Đàn bà không mê trang sức
Qua con dốc dài kia, phía ngọn đồi xa xa, là đến nơi Hy ở.
Tôi tháo ba lô, chọn một phiến đá lớn nằm giữa lòng con suối cạn ngồi thở.
Bắt đầu từ chân con suối này, xe máy sẽ không leo lên được nữa.
Nghĩa là phải đi bộ, khoảng ba, hay bốn cây số thôi. Nơi Hy sống không heo hút
bất tử như những trường hợp được đưa vào phóng sự báo chí về những vùng miền xa
xôi. Kỳ thực, đây là lần đầu tôi đến thăm Hy. Ba năm trước Hy vào vùng này tham
gia một dự án trồng lê. Anh mê lê, loài cây có hoa màu trắng, thường là nở vào
mùa xuân. Tháng ba, hoa lê còn ấp màu trắng tinh khôi lên những mái nhà sàn ẩn lút
trong sương mù bất chợt.
Khoảng rừng trước mặt ngan ngát xanh. Tôi nhớ có một ông già
nói Tây bắc đẹp nhất vào mùa thu. Mùa thu, khắp núi rừng sông suối, cây cối phủ
màu xanh veo, không nhuốm một chút sắc vàng, sắc đỏ. Mùa thu vàng dường như chỉ
đúng với nơi nào đó, với ai đó. Mùa thu Tây bắc xanh trong khiến người ta xúc động
vô ngần. Xanh quá, đẹp quá, lặng lẽ quá. Nhưng ngoài mùa thu xanh, mùa xuân Tây
bắc chính là mùa hoa đẹp. Đó lại là vẻ đẹp trinh khiết của những loài hoa màu
trắng.
Thiên nhiên của ngày xưa đẹp. Cái đẹp bắt nguồn từ rất xưa,
khi có những triền đồi, thung lũng mênh mông, vì một ngẫu nhiên hay cố ý sắp đặt,
chỉ thuộc về một loài cây, loài hoa rừng nào đó. Những rừng mận, mơ không ai trồng,
được thiên nhiên gieo cấy đã thấm đẫm hơi đá núi, hơi nước của những dòng sông
lớn, những dòng suối trong, gió núi mây ngàn... mà đơm hoa kết trái. Ông già
nói ông vô cùng xúc động không phải vì mận rừng bát ngát vô chủ mà vì vẻ đẹp của
hoa mận. Mỗi người yêu hoa đều có lý do hay không có lý do nào cả nhưng quan trọng
vẫn là cảm nhận của riêng họ về loài hoa ấy. Hoa mận có vẻ đẹp khiến ông cảm động.
Nó chứa đựng một sự tinh khiết dung dị mà không sao có thể tách nghĩa rạch ròi.
Tôi hình dung ông, người lính trẻ đang cưỡi ngựa thong dong
khắp các sườn đồi, thung lũng, dòng suối, bản làng Tây bắc. Người lính ấy xúc động
ghìm cương ngựa, nghĩ về ngày mai, ngày mai...
Bây giờ, trong gió xuân của núi rừng, một mùi hương nhẹ của một
loài cây thơm đang ẩn mình đâu đó trong ngan ngát rừng xanh kia. Tôi sẽ gặp Hy
trong khoảng một giờ nữa. Người ta nói chắc chắn Hy còn ở đó, dù ba năm nay anh
không hề liên hệ với bên ngoài bằng điện thoại hay thư từ gì hết.
Vì sao tôi lại đang tìm Hy giữa trập trùng xanh thẳm này?
Lúc Hy gọi, tôi đang đứng trên một đồi chè miền trung du.
“Có chuyện gì vậy?” - Tôi hờ hững.
“Vợ anh đòi ly dị”. - Hy trả lời, giọng trầm trầm, không rõ
có phải vì buồn.
“Anh trả lời sao?”.
“Anh đồng ý, nhưng anh sẽ nuôi con.”
Tôi kéo lê cảm giác bải hoải chán chường xuống chân đồi, một
vạt cúc mặt trời mọc hoang đang nở vàng rực. Hy lại gọi:
“Em về Hà Nội được không? Anh hoang mang quá.”
Hai năm sau cuộc chia tay với Hy, dù còn nhớ Hy tha thiết, và
thậm chí đã kết hôn, tôi mới đủ can đảm để chấp nhận một sự thật rằng tôi và Hy
chia tay là đúng đắn. Cuộc tình ấy nếu kéo dài chỉ khiến hai người thêm tổn
thương. Chúng tôi khác nhau nhiều quá. Hy bảo tôi là người không có tham vọng,
phụ nữ không mê trang sức thì không có dã tâm. Không có dã tâm thì không làm được
việc lớn, dễ bằng lòng với cuộc sống. Hy cần có cuộc sống khác với hiện tại.
Ngày ấy, chúng tôi ai cũng nghèo.
Hôm đó, tôi về đến Hà Nội thì trời đổ mưa. Mưa bão, Hy đang ở
nhà, có vẻ như vừa ngủ dậy sau một chuỗi ngày chìm trong bia rượu và chán nản.
