Trong phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử là một tài năng lạ. Mặc
dù cuộc sống trần thế của thi nhân với nhân loại quá ngắn ngủi nhưng
không vì thế mà khi rời xa cõi trần lại không ai biết đến. Hàn Mặc Tử (1912 -
1940) sinh ra trong một gia đình sùng mến đạo, từ đó đã xây dựng cho Hàn Mặc Tử
một nền tảng đức tin vững vàng, kiên cố. Hàn Mặc Tử sớm “thấm nhuần ơn trìu mến”
của Đức Chúa chí nhân và Mẹ Maria từ bi. Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của
mình, lúc vui cũng như lúc buồn, lúc khỏe mạnh cũng như lúc đau đớn ông luôn
nghĩ đến Chúa - Mẹ, đặc biệt là lúc cận kề với cái chết “suốt ngày chỉ biết đọc
thơ và nghĩ đến Chúa”. Những hoạn nạn ở cuộc đời trần thế như vậy nhờ có niềm
tin tôn giáo mà ông đã phần nào trấn an được tinh thần để có thêm nghị lực chống
chọi với căn bệnh quái ác này. Trong số các sáng tác mang đậm màu sắc tôn giáo
thì bài thơ mà Hàn Mặc Tử đã làm để ca ngợi vẻ đẹp của Đức Mẹ Đồng Trinh là đặc
biệt hơn cả. Bởi bài thơ đã chứa đựng một cái gì đó rất riêng, rất độc đáo và
đây còn là tư tưởng của nhiều “con chiên” sùng kính đạo. Hơn nữa, bài thơ đã kết
hợp được ngôn ngữ của Đạo phật với ngôn ngữ của Thánh Kinh và tâm tình thành
kính của chính thi sĩ.
Chúng ta thấy rằng trong tất cả các hình thái ý thức xã hội
ít có lĩnh vực nào lại có nhiều điểm gặp gỡ và tương đồng như trong tôn giáo và
thi ca. Cả hai hiện tượng này khác nhau nhưng lại dễ gặp nhau trên nhiều phương
diện. Cả hai đều có hướng nội sâu sắc, có sự thể hiện nội tâm nhạy bén, cả hai
đều trầm tư, tĩnh lự, coi trọng niềm tin và chúng đều cần đến một thứ ngôn ngữ
diễn đạt “ý tại ngôn ngoại”…Tôn giáo cũng như thơ ca luôn luôn vận động, biến
đổi để phù hợp với thời đại. Trong thời đại mới này, tôn giáo cũng tìm
cách chuyển mình để thích ứng bằng cách loại bỏ những lối tư duy cổ hủ,
hình thức cầu kỳ, tính chất câu nệ và giáo điều, thay vào đó là sự khoan dung,
hòa hợp và vô ngã. Cùng viết về tôn giáo không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà còn có rất
nhiều nhà thơ cũng tìm đến địa hạt của tôn giáo như: R. Targor (Ấn Độ), Êxênhin
(Nga), Vương Duy,…
Chúng
ta biết rằng cuộc sống của nhà thơ là sự vật lộn suốt đời với bệnh tật đeo bám
dai dẳng, bất phân thắng bại. Sự đau khổ về bệnh tật đã đày đọa thi sĩ lên đến
tột đỉnh mà dường như người đọc luôn có cảm nhận rằng mọi sự đau đớn nhất, bi
thảm và kinh hoàng nhất của cuộc sống xã hội nhân thế đang trút bỏ lên đôi vai
gầy mòn của một thi mệnh thiên tài. Chính vì thế trong thơ ông có không ít những
vần thơ quằn quại, đau đớn kiểu như:
Ta trút linh hồn giữa lúc đấy
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
(Trút linh hồn)
Hay:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mãnh giấy mong manh
(Rướm máu)
Đọc
thơ Hàn Mặc Tử, độc giả luôn có cảm nhận trong tâm hồn nhà thơ trẻ không có sự
xuất hiện của bức tường thành kiên cố nào về khoảng cách tôn giáo của mình và
tôn giáo của người. Thơ ông luôn có sự đan xen giữa ngôn ngữ của Phật và ngôn
ngữ của Thiên Chúa giáo. Chính sự kết hợp ngôn ngữ của các tôn giáo trong thơ
Hàn Mặc Tử đã phần nào cho chúng ta thấy được sự bình đẳng và ảnh hưởng giữa
các tôn giáo với nhau trong cuộc sống của con người. Bên cạnh bài thơ Thánh
nữ đồng trinh Maria, Hàn Mặc Tử cũng đã sáng tác rất nhiều những bài thơ
ca ngợi lý tưởng đạo thiên chúa của mình như: Đêm xuân cầu nguyện, Nguồn
thơm, Ra đời, Ngoài vũ trụ, Say thơ,…Là thi sĩ của “Đạo quân Thánh giá” Hàn
Mặc Tử đã không ngần ngại chủ trương sáng tác thi văn của mình khi khẳng định
lý tưởng: “Đức chúa trời đã tạo ra Trăng, Hoa, Nhạc, Hương là để cho người đời
hưởng thụ nhưng người đời phần nhiều u mê không biết tận hưởng một cách say
sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn”.
Thánh
nữ Đồng trinh Maria như là sự hội tụ niềm tôn kính, ngưỡng vọng của Hàn Mặc
Tử đối với Đấng Chí tôn mang nhiều tước hiệu và đây cũng là tâm lý chung của hết
thảy “Con chiên” đang một lòng hướng đến nguồn ân sủng đặc biệt mà tình yêu
Thiên chúa đã dành tặng cho nhân loại.
Như song lộc triều nguyên: ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Đọc
thơ Hàn Mặc Tử chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt những từ như: Ánh sáng, Lời
kinh, Hương thơm, Hoa, Tiếng nhạc,…Những từ này không phải là một sự đưa vào
thơ ngẫu nhiên mà có chủ đích của tác giả. Trong mỗi nhà Nguyện đều có đầy đủ
những thứ này- Đây là sự trang hoàng trong Thánh đường, một cách khang trang,
trọng thể và mỗi thứ đó đều mang trong nó một ý nghĩa khác nhau. Tất cả những
thứ ấy kết hợp hài hòa với nhau tạo cho con người một cảm giác thanh tịnh, bình
yên, đến với nơi đó ta như được trải nỗi lòng, quên đi hết những muộn phiền của
thế gian và trở về với cái tôi bản ngã của chính mình. Đó cũng là nơi lòng ta
tĩnh lại, tâm ta có thể lắng để hiểu sâu hơn thế giới nội tâm bên trong.. Hơn nữa,
đây còn là một sự tưởng tưởng của nhà thơ về một cõi Thiên đàng tràn ngập ánh
sáng và hương hoa, một niềm hạnh phúc vĩnh cửu của hết thảy con người đang
trông vọng về Đấng Cứu Thế.
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ…
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Một điều
hiển nhiên mà ai cũng biết về quá trình sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử là càng về
thời gian cuối đời thơ ông càng tha thiết sự thanh thản, an phận để chấp nhận
chứ không còn là sự gào thét điên cuồng, dữ dội như thơ những giai đoạn trước.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, thi sĩ trẻ đang chuẩn bị tâm tình dọn mình
cầu nguyện, ăn năn, sám hối để trở về cùng Chúa, cùng với các Thánh và Mẹ Maria
để đi vào cõi vĩnh hằng nơi Vườn Xuân Như Ý. Cái “rưng rưng hai hàng lệ” bởi
chàng đã nhận ra “nhân đức, từ bi” của các Đấng Tối Cao đã để cho chàng được
vui vẻ “hớp bao nhiêu khí vị” của cuộc sống thực tại trần gian. Hình ảnh Mẹ
Maria trong đoạn thơ gây một cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc bất kể người
theo tôn giáo hay không theo tôn giáo và hình ảnh này còn xuất hiện trong một số
bài thơ khác như: Nguồn thơm, Say thơ:
“Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc
Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng”
(Nguồn thơm)
Hay:
“Trăng tờ mờ một trời thơ sớm nở
Bao hoa hồng mầu nhiệm Nữ Vương xưa”
(Say thơ)
Rồi sự
ngợi ca, “khong khen”, cảm tạ còn được biết đến khi ngày đầu tiên Đức Trinh nữ
Maria nhận được ân sủng Thánh đức của Thiên Chúa từ sứ thần Gabriel:
Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe muôn vàn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng bằng hương hoa sáng lạng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh
“Chính trong cơn bệnh hoạn của Chàng, mỗi lần chàng chết đi sống
lại là chàng đều cảm thấy Bà Thánh Nữ đồng chinh Maria đến cứu chàng cả”. Vì thế,
Người là “Nguồn Trăng”, là “Nguồn đau chầu lụy Nữ Đồng Trinh” để cho tôi “Thắp
hai hàng cây bạch lạp” thể hiện lòng yêu mếm và “Sốt sắng cho đê mê nguyện ước”
của một con chiên sùng kính đang đón đợi ngày giờ được cất về trời bên hữu
Chúa. Và không ngừng hướng về “Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu bi”:
Tấu lạy Bà, Lạy bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu!
Bên cạnh đó, những lời thơ bung trào thể hiện lòng yêu mến niềm
tôn kính trọng vọng đến mầu nhiệm “Tình yêu Thiên chúa” đã mời gọi nhà thơ như
nguồn mạch suối mát tắm dịu cho tâm hồn đầy đau khổ:
Đây tất cả hỡi ôi mình Thánh Chúa
Của tế lễ là nguồn thương chan chứa
Đáng trọng thiên nhiên và rất đáng mong ơn
Ly tao rằng đàn ngọc cũng đeo đờn
Bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm
(Say thơ)
Màu sắc tôn giáo cũng thể
hiện rõ trong thơ Exenhin: đó là hình tượng gác mái nhà thờ, những gác chuông,
cây thánh giá,...
Bóng hoàng hôn là là sà xuống thấp
Trên mái tròn tầng tầng lớp nhà thơ
hay:
Ngày lễ thánh nhà thờ trên mọi nẻo
Hương mật ong táo chín tỏa ngất ngây
Bài thơ
“Thánh nữ đồng trinh Maria” đã đánh dấu một chặng đường quan trọng trong hành
trình tinh thần của tác giả. Hơn nữa, bài thơ như là một minh chứng cho sự cách
tân về ngôn ngữ thơ. Bài thơ có sự xuất hiện rất nhiều những từ ngữ của nhà Phật,
chẳng hạn như: “Từ bi”, “Ba ngàn thế giới” và rất nhiều từ ngữ khác gốc Phật
giáo đã được dùng theo mục đích đáp ứng yêu cầu của văn chương mà không hề mâu
thuẫn với nhau. Đồng thời với việc sử dụng từ ngữ thì bài thơ còn chịu ảnh hưởng
cả tư tưởng lẫn tinh thần của nhà Phật. Không những vậy, thơ Hàn Mặc Tử còn có
cả sự kết hợp của ngôn ngữ thơ ca với ngôn ngữ Thánh kinh công giáo. Mở đầu bài
thơ tác giả đã sử dụng ý tứ của Thánh vịnh trong Kinh thánh.
Như một con nai khát khao nguồn suối
Hồn con khao khát tìm Chúa, Chúa ơi !
“Song
lộc triều nguyên” với ý nghĩa hai con nai chầu suối, Hàn Mặc Tử đã rất tinh tế
và điệu nghệ để sáng tạo ra từ ngữ gọn và đầy đủ ý nghĩa như trong Thánh vịnh.
Thơ Hàn còn có cả những từ ngữ được dùng thường xuyên trong các lời kinh nguyện
và ngôn ngữ của Đạo Công giáo: Thiên đàng, kinh trọng thể, thánh thể, mầu nhiệm,
tràng hạt, tông đồ, …
Bài
thơ Thánh nữ đồng trinh Maria nói riêng và trong hành trình sáng tạo
nghệ thuật của Hàn Mặc Tử nói chung đã cho độc giả thấy được một con người sống
hết mình cho thơ và sáng tạo không ngừng. Với quan điểm “Sáng tạo là điều kiện
cần thiết, tối yếu của thơ”, thơ Hàn Mặc tử có một sự khác biệt về chất - Đó là
tư duy tôn giáo kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình trên cơ sở cái tôi cá
nhân hiện đại. Chính tư duy tôn giáo là một công cụ hiện hữu để nâng cánh cho
trực giác nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân bay cao, bay xa vào cõi siêu hình.
Bùi Ánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét