Hàn Mặc Tử - Nhà thơ
Tiểu sử
Hàn Mặc Tử (1912-1940)
Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22 Septembre 1912 ở
Lệ Mỹ (Đông Hới), mất ngày 11 novembre 1940. Trú ngụ ở Qui Nhơn từ nhỏ. Nhà
nghèo, cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc Điền một độ,
bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn. Kế đó mắc bịnh
hủi, đưa vào nhà thương Quy Hòa rồi mất ở đó.
Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ
Thanh). Đến năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi
hiệu là Hàn Mạc Tử. <1>
Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông
Dương Tuần Báo,Ng Người Mới.
Đã xuất bản: Gái Quê (1936).
Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo:
"Hàn Mạc Tử? thơ với thẩn gì! toàn là nói nhảm." Có người còn nghiêm
khắc hơn nữa: "Thơ gì mà rắc rối thế! mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ
đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!" Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến
Hàn Mạc Tử trong khi việt đoạn này: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái
độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười,
chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên đây! tôi điên đây! -- Điên cũng không dễ
làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường
mà yên lặng sống." <2>
Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong
ý họ, thi ca Việt Nam chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều
chép lại và thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã
khúc mắt mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọn những lúc
đêm khuya thanh vắng, họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã biến thành bài
kinh và người thơ đã trở nên một vị giáo chủ. Chế Lan Viên nói quả quyết:
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực
thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là
Hàn Mạc Tử." <3>
Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử. <4> Tôi
đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi
đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tựa Thơ Điên, vườn thơ của
người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh. Bây giờ đã ra khỏi cái
thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt
lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.
Thơ Đường Luật: Theo Ông Quách Tấn, <5> Phan Sào Nam hồi
trước xem Thơ Đường Luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: "Từ về
nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp được bài
nào hay đến thế... <6> Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt
tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó." Thơ Đường Luật Hàn
Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không được xem mấy bài. Song
trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít câu hay, chẳng hạn như:
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.
Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có
lẽ không tiện cho sử nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn
Mạc Tử.
Gái Quê: Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả
tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây
không có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung
cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo
rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Kỳ đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái
Quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục.
Thơ Điên: Thơ Điên gồm có ba tập:
1) Hương Thơm
2) Mật Đắng
3) Máu Cuồng và Hồn Điên
Hương Thơm: Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng,
tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới
dựng lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.
Mật Đắng: Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồn
sáng lạ chói cả mắt. Nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt
gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình
yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là một thứ buồn dầu có
thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới thấy một nỗi đau thương
mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.
Máu Cuồng và Hồn Điên: Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế
giới thực và cái thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì chung quanh
ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một người
hay đúng hơn một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt,
cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng, há miệng cho
máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người... Ta
rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí
gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử. Ta không
hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con
người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc
cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho
xuất bản Thơ Điên. Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay dở, nó đã
ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong
văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người
sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình
duyên ra đời với tập Hương Thơm, hấp hối với tập Mật Đắng, đến đây thì đã chết
thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn tỏa lên nghi ngút.
Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm
linh người ta xem tập Máu Cuồng và Hồn Điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu
hơn một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.
Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Lên chơi trăng có câu:
Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm.
Ta ở côi cao nhìn trở xuống:
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.
Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó
là những cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà
trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành ra:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da.
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,
Trải niềm đau trên mảnh giấy monh manh;
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết,
Cả lòng ta trong nhớ chữ rung rinh.
Tôi chỉ trích ra vào đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn
nữa tuy ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết rằng
với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng của tác giả.
Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm.
Xuân Như Ý: Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời
đất mới dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là
mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân ta vẫn quen biết.
Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy
dẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng
liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự
quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để ban ơn phước
cho cả và thiên hạ. Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng -- sao lại há miệng? -- cho
thơ trào ra, làm chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người sẽ thấy:
Đường thơ bay sáng láng như sao sa
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.
Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo
khôngcó có gì giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa.
Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi
nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy
hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một
cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân Như Ý rõ ràng
là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.
Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm
mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie.
Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật Giáo, chắc những
người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với di thảo của thi nhân.
Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên
Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi
tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã
thấm tận đáy hồn đoàn thể.
Thượng Thanh Khí: Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh đã
thấy trong chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia Đại khái không
khác cảnh Xuân Như Ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không
thiêng liêng.
Cẩm Châu Duyên: Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến
trong đời Hàn Mạc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khải ái: nàng Thương
Thương. Nàng Thương Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử hình như
cũng không biết gì hơn ngoài hai chữ Thương Thương. Nhưng như thế cũng đủ để
thi nhân đưa nàng vào tháp thơ. Nàng sẽ luôn luôn đi về trong những giấc mơ của
người. Có khi người mơ thấy mình là Tư Mã Tương Như đương nghe lời Trác Văn
Quân năn nỉ:
Đã mê rồí! Tư Mã chàng ôi!
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! ôi! hãm bớt cung cầm lại,
Lòng say đôi má cũng say thôi.
Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người
thấy:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa.
Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận.
Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ
kia cũng đã đến lúc cạn. Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc
vào thế giới đồng bóng.
Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội: Mối tình đối với nàng Thương
Thương còn khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần Tiên Hội
viết chưa xong và không có gì. Duyên Kỳ Ngộ hay hơn nhiều. Đây là một giấc mơ
tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt diệu. Thi nhân
dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu chân người. Ở đó tiếng
chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều biến thành những lời thơ tình tứ.
Ở đó Hàn Mạc Tử sẽ gặp nàng Thương Thương mà người không mong được gặp ở kiếp
này. Nàng sẽ nói với người những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say
sưa. Nhưng rồi người sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng
nề đương chờ người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn
rã tiếng suối ca.
Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập thơ này là trong trẻo hơn
cả. Còn từ Thơ Đường Luật với những câu:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
cho đến Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý và các tập khác, lời
thơ thường vẩn đục.
Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử.
Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến
người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che
mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ
quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ
phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ
riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người
bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã...
Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây
giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất
nhẫn.
Hoài Thanh - Hoài Chân
° Trích Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.
Tài liệu:
+ Thơ Hàn Mặc Tử hay Những Bài Tình Ca Bi Thiết của Huy Phong
và Yến Anh.
+ Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại - Quyển I của Trần Tuấn Kiệt.
+ Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân.
Hàn Mặc Tử - Nhà thơ với cuộc đời đau thương
Nhà thơ với cuộc đời đau thương có một không hai này, tên thật
là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mỹ (Đông Hới). Ông làm thơ từ thuở
nhỏ. Lấy hiệu là Phong Trần và Lệ Thanh, trong những năm 16 tuổi. Vốn ở Qui
Nhơn từ nhỏ. Cha mất sớm, nhà nghèo. Học đến năm thứ ba ở trường Qui Nhơn, kế
đó mắc bịnh hủi, đưa vào nhà thương Qui Hòa rồi mất ở đó, ngày 11-10-1940.
Ông từng chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi
hiệu là Hàn Mặc Tử.
Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông
Dương Tuần Báo, Người Mới.
Đã xuất bản: Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1959) gồm có:
Thơ Đường Luật, Gái Quê, Đau Thương, Xuân Như Ý.
Tất cả các thi phẩm nầy được nhà xuất bản Tân Việt in lại
(1959). Càng ngày thơ Hàn Mặc Tử càng được phổ biến rộng và có nhiều người say
sưa. Phần nhiều những người mê thơ Hàn Mặc Tử, lớp thanh niên ngày nọ... thường
lê thê lếch thếch ở cá hè quán dơ bẩn và điên loạn... họ điên loạn để tỏ ra giống
Hàn Mặc Tử, họ bày đặt đau thương khốn đốn, thơ thì dùng chữ cho sáo, cho kêu,
tiếc rằng không tìm được một Hàn Mặc Tử thứ hai để cho mình chiêm ngưỡng.
Thơ trăng
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22-9-1912 tại
Lệ Mỹ (Đồng Hới, Quảng Bình), con ông Nguyễn Văn Toản và bà Nguyễn Thị Duy. Tổ
tiên vốn họ Phạm và quê quán ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương liên quan về quốc
sự, gia đình bị truy nã, nên người con là Phạm Bồi trốn vào Thừa Thiên, đổi ra
họ Nguyễn, theo họ mẹ. Thân sinh nhà thơ là con trưởng cụ Phạm Bồi tức Nguyễn Bồi.
Năm 17, 18 tuổi, thi sĩ họ Hàn đã bắt đầu có những bài thơ nổi
tiếng, nhất là mấy bài Đường luật như Thức Khuya được nhà thơ, nhà yêu nước
Phan Bội Châu khen và họa lại. Năm 20 tuổi, thi sĩ làm việc ở Sở Đạc điền (Qui
Nhơn), thỉnh thoảng gởi thơ đăng ở tuần báo Phụ nữ Tân văn ký tắt với bút hiệu
P.T Quy Nhơn. Đầu năm 1935, xin thôi việc ở Sở Đạc điền, vào Sài Gòn giữ trang
văn chương ở các báo Sài Gòn, Công Luận, Tân Thời, Trong Khuê Phòng. Được một
năm ông trở về Qui Nhơn, rồi mắc bệnh phong, điều trị tại nhà khá lâu mà không
khỏi, ông bị cưỡng bức vào nhà thương Quy Hòa. Ngày 11-11-1940, thi sĩ ra đi
trong đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn...
28 năm, một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng thi sĩ đã để lại cho
chúng ta những tác phẩm thơ vô giá, nhất là những vần thơ nói về trăng. Trăng
trong thơ từ cổ chí kim nhiều hơn sao trời, lá rừng, cá bể. Nhưng trăng trong
thơ thi sĩ họ Hàn lại có cái gì đó khác biệt lắm: “Trăng nằm sóng soải trên
cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi”. Một hình ảnh về trăng “xưa nay hiếm”, một
cách nói về trăng “không giống ai”. Nhưng suy cho cùng đó là cách nói gần gũi,
quen thuộc với người Việt. Cái dáng “nằm sóng soải” là một kiểu nằm hết sức thoải
mái, tự nhiên. Nhà thơ Mai Văn Hoan có nói rằng: “Trăng không chỉ “nằm sóng soải”
mà còn “Đợi gió đông về để lả lơi”. Trăng cũng thèm khát như người, cũng đa
tình như người”. Đó là những cái tình rất đời thường, rất chân thật. Nhà thơ
không hề giấu giếm khát vọng trần tục của mình (trần tục nhưng không dung tục).
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Công bằng mà nói ít ai trên thế gian này
tôn vinh vẻ đẹp trời ban cho “bóng trăng” như Hàn Mặc Tử”. Đến với thơ Hàn Mặc
Tử ta như lạc bước vào một thế giới trăng. Không những trăng leo, trăng nằm,
trăng còn bị cắn, trăng tự tử. Tử say trăng, uống trăng, chơi trăng, tắm cùng
trăng, ngủ với trăng. Trăng như ám ảnh con người thơ của Tử. Có những vần thơ
toàn trăng: “Trăng, trăng trăng là trăng, trăng, trăng...”. Có thể như là ý nhà
nghiên cứu phê bình Trần Thanh Mại đã nói: Mỗi kỳ trăng sáng là mỗi lần có những
tác động huyền bí nào đó đối với bệnh cùi. Vi trùng hoạt động mạnh hơn nên nhà
thơ đau đớn hơn. Trăng vì thế đã trở thành một nỗi ám ảnh lớn trong thơ Hàn.
Nhưng cũng có thể do bị đẩy vào hoàn cảnh cô độc, Hàn Mặc Tử chỉ biết lấy trăng
làm bạn?
Có lẽ cả hai đều đúng. Một lần có dịp ghé Qui Nhơn, ngược dốc Mộng Cầm lên thăm mộ Hàn Mặc Tử, tôi lại chợt nhớ đến bài thơ tình “Muôn năm sầu thảm” mà thi sĩ đã thốt lên những lời thống thiết trong cơn đau của mối tình đầu giữa Tử với Mộng Cầm: “Ta đến nơi - Nàng ấy vắng đâu rồi!/ Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ/ Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ/ Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng/ Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng/ Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết/ Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!/ Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu/ Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!” (Phan Thiết! Phan Thiết!).
Nói như cách nói của
nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại thì: “Chàng không quên được hình ảnh người yêu,
và sự đau khổ về cuộc tình duyên lỡ dở ấy lại là một nguồn cảm hứng để cho thi
sĩ kéo dài ra nhiều điệu nhạc trầm hùng: “Trời hỡi! Nhờ ai cho khỏi đói/ Gió
trăng có sẵn làm sao ăn/ Làm sao giết được người trong mộng/ Để trả thù duyên
kiếp phụ phàng” (Lang Thang)... Nhưng thi sĩ hỡi, ngày nay, ra khỏi dốc Mộng Cầm,
du khách sẽ được đọc những vần thơ của Mộng Cầm khắc trên những thanh gỗ mỏng nối
lại, nếu biết thì hẳn thi sĩ sẽ ngậm cười nơi chín suối: “Nếu anh đếm được những
vì sao/ Thì hiểu em yêu đến bực nào/ Tinh tú trên trời không đếm được/ Tình yêu
càng thấp lại càng cao”. Chao ôi, chuyện đời của Hàn Mặc Tử đã và đang là một ẩn
số, còn “vườn thơ của người thì rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”
(Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam).
Có lẽ cả hai đều đúng. Một lần có dịp ghé Qui Nhơn, ngược dốc Mộng Cầm lên thăm mộ Hàn Mặc Tử, tôi lại chợt nhớ đến bài thơ tình “Muôn năm sầu thảm” mà thi sĩ đã thốt lên những lời thống thiết trong cơn đau của mối tình đầu giữa Tử với Mộng Cầm: “Ta đến nơi - Nàng ấy vắng đâu rồi!/ Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ/ Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ/ Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng/ Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng/ Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết/ Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!/ Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu/ Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!” (Phan Thiết! Phan Thiết!).
NGUYỄN THỊ THỌ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét