện “tình cảm” và cho rằng Thạch Lam “rất tin ở chủ nghĩa duy cảm”.
Ông đứng vào một phái riêng của tiểu thuyết.
Chính vì không chú trọng đến cốt truyện nên Thạch Lam cũng
không đi vào những đề tài to tát; quy mô cuộc sống xã hội được phản ánh không rộng
lớn, những vấn đề đặt ra không mang tính bức xúc như trong nhiều sáng tác của
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Chất liệu tạo nên cuộc sống trong tác phẩm được
Thạch Lam chắt chiu từ những gì hết sức nhỏ bé thậm chí vụn vặt mà nếu vô tình
sẽ rất dễ bỏ qua.
Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ nhà văn đã vượt lên đề tài, chế
ngự chất liệu, chiếm lĩnh phạm vi phản ánh bằng lăng kính chủ quan và phong
cách nghệ thuật tài hoa tinh tế. Và cứ tự nhiên như không, Thạch Lam đã gieo
vào lòng độc giả một thứ tình yêu ngọt ngào đối với nhiều trang viết của mình bởi
người ta luôn tìm thấy ở văn xuôi Thạch Lam một thứ mê hương kỳ lạ: dìu dịu mà
lan tỏa, thoang thoảng mà ngây ngất, mơ hồ mà đầy ám ảnh. Thạch Lam “vừa sống vừa
lắng nghe chung quanh cũng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả
bên ngoài và bên trong mình rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về
điều hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn lẽ thiệt đưa ra có khi nhỏ như một sợi
tóc” (Nguyễn Tuân).
Nếu nhìn bề ngoài, ta sẽ nhận thấy cách lựa chọn chất liệu của
Thạch Lam gần với những nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo như Nam Cao,
Nguyên Hồng, Tô Hoài... Còn nếu đi sâu khám phá nhiều trang văn của Thạch Lam
ta lại cảm thấy ông rất gần với các nhà văn lãng mạn như: Nhất Linh, Hoàng Đạo,
Khái Hưng bởi ông luôn kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp.
Thạch Lam đã tạo ra một thứ chủ nghĩa tình cảm riêng không giống như Vích-to
Huy-gô, người đứng đầu tao đàn lãng mạn Pháp, cũng không giống như Nhất Linh và
Hoàng Đạo, hai người anh của mình - hai cây bút có thể coi là đứng đầu tao đàn
lãng mạn Việt Nam. Thạch Lam đã lặng lẽ mang đến cho văn nhẹ như cánh bướm đậu
trên hoa” (Nguyễn Đức Quyền). “Một thứ hương Hoàng Lan thanh tao được chưng cất
từ những nỗi đời” (Chu Văn Sơn).
Hai đứa trẻ là một trong số nhiều truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu
cho phong cách Thạch Lam. Câu chuyện kể về hai chị em (Liên và An), hai đứa trẻ
được mẹ giao cho trông coi một gian hàng tạp hóa nơi phố huyện. Đêm chuyển dần
về khuya, nhiều bóng người lù mù đi qua như những chấm sáng mờ nhạt: mẹ con chị
Tý, bác phở Siêu, cụ Thi điên, gia đình bác Xẩm. Họ cùng với đêm tối phố huyện
gieo vào lòng trẻ thơ những nỗi niềm thương xót. Hai chị em dù buồn ngủ “ríu cả
mắt” vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua. Đoàn tàu như một vệt sao băng
lao lên chốc lát rồi tất cả chìm vào bóng tối mênh mang..
Truyện chỉ có vậy nhưng cho đến hôm nay, sức hấp dẫn của nó vẫn
còn vẹn nguyên. Có một cái gì đó vừa quen thuộc gần gũi lại vừa lạ lùng khiến
ta ngạc nhiên và xao xuyến mãi.
Sức hấp dẫn của Hai đứa trẻ trước hết ở không khí truyện. Bước
vào thế giới nghệ thuật của Hai đứa trẻ, người đọc lại bị xâm chiếm hấp dẫn bởi
bầu không khí rất đặc trưng của một miền quê nghèo trước một buổi chiều tà chuyển
dần vào đêm tối và tối dần tới đêm khuya. Và một điều tưởng như thật nghịch lý
là cái sinh khí của câu chuyện lại được dệt nên bởi bức tranh của một phố huyện
đang mất dần sinh khí. Cuộc sống ở đó đang đuổi dần, lụi tàn dần gợi lên cảm
giác mòn mỏi. Nó toát lên từ không gian đến thời gian, từ cảnh vật, đồ vật đến
con người... Tất cả như âm thầm nói cùng ta rằng cái phố huyện này là một miền
đời đang chìm dần vào quên lãng, một miền quê heo hút bị cuộc đời bỏ quên.
Nhưng thật lạ qua tất cả những gì Thạch Lam miêu tả, có một cái gì ấm áp cứ thấm
vào hồn ta bởi không khí buồn Thạch Lam tạo ra là không khí “buồn mà rất đẹp”
(Vũ Ngọc Phan). “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật là man mác [...]. Đọc Hai đứa
trẻ thấy một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Thạch Lam đã
thổi hồn mình vào bức tranh phố huyện. Đây là thành công đầu tiên, thành công
cuối cùng cũng là thành công đặc sắc nhất của truyện ngắn Thạch Lam.
Như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan tổng kết: “Mỗi một nhân vật của Thạch Lam đều
phảng phất tâm hồn Thạch Lam”. Hai đứa trẻ thực chất là những trạng thái tâm hồn
của nhân vật Liên được tắm trong một bầu không khí trầm buồn man mác mà nhà văn
đã thổi hồn mình vào đó. Những biến thái tinh vi của một tâm trạng buồn vừa mơ
hồ, vừa khắc khoải vừa hiện hữu vừa mong manh đã trở thành ám ảnh. Mở đầu mới
chỉ là những xao động được gợi lên từ một buổi chiều tàn trước cảnh chợ tàn. Rồi
theo màn đêm buông xuống, tâm hồn trẻ thơ có gì xao xác, u uất đến tội nghiệp để
cuối cùng xốn xang lên đôi chút lúc đoàn tàu chạy qua. Dòng cuối của tác phẩm
là giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” của nhân vật Liên, song đã để
lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm bâng khuâng. Chất thơ của Hai đứa trẻ
đã được khơi lên từ những rung động tâm hồn như thế.
Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ (và cả Nhà mẹ Lê và Gió
lạnh đầu mùa) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của Thạch Lam. Theo hồi kí về
gia đình Nguyễn Trường, bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột của Thạch Lam kể lại: “Tôi
không ngờ em Sáu có trí nhớ dai đến thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi
chuyến tàu đêm qua rồi mới ngủ. Năm đó tôi mới lên chín, em tôi lên tám mà mẹ
đã giao cho hai chị em tôi coi hàng”. Cả một thời thơ ấu của Thạch Lam đã gắn với
phố huyện Cẩm Giàng, bên cạnh đường xe lửa Hà Nội - Hải Phòng lúc đó cha vừa mất
ở sầm Nưa - Lào, mẹ con bồng bế nhau về quê ngoại). Cái không gian buồn tẻ, quạnh
hiu của phố huyện như một ám ảnh để rồi sau này thường xuất hiện trong nhiều
trang viết của Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhất là Thạch Lam. Thời gian như một chiếc
bình lộc kỳ diệu, nó giữ lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam nhiều
dấu ấn không thể phai mờ. Dựng lên nhân vật Liên, thực chất Thạch Lam đã đánh
thức trong tâm khảm của cậu bé An hồi nào để trở về phố huyện, nơi “bóng tối u
uất nhẫn nại của đời thôn quê lưới mái lá nát hay những đêm sâu trong huyện”
(Thế Lữ).
Bức tranh phố huyện trong con mắt của hai đứa trẻ cũng đầy đủ
màu, âm thanh, đường nét và sự phối hợp giữa cảnh và người. Tất cả đều đượm vẻ
u buồn: một con đường vào làng, ra sông, một phố chợ, một ga xép, một lũy
tre... Những đường nét đơn sơ, giản dị, mộc mạc. Gam màu chủ đạo của bức tranh
phố huyện là màu xám đen của bóng tối hòa lẫn với những quầng sáng mờ nhạt nhỏ
nhoi. Đúng hơn là có cả “màu đỏ rực như lửa cháy” của mặt trời sắp tàn và màu
“hồng nhạt” của những đám mây nhưng cái màu sắc tưởng như rực rỡ kia chỉ tồn tại
trong tích tắc để rồi “đen lại”, lụi tàn đi nhường chỗ cho bóng tối bao trùm,
xâm chiếm.
Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc “văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” rồi “muỗi bắt đầu vo ve” nhưng
có lẽ ấn tượng nhất vẫn là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ,
từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy khó nhất
là việc tạo không khí truyện, khi tạo được không khí rồi thì mạch truyện cứ như
thế mà tuôn chảy. Với tiếng trống thu không thủng thẳng từng tiếng một “vang ra
đê gọi buổi chiều”, Thạch Lam đã tạo được không khí truyện một cách tự nhiên và
có lẽ cái tiếng trống từ thời thơ ấu ấy đã đánh thức, gọi dậy ở Thạch Lam tất cả
những bâng khuâng, mơ hồ, man mác về một phố huyện ngày nào. Tiếng trống thu
không là âm thanh quen thuộc xuất hiện thường nhật, trở thành một mảnh linh hồn
của buổi chiều phố huyện, tạo cho phố huyện cái vẻ bình lặng đến nao nao buồn.
Đúng là “một chiều êm ả như ru”. Tiếng trống thu không đã kéo cả buổi chiều
trong ánh tà dương lặng trầm và u uất thấm thía vào tận tâm hồn. Đây là hoàn
toàn không phải là tiếng trống thúc sưu thuế bức bách khiến cho không gian trở
nên ngột ngạt đầy sợ hãi trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, càng không phải là tiếng
trong hộ đê giục giã hồi đầu thế kỷ của Phạm Duy Tốn trong sống chết mặc bay.
Thật buồn nhưng thật êm, thật đẹp. Chính cái vẻ đẹp êm dịu, đượm buồn của buổi
chiều quê ấy đã tạo nên chất thơ trong truyện của Thạch Lam. Thạch Lam đã khẽ
đưa những nét vẽ thiên nhiên đầy lãng mạn.
Trong bức tranh phố huyện, đêm tối xuất hiện như một nhân vật
mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn chứ không đơn thuần là cái nhìn không gian
mang tính vật lý của sự chảy trôi từ ngày sang đêm. Có lẽ Thạch Lam luôn nhìn
cuộc sống trong những góc khuất của nó nên trong truyện của ông ta thường thấy
có hình ảnh bóng tối. Bóng tối đã tạo thành một bầu khí quyển riêng. Trong truyện
có không dưới 30 lần tác giả trở đi trở lại với hình ảnh đêm tối, bóng tối. Mở
đầu truyện là cái thế lụi tắt của ngày tàn và sự xâm chiếm của bóng tối khi
“dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khi “các nhà
đã lên đèn” cũng là lúc bóng tối được cảm nhận rõ rệt nhất bởi những hòn đá nhỏ
cùng “một bên sáng, một bên tối”. Bóng tối không ập đến bất ngờ mà cứ lặng lẽ,
âm thầm từng khoảnh khắc một vây bọc lấy tất cả mọi cảnh vật. Bà cụ Thi sau khi
ngửa cổ dốc tọt cút rượu to đã “đi lẫn vào bóng tối” và bóng tối đã nuốt dần tiếng
cười khanh khách nửa điên nửa dại của cụ. Sau tiếng cười của cụ Thi, đêm mới thực
sự là đêm “một đêm mùa hạ êm như nhung” với những con người “từ từ đi trong
đêm”.
Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu “đi trong đêm tối” càng tô đậm thêm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà “đêm tối đối với Liên đã quen lắm” quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được “con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà” mặc dù cứ mỗi lúc “càng sẫm đen hơn trước”. Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại “khô khan không vang động ra xa” mà “chìm ngay vào bóng tối”. Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi “nhìn quanh đêm tối” đã chìm trong giấc ngủ “tịch mịch và đầy bóng tối”.
Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu “đi trong đêm tối” càng tô đậm thêm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà “đêm tối đối với Liên đã quen lắm” quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được “con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà” mặc dù cứ mỗi lúc “càng sẫm đen hơn trước”. Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại “khô khan không vang động ra xa” mà “chìm ngay vào bóng tối”. Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi “nhìn quanh đêm tối” đã chìm trong giấc ngủ “tịch mịch và đầy bóng tối”.
Có thể nói, hình tượng đêm tối không chỉ tạo nên một bầu
không khí riêng cho câu chuyện mà hình tượng ấy đã tạo nên một sức ám ảnh mạnh
mẽ, gây nên cảm giác phập phồng, lo lâu, hồi hộp, mong đợi, hi vọng để rồi thở dài ở người đọc. Bóng tối trở thành một thế lực thống trị phố huyện, nó len lỏi,
thâm nhập vào mọi sự vật. Nó như một con quái vật khổng lồ nuốt chửng cả cảnh
và người phố huyện. Bóng tối không chỉ là cái nền của bức tranh phố huyện mà
còn là không gian xã hội, không gian nghệ thuật của tác phẩm. Bóng tối chính là
biểu tượng cho cuộc sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc không lối thoát của những
kiếp người nơi phố huyện. Bóng tối cứ đè nặng lên số phận khiến cho họ đã nhỏ
bé lại càng nhỏ bé, đã tội nghiệp, hẩm hiu càng hẩm hiu tội nghiệp.
Đối lập với bóng tối là ánh sáng. Thực chất nhà văn đã sử dụng thành công một
cách xuất, sắc nghệ thuật tương phản. Sự tồn tại của những chấm sáng sẽ trở nên
vô nghĩa nếu không có bóng tối, ngược lại, tả bóng tối cũng là đã chứng minh sự
tồn tại của những chấm sáng, những chấm sáng lắt lay mà bóng tối có thể nuốt
chửng bất cứ lúc nào. Nhưng như một quy luật của sự sinh tồn, ánh sáng dù lắt
lay vẫn cứ tồn tại. Dường như suốt thiên truyện là sự giao tranh gay gắt. mà lặng
lẽ giữa bóng tối và ánh sáng.
Ánh sáng tự nhiên không chỉ có ánh mặt trời “đỏ rực” mà còn
có ánh sáng lấp lánh” của vòm trời bởi những vì sao đêm. Dưới mặt đất còn có
ánh sáng của “những con đom đóm bay là là”.
Ánh sáng nhân tạo gồm ngọn đèn chị Tí; ngọn đèn dầu vặn nhỏ của
chị em Liên mà “từng hạt ánh sáng lọt qua phên nứa”; bếp lửa của bác phở Siêu
chỉ chiếu sáng một vùng đất cát: ánh sáng của “cái thau sắt trắng” mà gia đình
bác Xẩm mù để trước mặt được ánh sáng của xung quanh hắt vào; ánh sáng của tàn nhang rụng xuống đường ray; ánh sáng của “hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái
bóng dài”. Ngoại trừ ánh sáng mà đoàn tàu mang đến và ánh sáng hiện lên trong
tâm tưởng của Liên về Hà Nội còn lại tất cả đều ở thế lụi tàn, leo lét, rơi rụng,
mờ dần.
Ánh sáng ngọn đèn của ngọn đèn chị Tí và cả cái bếp lửa của
bác Siêu chỉ đủ chiếu sáng một vùng đất cát” và dường như đêm càng về khuya
càng yếu ớt. Ngọn đèn của chị em Liên thì vặn nhỏ tối đa chỉ vừa đủ cho “từng hột
sáng lọt qua phên nứa”. Những ngọn đèn lồng di động lung lay có thể tắt bất cứ
lúc nào. Những vì sao trên trời và những con đom đóm dưới đất chỉ “nhấp nháy”
lúc sáng lúc tắt. Thảm hại nhất và cũng là chi tiết tuy bâng quơ mà giàu ý
nghĩa nhất là chiếc thau sắt trắng của gia đình bác xẩm. Mỗi gia đình đều có một
chút ánh sáng dù leo lét, gia đình bác xẩm với công việc “đặc trưng” của mình
nên không dùng đèn nhưng vẫn còn có một chút ánh sáng - đó là sự chia sẻ của những
người xung quanh dù vô cùng ít ỏi. Chiếc thau sắt trắng đã hắt lên thứ ánh sáng được “hứng” từ ánh sáng của mọi người xung quanh.
Ánh sáng của phố huyện là thứ ánh sáng yếu ớt và trong phạm
vi rất hẹp. Nó chỉ như những viên sỏi ném vào “cái ao lớn” của bóng tối. Ánh
sáng không làm cho phố huyện sáng lên mà thậm chí còn gợi cho người ta cảm nhận
rõ hơn về bóng tối. Ánh sáng phải chăng chỉ là một sự cầm cự kéo dài, một sự vật
lộn với bóng tối để tồn tại. Cũng như những cư dân phố huyện, ánh sáng của phố
huyện là biểu tượng cho kiếp sống lắt lay, mòn mỏi, thảm hại, những kiếp người
cũng như những kiếp đèn bé nhỏ kia, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Dường như Thạch
Lam, bằng cách này, đã âm thầm chứng minh cho một câu ngạn ngữ của phương Tây:
“Đời người như ngọn nến”. Đời người nói chung đã vô cùng mong manh. Đời người của
những cư dân phố huyện nơi đây lại càng mong manh gấp vạn lần. Họ chỉ là những
đốm sáng yếu ớt bị bỏ quên giữa hoang mạc tăm tối của cuộc đời. Điều đáng nói
hơn cả là Thạch Lam đã tạo nên sự đốì chọi gay gắt giữa hai mảng tối - sáng, đặc
biệt là ngọn đèn dầu leo lét chị Tí.
Bức tranh đời sống phố huyện được mở đầu bằng cảnh chợ tàn. Cảnh
chợ tàn của bức tranh phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng những nét vẽ hiện
thực khiến cho phố huyện lộ rõ thực chất nghèo đói, thảm hại của nó. Đó là những
“rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, và lá mía” - chợ nghèo nên “rác thải” của
chợ cũng chẳng có gì. Ấy thế mà vẫn có “mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom
đi lại tìm tòi” rồi thì “nhặt thanh nứa, thanh tre”. Có gì đây mà nhặt. Chi tiết
này thường xuất hiện trong truyện của Thạch Lam như một nỗi ám ảnh từ thời thơ ấu
hằn vào tâm hồn nhà văn “duy cảm” để trở thành một tình thương mến day dứt, ngậm
ngùi.
Khi bóng tối xuất hiện, những cư dân kiếm sống ban ngày vừa
ngập vào bóng tối thì những cư dân kiếm sống ban đêm quanh ga xếp lại từ bóng tối
kéo ra. Bằng một chút ánh sáng yếu ớt, những con người này bị vây hãm bởi bóng
tối. Họ là những cuộc đời tàn, bên cạnh những đồ vật tàn trong một khung cảnh
tàn lụi héo úa.
Bắt đầu cho sự chuyển giao giữa chiều và tối là cảnh mấy đứa
trẻ lom khom... đi lại... nhặt nhanh., tìm tòi.. Và để tô thêm những bóng dáng
xiêu vẹo đó, tác giả tả tỉ mỉ những thứ “rác thải” của một phiên chợ nghèo và
cái mùi ẩm mốc bốc lên cùng vài người về muộn còn nói rốn với nhau thêm vài câu
chuyện rời rạc.
Mẹ con chị Tí có lẽ là nhân vật điển hình nhất cho cuộc sống
lay lắt, ngoi ngóp của hố huyện này. Gánh hàng của mẹ con chị là tâm điểm trong
bức tranh sinh hoạt nơi phố huyện khi đêm xuống. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ
đêm đến lại đội cái chõng tre ra ga bày bán hàng nước. Đã biết, là không bán được
gì mà vẫn cứ đi, đi vì biết đâu kiếm thêm được vài xu ít ỏi. Đó đâu phải
là sống, đó chẳng qua là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng, không phải ngẫu
nhiên mà tác giả trở đi trở lại với ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Ngọn đèn lắt lay
cố chống chọi với bóng tối cũng giống như cuộc đời của chị lay lắt chống chọi với
đói nghèo, ảm đạm và buồn tẻ. Đây là hình ảnh không chỉ có sức ám ảnh đối với
Liên mà đối với cả tác giả và người đọc. Thạch Lam đã dồn không biết bao nhiêu
thương mến xót xa vào đấy để rồi đọc những trang viết của ông, hình ảnh ngọn
đèn cùng số phận chị Tí cứ len lỏi cả vào giấc ngủ.
Bác phở Siêu có vẻ khá hơn bởi ở cái đất nghèo này phở là một
thứ xa xỉ. Tiếng đòn gánh kĩu kịt cùng với mùi thơm ngầy ngậy và chấm lửa vàng
lơ lửng vừa đem lại cho phố huyện một chút sinh khí chưa đủ ấm đã lại rơi vào một
tiếng thở dài cho sự ế ẩm.
Gia đình bác xẩm ngồi đấy tự lúc nào bởi đối với bác ta ngày
và đêm đều có nghĩa gì đâu. Cả nhà sinh sống, chơi đùa, “làm ăn” trên một manh
chiếu rách với một chiếc thau sắt dùng để đựng của bố thí. Bác xẩm góp chuyện bằng
mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng và thằng con phụ họa bằng cách bò ra đất
nhặt những rác bẩn để nghịch.
Tưởng như thế đã là thê thảm và đáng sợ nhưng có một con người còn đáng sợ hơn,
đấy là bà cụ Thi điên. Bà xuất hiện như một cái bóng nhưng ám ảnh mãi bởi tiếng
cười nửa điên nửa dại và hình ảnh người đàn bà cầm một cút rượu to dốc một hơi
cạn sạch khiến người ta cảm thấy đắng chát cho kiếp người tím tạ, héo mòn, lay
lắt. Ai? Cái gì khiến bà cụ Thi ra nông nổi ấy? Thạch Lam không luận bàn mà lặng
lẽ đặt vào lòng trắc ẩn của người đời cái câu hỏi ấy. Cuộc sống cứ tiếp diễn
theo cái đà này thì có lẽ tất cả cũng sẽ nửa điên nửa dại mất thôi. Thật thê thảm
khi một người đàn bà uống rượu để tìm quên trong men đắng, càng thê thảm khi
người đàn bà ấy không đủ tiền mua hẳn một chai rượu để uống cho đủ say mà quên.
Một cút rượu to dốc tọt vào họng là một chi tiết rất Thạch Lam - vừa tinh tế, vừa
sâu sắc mà tưởng như vụn vặt, vu vơ.
Gian hàng của chị em Liên có vẻ bình yên đứng giữa phố huyện.
Mặc dù được coi là khá giả hơn nhưng cũng thật buồn tẻ, ảm đạm. Một gian hàng
nhỏ xíu, xiêu vẹo, với tấm phên nứa dán giấy nhật trình, vài phong thuốc lào,
cái chõng sắp gãy... Và hai đứa trẻ vừa ngây thơ vừa già nua đều tội nghiệp. Nếu
đi sâu tìm hiểu gia cảnh và hoàn cảnh hiện tại của hai đứa trẻ, ta sẽ thấy cả một
sự “xuống cấp”, sa sút ghê gớm: thầy mất việc... từ Hà Nội chuyển về... thuê
quán bán hàng...
Những câu chuyện tẻ nhạt, đơn điệu dường như hôm nào cũng lặp
lại một cách bâng quơ, chậm rãi. Những con người hôm nào cũng hiện ra rồi khuất
đi như những cái bóng lặng lẽ, âm thầm.
Bao quanh họ là những đồ vật tồi tàn: ngôi quán ọp ẹp, chõng
gãy, chiếu rách, đàn còm, bát sứt... Những con người, những đồ vật, cảnh vật đó
tạo nên gương mặt âm u, ảm đạm, buồn thiu của phố huyện. Cuộc sống cứ diễn ra theo
hướng tàn tạ mòn mỏi với những con người không nguồn gốc xuất thân, không số phận
thậm chí tác giả cũng không miêu tả chi tiết dáng vẻ, nét mặt... Nhưng có lẽ vì
thế mà số phận họ hiện lên càng bé nhỏ, côi cút, tội nghiệp. Ai cũng nhẫn nhục,
âm thầm với cái kiếp của mình như nó vốn sinh ra đã thế, lặp lại nhiều thành
quen. Thật đáng sợ khi những hình ảnh lay lắt ấy cứ diễn ra trước mắt hai đứa
trẻ như một vòng đời quẩn quanh không lối thoát của phố huyện. Nếu cuộc sống
không có kì đổi thay thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước.
Hiện tại của cư dân phố thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía
trước. Hiện tại của cư dân phố huyện sẽ là tương lai của những thế hệ như Liên,
An, con chị Tí... Liên sợ không dám nhìn bà Thi điên một phần bởi vì bà ta điên
nhưng một phần vì Liên sợ cho cái tương lai của chính mình. Rồi đây Liên sẽ
thành chị Tí? Bác phở Siêu? Cụ Thi điên?... Vẽ ra sự tương quan giữa hai đứa trẻ
với phố huyện này, Thạch Lam đã đặt ra sự tương quan giữa những mầm cây với một
thế giới già nua tàn tạ, héo mòn. Những mầm cây ấy đã mọc lên trên một mảnh đất
khô cằn, bạc phếch. Chúng sẽ lên thế nào đây? Hãy cứu lấy chúng, những đứa trẻ
vô tội! Đó là điều Thạch
Lam âm thầm gửi gắm vào những trang viết của mình khi miêu tả
bức tranh phố huyện. Và có lẽ cũng vì thế mà truyện cứ gợi lên những xót thương
day dứt mãi không thôi.
Không phải những con người phố huyện không có những mong ước,
hi vọng. Không có hi vọng thì loài người chắc đã bị hủy diệt lâu rồi. Nhưng hi
vọng điều gì? “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng
cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự mong đợi cũng thật tội nghiệp - “Một
cái gì tươi sáng” - thật mong manh, thật mơ hồ. Cái nghèo đói, lam lũ, cơ cực
đã mài mòn đến cả ước mơ và hi vọng khiến cho những con người nơi đây không ngẩng
đầu lên được. Ngay cả cái khả năng tự lừa dối mình để bám trụ cuộc sống dường
như họ cũng không còn được là bao. Có thể nói, tấm lòng yêu thương của Thạch
Lam đã nghiêng xuống những kiếp người nhỏ bé ấy đã mà lắng nghe, để mà chia sẻ,
để mà an ủi. Cứ như thế, nhà văn trân trọng từng hạt ánh sáng bằng những lời lẽ
tâm tình nhỏ nhẹ mà đầy sâu sắc thấm thía. Phố huyện và những con người phố huyện
đã được bao bọc bởi một trái tim dung dị mà ấm áp của một nhà văn suốt đời mong
muốn cho cuộc đời “có nhiều công bằng và yêu thương hơn”.
Trên cái nền của bức tranh phố huyện hiện lên hình ảnh hai đứa
trẻ, đặc biệt là Liên. Phố huyện luôn được đặt trong tầm mắt của Liên, cô bé
ngây thơ mà vô cùng nhạy cảm. Thạch Lam đã mượn cái nhìn, diễn biến tâm trạng của
Liên để thể hiện cảm nhận của mình trong kí ức cũng như hiện tại đối với thế giới
xung quanh, từ đó tư tưởng của tác phẩm được phát biểu một cách nhẹ nhàng, kín
đáo mà sâu sắc, thấm thía.
Bắt đầu là nỗi buồn của Liên trước một buổi chiều tàn. Liên
đã “ngồi yên lặng” để cho tất cả buổi chiều lặng trầm và u uất thấm thía vào tận
tâm hồn để rồi “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Liên không hiểu sao, nhưng
chị thấy lòng buồn man mác”. Đoạn văn giống như một câu thơ trữ tình mang âm hưởng
trầm buồn ngọt ngào thấm thía và man mác bâng khuâng. Trong tâm hồn Liên có một
chút, ngày thơ của trẻ con và một chút già dặn của người lớn cộng với một chút
cái tôi lãng mạn khó cắt nghĩa. Liên chính là hiện thân của tâm hồn nhạy cảm,
tinh tế của Thạch Lam.
Liên không chỉ buồn trước cảnh chiều tàn, Liên còn buồn trước
những kiếp người tàn và cuộc sống cứ như một tiếng thở dài, nhẹ mà sâu. Nhìn những
đứa trẻ nhà nghèo bới rác “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị
cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Một niềm thương cảm vừa bùi ngùi, vừa
xót xa cứ dâng lên trong hồn Liên giống như cái cậu bé Sơn hồi nào trong Gió lạnh
đầu mùa lặng nhìn những đứa trẻ nghèo tím tái vì rét.
“Bóng tối cứ ngập đầy dần” trong đôi mắt Liên và cũng ở khung
cửa sổ tâm hồn ấy, những chấm sáng cùng với những con người hiện ra trong tình
thương mến. Tình thương mến ấy được thể hiện qua những câu chào hỏi ân cần với
chị Tí, qua cái cử chỉ “lẳng lặng rót rượu” cho cụ Thi rồi tuy có hơi run sợ vẫn
“đứng sững nhìn theo cụ đi lẫn vào bóng tối”. Tình thương ấy không chỉ tụ lại
nơi ngọn đèn chị Tí, chiếc thau sắt của gia đình bác xẩm, đốm lửa nhỏ của gánh
phở bác Siêu, mà dường như trùm phủ lên toàn cảnh phố huyện, thậm chí đến cả những
hòn đá nhỏ “một bên sáng, một bên tối” khi mà đêm buông xuống, trăng về khuya,
tâm trạng của Liên càng u uất, xao xác đến tội nghiệp.
Cũng có lúc. Liên lặng ngắm “vũ trụ thăm thẳm bao la”. Những cái “bí mật” và xa
lạ” của nó đã làm “mọi trí nghĩ” của Liên và Liên lại “chúi nhìn về mặt đất, về
vầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”.
Như vậy, cũng như Thạch Lam, tâm hồn Liên dù có lãng mạn tới đâu cũng không
thoát li”, không “lãng quên” mà luôn gắn với cuộc đời, với con người.
Cái nhạy cảm của Liên với cuộc đời còn thể hiện ở chi tiết: từ
gánh phở của bác Siêu mà Liên sống lại với những kí ức tuổi ấu thơ khi gia đình
còn ờ Hà Nội. Tuy “những kỷ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là “một vùng
sáng rực lấp lánh” nhưng đó chính là khởi nguồn sâu thẳm cho tâm trạng thấp thỏm
đợi tàu của Liên ở cuối truyện. Đêm nào Liên cũng đợi, và đêm nào cũng háo hức
như lần đầu để rồi sau đó lại chìm và cuộc đời đầy bóng tối. Tâm trạng đợi MU của
Liên cũng là tâm trạng mòn mỏi đến xót xa, hi vọng đến tội nghiệp. Nếu tinh ý sẽ
thấy một tiếng thở dài rất nhẹ của chị em Liên qua chi tiết: “Tàu hôm nay không
đông chị nhỉ?” (câu hỏi của An). “Liên không đáp, chuyến tàu đêm nay thưa vắng
người và hình như kém sáng hơn”. Niềm vui chưa trọn thì một chút lo âu mơ hồ xuất
hiện. Rồi từ đêm mai... đêm mai nữa... rất có thể sẽ không còn chuyến tàu đêm ấy
nữa. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta không còn niềm tin và hi vọng?.
Kết thúc tác phẩm là tiếng vang động nhỏ dần “mất dần trong bóng tối, lắng tai
nghe cũng không thấy nữa” chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó
cắn. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác Siêu đi vào làng, “vợ chồng bác Sâm ngủ gục
trên manh chiếu tự bao giờ”. Và Liên, Liên “gối đầu lên tay nhắm mắt lại”,
“Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,
cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Đúng là “một đêm
mùa hè êm như nhung” giấu đi những tiếng thở dài cố nén của biết bao kiếp người.
Giấc ngủ của Liên là giấc ngủ yên tĩnh mà thực ra đầy xao động và có gì nằng nặng,
buồn buồn, thương thương, tồi tội khiến đọc xong những dòng cuối cùng, gấp
trang sách lại mà bao nhiêu nỗi niềm day dứt, trăn trở khiến ta thao thức mãi
không thôi.
Tác giả đã mượn tâm trạng nhân vật để tạo nên nỗi ám ảnh nơi
người đọc rất nhiều lần Thạch Lam như muốn nhấn mạnh tới cái ngây thơ của chị
em Liên: “Không hiểu sao”, Liên “tưởng là”, Liên “mơ hồ”, Liên “không hiểu”,
Liên "thấy” mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, ... Có thể Liên không hiểu,
không biết thật nhưng chính cái từ “không” ấy đã “bẫy” người đọc khiến người ta
sa vào những bất định mông lung. Người đọc đã trôi theo dòng tâm trạng của nhà
văn là “lây nhiễm” cái cảm giác chập chờn bất định của nhân vật. Người ta sống
với nhân vật, buồn nỗi buồn mơ hồ của nhân vật tự lúc nào không hay biết. Đó
chính là ma lực của truyện ngắn Thạch Lam.
Liên vừa giống những con người phố huyện vừa rất khác họ. Giống vì cùng với họ
cô là một nét trong bức tranh u buồn đầy bóng tối: cũng dọn hàng, cũng góp vài
lời đứt quãng, cũng có một ngọn đèn leo lét, với một gian hàng cốm gồm: thuốc
lào, xà phòng, diêm... Và cùng với những con người nơi đây, những con người
trong bóng tối ảm đạm âm thầm mơ hồ “mong đợi một cái gì tươi sáng” ...
Nhưng Liên lại rất khác với những cư dân phố huyện. Cô tách
ra làm thành một điểm nhìn của “cái tôi chủ thể” không chịu đánh mất mình trong
cái tổng thể có nguy cơ biến mất vì đang ở quá trình nhạt nhòa, leo lét. Liên
không phải là một cô gái quê nhưng cũng không hẳn là một cô gái thị thành.
Trong Liên có cả nét giản dị, mộc mạc lẫn sự phức tạp, khó hiểu đầy lãng mạn.
Cô không chỉ biết cúi đầu nhìn những quầng sáng trên mặt đất, cô còn biết thả
hồn theo những vì sao lấp lánh để tìm sông Ngân Hà. Cô không chỉ quen nhìn con
đường tối từ làng ra bờ sông mà còn biết mơ tưởng về một thế giới đầy ánh sáng
dù mơ tưởng ấy rất đỗi mong manh và có lúc vụt biến mất. Liên là một đứa trẻ,
dù có lớn hơn An nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ với tất cả những gì ngây thơ của
một đứa trẻ. Nhưng trong Liên lại có cả sự trưởng thành thậm chí có cả cái già
nua của một người lớn. Chính sự nhập nhoạng giữa hai vùng sáng - tối ấy đã có sức
tự khen lên những giai điệu buồn trong một tâm hồn buồn khiến người đọc bị xâm
chiếm, bị ám ảnh và cứ rưng rưng một niềm thương cảm.
Một điểm khác biệt nữa của Liên với những cư dân phố huyện là niềm khao khát hướng
tới ánh sáng. Cái nghèo nàn đơn điệu nơi phố huyện tuy khiến Liên không giấu được
một tiếng thở dài nhưng cũng không ngăn được ở cô những ước mơ, những khao khát
về một sự đổi thay, một thế giới tươi sáng. Nhà văn đã lắng nghe, đã thấu hiểu
và đã trân trọng những tia hi vọng nhỏ bé ấy của con người. Đó chính là giá trị
nhân đạo nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía của tác phẩm.
Nỗi xót thương của Liên, tâm trạng của Liên, cảm xúc của Liên
thật ra là cảm xúc, tâm trạng, nỗi xót thương của Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa
thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc nhập vào thế giới
tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều tác giả muốn đặt
ra.
Điều mà tác giả muốn đặt ra trong Hai đứa trẻ mặc dù giản dị
và nhẹ nhàng nhưng luôn luôn có ý nghĩa đối với con người ở mọi thời đại. Hãy
biết, lắng nghe cuộc sống xung quanh và chắt chiu những gì tốt đẹp nhất. Điều
đó tưởng dễ nhưng chỉ cần một chút vô tình ta sẽ bỏ qua. Thạch Lam đã kéo con
người xích lại gần nhau hơn từ những điều hết sức bình thường ấy.
Quá tuyệt 😘😘😘
Trả lờiXóa