Bằng chứng là một đống vỏ bia lon vẫn nằm trong chiếc sọt rác xó nhà, mấy con
ruồi vo ve đậu xuống lại bay lên.
“Anh đau khổ đến thế kia à?”
Tôi mai mỉa mà lấy chân đá vào cái sọt rác. Trong sọt, không
chỉ vỏ lon bia, mà bức ảnh cưới của vợ chồng Hy cũng bị lũ ruồi bu.
Tôi lấy chiếc lược màu hổ phách chải mái tóc rối bù của Hy,
như ngày yêu nhau tôi vẫn làm. Hy yên lặng để những ngón tay tôi vuốt nhẹ lên
mái tóc đã pha nhiều sợi bạc. Tóc chúng tôi đều bạc nhiều hơn những người cùng
độ tuổi.
Ngôi nhà của vợ chồng Hy vừa mới được xây xong, gần như đã
hoàn thiện, chỉ duy có cầu thang kéo từ tầng trệt lên tầng ba là chưa lắp tay vịn,
nhìn nó cứ hun hút đầy bất trắc. Hy bảo gã chủ thầu công trình không chịu lắp
tay vịn, dù cả tỉ lần Hy giục. Và chính vì cầu thang chưa có tay vịn đó mà nếu
thiếu bản lĩnh, Hy có thể đã rơi từ tầng hai xuống tầng trệt và chuyển hộ khẩu
xuống suối vàng khi đẩy cánh cửa khép hờ, thấy vợ mình đang chơi trò chồng vợ
cuồng nhiệt với chính tên chủ thầu ngôi nhà. Không đầy một tuần sau vợ Hy đệ
đơn ly dị, và dường như, cô ta đã chuẩn bị cho việc đó từ rất lâu rồi.
“Chị biết đấy, sau khi sinh bé Bom, bác sĩ bảo em không thể
sinh thêm con nữa. Ly hôn, Hy có thể cưới vợ mới và sinh con; còn em, nếu mất
bé Bom, em sẽ không còn gì nữa”.
Tôi đến gặp vợ Hy với vai trò “thuyết khách”, nhưng tôi không
nhìn cô ta. Nói cho đúng, tôi nhìn cô ta mà không để tâm. Tôi nhìn những ngón
tay đặt trên bàn của mình, ngoan ngoãn, hiền lành. Người ta bảo vợ Hy đeo nhiều
trang sức đến nỗi nếu gỡ bỏ tất cả chúng ra, thì cô ta chẳng còn một mảy may
giá trị. Hy cưới cô ta cũng vì những thứ lấp lánh ấy.
Tôi chưa bao giờ mang một thứ gì lấp lánh trên người, dù
chúng được các nhà thời trang đính lên trang phục một cách có chủ ý. Những ngón
tay của tôi không đeo nhẫn, cổ, tai và tay tôi không đeo bất cứ một thứ trang sức
nào khác. Đôi khi tôi tự hỏi, điều gì ở những tiệm kim hoàn chưa bao giờ khiến
tôi quan tâm, ngay cả khi tôi đã có nhiều tiền từ cuộc hôn nhân mà ban đầu tôi
cứ ngỡ mình đã yêu, đã quên vết thương lòng?
Bất cứ lý do ngoại tình nào cũng khiến những người làm chồng,
làm vợ bị tổn thương. Cái cảm giác khinh bỉ như độc dược, mỗi ngày một ngấm sâu
vào trái tim, nó hủy hoại Hy. Và, trên tất cả, nó muốn trả thù. Hy không thể để
vợ nuôi đứa trẻ, đơn giản là Hy yêu cậu bé, và cũng vì Hy muốn cô ta chết dần
chết mòn trong cô độc.
Cuộc chiến giành quyền nuôi con của vợ chồng Hy hóa ra dữ dội
và quyết liệt hơn chúng tôi tưởng. Bên nào cũng có lý do chính đáng để đòi chiến
thắng. Ba tháng trôi qua, Hy tàn tạ như một tử tù trước ngày ra pháp trường.
Tôi không ngờ là mình lại có thể nói:
“Thôi, anh bỏ đi, anh sẽ lấy vợ mới, sẽ có con mà”.
“Khốn kiếp. Em mà cũng nói thế à?”.
Hy gầm lên. Mắt đỏ đòng đọc. Tôi lặng người đi, cảm thấy lòng
tự ái bị giội một gáo nước lạnh.
Nhưng chính lúc tôi muốn bỏ đi, quên phứt Hy cùng nỗi khổ vợ
con của anh ta, thì Hy níu tôi lại:
“Anh nghĩ nhiều lắm rồi, giờ chỉ còn một cách thôi. Em thử
xem, có thể...”.
Người đàn bà này từ đầu đã không xuất hiện trong câu chuyện của
chúng tôi, vợ chồng Hy, người tình của vợ Hy, con trai Hy, và tôi, một thời là
người yêu của Hy. Nhưng đến giờ, bà ấy xuất hiện, với một vai trò quan trọng.
Người đàn bà có vẻ hiền lành. Nghe nói khi còn trẻ bà cũng từng
trải qua nhiều tháng năm đau khổ, một mình nuôi vợ Hy ăn học, vì ông chồng
quanh năm bồ bịch, yêu đương nhăng nhít. Nhẹ nhàng cầm tay con rể, bà ta nghẹn
ngào:
“Mẹ làm thế này là có tội với con gái mẹ.
Ai đời...”.
Con đường nhỏ chỉ vừa một chiếc xe máy đi khéo được người ta
đẽo ngang những ngọn núi. Nhìn xuống bên dưới, những nóc nhà của một xóm bản chỉ
nhỏ như bao diêm. Mồ hôi đổ ướt đầm lưng. Cái ba lô trở nên nặng như một trái
núi, tôi chỉ muốn hất văng nó xuống vực. Nhưng trong ba lô ấy, có lẽ là thứ duy
nhất tôi có thể đem đến cho Hy. Vì nó, tôi đã chủ động tìm đến Hy, dù không chắc
Hy còn ở đó.
Để có được sự đồng tình của mẹ vợ, Hy đã chấp nhận nhượng lại
tất cả. Ngôi nhà mà Hy dành dụm trong bao nhiêu năm tháng làm lụng, mua đất, dựng
nên rồi trong chính căn phòng hạnh phúc của mình mà Hy chưa được ngả lưng giây
phút nào, đã chứng kiến cảnh vợ mây mưa cùng người đàn ông khác. Hy cũng để lại
chiếc ô tô sang trọng của mình cho vợ. Cô ta đã mất tuổi trẻ cho Hy, giờ cô ta
phải được bù đắp để có thể xây dựng một gia đình mới.
Hy chỉ còn lại công việc và đứa con trai. Đứa trẻ như một
thiên thần. Hy nói, sẽ đưa con trai lên Tây bắc. Ở đó, Hy sẽ làm lại từ đầu, sẽ
tránh xa mọi ưu phiền.
Nửa năm sau, câu chuyện ly hôn, giành quyền nuôi con của Hy
đã hoàn tất. Hy chuẩn bị lên Tây bắc. Chúng tôi tổ chức một buổi liên hoan linh
đình.
Đêm chia tay, tôi và Hy đứng trên cầu sông Hồng gió lộng. Hy
bảo:
“Em không thích trang sức à? Đàn bà ai chẳng mê trang sức”.
“Em bị dị ứng với vàng”. - Tôi trả lời.
Hy cầm tay tôi. Bàn tay anh ta bối rối, lóng ngóng, vừa muốn
giữ thật chặt, nhưng lại vừa muốn buông. Tôi biết điều đó khiến anh ta khó xử.
Đêm khuya, những làn gió mang hơi lạnh của nước và sự cô đơn. Tôi cảm thấy lạnh,
bỏ về.
Hy đưa con trai lên Tây bắc, cắt đứt mọi liên lạc với chúng
tôi, cứ như chúng tôi là cục nợ của quá khứ, cần xóa bỏ vĩnh viễn, để làm lại từ
đầu. Nào ngờ, tôi nhận được một tin đau nhói: Vợ Hy đã giành lại được đứa con.
Cô ta đã đưa ra mọi bằng chứng chứng minh đứa trẻ không phải con Hy.
Vậy là, Hy đành bỏ vào rừng trồng lê, theo đuổi một dự án mà
hơn mười năm trước người ta bỏ dở. Hy bảo lê là biểu tượng của chia ly. Nhưng
Hy vẫn yêu hoa lê, yêu màu trắng trong ngần của chúng.
Ngôi nhà của người trồng lê nằm chon von trên đỉnh một ngọn đồi,
trước nhà có một cây quế cổ thụ. Tôi vin cành bẻ một lá quế già, mùi hương thơm
ngát làm tôi như tỉnh hẳn sau một cơn mê dài. Không có ai ở nhà. Tôi nhìn quanh
những ngọn đồi trước mặt, không thấy bóng dáng một cây lê nào. Ai đó nói dự án
đã không thành, người ta đã tính toán sai các quy trình kỹ thuật nên lê mới trồng
đã chết hết.
Nhưng sao Hy không trở về? Tôi đứng tần ngần trong sân. Nếu gặp
Hy, tôi sẽ nói gì với Hy nhỉ, tôi sẽ giải thích sao về việc tôi đến đây. Tôi có
thể nào chỉ đến để nói với Hy rằng đứa con trai của vợ cũ Hy đã chết. Đứa bé
ngã từ tầng ba ngôi nhà xuống, vì mẹ nó vẫn mê mải đuổi theo các cuộc tình, mà
không làm tay vịn cầu thang. Tôi mang theo trong ba lô bức ảnh Hy bế con trai
trong những ngày còn hạnh phúc.
Trong mùi hương thơm ngát của lá quế già, tôi thấy dưới chân
đồi thấp thoáng bóng hai người đang đi đến. Một người đàn ông, một người đàn
bà. Chẳng biết có phải Hy không, chỉ cảm thấy hình như họ đang vui lắm...
Phạm Thanh Thúy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét