Nhạc sĩ Phạm Duy dùng âm nhạc
để khơi dậy tâm hồn Việt
Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm 2013), tên thật
Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc người Việt Nam.
Ông được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với
lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca
khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Nhạc của ông thường kết hợp
những yếu tố của âm nhạc cổ truyền Việt Nam với các trào lưu, phong cách mới, tạo
nên nhiều tác phẩm có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc
nhiều thế hệ. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu
về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường
Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử quan trọng của đất nước, ông được coi là cây đại thụ của nền âm nhạc Việt
Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu
là do các vấn đề chính trị.
Khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò
phó quản lí và ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời
gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một
tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực
dành cho cả âm nhạc và chính trị, và những hoạt động này còn tiếp diễn sau giai
đoạn 1975, khi ông di tản sang Hoa Kỳ. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm
hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975.
Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở
về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến
lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành
(trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một
ngàn sáng tác của ông.
Phạm Duy Cẩn lúc nhỏ.
Phạm Duy, hai chữ đó là tên gọi, kỳ lạ thay, cũng là huyền
thoại ngay trong thời gian có Duy góp mặt.
Tạ Tỵ
Người nhạc sỹ có khối lượng tác phẩm đồ sộ và giá trị nhất Việt
Nam đến ngàn đời còn lưu lại với sử xanh.
Tô Hải
Phạm Duy là con người muốn sống tự do, không muốn sống theo
quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên đường chánh trị thì không có đảng
phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về phía tôn giáo nào. Duy sống theo
con người của Duy, một con người tự do tự tại, phóng túng và ngang tàng, nhưng
cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống của mình.
Trần Văn Khê
Ông nhạc sĩ này khi vui buồn, khi ca ngợi tâng bốc khi chê
bai, chửi bới trong đời thường, đều không phải là thực. Tất cả đều là hư chiêu.
Nhạc của ông mới là chân lý. Thính giả của ông mới là đối tượng.
Giao Chỉ
Phạm Duy Cẩn sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân
Dậu) tại số 40 Rue Takou (nay là Phố Hàng Cót), Hà Nội, trong một gia đình văn
nghiệp. Cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên
của nền Văn học Mới đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc
sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn
Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine.
Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu động, tính tình “văng mạng, bất cần
đời”, tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và mê nhạc . Ông biết dùng guitar,
mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền
Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh…Ngoài nền văn hóa
mang tính nhân bản của Pháp, ông còn được tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua
các tác phẩm của cha Phạm Duy Tốn, hay cuốn “Tục ngữ phong dao” của người anh họ
Nguyễn Văn Ngọc.
Về học hành chính quy, Phạm Duy chỉ có bốn năm tiểu học và một
năm trung học, nhưng những bài học trong các sách Quốc văn giáo khoa thư, Luân
lý giáo khoa thư, đã in đậm trong tâm hồn ông trước khi bước vào xã hội, hình
thành cho ông một quan niệm về “đức độ của con người Việt Nam” mà ông nhấn mạnh
là “con người ở nông thôn”, chứ không phải ở thành thị. Ông học vỡ lòng tại trường
Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi. Tính ông nghịch ngợm, học không
giỏi, thường hay bị phạt. Đến năm 13 tuổi (1934), vào được lớp nhất, ông mới học
giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ
tiếng Pháp.
Năm 1936, ông vào học trường Thăng Long, một trường trọng điểm
của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có các nhân vật nổi tiếng như Võ Nguyên
Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong đám bạn cùng lớp có người
sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng. Một năm học trung học giúp ông hấp thụ
thêm những cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André
Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre…
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa
tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy Tô Ngọc Vân, cùng lớp
với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng… Tuy nhiên ông sớm nhận ra mình không có
niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Ông cũng trải qua nhiều công việc
khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang trại… tại nhiều tỉnh
thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời gian ngắn. Tuy rằng không có
nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống
khác nhau cũng là những chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau
này. Cùng với giai đoạn lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam
mê âm nhạc của mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập sáng tác.
Trong cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc
nào.
Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải
lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên
tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn
Đông… và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết
trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà
các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng
Văn Cao sáng tác các tác phẩm Bến xuân, Suối mơ.
Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh
đầu tay là “Cô hái mơ”, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào
Tân nhạc bắt đầu nở rộ.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang
nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, ông cùng hai kép
trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu diễn ở Cà Mau. Cũng năm này
ông theo kháng chiến, trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong
những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu
Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn.
Năm 1951, do không phục Việt Minh, ông bỏ về Hà Nội. Sau khi
sinh con đầu lòng Duy Quang, ông đưa gia đình di cư vào Nam, sinh sống tại Sài
Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt
Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài
Gòn trong 120 ngày. Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, tại
đây ông quen với Trần Văn Khê, người sau này trở thành giáo sư. Hai năm sau,
ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định Genève. Từ đó ông ở miền
Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với Thái
Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Thời gian này
ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết
nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với đài Phát thanh.
Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và người vợ của em vợ,
vụ việc trở thành một đề tài gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội.
Đây là một “mối tình cấm”, “cả gan” luôn làm ông “buồn rầu khi phải nhắc lại”
vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia
không thể hàn gắn được”. Sau vụ tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với ban hợp
ca Thăng Long nữa. Trong lúc tinh thần suy sụp, ông đi vào một mối tình đặc biệt
với Alice, con gái của Helen – tình nhân cũ của ông. Đây là mối tình “giữa hai
tâm hồn”, “không đụng chạm thể xác”, được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn
cảm hứng lớn để ông viết nên nhiều tác phẩm nhạc tình giá trị, như Chỉ chừng đó
thôi, Thương tình ca…
Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở
ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn
Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc, Trần Ngọc, Hoàng
Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy
vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Thời gian này ông hay lui tới quán Chùa (La
Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan,Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu,
Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu… Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ
Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan.
Thập niên 1960, sau khi Việt Nam Cộng Hoà được nhiều quốc gia
thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác, Phạm Duy được cử đi
Philippin, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với ít nhiều
kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những buổi đón tiếp các phái
đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement
của Mỹ… Nhờ đó ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước
ngoài.
Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với Nguyễn Đức Quang,
Giang Châu, Ngô Mạnh Thu… đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca
khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó.
Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ ngoại
giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình,
nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được
đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân
ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại
qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để “giải độc dư luận Mỹ”.
Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông
là ca khúc ”Kể chuyện đi xa”.Ông cũng hát nhiều ca khúc phản chiến tại các show
truyền hình, sân khấu ở Mỹ.
Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình “The Dreamers” của các
con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng Sài
Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản
thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có.
Từ 1970 tới 1975, với nhiều diễn biến lớn diễn ra tại Việt
Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có nhiều bất ổn. Ngày 17 tháng 4
năm 1975, đài phát thanh của mặt trận giải phóng miền Nam cho đăng tuyên bố tử
hình vắng mặt Phạm Duy và hai người khác vì thái độ chống cộng. Những ngày cuối
tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam dân chủ cộng hòa vào miền Nam, Phạm
Duy quyết định đưa gia đình di tản ra nước ngoài. Ngày 28 tháng 4, ông và vợ,
hai con gái được máy bay của Mỹ đem đi .
Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia
đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ
này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm
nhạc về mình.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến
ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông
quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống
tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường.
Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép
phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm
sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua
đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của
ông được tổ chức tại nhà riêng và đã được đem chôn tại Công viên Nghĩa trang
Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Gia đình
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ
thuật, ngoài người cha Phạm Duy Tốn và anh trai Phạm Duy Khiêm là những nhà văn
có tiếng, còn có anh thứ Phạm Duy Nhượng cũng là một nhạc sĩ, tác giả ca khúc
Tà áo Văn Quân. Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn
Tục ngữ phong dao. Học giả Trần Trọng Kim từng nhận ông làm con nuôi.
Đến khi lập gia đình, ngoài vợ ông là ca sĩ Thái Hằng, còn có
em vợ là danh ca Thái Thanh, anh vợ là các nhạc sĩ Phạm Đình
Chương, nghệ sỹ Phạm Đình Sỹ, ca sĩ Phạm Đình Viêm tức Hoài Trung của ban
hợp ca Thăng Long. Các con ông được ông hướng dẫn theo nghiệp nhạc, đều có
thành công trong lĩnh vực của mình: con trai cả là ca sĩ Duy Quang, rồi đến nhạc
sĩ hòa âm Duy Cường, con gái là các ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo.
Ngoài ra có thể kể đến các ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo,
tức con rể Phạm Duy; các cháu gái như ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, và
Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ.
‘Tôi là một người hát rong, sung sướng được làm người hát
rong của thế kỷ.”
Phạm Duy
Phạm Duy
Có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải
cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam.
Nguyễn Văn Cổn Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó.
Trần Văn Khê
Nguyễn Văn Cổn Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó.
Trần Văn Khê
Phạm Duy bắt đầu sự nghiệp âm nhạc với vai trò ca sĩ hát Tân
nhạc trong gánh hát Cải lương Đức Huy - Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi
nhiều miền trên đất nước, giúp ông mở mang tầm mắt, ngoài ra khiến ông trở
thành một nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Với giọng
hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng
Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để
giới thiệu ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết
dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã khắc họa: “..Người thiếu niên này với
gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử
chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy (…) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm
Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ
như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng
lòng thổn thức (…) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các
thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như
thanh điệu êm ái (…) Bài Buồn Tàn Thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy
sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (…) đưa cái bài Buồn Tàn Thu
tới những tâm hồn mong mỏi (…) …Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là
một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt
Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải
có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (…) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có
lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập
dượt những bài hát (…)”
Với giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao gọi Phạm Duy là “kẻ du ca
đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn”. Ông từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe
trong một chuyến lưu diễn ở Phan Rang. Khi đã theo kháng chiến, với cây đàn
guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà
theo Tạ Tỵ, tiếng hát Phạm Duy lúc này “mang một âm hưởng khác, một nội dung
khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính
là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình
trong lịch sử”.
Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì
công việc ca hát của mình, một cách không đều đặn. Tiếng hát của ông từng được
phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn trên Nam Việt cũng như thế giới.
Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger trong các chương trình giao lưu
văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh
đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca
và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc Gia
đình Phạm Duy, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.
Tuy là một ca sĩ có được nhiều thành công đặc biệt, nhưng sự
nghiệp chính và quan trọng nhất của Phạm Duy là sáng tác, bắt đầu từ ca khúc Cô
hái mơ, nếu không tính các ca khúc nghịch ngợm, truyền miệng, hay các ca khúc đặt
lời cho nhạc ngoại quốc từ thuở thiếu niên.
Ca khúc đầu tay của Phạm Duy là Cô hái mơ, một ca khúc phổ từ
thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho ra đời bài Gươm tráng sĩ, một ca khúc gắn
với sự tích hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.
Bản nhạc Ngày trở về, ca khúc này được Phạm Duy
viết năm 1954
khi ông lên đường đi Pháp du học.
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn
Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong
phương diện sáng tác; Ông cùng Văn Cao cũng cùng nhau làm những ca khúc như Bến
xuân, Suối mơ. Thời gian đầu của sự nghiệp, ở trong vùng kháng chiến, ông sáng
tác nhiều ở thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường,
Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu… Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn
đầu tay: Cô hái mơ, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước
trên đường khuya….
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân
ca, mà theo ông: “Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là
một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị…
Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam
và với chất liệu của Việt Nam nữa”, từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là
“Dân ca mới”,: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ,
Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều… Những bài
này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.
Về nội dung, nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là
những bài nhạc hùng, nhạc vui, thường mang tính chất lạc quan: Gánh lúa, Đường
ra biên ải…, hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên
ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, ông bắt đầu khai
thác thêm đề tài mặt trái của cuộc kháng chiến, đó là sự bi, sự khổ. Đề tài này
là chủ đề chính trong những ca khúc: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi
thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru…, mang những
câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi thống khổ của người dân quê trong
thời chiến.
Những bài hát tình tứ, lãng mạn của ông tuy được quần chúng
yêu thích và phổ biến rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ và có chất “lãng mạn
tiểu tư sản” mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến.
Sau nhiều lần bị khiển trách, ông quyết định về thành. Trong 2 năm sửa soạn về
thành rồi về Sài Gòn định cư (1951-1952), ông không sáng tác gì ngoài việc phổ
câu ca dao thành bài dân ca là Nụ tầm xuân, và phổ bài thơ Tiếng sáo thiên thai
của Thế Lữ thành một bản tango, để đáp ứng nhu cầu hát đôi của chị em
Thái Thanh, Thái Hằng.
Năm 1952, Tình hoài hương ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho
khuynh hướng sáng tác “Tình ca quê hương”: “Sau khi nói lên vinh quang và nhọc
nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê
hương..” Ca khúc tiếp theo là Tình ca; hai bài này được nhân dân yêu thích
và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương. Phạm Duy tiếp
nối thể loại “Tình ca quê hương” bằng một thể loại mà ông gọi là “Tình tự dân tộc”, bắt
đầu từ năm 1954, với bộ ba Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng
nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy:
“nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện
Thanh tức Nhật Trường… hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo
bolero”.
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới: Đố ai,
Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo… Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ,
Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày
đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva. Ngoài ra còn có những
ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì…
Đứng trước thân phận đau thương của đất nước
Từ sau hiệp định Genève cho đến năm 1975, do hoàn cảnh chính
trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển ở miền Nam Việt Nam. Đây là giai
đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp của ông, với sự đi
sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm tư, bên cạnh đó là các đề tài mới mẻ cũng như
những ca khúc có vấn vương tới chính trị.
Trong thời gian du học Pháp (1952-1954), ông thai nghén bản
trường ca đầu tiên của mình, với ý phản đối hiệp định Geneve chia đôi đất nước.
Sau khi du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng
dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh
phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương
tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu… Và từ đó
đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói
về “Tình yêu – Sự đau khổ – Cái chết”, ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông,
những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường
chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay.
Trong thời kỳ đất nước đã chia đôi, Phạm Duy với sự nổi tiếng
của mình, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng từ các vấn đề chính trị. Năm 1956,
ông soạn bài Chào mừng Việt Nam để ca ngợi chế độ mới, ông gọi việc làm này là
vì “bổn phận công dân”. Sau đó bắt đầu những tác phẩm phục vụ cho Vụ Văn hóa,
như ca kịch Chim lồng (1955), nội dung ca ngợi tự do và lên án sự ràng buộc, ám
chỉ sự khác nhau của hai chế độ đang tồn tại trên đất nước Việt Nam.
Thời kỳ này, ngoài những khúc tình ca, tâm tưởng hay những
bài hát liên quan tới chính trị nói chung, ông còn tạo ra các chủ đề độc đáo về
tâm linh – tâm tưởng như “Đạo ca”, “Tâm ca”, về xã hội như “Tục ca”, “Vỉa hè
ca”, Tâm phẫn ca, về tuổi thơ như “Bé ca”… Đa phần nhận được sự đón nhận của
công chúng, tuy nhiên cũng có những thể loại gây nhiều tranh cãi vì dùng ngôn
ngữ quá bình dân như “Vỉa hè ca” hay dung tục, như “Tục ca”.
Năm 1963, ông khởi sự sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây
là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan hoàn tất trước đó vài năm. Đây được
coi như hai tác phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn
trong nền âm nhạc Việt.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ
Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật.
Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự
tham gia văn nghệ của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca
nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu,
Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa…. Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời,
ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo người
yêu mến, như những bài Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc
“Đạo ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em
hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ
thơ Cung Trầm Tưởng)… Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca
khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của “phong trào nhạc trẻ”, hay những
bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi
là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của
Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)…
Một thể loại cũng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn
chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về tâm tư của người dân, người
lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc
trên chiến trường tồi tệ, những ca khúc mang tính phản chiến như Giọt mưa trên
lá, Chuyện hai người lính, Thầm gọi tên nhau, Tưởng như còn người yêu. Ông cũng
tham gia Phong trào du ca Việt Nam với nhiều ca khúc nổi bật như Việt Nam Việt
Nam, Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân, và xuất bản với phong trào này tập
nhạc Hoan ca bao gồm các thể loại: Bình ca, Nữ ca, Đồng dao.
Phạm Duy rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 qua đường
vượt biên. Trong 30 năm xa quê hương, sự nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục
phát triển qua nhiều đề tài, thể loại mới, tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm
ở Việt Nam, chỉ phổ biến trong cộng đồng nhỏ ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một
thời gian ông cùng các con và ca sĩ Khánh Ly đi hát tại các trại tị nạn cho người
Việt lưu vong. Bên cạnh đó là in sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để kiếm
tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự tin, ông rủ Steve Addiss, Bill Crofut, James
Durst…đi hát rong tại các quán cà phê, trường Đại học, câu lạc bộ ở các thành
phố Mỹ . Sau đó ông thành lập gánh hát Gia đình Phạm Duy (The Pham Duy
family singers), bắt đầu mở các chương trình ca nhạc cũng như nhận lời mời đi
diễn tại các sự kiện âm nhạc.
Phạm Duy cũng bắt đầu giai đoạn sáng tác mới của mình từ những
ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này, là tổ khúc Bầy chim bỏ
xứ, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn
dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương
lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim.
Những sáng tác của Phạm Duy trong thời kỳ đầu ở hải ngoại có
thể chia làm hai đề tài chính:
Nói về hành trình tìm kiếm tự do ở hải ngoại, với Tỵ nạn ca. Gồm những ca khúc viết về tình cảnh, tâm trạng của người Việt lưu vong: Nguyên vẹn hình hài, Ta trốn Cộng hay ta chống Cộng, Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, Hát trên đường tạm dung, Người Việt cao quý, Ta là gió muôn phương, Dấu chân trên tuyết, Quê hương còn đó,… đề tài Thuyền nhân: Hát Trên Đường Vượt Biển, tâm tư nguyện vọng của người xa xứ: Lấp biển vá trời,Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Giải Thoát Cho Em, Trả Lại Chồng Tôi, Như là lòng tôi,…
Nói về hành trình tìm kiếm tự do ở hải ngoại, với Tỵ nạn ca. Gồm những ca khúc viết về tình cảnh, tâm trạng của người Việt lưu vong: Nguyên vẹn hình hài, Ta trốn Cộng hay ta chống Cộng, Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, Hát trên đường tạm dung, Người Việt cao quý, Ta là gió muôn phương, Dấu chân trên tuyết, Quê hương còn đó,… đề tài Thuyền nhân: Hát Trên Đường Vượt Biển, tâm tư nguyện vọng của người xa xứ: Lấp biển vá trời,Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Giải Thoát Cho Em, Trả Lại Chồng Tôi, Như là lòng tôi,…
Về sự mất tự do ở trong nước, với Ngục ca, phổ từ tập thơ Hoa
địa ngục của Nguyễn Chí Thiện: Hát Cho Người Ở Lại, Giấc Mơ Khủng Khiếp,
Hoa Địa Ngục, Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Đảng Đầy Tôi, Ngày 19
Tháng 5, Xưa Lý Bạch, Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ… có nội dung đả kích,
lên án mạnh mẽ chế độ cộng sản tại Việt Nam.Năm 1982, theo ông, “đã có một sự
kiện làm cho tâm hồn tôi lắng xuống”, đó là việc được đọc tập thơ chuyền tay của
thi sĩ Hoàng Cầm từ Việt Nam. Từ đó ông cho ra đời Hoàng Cầm ca gồm
những bài phổ từ thơ Hoàng Cầm. Hoàng Cầm ca cũng nhen nhóm một giai đoạn
mới trong nhạc của ông ở hải ngoại, đó là việc từ giã dần những ca khúc mang
tính chất đau thương cho người viễn xứ hay đả kích chế độ tại Việt Nam.
Đến năm 1988, việc cộng sản suy yếu trong chiến tranh lạnh và
“vì cuộc di cư của người Việt Nam đã tới một giai đoạn mới”, Phạm Duy bèn tính
tới việc sáng tác nhạc cho năm 2000, “Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo
cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu. Dù rằng trước đây những xu hướng trở về nội
tâm cũng đã ló ra trong những bài hát soạn cho ngoại vật. Từ nay trở đi, đối với
tôi, có lẽ tôi phải bỏ quên các loại nhạc tình cảm và nhạc xã hội để đi tới nhạc
tâm linh”. Thời kỳ này có các tác phẩm chính: Trường ca Hàn Mặc Tử (cuối
năm 1993), là loại “nhạc siêu thực” phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc
Tử. Thiền ca, với phụ đề Hát Trên Đường Về ra đời để “hi vọng mọi người Việt
Nam trở về với ba đạo gốc”. Và Rong ca, gồm 10 bài: Là cuộc “thong dong đi trên
con đường dẫn tới những năm 2000”, với những tâm sự của người tình già (Người
tình già trên đầu non), với ý nguyện hóa giải quá khứ (Ngụ ngôn mùa xuân), chôn
chặt quá khứ trong Mộ phần thế kỷ, hứa hẹn trở về trong Hẹn em năm 2000, đặt những
vấn đề cho thế kỷ mới (Mẹ năm 2000), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời sống: Nắng
chiều rực rỡ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chính là người
giúp ông phổ biến Rong ca tại Việt Nam, qua một băng cassette xách tay.
Ngoài những đề tài chính trên, Phạm Duy cũng không quên soạn
những bản nhạc về tình yêu đôi lứa như Nghìn năm vẫn chưa quên, Rồi đây anh sẽ
đưa em về nhà… Ông cũng bắt đầu soạn Hương ca và Minh họa Kiều, những tác phẩm
sẽ được hoàn thành sau khi ông trở về Việt Nam.
Nhạc Phạm Duy từng phổ biến rộng rãi khắp đất nước Việt Nam
trong những năm 1942-1954 và được sự đón nhận rất lớn của quần chúng và cả
chính quyền miền Bắc. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng,
đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy
– nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã
khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách hai người bị cấm toàn bộ về nhân
thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài
phát thanh giải phóng đọc tuyên bố “tử hình vắng mặt” ba người trong đó có Phạm
Duy, vì thái độ chống cộng của ông.
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ
bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1947; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm
ủy mị buồn bã, làm nản lòng người. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh
cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về
việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm hoàn toàn. Từ
đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông bị đem ra phê
phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc
này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm
1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm
Duy là “rải tuyên truyền”, Đỗ Nhuận gọi bài đó là “dâm ô”.
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi
Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: “Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi” [65],
nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt
Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm
Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm
về nhân thân.
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy.
Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975
có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay
như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên
“Hồi Ký” đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: “Tất cả về cội,
không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn.
Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ
anh.”
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn: “Vâng chỉ có
trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá
rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa.”
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài “Công và tội” đăng trên
báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt
tên tuổi mà ông cho là “phản bội”, nhưng vẫn có công cho văn hóa nước nhà như
Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn: “Trong lĩnh vực ca nhạc,
Phạm Duy, “con người của phản bội”, bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đã có cái may
mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là
những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 –
1949.”
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm
Duy. Đó là bài thơ “Về thôi” mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà
thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ “Tặng P.D.” bên
cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm
Duy cũng phổ nhạc với tên “Trăm năm bến cũ”. Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm
ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đã thực hiện.
Trong khoảng thời gian nhạc Phạm Duy bị cấm này vẫn có những
ca sĩ trình diễn nhạc Phạm Duy và thậm chí cho ra bản thu âm, trong đó nổi bật
nhất có thể kể đến Lê Dung, người được coi là diva lớn nhất trong nước. Lê Dung
đã cho thu âm một số bài hát nổi tiếng của Phạm Duy như Nghìn trùng xa cách, Mộ
khúc… và bà đã cho phát hành trong các album Kỷ niệm vàng son, Dạ khúc của bà.
Điều này đã khiến bà gặp rắc rối không ít với chính quyền. Sau 2005
Từ sau 2005, Phạm Duy trở về Việt Nam và các nhạc phẩm của
ông được phổ biến lại dần từng đợt một dưới hình thức xin cho. Tính cho tới khi
ông mất, chỉ khoảng 100 ca khúc, tức 1/10 lượng sáng tác được nhà nước cho phép
phổ biến, điều này khiến những người yêu nhạc của ông cảm thấy tiếc nuối cho
một nghệ sĩ tài năng nhưng liên đới nhiều đến chính trị. Ông từng đích thân gửi
thư cho chủ tịch Trương Tấn Sang sau khi gặp vợ chồng chủ tịch nước ở Hà Nội
trong chương trình ‘Xuân Quê Hương’, với nội dung mong muốn “”tất cả các tác phẩm
âm nhạc [của Phạm Duy]…từ thời tiền Kháng chiến…đến nay được cho phép biểu diễn
trên quê hương” trừ các tác phẩm “Chính quyền thấy không phù hợp”. Phổ biến nhạc
Phạm Duy cũng là điều được nhiều nhân vật ở nhiều giới lên tiếng ủng hộ, trong
đó có sử gia Dương Trung Quốc, ca sĩ Ánh Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân,
giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê.
Một số nhận định về âm nhạc của Phạm Duy:
“Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng
ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông
giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống.
Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí
quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh
Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của
mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến
hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót
lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ nàỵ”.
Lê Uyên Phương
“Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có
nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”.
“Người ta ở đời thường muốn sống theo kiểu tiên hoặc kiểu thần.
Sống kiểu tiên là ngao du, thỏa chí mình, không quan tâm đến sự đánh giá của
thiên hạ. Sống kiểu thần thì muốn xông pha làm nên công trạng hiển hách. Phạm
Duy là mẫu người thứ hai”.
Phạm Thiên Thư
“Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi
mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ “nhạc sĩ”). Duy có những khả
năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có
thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tính cách
rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ
tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu “chiêu hồn nhạc” hết sức đậm
đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy “chiêu”
được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông
thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của Duy rồi chăng? Thành công – đối với
Duy mà nói – không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó
đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ
ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc,
nghệ thuật. Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường,
nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những
thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa
vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết
hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca,
tổ khúc… cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy
làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm
từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới
bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong
dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào
thời gian”.
Trần Văn Khê
“Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi nơi tôi một chút ý tưởng
hòa bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải qua nhiều tháng nhiều năm,
tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như yêu mến chính nước tôi, sở
dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm Duy và một số nghệ sĩ Việt
Nam khác”.
Georges-Étienne Gauthier
Lược trích từ Blog Phannguyenartist
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét