Lưu Trọng Lư
là kiện tướng trong phong trào thơ mới. Người ta gọi ông là nghệ sĩ đa tài. Ông
làm thơ, viết văn, viết kịch. Còn nữa, phải nói ông là người có phong cách nghệ
thuật đa dạng, một người đa tình, đa duyên nợ với đời và văn nghiệp.
Tôi nhớ lần gặp Lưu Trọng Lư năm ông 78 tuổi, khi vừa cho xuất bản tập hồi ký Nửa đêm sực tỉnh. Trong câu chuyện khi nói về Thơ mới, Lưu Trọng Lư như khởi sắc và nói to: Phong trào Thơ mới mở đầu là tôi chứ không phải Phan Khôi. Thực ra phải xét cái mới của tình cảm và điệu thức thơ. Lúc này cũng nhiều người viết thơ theo dạng từ khúc. Tôi làm Thơ mới từ năm 1931. Tôi và Nguyễn Thị Manh Manh là hai người chủ chốt. Bà ở Paris về và tham gia vào cuộc tranh luận bảo vệ cho thơ mới. Tôi đăng một số thơ ở Phụ nữ tân văn. Khi ra Hà Nội gặp Nguyễn Tường Tam, Tam mời tôi đến tòa báo ở đường d’ Ordéans (số 1 Lý Nam Đế ngày nay). Tam bảo: Mấy bài thơ của ông đăng trên Phụ nữ tân văn tôi thích, đấy mới là thơ, là thơ mới.
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam nhận xét: Tình già, Trên đường đời và Vắng khách thơ là ba bài mang tên Thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Hoài Thanh chú thích đó là bài Xuân về. Xuân về là bài thơ của Lưu Trọng Lư. Nhiệt tình đấu tranh cho Thơ mới bằng lý thuyết, tranh luận, diễn thuyết, sáng tác. Lực lượng phản công lại của thơ cũ cũng mạnh mẽ, kể cả những người có thanh thế như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà…
Nhà phê bình Hoài Thanh tâm sự: Hồi năm 1937, vì vô ý dự vào một cuộc bàn cãi về văn chương, tôi đã bị một ông tiến sĩ nói thẳng vào mặt: Khoa học xin nhường các người, nhưng thơ văn các người phải để cho chúng tôi, chính ông nghè ấy đã có lần lên án chém Lưu Trọng Lư. Cũng may, ông nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưu vẫn làm thơ mới như thường.
…Tự lực văn đoàn dần làm chủ văn đàn. Lưu Trọng Lư đánh giá đúng mức những đóng góp của văn đoàn. Lưu Trọng Lư cũng viết văn xuôi với những trang văn đẹp, nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, ông cũng rất khiêm tốn: Tôi thích một số tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như Đôi bạn, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân hơn là những cuốn tiểu thuyết của tôi. Tâm trạng của tôi có lúc rất chán nản trong tiểu thuyết, thơ lại cứu tôi.
Quả là Lưu Trọng Lư nổi bật lên ở thời kỳ đầu và chỉ một tập Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã ghi lại dấu ấn không phai mờ trong phong trào Thơ mới. Bài thơ Tiếng thu là những tiếng thơ của sự lắng nghe Em không nghe mùa thu và trong âm thanh là tiếng thầm, là những rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ? Vẫn là câu hỏi từ sự lắng nghe để mở ra những hình ảnh đẹp đến nao lòng của mùa thu qua bước nhỏ của con nai vàng trên lá vàng khô.
Thơ tình của Lưu Trọng Lư có nhiều dư vị của đời thi nhân. Niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước và sự thất vọng đều như chất chứa từ bên trong và trôi chảy theo dòng thời gian, theo năm tháng, bốn mùa. Một mùa đông bên nhau đã đi qua Qua rồi mùa ân ái – Đàn sếu đã sang sông. Mùa xuân về lại cảm nhận Rồi ngày lại ngày. Sắc màu phai. Lá cành rụng. Ba gian trống. Xuân đi. Chàng cũng đi. Cũng vì thế mà thơ Lưu Trọng Lư đượm buồn, buồn vì sự trôi chảy, vì sự tiếc nuối. Gặp nhà thơ ngoài đời cũng như trong thơ, luôn thể hiện sự nuối tiếc:
Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái.
Và cuối đời khi mái tóc đã điểm bạc, ông cầu viện đến em thời gian và mong được sự thông cảm. Tuổi càng cao Lưu Trọng Lư càng thấy cái đẹp của đời, lại càng tiếc nuối như đi ngược với dòng thời gian. Trong văn chương và đặc biệt là thi ca, Lưu Trọng Lư có nhiều duyên nợ với người con gái.
Ông từng tâm sự: Trong những tác phẩm của tôi, tôi chỉ có một sự cộng tác rất tầm thường, rất dung dị, rất lương thiện… ấy là sự cộng tác của những người đàn bà. Đôi mắt họ vẫn trong trẻo hiền lành như một bến thu. Tiếng nói của họ vẫn là nhạc điệu của những nhạc điệu. Những con vật xinh xinh ấy biết tỉa lông mày, đánh móng tay nhưng cũng biết nuôi tằm quay tơ và dệt những tấm áo cho thể chất và cho linh hồn của nhân loại. Trong tập Tiếng thu nổi lên vẫn là hình ảnh và tiếng lòng của người con gái đang yêu thương, chờ đợi, nhớ mong.
Ngoài hình ảnh người mẹ kính yêu là những cô gái đang ở tuổi yêu đương dệt mộng tình trong đời và trong thơ. Lưu Trọng Lư hay nhắc đến những người con gái trong mộng, trong khung cửi, bên guồng sợi xe, cô em nhí nhảnh bên giậu mồng tơi, rồi cô gái giang hồ… Và sau cách mạng cũng vẫn là hình ảnh những người con gái trong cuộc đời mới, gánh vác việc chung không kém sức trai như cô gái ở hậu phương bên Ngò cải đơm hoa, O tiếp tế, rồi Người con gái sông Gianh, Em thời gian. Họ rất khác nhau nhưng có một điểm chung là giàu nữ tính và tình cảm yêu thích cái đẹp.
… Tôi còn nhớ sau khi đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp, Lưu Trọng Lư đón nhà thơ Hoàng Trọng Miên, bạn thơ cũ đến thăm. Ông nói với chị Lê Minh mời tôi đến chơi và nghe ông đọc thơ vừa sáng tác. Tôi nhớ buổi gặp chỉ có ba người và khoảng một tiếng sau có thêm nhà sử học Lê Văn Lan. Lưu Trọng Lư nói: Tôi muốn viết về người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh như kiểu khúc ngâm chinh phụ. Người phụ nữ không chỉ buồn và thụ động như cô chinh phụ xưa mà năng động, hiện đại nhưng vẫn nặng tâm tư đợi chờ trong xa cách. Trăng xoan – cái tên đó được ông tâm đắc. Tôi nhớ ông say sưa đọc thơ còn mọi người vừa nghe vừa uống rượu và nhấm nháp món thịt gà xé trộn với dưa chuột và hành tây, tác phẩm của chị Lê Minh. Anh Lư say mê nói, thỉnh thoảng lại ngâm và quên cả chuyện ăn. Cầm đũa lệch, nâng bát lên lại hạ xuống, với anh, thơ là linh hồn của cuộc gặp gỡ. Thỉnh thoảng anh lại hỏi từng người: Ý anh Lan thế nào, ý anh Đức thế nào?
Thơ Lưu Trọng Lư như ru trong mộng và mộng chính là một phẩm chất của thơ, nhất là thơ xưa. Lê Tràng Kiều nhận xét: Thi sĩ bao giờ cũng như sống trong một thế giới mông lung huyền ảo… Thi sĩ là một luồng khói lam ẻo lả giữa cảnh chiều thu. Nhà thơ Hoàng Trung Thông cũng viết: Những bài thơ của anh không sầu thì mộng, không mộng thì say và đã say thì Giang hồ cõi ấy trọn đời phiêu linh. Trần Thanh Mại cũng gọi Lưu Trọng Lư là thi sĩ giang hồ. Sự phiêu bạt trong những cảnh đời xa lạ trong thiên nhiên đẹp đã tạo cho thơ của Lưu Trọng Lư chất phiêu lãng và thơ mộng. Nói như tác giả Mộng và đời là hai sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời.
Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên những đổi thay cơ bản. Lưu Trọng Lư đã từ mộng ảo trở về với cuộc đời thực rất đẹp, hào hùng. Cuộc đời mới, mùa thu lớn của cách mạng đã lôi cuốn ông, nhất là thời kỳ ở chiến khu Thừa Thiên vào năm 1948. Lưu Trọng Lư tâm sự: Tôi đã bắt đầu làm nhiều thơ. Thơ tôi phần lớn là những bài thiết thực và kịp thời nhưng rất thật, rất sống. O tiếp tế chẳng hạn. Khi viết Ngò cải đơm hoa, Lưu Trọng Lư đã nói về tâm trạng đẹp của người con gái hậu phương chăm lo sản xuất và chờ đợi người thân chiến đấu trở về chờ chi anh về đây giữa đoàn quân chiến thắng.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Lưu Trọng Lư có những đổi thay cơ bản, lăn vào công việc say sưa, năng nổ. Thật khó nhận ra một Lưu Trọng Lư mơ mộng thuở nào. Lưu Trọng Lư cũng tự nhận điều đó: Nhìn lại những năm kháng chiến Nguyễn Tuân thường gọi đùa tôi là thằng hùng hục và tôi gọi trêu Nguyễn Tuân là thằng ngất ngưởng. Có lẽ Nguyễn Tuân gọi tôi như vậy cũng đúng. Khi đã giác ngộ mình đi vào cuộc chiến đấu không chỉ bằng tấm lòng mà còn bằng những hành động cụ thể, bằng bất cứ công việc gì miễn được góp phần vào thắng lợi của dân tộc…
Tôi nhớ lần gặp Lưu Trọng Lư năm ông 78 tuổi, khi vừa cho xuất bản tập hồi ký Nửa đêm sực tỉnh. Trong câu chuyện khi nói về Thơ mới, Lưu Trọng Lư như khởi sắc và nói to: Phong trào Thơ mới mở đầu là tôi chứ không phải Phan Khôi. Thực ra phải xét cái mới của tình cảm và điệu thức thơ. Lúc này cũng nhiều người viết thơ theo dạng từ khúc. Tôi làm Thơ mới từ năm 1931. Tôi và Nguyễn Thị Manh Manh là hai người chủ chốt. Bà ở Paris về và tham gia vào cuộc tranh luận bảo vệ cho thơ mới. Tôi đăng một số thơ ở Phụ nữ tân văn. Khi ra Hà Nội gặp Nguyễn Tường Tam, Tam mời tôi đến tòa báo ở đường d’ Ordéans (số 1 Lý Nam Đế ngày nay). Tam bảo: Mấy bài thơ của ông đăng trên Phụ nữ tân văn tôi thích, đấy mới là thơ, là thơ mới.
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam nhận xét: Tình già, Trên đường đời và Vắng khách thơ là ba bài mang tên Thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Hoài Thanh chú thích đó là bài Xuân về. Xuân về là bài thơ của Lưu Trọng Lư. Nhiệt tình đấu tranh cho Thơ mới bằng lý thuyết, tranh luận, diễn thuyết, sáng tác. Lực lượng phản công lại của thơ cũ cũng mạnh mẽ, kể cả những người có thanh thế như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà…
Nhà phê bình Hoài Thanh tâm sự: Hồi năm 1937, vì vô ý dự vào một cuộc bàn cãi về văn chương, tôi đã bị một ông tiến sĩ nói thẳng vào mặt: Khoa học xin nhường các người, nhưng thơ văn các người phải để cho chúng tôi, chính ông nghè ấy đã có lần lên án chém Lưu Trọng Lư. Cũng may, ông nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưu vẫn làm thơ mới như thường.
…Tự lực văn đoàn dần làm chủ văn đàn. Lưu Trọng Lư đánh giá đúng mức những đóng góp của văn đoàn. Lưu Trọng Lư cũng viết văn xuôi với những trang văn đẹp, nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, ông cũng rất khiêm tốn: Tôi thích một số tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như Đôi bạn, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân hơn là những cuốn tiểu thuyết của tôi. Tâm trạng của tôi có lúc rất chán nản trong tiểu thuyết, thơ lại cứu tôi.
Quả là Lưu Trọng Lư nổi bật lên ở thời kỳ đầu và chỉ một tập Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã ghi lại dấu ấn không phai mờ trong phong trào Thơ mới. Bài thơ Tiếng thu là những tiếng thơ của sự lắng nghe Em không nghe mùa thu và trong âm thanh là tiếng thầm, là những rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ? Vẫn là câu hỏi từ sự lắng nghe để mở ra những hình ảnh đẹp đến nao lòng của mùa thu qua bước nhỏ của con nai vàng trên lá vàng khô.
Thơ tình của Lưu Trọng Lư có nhiều dư vị của đời thi nhân. Niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước và sự thất vọng đều như chất chứa từ bên trong và trôi chảy theo dòng thời gian, theo năm tháng, bốn mùa. Một mùa đông bên nhau đã đi qua Qua rồi mùa ân ái – Đàn sếu đã sang sông. Mùa xuân về lại cảm nhận Rồi ngày lại ngày. Sắc màu phai. Lá cành rụng. Ba gian trống. Xuân đi. Chàng cũng đi. Cũng vì thế mà thơ Lưu Trọng Lư đượm buồn, buồn vì sự trôi chảy, vì sự tiếc nuối. Gặp nhà thơ ngoài đời cũng như trong thơ, luôn thể hiện sự nuối tiếc:
Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái.
Và cuối đời khi mái tóc đã điểm bạc, ông cầu viện đến em thời gian và mong được sự thông cảm. Tuổi càng cao Lưu Trọng Lư càng thấy cái đẹp của đời, lại càng tiếc nuối như đi ngược với dòng thời gian. Trong văn chương và đặc biệt là thi ca, Lưu Trọng Lư có nhiều duyên nợ với người con gái.
Ông từng tâm sự: Trong những tác phẩm của tôi, tôi chỉ có một sự cộng tác rất tầm thường, rất dung dị, rất lương thiện… ấy là sự cộng tác của những người đàn bà. Đôi mắt họ vẫn trong trẻo hiền lành như một bến thu. Tiếng nói của họ vẫn là nhạc điệu của những nhạc điệu. Những con vật xinh xinh ấy biết tỉa lông mày, đánh móng tay nhưng cũng biết nuôi tằm quay tơ và dệt những tấm áo cho thể chất và cho linh hồn của nhân loại. Trong tập Tiếng thu nổi lên vẫn là hình ảnh và tiếng lòng của người con gái đang yêu thương, chờ đợi, nhớ mong.
Ngoài hình ảnh người mẹ kính yêu là những cô gái đang ở tuổi yêu đương dệt mộng tình trong đời và trong thơ. Lưu Trọng Lư hay nhắc đến những người con gái trong mộng, trong khung cửi, bên guồng sợi xe, cô em nhí nhảnh bên giậu mồng tơi, rồi cô gái giang hồ… Và sau cách mạng cũng vẫn là hình ảnh những người con gái trong cuộc đời mới, gánh vác việc chung không kém sức trai như cô gái ở hậu phương bên Ngò cải đơm hoa, O tiếp tế, rồi Người con gái sông Gianh, Em thời gian. Họ rất khác nhau nhưng có một điểm chung là giàu nữ tính và tình cảm yêu thích cái đẹp.
… Tôi còn nhớ sau khi đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp, Lưu Trọng Lư đón nhà thơ Hoàng Trọng Miên, bạn thơ cũ đến thăm. Ông nói với chị Lê Minh mời tôi đến chơi và nghe ông đọc thơ vừa sáng tác. Tôi nhớ buổi gặp chỉ có ba người và khoảng một tiếng sau có thêm nhà sử học Lê Văn Lan. Lưu Trọng Lư nói: Tôi muốn viết về người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh như kiểu khúc ngâm chinh phụ. Người phụ nữ không chỉ buồn và thụ động như cô chinh phụ xưa mà năng động, hiện đại nhưng vẫn nặng tâm tư đợi chờ trong xa cách. Trăng xoan – cái tên đó được ông tâm đắc. Tôi nhớ ông say sưa đọc thơ còn mọi người vừa nghe vừa uống rượu và nhấm nháp món thịt gà xé trộn với dưa chuột và hành tây, tác phẩm của chị Lê Minh. Anh Lư say mê nói, thỉnh thoảng lại ngâm và quên cả chuyện ăn. Cầm đũa lệch, nâng bát lên lại hạ xuống, với anh, thơ là linh hồn của cuộc gặp gỡ. Thỉnh thoảng anh lại hỏi từng người: Ý anh Lan thế nào, ý anh Đức thế nào?
Thơ Lưu Trọng Lư như ru trong mộng và mộng chính là một phẩm chất của thơ, nhất là thơ xưa. Lê Tràng Kiều nhận xét: Thi sĩ bao giờ cũng như sống trong một thế giới mông lung huyền ảo… Thi sĩ là một luồng khói lam ẻo lả giữa cảnh chiều thu. Nhà thơ Hoàng Trung Thông cũng viết: Những bài thơ của anh không sầu thì mộng, không mộng thì say và đã say thì Giang hồ cõi ấy trọn đời phiêu linh. Trần Thanh Mại cũng gọi Lưu Trọng Lư là thi sĩ giang hồ. Sự phiêu bạt trong những cảnh đời xa lạ trong thiên nhiên đẹp đã tạo cho thơ của Lưu Trọng Lư chất phiêu lãng và thơ mộng. Nói như tác giả Mộng và đời là hai sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời.
Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên những đổi thay cơ bản. Lưu Trọng Lư đã từ mộng ảo trở về với cuộc đời thực rất đẹp, hào hùng. Cuộc đời mới, mùa thu lớn của cách mạng đã lôi cuốn ông, nhất là thời kỳ ở chiến khu Thừa Thiên vào năm 1948. Lưu Trọng Lư tâm sự: Tôi đã bắt đầu làm nhiều thơ. Thơ tôi phần lớn là những bài thiết thực và kịp thời nhưng rất thật, rất sống. O tiếp tế chẳng hạn. Khi viết Ngò cải đơm hoa, Lưu Trọng Lư đã nói về tâm trạng đẹp của người con gái hậu phương chăm lo sản xuất và chờ đợi người thân chiến đấu trở về chờ chi anh về đây giữa đoàn quân chiến thắng.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Lưu Trọng Lư có những đổi thay cơ bản, lăn vào công việc say sưa, năng nổ. Thật khó nhận ra một Lưu Trọng Lư mơ mộng thuở nào. Lưu Trọng Lư cũng tự nhận điều đó: Nhìn lại những năm kháng chiến Nguyễn Tuân thường gọi đùa tôi là thằng hùng hục và tôi gọi trêu Nguyễn Tuân là thằng ngất ngưởng. Có lẽ Nguyễn Tuân gọi tôi như vậy cũng đúng. Khi đã giác ngộ mình đi vào cuộc chiến đấu không chỉ bằng tấm lòng mà còn bằng những hành động cụ thể, bằng bất cứ công việc gì miễn được góp phần vào thắng lợi của dân tộc…
Hà Minh Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét