Hàn Mặc Tử - Một hiện tượng độc đáo
Hàn Mặc Tử (1912-1940) là một trong những nhân vật bí ẩn và kỳ
lạ nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Như “một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời
văn học”, với mười năm sáng tác, Hàn Mặc Tử đã kiến trúc một ngôi nhà thơ của
riêng mình vừa khuôn thước, mẫu mực vừa phiêu bồng, biến ảo và vượt thoát khiến
những nhà nghiên cứu văn học từ trước tới nay vừa hứng thú, vừa bối rối trong
những phỏng đoán “Hàn Mặc Tử, anh là ai”? Cổ điển hay là tân kỳ, huyền thoại
hay là hiện thực, thiên tài hay là kẻ mê hoặc, điên loạn. Nhưng dù Hàn Mặc Tử
là như thế nào, có một điều không thể phủ nhận: ông đã để lại dấu ấn không nhòa
phai trong lịch sử văn chương dân tộc.
Có lẽ không có một người thơ nào trong phong trào Thơ mới nói
riêng và thi ca Việt Nam nói chung lại mang trong mình một nỗi đau thương quằn
quại về thân xác cũng như về tinh thần, bị dồn ép, tàn phá khốc liệt về mọi
phương diện của cuộc sống vì một trong “tứ chứng nan y”- bệnh phong như Hàn Mặc
Tử. Dù đồng cảm hoặc chia sẻ đến bao nhiêu với số phận cay nghiệt của Hàn Mặc Tử,
người đồng thời hay chúng ta hôm nay đều không bù đắp được nỗi tổn thương, sự
tuyệt vọng, nỗi buồn và sự cô đơn mà thi nhân phải chịu đựng từ lúc mang bệnh
(1936) cho đến khi giã biệt cõi trần (1940), với tuổi đời 28. Mọi người trên
trái đất này đều có thể bị bệnh, đều có thể ra đi nhưng là thứ bệnh khác, không
bị xa lánh, bị biệt lập với thế giới con người như căn bệnh của Hàn Mặc Tử.
Như có một sự bù trừ của tạo hóa, sự bất hạnh về tinh thần, nỗi
đau thân xác, cộng với bản năng sáng tạo đã chắp cánh cho thiên tài và thi ca
Hàn Mặc Tử, đưa thi sĩ lên đỉnh cao của văn chương, nghệ thuật hiện đại. Từ những
năm ba mươi của thế kỷ, trong tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc Tử đã có ý thức
đi tìm cái lạ và nung nấu thi hứng sáng tạo ở một cường độ cao: “Tôi đã sống
mãnh liệt và đầy đủ - sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn.
Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn hờn giận đến gần
đứt sự sống”. Thơ với Hàn Mặc Tử là sự nới rộng biên độ và khám phá chiều sâu
tâm linh “vườn tôi rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh” (1). Nói như Vũ Ngọc Phan: “Về sự thành thật,
có lẽ Hàn Mặc Tử hơn hết cả các nhà thơ hiện đại” (2).
Trong bản chất sáng tạo thơ ca của mình, Hàn Mặc Tử dường như bao giờ cũng muốn
khai thác đến tận cùng chất liệu cái tôi, cái hành trạng của mình. Không phải
ngẫu nhiên mà Hàn Mặc Tử cho rằng Người thơ phong vận như thơ ấy. Trong cơ
cấu nghệ thuật của thơ mình, Hàn Mặc Tử đã từ trạng thái đau thương bên trong
chuyển hóa thành trạng thái sáng tạo thi ca. Nếu không mắc bệnh phong thì Hàn Mặc
Tử đã không để ý đến những biểu lộ khác thường: Người trăng ăn vận toàn
trăng cả/ Gò má riêng thôi lại đỏ hườm. Hoặc cái cảm giác chỉ người “đồng bệnh”
mới phát hiện ra: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/ Mỗi lời thơ
đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê man
chết điếng cả làn da (Rướm máu)
Chỉ có thi sĩ Hàn Mặc Tử là người trong cuộc mới diễn tả, biểu
đạt một cách chân xác và thành thực nỗi đau về thể xác, về tâm linh của chính
mình: Thịt da tôi sượng sần và tê điếng/ Tôi đau vì rùng rợn đến vô
biên. Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/ Cho trăng ngập dồn lên tới
ngực (Hồn là ai)
Nếu không bị bệnh tật hành hạ, nếu không có một bản năng thi
sĩ thì Hàn Mặc Tử không thể viết những câu thơ: Áo ta rách rưới trời không
vá/ Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng. Hoặc Trời hỡi trời nhờ ai cho khỏi
đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn. Chỉ có Hàn Mặc Tử mới nói về số mệnh, về hoàn
cảnh riêng, về đời tư của mình một cách cao khiết, thi vị và đầy ẩn dụ như vậy.
Trong sáng tạo thi ca, không phải lúc nào cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình
cũng trùng khít với chủ thể sáng tạo nhưng với người đã trải qua “kinh nghiệm
đau thương” như Hàn Mặc Tử, thơ ông bao giờ cũng bắt nguồn từ nỗi niềm của bản
thể, ta hiểu vì sao với ông “không rên xiết là thơ vô nghĩa lý”: Một khối
tình nức nở giữa âm u/ Một hồn đau rã lần theo hương khói/ Một bài
thơ cháy tan trong nắng rọi/ Một lời run hoi tóp giữa không trung/ Cả
niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng/ Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn/ Đấy
là tất cả người anh tiêu tán/ Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ/ Cùng
tình em tha thiết như văn thơ/ Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế (Trường
tương tư)
Nhân vật trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử như ở trạng thái phân
thân, muốn được giải thoát ra khỏi sự giam cầm của thể xác, của bản năng loài
người, vượt ra ngoài vòng kiểm soát của lý trí, sống trong thế giới vô thức, tiềm
thức, phiêu diêu trong những giấc chiêm bao huyễn hoặc và huyền bí: “Như có ma
lực vô song xô tôi đến bờ huyền diệu” và “từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông
lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết” (Chiêm
bao với sự thật): Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn
trong ánh sáng mông lung/ Để tìm em đưa hai tay ràng rịt/ Mảnh tình
thiêng ngả ngớn giữa không trung (Sáng láng)
Trên hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử, thi ca chính là sự
cứu rỗi của người không thể ôm trọn cuộc sống trong tay. Ta đã từng thấm thía với
tâm trạng chết khi đang sống của nhân vật trí thức nghèo trong văn xuôi Nam Cao
lại càng đồng cảm hơn với tâm trạng của người sống trên cái chết đang đến trong
thơ Hàn Mặc Tử. Không phải vô cớ mà cảm xúc trong thơ Hàn Mặc Tử lúc nào cũng
phát triển đến tột bực, trong trạng thái thăng hoa xuất thần: Ta bay lên!
Ta bay lên!/ Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thềm/ Ta ở trên cao nhìn trở xuống/ Lâng
lâng mây khói quyện trăng đêm (Chơi trên trăng)
Với tâm hồn siêu thoát, luôn khát khao vươn tới cõi huyền bí,
vô thường, thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh bởi các yếu tố trăng, hồn,
máu. Đó là những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc, giăng mắc dày đặc trong cảm hứng
thi ca của Hàn Mặc Tử, tạo ra một giọng thơ đặc biệt, không chia sẻ âm hưởng với
bất kỳ ai.
Trong thơ Hàn Mặc Tử ngập những trăng, trăng lấp đầy thi hứng,
trăng cưu mang niềm mơ ước của thi nhân. Trăng xóa nhòa ranh giới giữa mộng ảo
và trần thế: “Bây giờ chúng tôi đương ở giữa mùa trăng, mở mắt cũng không thấy
đâu rõ là chín phương trời, mười phương Phật nữa. Cả không gian đều chập chờn
trong những màu sắc phiêu diêu đến nỗi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói
lói. Ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như cả bầu thế giới
chỗ chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến
một địa cầu nào khác” (Chơi giữa mùa trăng).
Có người đã nói với thơ trăng, Hàn Mặc Tử xứng đáng là hậu duệ
của Lý Bạch (1). Với Hàn Mặc Tử
“chỉ có trăng sao là bất diệt, cái gì khác nữa thảy đi qua”. Tính phi thời
gian, không gian đã chiếm lĩnh hồn thơ Hàn Mặc Tử, dẫn ông đến cái vô cùng: Vỡ
toang ra từng mảnh cả không gian/ Cả thời gian từ khai thiên lập địa/ Đều
trộn trạo, điều hoà và xí xoá.
Hàn Mặc Tử đã người hoá, vật hoá trăng, biến tính chất tĩnh,
lạnh, xa lạ của trăng trở nên nồng nàn, rạo rực, gần gũi: Từ Bóng nguyệt
leo song sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn (Thức khuya) đến Ô
kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe (Bẽn lẽn). Là
người luôn lạ hoá phương thức diễn đạt, cũng với hình tượng trăng, Hàn Mặc Tử lại
trăng hoá người: Gió rít từng cơn trăng ngã ngửa/ Vỡ tan thành vũng đọng
vàng khô. Hoặc Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình ái của ni cô.
Trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu là nhà thơ có nhiều bài về
trăng: Trăng, Nguyệt cầm, Buồn trăng. Nhưng trăng với thơ Xuân Diệu là biểu
tượng của cái đẹp thuần tuý, trăng là đối tượng, là khách thể. Còn những bài
thơ trăng của Hàn Mặc Tử: Say trăng, Ngủ với trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử,
Chơi trên trăng, Một miệng trăng lại có sự giao thoa, hoà hợp giữa trăng
và người:Tiêu đưa tôi bay lên cung trăng/ Tôi phiêu diêu cùng ngàn sao
băng/ A ha! Lòng tôi trăng là trăng/ A ha! Trăng tràn đầy châu thân (Tiêu
sầu). Hơn thế nhà thơ còn hoá thân vào trăng, biến thành trăng: Không gian
dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng (Huyền ảo). Thậm
chí còn rao bán cả trăng: Trăng, trăng, trăng là trăng, trăng, trăng/ Ai
mua trăng tôi bán trăng cho (Trăng vàng, trăng ngọc)
Bên cạnh trăng, hồn và máu cũng là sinh lực của nguồn thơ Hàn
Mặc Tử, tạo nên một cảm xúc thẩm mỹ riêng biệt trong thơ ông, mê man mà quyến
rũ, với hồn ở trong hồn mà vẫn không “bớt nỗi bi thương”: Ôi! hồn
thiêng liêng khôn bề chết đặng/ Làm sao hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên/ Ngày
tận thế là ngày thôi tán loạn/ Xác của hồn, hồn của xác y nguyên/ Đêm
nay ta khạc hồn ra khỏi miệng/ Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương/ (Hồn lìa khỏi
xác). Để quên đi những đớn đau đang xâm nhập, dày vò vào một thân xác “tan rữa”
hàng ngày hàng giờ, Hàn Mặc Tử buộc phải vượt qua đau thương, điên loạn chấp nhận
một sự an bài: Ta trút linh hồn giữa lúc đây/ Gió sầu vô hạn nuối
trong cây/ - Còn em sao chẳng hay gì cả?/ Xin để tang anh đến vạn
ngày (Trút linh hồn)
Đọc những câu thơ về máu của Hàn Mặc Tử, ta thường gặp những
động từ chỉ sự bất ngờ, đột ngột, không cưỡng lại được: Ta đã mửa ra từng
búng huyết, Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra, Ta sẽ hộc ra từng búng huyết, Anh cắn
lời thơ để máu trào, Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết.
Trăng, hồn, máu là ba khía cạnh khác nhau của tư duy nghệ thuật
Hàn Mặc Tử nhưng chúng lại dằng dịt trong mối liên hệ hữu cơ, tồn tại bởi một hệ
quy chiếu: từ sự đau đớn, hiện hữu của thân xác đau thương, của tình yêu tuyệt
vọng. Ở những bài thơ của ông, người ta không chỉ đọc mà còn phải sống trong
nó.
Một nét đặc biệt làm nên sự đa dạng trong thi hứng Hàn Mặc Tử
là nguồn thơ về đạo, về tôn giáo. Nếu Nguyễn Trọng Trí là một tín đồ thiên
chúa, thì Hàn Mặc Tử là một thi nhân. Vị tín đồ, con chiên ngoan đạo và chàng
thi sĩ họ Hàn lại là một. Với nhà thơ thì sáng tạo nghệ thuật, thiên chức nghệ
sĩ là tối cao, duy nhất. Hàn Mặc Tử không thể không kết hợp giữa yêu cầu về đức
tin, tín ngưỡng của tôn giáo với những đòi hỏi không thể cưỡng lại của sự sáng
tạo. Trong một chừng mực nào đó, sự cám dỗ của một Hàn Mặc Tử nhà thơ đã lấn át
một Nguyễn Trọng Trí tín đồ. Thơ tôn giáo ra đời với Hàn Mặc Tử, như quan niệm
của thi sĩ: “Tôi dung hòa cả hai thể văn chương tôn giáo: Thiên chúa và nhà Phật.
Đó chỉ là muốn làm giàu cho nền văn chương chung” (1).
Trong ý thức về con người cá nhân, coi trọng sự sống và cái
chết, trong sự bủa vây, đe doạ của tử thần, trong sự truy đuổi gấp gáp của thời
gian, đâu là cơ hội sau cùng của nhà thơ, đâu là sự cứu rỗi cho số kiếp hữu hạn,
phải chăng đó là niềm tin vào một Đấng: Tôi van lơn thầm nguyện chúa Giêsu/ Ban
ơn xuống cho mùa xuân hôn phối/ Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi/ Của
bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng/ Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng (Đêm
xuân cầu nguyện)
Nhưng với tư cách là một nhà nghệ sĩ, Hàn Mặc Tử không giới hạn
đề tài trong một phạm vi sáng tạo, kể cả khi nói về Đạo. Hàn Mặc Tử “trong khi
ôm một lý tưởng thơ, đi tìm cảm hứng đã gặp đạo và tìm được đạo trong nhiều đề
tài, nhiều thanh sắc, tư tưởng để làm giàu cho thơ mình” (1).
Tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử là những gì thanh khiết, thiêng liêng đã được
lãng mạn, thi vị hóa mất dần đi vẻ trang nghiêm tuyệt đối của tín điều, kinh điển: Tấu
lạy bà, lạy bà đầy ơn phước/ Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm/ Thơ
trong trắng như một khối băng tâm/ Luôn reo trong hồn trong mạch máu!/ Cho
vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu/ Cho đê mê âm nhạc và thanh hương/ Chim
hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng/ Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ/ Sẽ
ngây ngất bởi chăng thơ đầy ý/ Nguồn thiêng liêng yêu chuộng mẹ sầu bi (Thanh
nữ đồng trinh Maria)
Hàn Mặc Tử sống trong nguồn đạo cũng là sống trong nguồn thơ.
Lúc này nỗi đau trong tâm hồn nhà thơ được băng bó, xoa dịu. Nhiều bài thơ với
ý tưởng thanh khiết, thánh thiện ra đời: Điềm lạ, Nguồn thơm, Xuân đầu
tiên, Đêm xuân cầu nguyện, tập hợp trong hai tập Xuân như ý và Thượng
Thanh khí: Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ/ Nên tiếng vang thầm dội
đến thâm tâm/ Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở/ Giữa đêm nay còn đứng
giảng phúc âm/ Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước!/ Phút thiêng
liêng nhuần gội ánh thiều quang/ Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước/ Như
triều thiên vờn lượn khắp không gian (Nguồn thơm)
Những bài thơ xuân của Hàn Mặc Tử như bay cao, siêu thoát nhờ
tư duy tôn giáo của nhà thơ, đưa thơ ông vào một cõi riêng, khác lạ với thơ
xuân của các thi sĩ cùng thời. Trong khi thơ xuân của Nguyễn Bính rất người, gắn
với trần thế, đời thường thì thơ xuân Hàn Mặc Tử như có cánh, lúc nào cũng ở tư
thế bay lên, vượt thoát (Bay giang hồ, thơ bay, hồn tôi bay,
lòng bay xa, vỗ cánh bay) đến với vũ trụ trinh nguyên tự thuở
ban đầu: Thuở ấy càn khôn mới dựng nên/ Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên/ Người
thơ phong vận như thơ ấy/ Nào đã ra đời ngọc biết tên (Xuân đầu tiên)
Dù thơ Hàn Mặc Tử có tỏ lòng mộ đạo, sùng kính Chúa, với
Thánh nữ Maria, cũng không thể gọi ông là nhà thơ tôn giáo. Theo Quách Tấn: “Tử
là một nhà thơ đi vào vườn hoa tôn giáo chỉ để tìm hương phấn về ướp cùng hương
thơ đó mà thôi. Bởi vậy không thể gọi Hàn Mặc Tử là nhà thơ tôn giáo. Tử là một
nhà thơ thuần túy” (1). Đối với một
con người mà cuộc đời là một chuỗi những đau thương bất hạnh như Hàn Mặc Tử thì
thơ bao giờ cũng là cứu cánh: Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh/ Không
mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ (Say thơ)
Hàn Mặc Tử không chỉ nổi tiếng về thi ca mà còn nổi tiếng với
những người phụ nữ đi ngang qua cuộc đời ông, với những mối tình tuyệt vọng của
thi nhân. Cũng như các nhà thơ của phong trào Thơ mới, tình yêu là nguồn cảm hứng,
là đường dẫn đến với “nàng thơ” của Hàn Mặc Tử. Nhưng có lẽ không nhà thơ nào kể
cả Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu… lại có nhiều bóng dáng khuynh thi, bóng
dáng người tình trong thơ như Hàn Mặc Tử. Những Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình,
Ngọc Sương, Thương Thương đã tạo nguồn thi hứng với nhà thơ trong những thi phẩm
vừa gần gũi vừa xa xôi, vừa tràn đầy khát khao, mộng tưởng vừa đắng cay, tuyệt
vọng. Nhưng tuyệt vọng không phải là chấm dứt mà tuyệt vọng để lại tiếp tục sống
và yêu. Tình yêu tuyệt vọng đã trở thành cảm quan nghệ thuật trong thơ tình Hàn
Mặc Tử. Theo Chế Lan Viên: “Hàn Mặc Tử đã có những câu thơ tình hay vào bậc nhất
trong thi ca Việt Nam hiện đại. Những câu thơ như tiếng kêu tự đáy lòng, lời
thơ như dính máu, dính hồn và nước mắt thi sĩ” (1).
Tập thơ Gái quê in đậm dấu ấn mối tình đầu của Hàn
Mặc Tử. Mối tình dở dang, vô vọng với Hoàng Cúc đã khiến nhà thơ hụt hẫng chơi
vơi. Chàng thi sĩ lần đầu tiên nếm vị của tình yêu đã tiễn biệt tình yêu đầu bằng
một nỗi buồn khó tả: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ/ Em lấy chồng rồi hết
ước mơ/ Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng/ Ngồi lên để thả cái hồn thơ (Em
lấy chồng)
Sau mối tình đầu, Hàn Mặc Tử kết thân với Mộng Cầm. Tại lầu
Ông Hoàng (Phan Thiết), Hàn Mặc Tử đã bầy tỏ tình yêu với Mộng Cầm. Đó là mối
tình đầy ấn tượng, thơ mộng và lãng mạn trong đời Hàn Mặc Tử. Nhưng trong thời
điểm nhà thơ phải sống cách ly, tuyệt giao với bạn bè, Mộng Cầm đã sang ngang.
Dẫu biết người đẹp khó có thể gắn bó cuộc đời với một người mắc bệnh nan y như
mình nhưng Hàn Mặc Tử vẫn cảm thấy đất trời như sụt lở, như chết nửa con người: Người
đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ (Những giọt lệ). Mối tình
với Mộng Cầm trĩu nặng trong tập Đau thương.
Để thoát khỏi thân xác bị đoạ đầy trong đau đớn, tinh thần bị
giam hãm trong cô đơn Hàn Mặc Tử trở lại lầu Ông Hoàng tìm lại tình yêu trong
ký ức. Nơi chốn hẹn hò của một thời còn đó mà người đẹp đã xa rồi. Thi sĩ không
kìm nổi tiếng nấc nghẹn ngào cất lên từ một cái tôi tuyệt vọng: Ta lang
thang tìm tới chốn Lầu trang/ Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/ Nơi
đã khóc, đã yêu đương da diết/ Ôi trời ơi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!/ Mà
tang thương còn lại mảnh trăng rơi/ Ta đến nơi - Nường ấy vắng lâu rồi/ Nghĩa
là chết từ muôn trăng thế kỷ (Phan Thiết! Phan Thiết!)
Trong đời Hàn Mặc Tử, sự hiện hữu của nữ sĩ Mai Đình trong những
ngày nhà thơ trọng bệnh là tình trong tâm tưởng, là cảm ứng giữa những tâm hồn
nghệ sĩ ái mộ thơ ca: Thơ em cũng giống lòng em vậy/ Là nghĩa thơm
tho như ánh trăng/ Mềm mại như lời tơ liễu rủ/Âm thầm trong áng gió bâng
khuâng/ Anh đã ngâm và thuộc làu/ Cả người rung động bởi thương đau/ Bởi vì mê
mẩn vì khoan khoái /Anh cắn lời thơ để máu trào (Lưu luyến)
Hàn Mặc Tử còn cảm người trong ảnh, đó là Ngọc Sương, chị gái
của thi sĩ Bích Khê, bạn thân của Hàn Mặc Tử. Mối tình với Ngọc Sương chỉ là
thoáng cảm hư thực trong đời Hàn Mặc Tử, như bẩy sắc cầu vồng hiện lên trong
khoảnh khắc: Ta để chữ Ngọc trên tàu lá/ Sương ở cung thềm gió chẳng
thôi/ Tình ta khuấy mãi không thành khối/ Nư giận đòi phen cắn phải
môi (Người ngọc)
Cám cảnh cho những mối tình dang dở, không thành của Hàn Mặc
Tử, bạn thân của ông là Trần Thanh Địch giới thiệu Thương Thương là một nữ sinh
trường Đồng Khánh rất mê thơ Hàn Mặc Tử, muốn làm quen với nhà thơ (1). Thực ra đây là “cái kế” mà Trần Thanh Địch
nghĩ ra hòng khỏa lấp những khoảng trống trong trái tim đa tình, đa cảm của Hàn
Mặc Tử. Đó là những bức thư do chính ông viết, ký tên Thương Thương gửi cho Hàn
Mặc Tử. Nào ngờ cái tên Thương Thương lại đầy sức quyến rũ và thi vị đối với
Hàn Mặc Tử, đã khơi mạch một nguồn thơ thần tiên, sáng láng và trong trẻo dưới
ngòi bút sáng tạo điêu luyện, tài hoa của thi nhân.
Chỉ với hình ảnh Thương Thương trong tưởng tượng, hư cấu mà
người đọc có được tập thơ tình Cẩm Châu duyên, hai vở kịch thơ Duyên
kỳ ngộ và Quần tiên hội. Những thi phẩm cuối đời của Hàn Mặc Tử đã diễn
tả đầy đủ nhạc điệu, những cung bậc rung cảm của tâm hồn thi sĩ: Hương trầm
bâng khuâng quyện mình hoa/ Nhịp nhàng nường đi theo nhịp đàn/ Âm thanh
lên cao nhạc lừng ran/ Tôi lại gần bên ồ! Lạ thường! Nường trăng. Ô! Chính
là Thương Thương (Tiêu sầu)
Trong kịch thơ của Hàn Mặc Tử hiện ra một thế giới mới, đó là
chốn bồng lai tiên cảnh thơ mộng và huyền ảo, ở đó con người và cảnh vật như được
tắm gội trong không khí mộng mơ và siêu thoát. Nhưng tất cả chỉ là giấc mộng
tình, giấc mộng Thương Thương. Khi sự thật về Thương Thương đến với Hàn Mặc Tử,
ông thật sự bị gục ngã, nguồn thi hứng bị đứt đoạn rồi tắt lịm. Quần tiên
hội mãi mãi dở dang, Hàn Mặc Tử mãi mãi là “thi sĩ đồng trinh”. Chắc phải
có một linh cảm nào đấy, Hàn Mặc Tử mới vận vào mình những câu thơ đầy mặc cảm
về thân phận: Một mai kia ở bên khe nước ngọt/ Với sao sương anh nằm chết
như trăng/ Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc/ Đến hôn anh và rửa vết
thương tâm (Duyên kỳ ngộ)
Bên cạnh sự
nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử, người ta còn biết đến một Hàn Mặc Tử - nhà báo.
Một cây bút dấn thân vào những vấn đề của xã hội (phóng sự Quan Nghị gật),
những vấn đề của thời sự văn chương (Phỏng vấn tác giả Kép Tư Bền). Người đã có
một mối quan hệ đầy cảm thông và ngưỡng mộ với nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội
Châu. Và giữa họ đã có mối giao lưu thân thiết, không chỉ vì phục tài về thi
bút mà còn là tâm tình, chí hướng: “Bây giờ chỉ có đôi ta; Bao nhiêu tâm sự Hằng
Nga biết rồi” (Đêm khuya tình tự với sông Hương).
Là người ưu thời mẫn thế, có tinh thần yêu nước, Hàn Mặc Tử
không thể không bộc lộ niềm đau trước thế cuộc: Sao tôi thấy cuộc đời máu
me lênh láng/ Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn/ Sao tôi thấy dân
chúng bị lầm than/ Dưới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang( Sống khổ và phấn
đấu)
Lòng yêu nước và thái độ nhập thế của Hàn Mặc Tử được bắt nguồn
và nuôi dưỡng trong truyền thống của gia đình, của dòng tộc. Tất cả cội nguồn
tinh thần ấy đã ảnh hưởng tốt đẹp đến toàn bộ khí hậu thơ ca Hàn Mặc Tử từ lúc
mới bước vào đời đến những ngày trọng bệnh.
Trong gia tài thi ca của Hàn Mặc Tử, người ta còn biết đến những
bài thơ trong sáng như ca dao, ngọt lành như trái chín với cái nhìn trẻ trung,
lãng mạn mà bí ẩn của thi nhân. Đó là nhân vật trữ tình của một thời: “Hai mươi
mốt tuổi, tuổi như hoa”. Với bao hy vọng của tuổi trẻ: Ra đời ta thấy đời
vui sao/ Đầy cả say sưa với ngọt ngào…/ Lúc ấy lòng ta như rạo rực/ Bâng
khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao/ (Chạy theo hạnh phúc)
Hàn Mặc Tử đã gắn bó tâm hồn mình với thiên nhiên đất
nước, với những không gian đã từng chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn, được mất
trong cuộc đời và tình duyên của thi nhân. Lạ lùng thay với Hàn Mặc Tử, “những
địa danh cụ thể cũng trở thành huyền ảo”, cũng nên thơ với Đà Lạt trăng mờ,
Đây thôn Vĩ Dạ, Phan Thiết! Phan Thiết. Tình quê hương trong cách cảm, cách
nghĩ của thi sĩ không chỉ là tình người, tình đời như thơ Nguyễn Bính hay là bức
tranh quê như trong thơ Bàng Bá Lân, Anh Thơ mà là tiếng vọng của tâm linh, với
những hình ảnh gợi cảm, giàu nhạc điệu: Mây chiều còn phiêu bạt/ Lang
thang trên đồi quê/ Gió chiều quên ngừng lại/ Dòng nước luôn trôi đi/ Ngàn
lau không tiếng nói/ Lòng anh dường đê mê…/ Tiếng buồn trong sương đục/
Tiếng hờn trong lũy tre/ Dưới trời thu man mác/ Bàng bạc khắp sơn khê
(Tình quê)
Mùa xuân chín và Đây thôn Vĩ Dạ là những bài
thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử. Với Mùa xuân chín, thiên nhiên trong thơ như
không có đường viền. Trong cái không gian khoáng đạt, phóng túng ấy ẩn náu một
cái tôi trữ tình tài hoa, đầy dự cảm của thi nhân: Trong làn nắng ửng khói
mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên
giàn thiên lý bóng xuân sang/ Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời/ Bao cô thôn
nữ hát trên đồi/ - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng
bỏ cuộc chơi (Mùa xuân chín)
Cấu trúc nội tại của Đây thôn Vĩ Dạ là mạch vận động
của tâm trạng trữ tình, bàng bạc một tình cảm thương nhớ, thoáng chút xao động
giữa hư và thực, gắn bó và chia lìa, hy vọng và tuyệt vọng: Gió theo lối
gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay/ Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?/ Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo
em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm
đà?
Trong số những nhà thơ làm nên “một cuộc cách mạng trong thi
ca” 1932-1945, với một phong cách đa dạng, độc đáo, đầy bản lĩnh sáng tạo, Hàn
Mặc Tử đã làm một cuộc vượt ngưỡng với thi ca, đạt đến đỉnh cao thành tựu. Chỉ
trong vòng hơn chục năm xuất hiện trên thi đàn, từ Lệ Thanh thi tập đến Gái
quê, qua Đau thương đến Xuân như ý, Thượng Thanh khí, rồi Cẩm
Châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội, thơ Hàn Mặc Tử đã trải qua một hành
trình từ cổ điển đến lãng mạn, từ lãng mạn đến tượng trưng và cập bờ siêu thực,
góp một phần quan trọng trong tiến trình hiện đại hoá thi ca dân tộc. Là người
cùng thời với thi tài Hàn Mặc Tử, ngay từ những năm bốn mươi của thế kỷ, nhà
văn Trần Thanh Mại đã khẳng định: “Hàn Mặc Tử là người đầu tiên trong thế kỷ XX
mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt Nam và thành công một cách vinh
quang rực rỡ” (Hàn Mặc Tử thân thế và thi văn. Huế. 1941). Còn Chế Lan Viên, là
người của nhóm thơ Bình Định, cùng Hàn Mặc Tử lập ra Trường thơ Loạn đã tiên
đoán ngay từ khi Hàn Mặc Tử qua đời: “Những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến
tan đi và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” (Người
mới, 23/11/1940).
Có lẽ trong số các thi sĩ của Thơ mới, chỉ có Hàn Mặc Tử là
“người tình cũ” của thơ Đường luật, đã nổi danh với thể thơ ấy từ 1931 với các
bút hiệu Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh. Ba bài thơ Thức khuya, Chùa
hoang, Gái ở chùa trong Lệ Thanh thi tập của Hàn Mặc Tử đã được
cụ Phan Bội Châu hoạ vận với những lời ca tụng: “Từ về nước đến nay, được xem
nhiều thơ văn quốc âm song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam, nhạn Bắc,
ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau, cười to một tiếng, ấy là thoả hồn thơ
đó”. Với Bài thơ cửa sổ đêm khuya, Hàn Mặc Tử tỏ ra am hiểu nghệ thuật Đường
thi và đã điều khiển các con chữ như một nhà ảo thuật ngôn từ.
Hàn Mặc Tử là như vậy, có lẽ đó là con người đặc biệt nhất của
thi ca Việt Nam hiện đại. Cả cuộc đời mình ông đã tạo nên như một huyền thoại
và trải qua nó với tất cả sức mạnh của trái tim, của niềm đam mê trong sáng tạo.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, trải qua bao thử thách của thời gian, thơ Hàn Mặc
Tử vẫn hấp dẫn hậu thế với những tầm đón đợi và tiếp nhận đa chiều kích. Di sản
thi ca của ông đã nhập vào kho tàng văn chương nước nhà, và mỗi khi lật giở lại
những dòng thơ của thi nhân, người đọc vẫn tìm thấy một niềm đồng cảm thiêng
liêng và vẫn không kìm nén được những xót xa kinh ngạc cùng những rung động
lạ thường…
(1) Những câu văn, thơ trích từ đây
trở đi lấy từ Hàn Mặc Tử - tác phẩm, phê bình và tưởng niệm. Tái bản. Nxb.
Giáo dục, H, 1998.
(1) Nguyễn Quân: Tôi vẫn còn
đây. In trong Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay. Nxb. Hội Nhà văn, H,
1995.
(1) Quách Tấn: Đôi nét về Hàn
Mặc Tử. In trong Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1995.
(1) Phan Xuân Sanh, dẫn theo Hàn
Mặc Tử - tác phẩm, phê bình và tưởng niệm. Tái bản. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
Bích Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét