Nhạc sĩ phổ thơ mang tính thiên tài
Nói đến nhạc sĩ Phạm Đình Chương là nói đến những nhạc phẩm
tình ca lãng mạn được sáng tác từ thời tiền chiến cho đến bây giờ. Đa số nhạc
phẩm do ông sáng tác được phổ từ thơ.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương là một tên tuổi lớn của nền âm nhạc
Việt Nam. Nếu phải so sánh giữa Phạm Đình Chương với Phạm Duy, có lẽ
cả hai đều “kẻ tám lạng người nửa cân”, chỉ có điều Phạm Đình Chương
không sáng tác nhạc đủ thể loại và theo kiểu “thị trường” như “Sức Mấy Mà Buồn”,
“Bỏ Qua Đi Tám” hay nhạc Việt hóa v.v… mà Phạm Duy có sở trường. Phạm Đình
Chương chỉ có một con đường để đi, là chọn con đường vì văn học nghệ thuật.
Chúng ta thử điểm qua những sáng tác tiêu biểu của Phạm Đình
Chương từ trước đến nay:
- Hội trùng dương, Ly rượu mừng, Tiếng dân chài, Anh đi chiến
dịch, Bên trời phiêu lãng, Đất lành, Đêm cuối cùng, Đến trường, Định mệnh buồn,
Đón xuân, Ra đi khi trời vừa sáng (viết với Phạm Duy), Đợi chờ (viết với Nhật Bằng),
Được mùa, Hò leo núi, Khi cuộc tình đã chết, Khúc giao duyên, Kiếp Cuội già, Lá
thư mùa xuân, Lá thư người chiến sĩ, Mỗi độ xuân về, Mười thương, Nhớ bạn tri
âm, Sáng rừng, Ta ở trời tây, Thằng Cuội, Thuở ban đầu, Trăng mường Luông,
Trăng rừng, Xóm đêm, Xuân tha hương…
Nhạc phổ thơ có những ca khúc như: Buồn đêm mưa (thơ Huy Cận),
Cho một thành phố mất tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn), Nửa hồn thương đau, Bài ngợi ca
tình yêu, Dạ tâm khúc, Đêm màu hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài
Gòn, Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, Quê hương là người đó (thơ Du Tử Lê),
Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Hạt bụi nào bay qua (thơ Thái Tú Hạp),
Heo may tình cũ (thơ Cao Tiêu), Mắt buồn (thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu), Màu kỷ
niệm (thơ Nguyên Sa), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội
(thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ)… và còn rất nhiều
nhạc phẩm khác v.v…
Một chút tiểu sử:
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 và qua đời vào năm
1991. Khi soạn nhạc ông ký bút hiệu Phạm Đình Chương, còn đi hát, chỉ
trong ban hợp ca Thăng Long, ông có tên gọi ca sĩ Hoài Bắc.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh 14/11/1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê
nội ở Hà Nội còn quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình
mang truyền thống âm nhạc, thân phụ là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của cha
ông, sinh được 2 người con trai tên Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm
Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương.
Còn Phạm Đình Viêm tức ca sĩ Hoài Trung, trong ban hợp ca Thăng Long như đã
nói. Người vợ sau tức mẹ ruột Phạm Đình Chương sinh 3 người gồm trưởng nữ
là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ
là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức nữ ca
sĩ Thái Thanh.
Từ nhỏ Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn về nhạc lý,
nhưng phần lớn ông vẫn tự học là chính. Trong những năm đầu kháng chiến,
Phạm Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc cùng các anh chị em ruột hai dòng như Hoài
Trung, Thái Hằng, Thái Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV, để từ
đó thành tên Ban hợp ca Thăng Long.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm
1947, lúc mới 18 tuổi, nhưng phần nhiều nhạc phẩm của ông thường được xếp vào
dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên
như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, Hò Leo Núi… có không khí hùng tráng tươi trẻ.
Năm 1954, nhạc sĩ Phạm Đình Chương cùng gia đình chuyển vào
miền Nam sinh sống, rồi tái lập lại Ban hợp ca Thăng Long để hoạt động. Thời
kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng miền Bắc như nói lên tâm trạng
hoài hương của mình như các nhạc phẩm : Khúc giao duyên, Thằng Cuội,
Được mùa, Tiếng dân chài… Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và
vui tươi hơn: Xóm đêm, Đợi chờ, Ly rượu mừng, Đón xuân…
Sau khi cuộc hôn nhân với nữ ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt
đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da
diết, đau nhức, buốt giá: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua
đời tôi, Nửa hồn thương đau…
Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ
thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ,
có một sức sống riêng như Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa
(thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài
Gòn (thơ Du Tử Lê)… ông cũng đóng góp cho nền tân nhạc Việt với một bản trường
ca bất hủ mang tựa “Hội trùng dương” viết về ba con sông nước Việt là sông Hồng,
sông Hương và sông Cửu Long.
Sau 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại California,
Hoa Kỳ, và mất vào ngày 22/8/1991.
“NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU”
VỚI TÂM SỰ RIÊNG TƯ
Vào những năm 1960 thế kỷ trước, báo chí Sài Gòn đã hao tốn rất
nhiều giấy mực vì phải đăng nhiều kỳ vụ nhạc sĩ Phạm Đình Chương ly dị vợ là nữ
ca sĩ Khánh Ngọc. Tòa án xét xử nhiều lần chưa xong, vì thế vụ việc càng làm cả
hai trở nên nổi tiếng, vừa theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Bởi lúc đó, ban hợp ca Thăng Long đang nổi đình đám nhất
trong sinh hoạt ca vũ nhạc kịch thời bấy giờ, lúc ấy “nhóm Thăng Long” bao gồm
nhiều nghệ sĩ nổi danh như Hoài Trung, vợ chồng ca sĩ Thái Hằng - Phạm Duy, ca
sĩ Thái Thanh, vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương (Hoài Bắc) - Khánh Ngọc. Nếu
không kể đến người chị dâu Kiều Hạnh cũng là một nữ kịch sĩ đang được ái mộ
trên các sân khấu thoại kịch.
Phải nói trong thời gian sau 1954, các ca kịch sĩ miền Bắc xuất
hiện rất đông đảo trên các sân khấu lẫn đài phát thanh như Vũ Huân, Vũ Huyến,
Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Kiều Hạnh, Duy Trác, Anh Ngọc, Châu Hà, Hà Thanh v.v… Một
phần, do ca sĩ trong Nam lúc đó chưa xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, chỉ có một số
ca sĩ đầy triển vọng từ phòng trà Đức Quỳnh giới thiệu như Bạch Yến, Cao Thái,
sau có Minh Hiếu, Thanh Thúy, Túy Phượng… nhỏ hơn thì có Quốc Thắng, Kim Chi
trong ban nhi đồng của nhạc sĩ Nguyễn Đức.
Khánh Ngọc đang là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là một ca
sĩ được nhiều người biết với tên gọi “ngọn núi lửa”, bởi cô có bộ ngực hấp dẫn
và thường quyến rũ khán giả say đắm mỗi khi cô lên hát. Đồng thời Khánh Ngọc
còn đóng mấy phim với nam tài tử Lê Quỳnh một loạt phim nói về những ngày di cư
từ Bắc vào Nam do Mỹ thực hiện.
Trước khi đưa đơn ra tòa, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe
phong phanh Khánh Ngọc ngoại tình. Nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ
và bỏ ngoài tai tất cả những nguồn tin “lá cải” ấy. Chỉ đến khi
một số người bạn hẹn ông đi bắt ghen tại Nhà Bè thì sự việc mới đổ bể. Lúc
đó báo chí Sài Gòn biết rất nhanh, và vụ “ăn chè Nhà Bè” được các báo khai thác
triệt để, do vợ chồng Phạm Đình Chương và “thủ phạm” đều là những người nổi tiếng,
mọi người mới biết kẻ trong cuộc gây ra chuyện này không ai xa lạ, chính là người
anh rể của ông.
Người đau lòng nhất chính là Phạm Đình Chương chồng Khánh
Ngọc, vì ông rất yêu vợ, nhưng bấy giờ dư luận xã hội đều đã rõ tường tận nên
đành phải gửi đơn xin ly dị.
Đây là quãng thời gian đau khổ, Phạm Đình Chương không còn
tâm trí biểu diễn cùng các anh chị trong Ban hợp ca Thăng Long, ông lui về
trong bóng tối thầm lặng viết những bài tình ca buồn, như để tâm sự với chính
mình. Một loạt ca khúc mang tâm trạng như thế ra đời như “Đêm cuối cùng”, “Người
đi qua đời tôi”, “Khi cuộc tình đã chết”, “Thuở ban đầu”, “Khi tôi chết hãy đem
tôi ra biển”…
Sau khi ly dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được quyền nuôi con,
khi ấy mới khoảng 4 - 5 tuổi, ông bắt đầu đi hát trở lại. Một lần tình cờ
gặp Khánh Ngọc trên một sân khấu đại nhạc hội, ông có ý muốn đưa cô vợ đã ly dị
về nhà vì trời đang mưa, nhưng bị từ chối. Bởi vậy khi lặng lẽ trở về căn
nhà kỷ niệm với một thời sống cùng Khánh Ngọc, nhìn qua màn mưa nhớ về những
ngày hạnh phúc, giờ đang trôi theo dòng nước.… có người nói Phạm Đình Chương định
tự tử lúc bấy giờ, nhưng nghe tiếng khóc của con, ông mới từ bỏ ý định !?
Hình ảnh của đêm khốn cùng ấy đã đi vào từng lời bài hát “Nửa
hồn thương đau” được Phạm Đình Chương viết trong đêm rã rời đó. Nếu ai đã nghe
một lần bài hát này và cũng đồng cảm với cuộc đời của ông sẽ hiểu được tâm hồn
con người chỉ có thể chịu đựng một giới hạn nhất định.
NGƯỜI PHỔ THƠ MANG TÍNH THIÊN TÀI
Thật ra nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương
là được ông phổ từ thơ của Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ “Lệ đá xanh”, nhưng ông
đã đổi tựa và thêm ý tứ cho phù hợp với tâm trạng của ông lúc bấy giờ.
Có người nhận xét, lối phổ thơ thành nhạc của nhạc sĩ Phạm
Đình Chương mang đặc tính thiên tài, từ những vần thơ của các thi sĩ trở thành
những nhạc phẩm luôn lưu lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng người ái mộ như
các ca khúc Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Nửa hồn thương đau, Đêm màu
hồng, Dạ tâm khúc (thơ Thanh Tâm Tuyền), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Mưa Sài
Gòn mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đêm
nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) v.v… cho nên nếu so sánh cung cách phổ thơ của
Phạm Duy, có thể nói Phạm Đình Chương xuất sắc không kém, do ông lấy văn học
đưa vào nhạc, còn Phạm Duy đôi khi đưa thơ vào nhạc mang tính thị hiếu nhiều
hơn.
Có người nói sự nghiệp của nhạc sĩ Phạm Đình Chương còn rộng
tỏa trên bình diện của thể nhạc trữ tình lãng mạn, với những sáng tác phong phú
đủ chủ đề về tuổi trẻ, tình yêu, hiện thực, hoặc chia sẻ nhịp rung cảm cùng mọi
người như các tác phẩm: Bài ca tuổi trẻ, Thuở ban đầu, Mười thương, Mộng
dưới hoa, Bài ca ngợi tình yêu, Đêm cuối cùng, Heo may tình cũ, Xóm đêm v.v…
Xuyên qua các nhạc phẩm trên, người ta lại càng nhận thức đầy
đủ hơn nơi ý nhạc lời ca của Phạm Đinh Chương có một tâm hồn tươi trẻ, nồng nhiệt
và cũng không kém phần thương đau, xót xa trong tan vỡ của yêu đương luyến nhớ,
hay những khối chân tình qua từng bước chân phiêu bạt mà ông đã đi qua.
“Có lẽ sự rung động dễ thương của những con tim khi chớm nở
loài hoa tình yêu mới là cảm xúc tuyệt diệu nhất được Phạm Đình Chương diễn tả
bằng chính nội tâm hiện thực của ông qua ca khúc “Mộng dưới hoa” phổ thơ Đinh
Hùng:
Chưa gặp em anh vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
“Cuối cùng không thể không đề cập đến “Trường khúc Tam Giang”
tức “Hội Trùng Dương” với những nỗi niềm diễn tả tâm tư mang lời tự thuật thật
sống động, đặc sắc của 3 con sông lớn đại biểu cho mạch sống của ba miền và được
xem như là một đại tác phẩm trường tấu để đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Trường
ca này được liên kết thật chặt chẽ bằng những tiết tấu phối hợp sự biến âm đặc
biệt biểu hiện tình cảm khi nhẹ nhàng, lúc khoan thai, khi hùng tráng, lúc trầm
lắng, khi ngọt ngào, lúc thiết tha, quyện lẫn trong các câu hò mang sắc thái âm
điệu thổ ngữ Bắc, Trung, Nam rất duyên dáng chân thành và trong sáng tình yêu
quê hương vốn được hun đúc từ ngàn đời, tựa như 3 dòng sông tuôn chảy miệt mài
ra biển Đông.
Sau đây là những nhạc phẩm do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ
thơ (một vài ca khúc tiêu biểu):
NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU
- Phổ thơ Thanh Tâm Tuyền
Nửa Hồn Thương Đau - Lệ Quyên - YouTube
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa/ Cho tôi về đường
cũ nên thơ/ Cho tôi gặp người xưa ước mơ/ Hay chỉ là giấc mơ thôi/ Nghe tình
đang chết trong tôi/ Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau/ Ôi sao ngàn trùng
mãi xa nhau/ Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào/ Em ở đâu? Anh ở đâu?/
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu.
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt/ Chỉ thấy lòng nhớ
nhung chất ngất/ Và tiếng hát và nước mắt
Đôi khi anh muốn tin/ Đôi khi anh muốn tin/ Ôi những người
ôi những người/ Khóc lẻ loi một mình…
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
- Phổ thơ Quang Dũng
Đôi Mắt Người Sơn Tây - Thái Thanh - NhacCuaTui
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai/ Sông xa từng lớp lớp mưa dài/ Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh/ Khi chớm thu về, khi chớm
thu về một sớm mai
Đôi mắt Người Sơn Tây/ U uẩn chiều luân lạc/ Buồn viễn xứ
khôn khuây,/ Buồn viễn xứ khôn khuây/ Em hãy cùng ta mơ/ Mơ một ngày đất mẹ/ Ngày bóng dáng quê hương/ Đường hoa khô ráo lệ
Tôi từ chinh chiến đã ra đi/ Chiều xanh không thấy bóng Ba
Vì/ Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc/ Non nước u hoài, non nước hao gầy,
ngày chia tay.
Em vì chinh chiến thiếu quê hương/ Sài Sơn, Bương Cấn mãi u
buồn/ Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/ Em có bao giờ, Em có bao giờ, Em thương
nhớ thương.
Nguyễn Việt
Nguồn: http://cafevannghe.wordpress.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét