Cụ Tam nguyên Yên Đổ không chỉ giỏi sáng tác thơ ca chữ Hán,
siêu việt về thơ Nôm mà ta còn thấy bóng dáng cả tiếng Tây trong thơ Cụ. Dĩ
nhiên, phải đọc thơ Cụ kỹ càng một tí thì ta sẽ phát hiện ra ngay. Nhiều khi Cụ
nói năng viết lách rất kín nhẽ , rất thâm trầm .
1. Nhại tiếng Tây. Bài hát nói Ông phỗng đá của Nguyễn
Khuyến có đoạn đầu như sau:
Người đâu tên họ là gì?
Khéo thay chích chích chi chi nực cười.
Giang tay ngảnh mặt lên trời
Hay còn lo tính sự đời chi đây?
Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay tưởng trông cây cỏ nước non này
Chí cũng rắp giang tay vào hội lạc…
Cái lạ đầu tiên của đoạn thơ là những câu hỏi liên tiếp mà tác
giả đưa ra. Có gì mà phải hỏi nếu ông phỗng đá đó đầy rẫy các đền chùa. Người
ta đều biết rằng đó là hình tượng tù binh Chiêm Thành đội đèn dâng hương. Dẫu
không rõ tính danh nhưng người đâu thì có lạ gì mà phát vấn thế.
Thái độ hỏi vừa giống quan trường khảo tra kẻ bất lương lại vừa giống trẻ con
văn hóa làng hỏi người lạ đến: Người đâu! Tên họ là gì?!.
Cái lạ thứ hai là ở tư thế và thần sắc bức tượng đá
này: Giang tay ngảnh mặt lên trời/ Hay còn lo tính sự đời chi đây. Tượng
cổ quả thật không có tư thế như vậy. Tượng phỗng xưa chắp tay và nhẫn nhục, khó
đọc ra sự lo tính trên gương mặt. Tượng phỗng xưa thường đặt ở vị trí
thấp so với người quan sát chứ không bắt người quan sát phải ngước trông như thế.
Đọc đến câuCớ làm sao len lỏi đến chi đây? thì chúng ta nhận ra đây là phỗng
đá lạ lùng chứ quyết không là phỗng đá quen thuộc. Đây là những pho tượng mới
nhập ngoại, lạ lùng với vốn văn hóa Nho gia lúc đó, dị ứng với tư tưởng của
Nguyễn Khuyến lúc đó. Hai chữ len lỏi chứng tỏ đối với Cụ thì ông phỗng
này không chính trực, không phổ biến. Tại sao nhìn một bức tượng, không những tả
tư thế, mà Nguyễn Khuyến có tâm trạng đầy hoài nghi về sự xuất hiện không được
đàng hoàng của nó: lo tính sự đời chi đây, len lỏi đến chi đây, chí
cũng rắp…
Đến đây, chúng ta sẽ hiểu hơn câu thơ Khéo thay chích
chích chi chi nực cười. Về câu thơ này, năm 1957, khi làm tập Văn thơ
Nguyễn Khuyến các học giả Hoàng Ngọc Phách – Lê Thước – Lê Trí Viễn chú
thích là: Chích chích chi chi: làm ra ngây ngô không biết gì việc đời.
Chú như vậy có lẽ chưa trúng chăng với một hành vi lo tính, len lỏi, rắp.
Tôi cho rằng, nếu Nguyễn Khuyến hỏi tên họ pho tượng mà có người đọc cho bằng
tiếng Pháp là lúc đó là dê – duýt – cờ - rít (Jésus – Christ ) thì với
lỗ tai nhà Nho nghe lạ lùng như chim hót vậy, và họ sẽ bật lên tiếng nhại chích
chích chi chi. Bốn chữ này vốn có trong thơ ca phương Đông, nó là cách hình
dung tiếng nói những dị tộc của những người tự coi mình là Hoa Hạ. Nguyễn Khuyến
cũng vậy chăng khi Cụ vẫn gọi người Pháp xâm lược là bạch quỉ, bạch man.
Tư tưởng chung đúc của Nguyễn Khuyến vẫn là ái quốc ưu dân,
thơ văn Cụ thâm trầm tư tưởng đó, nhưng sự lựa chọn của Cụ là tùy ngộ nhi
an (trong thời loạn, đành theo ngộ biến mà yên phận – Nguyễn Xuân Hiếu, Trần
Mộng Chu: Khảo luận về Nguyễn Khuyến – NXB Nam Sơn 1960). Bất hợp tác
với giặc Pháp nhưng Cụ không tham gia các phong trào chống Pháp sôi nổi lúc bấy
giờ mà khẩu hiệu thường gặp là Bình Tây sát tả (phong trào Văn Thân).
Sự ảnh hưởng tư tưởng đó là khó tránh vì Cụ chung cục, cũng như Nguyễn Đình Chiểu
trước đây quyết không quăng vùa hương, xô bàn độc để theo quân tả
đạo.
Quả thật, nửa sau bài ta thấy rõ tư tưởng đó của Cụ dưới ý vị
trào lộng:
Thanh Sơn tự tiếu đầu tương hạc
Thương hải thùy tri ngã diệc âu
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
Chén chú chén anh chén tôi chén bác
Cuộc tỉnh say say tỉnh một vài câu
Nên chăng đá cũng gật đầu.
Từ chuyện pho tượng đá, Nguyễn Khuyến quay ra đối diện với
lòng mình. Chốn Thanh Sơn ư, ta tự cười tóc đã bạc như đầu hạc (không vui vẻ được
nữa). Thương hải biến dời ư, ta như con cò thôi (biết làm sao bây giờ). Không
chấp chuyện đâu đâu mà nhọc lòng. Túi vũ trụ này sẽ phó mặc cho đàn sau. Lạ nhỉ?
Cái ông phỗng nào mà quan tâm đến vũ trụ?. Nguyễn Khuyến là nhà Nho vốn có lòng
tự nhiệm đã đành (Vũ trụ nội giai ngô phận sự - Nguyễn Công Trứ). Ông phỗng
đó, pho tượng đá đó phải là một biểu tượng quan trọng, có tầm vóc toàn cầu chứ
không phải là cái gì quen thuộc, bình thường. Cũng vì vậy mới hi vọng thỏa hiệp
mà tương tồn trong cuộc say điên đảo này: Nên chăng đá cũng gật đầu. Tóm lại,
đã giang tay ngửa mặt thì khó lòng mà phỗng ta. Đó là một bức tượng Tây nhìn
qua lăng kính Nguyễn Khuyến. Đọc thêm bài Bài họa “ông phỗng đá” của
chí sĩ Phan Văn Ái cùng thời thì ta thấy họ hiểu nhau hơn và ta hiểu pho tượng
này hơn dù nhiều sách khi chép bài này đều ghi kèm giai thoại rằng Cụ viết
trong một bữa tiệc tại Thái Hà ấp.
Nguyễn Khuyến là vậy, yêu nước lo dân nhưng bất lực, lui về,
bài Tây nhưng tùy ngộ nhi an.
2. Chép tiếng Tây bằng chữ Nôm. Bằng chứng Cụ dùng tiếng Pháp
trong thơ nằm ở bốn chữ “gốc sậy” và “la ga” trong bài thơ Về nghỉ nhà:
Tóc bạc lòng son chửa dám già,
Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà.
Nước non cây cỏ còn như cũ
Ghế gậy cân đai thế cũng là.
Đất rộng biết thêm đường gốc sậy
Ngày rồi nghe hết chuyện la ga.
Ông trời có nhẽ cho ta nhỉ
Về bốn chữ trong cặp câu 5,6 có nhiều người băn khoăn. Các học
giả làm sách Văn thơ Nguyễn Khuyến (1957) đã nói ở trên viết: Ví
dụ: Đất rộng, biết thêm đường gốc sậy/ Ngày rồi nghe kể chuyện la
ga. Chúng tôi đã hỏi nhiều người, cả con cháu nhà thơ mà chúng tôi được gặp,
nhưng cũng không hiểu đích xác câu thơ nói gì. Trong trường hợp này chúng tôi
hoặc “thú nhận là không biết” hoặc đưa ý riêng của mình, nhưng luôn luôn thận
trọng. Ở phần chú thích, họ viết về gốc sậy: Tích này trong các
bản nôm không chú thích. Có một nhà thơ lão thành cho biết đây là việc quân
Pháp đánh Bãi Sậy, căn cứ địa của ông Tán Thuật. Về la ga viết:
Tích này cũng không thấy chú thích. Chúng tôi nghe nói hồi đó, chính phủ thực
dân, mở đường xe lửa, những gia đình ở vào đất ấy đều phải đuổi đi nơi khác.
Nông dân thì phải đi phu… nên lời oán trách truyền khắp thành thị thôn quê. Có
người lại nói: chuyện la ga là chuyện góp của các nơi đưa đến. Nhà ga xe lửa là
một chỗ người thành thị thôn quê gặp nhau. Không hẹn mà gặp, các tác giả
sách Khảo luận về Nguyễn Khuyến (1960) cũng viết: Người
Pháp khi làm đường sắt nối liền hai thành phố này có đặt một ga xép tại làng
Yên Đổ. Buổi ấy cách chuyên chở bằng hỏa xa thật là mới lạ đối với dân ta. Chắc
hẳn nhiều người cũng đã thán phục lối chuyên chở nhanh chóng và thuận lợi ấy.
Chưa kể những hành khách đi xe cũng là những người phổ biến tin tức mau lẹ nhất
từ nơi này qua nơi khác. Và chỗ nhà ga chính là một trạm đón tin. Trong một bài
thơ Nguyễn Khuyến cũng đã nhắc đến “truyện la ga”: Đất rộng biết thêm đường gốc
sậy/ Ngày rồi nghe hết truyện la ga. Cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến năm
1971 đành chú 4 chữ này là không rõ lắm.
Rất tiếc là bài thơ Về nghỉ nhà không ghi rõ thời
gian sáng tác. Đọc kĩ bài thơ cũng không thể quyết đoán rằng Cụ làm bài này
ngay sau khi nghỉ về hay là một thời gian lâu sau đó. Chỉ biết rằng khi Cụ về
nghỉ (1884) thì tuyến đường tàu đầu tiên nối Sài Gòn – Mĩ Tho đang hoàn tất
(1881 – 1885). Trong đời Nguyễn Khuyến đã chứng kiến hai sự kiện kiến trúc quan
trọng, chấn động dư luận, cùng khánh thành vào năm 1902: Cầu Long Biên và Ga
Hàng Cỏ. Ga Hàng Cỏ lúc đó được coi là một lâu đài bên bờ sông Hồng, Việt Nam.
Theo kí ức người xưa, người Pháp thông minh đã biến móng nền thành các ô vuông
đựng nước phục vụ hỏa xa nên sàn mát như thạch, người qua lại thường ghé vào
nghỉ trưa tránh nóng nên chuyện trò râm ran. Còn dễ hơn nhà nghèo đi siêu thị
máy lạnh ngày nay. Năm 1905 tuyến Hà Nội – Vinh đã hoàn thành kéo qua Bình Lục
quê Cụ. Như vậy từ la gare đã được đi vào thơ Nguyễn Khuyến bằng chữ
Nôm la ga. Vậy còn hai chữ gốc sậy thì sao?. Sự cẩn trọng của
các học giả tiền bối khiến chúng ta khiến chúng ta cũng thận trọng theo.
Đó là những từ Việt có nghĩa nhưng khi đặt vào câu thì quá
khó hiểu dù các học giả đã cố tìm hiểu người địa phương là con cháu. Nay tôi
theo các cụ đưa ý riêng của mình để bạn đọc cùng suy nghĩ. Rõ là
không thật bắt buộc, nhưng nếu trong thế đối, hai chữ dưới là tiếng Pháp thì hai
chữ trên cùng tiếng Pháp sẽ thú hơn nhiều. Vậy hai chữ đó có thể là corsaire với
nghĩa là tàu (tầu) ô, tàu cướp. ăn cướp, cướp biển. Từ tiếng Pháp đó khi đọc
sang tiếng Việt bồi sẽ làcộc xẩy, cộc xảy, cốc xậy và khi viết Nôm sẽ
dùng cốc và sĩ để biểu âm rồi có thể đọc là gốc sậy.
Đường + tàu = đường + corsaire thì quá tinh vi và thâm thúy. Có thể vừa hiểu
là đường tàu vừa có thể hiểu là đường ăn cướp nước người vì
thấy đất rộng hoặc vì để đất rỗng. Tiếng các người ư?. Tôi chỉ hiểu hai chữ “ăn
cướp”. Chơi chữ Tây mà thật thâm Nho. Chúng ta đã từng thấy Nguyễn Khuyến nhại
giọng Tây ngọng ra thơ chữ Hán mà viết Đại nhân ưng tác thỉ nhân hô, khiến
ai cũng hiểu là Quan lớn nên kêu làm quan lợn, thì việc Cụ chơi đối cả tiếng
Pháp cũng là chuyện thường tình.
Chứng kiến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp, Cụ không khỏi đau lòng. Năm 1902, đấu xảo thuộc địa lần thứ nhất được mở
với mục đích phô bày sản vật của xứ Đông Dương để kêu gọi các nhà tư bản Pháp bỏ
vốn đầu tư khai thác, Cụ đã viết trong bàiĐấu xảo kí văn: Cận lai thùy tạc càn
khôn khổng/ Đáo thử phương tri vũ trụ xuân (Lâu nay ai đã đào rỗng cả
trời đất vậy/ Để đến đây mới biết cái “cảnh xuân” của vũ trụ). Xuân là phơi ra,
khoe ra. Đó là cảnh đá đổ xuống sông của các dự án được Cụ ngao ngán nói trong
bài Hỏi đá: Biết chăng chỉ có ông hà bá/ Mím mép cười thầm với nước non.
Đó là kết quả của Lào Cai Yên Bái với mấy muôn người xẻ núi ngăn sông thực
hiện dự án cơ sở hạ tầng khai thác nước ta mà Cụ cũng đã kêu lên, đã báo động
trong bài khác: Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm/ Nước độc ma thiêng mấy vạn
người/ Khoét rộng (rỗng) ruột gan trời đất cả/ Phá tung (toang) phên dậu hạ
di rồi. Pháp làm đường tàu Hải Phòng - Vĩnh Yên - Lào Cai trước rồi nối
Vân Nam, với Nguyễn Khuyến, quyết không là vị dân sinh mà là bóc lột nước non
này. Tán Thuật khởi nghĩa Bãi Sậy đã chặn âm mưu đường tàu này. Hoàng Hoa Thám
khởi nghĩa Yên Thế chặn thi công đường tàu kia. Cụ vạch trần con đường đó là đường cốc
xậy (corsaire): Đất rộng (rỗng?) biết thêm đường “ăn cướp”.
Nguyễn Khuyến là vậy. Ngày nay dù tư tưởng chúng ta thay đổi
bao nhiêu đi nữa thì: Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ (Nguyễn
Duy).
Tháng 1 năm 2009
Nguyễn Hùng Vĩ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét