Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

Người nhạc sĩ mù 1

Người nhạc sĩ mù 1
Chương 1
Lời tác giả:
Tôi biết trước lần này việc nhuận chính và những đoạn thêm bớt sẽ làm người đọc ngạc nhiên, nên thấy cần phải giải thích. Đề tài chủ yếu cũng như động cơ căn bản về tâm lý của câu chuyện là lòng khao khát được thấy ánh sáng của con người, một thứ khao khát do bản năng, do cơ thể thôi thúc. Đấy là mấu chốt cuộc khủng hoảng tinh thần trong phát triển của nhân vật chính câu chuyện và cách giải quyết nó. Trong số những lời phê bình của bạn thân tôi, hoặc trên báo chí, có những lời phản đối, cho là cái bản năng ham muốn ánh sáng ấy không thể có ở một người mù từ thuở lọt lòng. Những người này không hề thấy ánh sáng, vậy họ không thể thấy thiếu thốn cái mà họ không bao giờ biết đến. Theo tôi, lời chê trách đó có phần không đúng. Chúng ta chưa hề bao giờ bay được như chim, thế mà ai cũng thấy rõ rệt cái cảm giác bay liệng trên không đã từ bao nhiêu năm vẫn hằng ám ảnh các trẻ em và các thanh niên trong những giấc mơ. Tuy nhiên, cũng xin thú thực là cái chủ đề ấy được đưa vào câu chuyện trước hết là do trí tưởng tượng của tôi gợi ra. Mãi mấy năm về sau, khi cuốn sách này đã được tái bản nhiều lần, trong một buổi dạo chơi, tôi đã may mắn được có dịp quan sát trực tiếp. Hai chú bé kéo chuông mà độc giả sẽ thấy nói đến ở chương VI (một chú bị mù từ thuở lọt lòng), tâm trạng khác nhau của hai chú, đoạn tả hai chú với lũ trẻ con, những lời của chú Iêgo nói về những giấc mơ, tất cả những cái đó, tôi đã mục kích tại chỗ và có ghi vào sổ tay ngay trên tháp chuông nhà thờ Sarôpski thuộc giáo quản khu Tam bốp. Ngày nay có lẽ hai chú bé vẫn còn sống và đang giới thiệu tháp chuông với khách đến thăm. Từ ngày đó mỗi lần sách tái bản, tôi lại băn khoăn về đoạn này mà theo tôi, là đoạn quyết định để giải quyết dứt khoát vấn đề. Chỉ hiềm vì câu chuyện đã viết xong, viết lại thực rất khó, nên tôi cứ chần chừ mãi không đưa đoạn này vào.
Lần tái bản này, đoạn thay đổi kể trên là phần thay đổi quan trọng nhất. Những chi tiết sửa đổi khác chỉ là hậu quả của nó, vì một khi đề tài đã sửa lại, tất nhiên tôi không thể chỉ làm việc nhét thêm một đoạn mới vào một cách máy móc, óc tưởng tượng của tôi trở lại vết cũ, công việc của nó tất nhiên thấy phản ánh trên những đoạn khác trong câu chuyện. 
25-2-1898
I. Đêm khuya. Trong một gia đình giàu có vùng Tây nam, một đứa bé ra chào đời. Bà mẹ, một thiếu phụ còn trẻ, nằm thiêm thiếp trên giường, nhưng khi tiếng oa oa đầu tiên của đứa trẻ khe khẽ và não nuột vang lên trong buồng, thì bà mẹ, mắt vẫn nhắm nghiền, cũng bắt đầu quằn quại. Đôi môi thiếu phụ mấp máy một điều gì, khuôn mặt tái nhợt hiền hậu, gần như còn ngây thơ, chợt nhăn nhó đau đớn, nóng ruột, giống như đứa trẻ vốn được nuông chiều lần đầu tiên gặp việc lo buồn.
Bà đỡ ghé tai sát môi thiếu phụ đang lắp bắp. Thiếu phụ thều thào hỏi:
- Cháu nó làm sao thế?... Sao thế?
Bà đỡ không hiểu câu hỏi. Đứa trẻ lại khóc thét lên. Khuôn mặt sản phụ ánh lên một nỗi đau đớn xót xa. Từ đôi mắt đang nhắm, một giọt nước mắt lớn trào ra. Đôi môi thiếu phụ vẫn thầm thì rất khẽ như ban nãy:
- Sao thế? Sao thế?
Lần này bà đỡ đã hiểu ra, bình tĩnh đáp:
- Bà hỏi tại sao cháu nó khóc chứ gì? Bà cứ yêntâm, đứa bé nào lọt lòng ra cũng vậy.
Nhưng người mẹ không sao yên tâm được. Cứ mỗi lần đứa bé khóc, bà lại rùng mình, luôn miệng hỏi, giọng cau có, nóng ruột:
- Sao mà cháu nó khóc... ngằn ngặt làm vậy? Bà đỡ nghe không thấy có gì lạ trong tiếng khóc của đứa bé. Bà cho là thiếu phụ nói mê hoặc đang mê sảng, bà mặc kệ chỉ lúi húi chăm sóc cho đứa nhỏ.
Thiếu phụ nín bặt. Chốc chốc nỗi đau xót không thoát ra ngoài được bằng cử chỉ hoặc lời nói, lại làm nước mắt thiếu phụ ứa ra. Những giọt nước mắt to lớn lọt qua đôi hàng mi đen láy, dầy dặn, khẽ lăn trên đôi má tai tái màu đá cẩm thạch.
Có lẽ trái tim người mẹ đã cảm thấy có một số mệnh đau khổ, tối tăm, không lối thoát, vừa đây cùng ra đời với đứa con của bà, cái số mệnh ác nghiệt ấy treo lơ lửng trên nôi đứa bé để theo đuổi nó cho đến lúc nó chết.
Có lẽ đấy chỉ tại mê sảng chăng? Dù sao, đứa bé cũng bị mù ngay từ thuở mới lọt lòng.
II. Ban đầu không ai nhận thấy. Đôi mắt đứa bé nhìn lờ đờ, mơ hồ, cái nhìn đặc biệt của mỗi trẻ em sơ sinh cho đến một tuổi nào đó. Ngày tháng trôi qua, đứa bé ra đời đã được mấy tuần. Đôi mắt nó sáng ra, màng trắng đục trước kia che lấp đôi mắt nay biến đi, đã nom thấy rõ con ngươi. Nhưng khi một tia sáng chói ùa vào buồng cùng với tiếng chim hót ríu rít, vui vẻ, lẫn tiếng rì rào của đám cây dẻ gai xanh mướt đung đưa ngay cạnh cửa sổ trong khu vườn rộng, đứa bé không hề quay đầu lại. Bà mẹ đã có thời giờ bình phục, bà là người đầu tiên lo lắng nhận thấy cái vẻ lạ lùng trên khuôn mặt nhỏ nhắn không bao giờ động đậy của đứa bé, cái vẻ nghiêm nghị không đúng vẻ mặt của một đứa mới lọt lòng. Như con bồ câu mái kinh hoàng, thiếu phụ ngơ ngác nhìn mọi người và hỏi:
- Bác ơi, sao cháu nó lại thế nhỉ? - Mọi người thản nhiên hỏi lại:
- Thế nào? Cháu nó có khác gì những đứa cùng tuổi với nó đâu...
- Nhưng kìa, bác hãy nhìn vẻ mặt kỳ quái của cháu. Như nó đang lấy tay quờ quạng tìm một vật gì...
Bác sĩ đáp:
- Tại cháu nó còn chưa biết phối hợp động tác của đôi bàn tay với những ấn tượng mắt nó nhìn thấy đấy thôi.
- Nhưng thế tại sao bao giờ nó cũng cứ nhìn mãi về một phía. Nó... nó... mù phải không? - Thiếu phụ kêu thét lên, trái tim thốt nhiên bị một ý nghĩ ngờ vực kinh khủng xuyên qua, không còn ai an ủi được.
Bác sĩ bế lấy đứa bé, quay phắt nó về phía ánh sáng và nhìn vào đôi mắt nó. Ông hơi băn khoăn. Sau mấy câu qua quít, ông ra về, hứa vài ba ngày nữa sẽ trở lại.
Bà mẹ khóc lóc, giẫy giụa như chim bị đạn. Bà ép chặt đứa con nhỏ vào lòng. Đôi mắt đứa bé vẫn cứ ủ rũ, không động đậy.
Vài ngày sau, đúng lời hứa, bác sĩ trở lại, mang theo một chiếc kính thử mắt. Ông thắp một ngọn nến, lúc đưa cây nến ra xa, lúc đem lại gần mặt đứa bé. Ông nhìn vào tận đáy tròng mắt. Sau cùng, ông hết sức bối rối, ngập ngừng nói:
- Thưa bà, đáng tiếc quá, bà đã không lầm... Quả là cháu nó mù và không còn hy vọng gì.

Nghe bác sĩ nói, bà mẹ buồn rầu lặng ngắt. Bà khe khẽ nói: - Thưa bác sĩ, tôi biết vậy từ đã lâu.
III. Gia đình em bé mù cũng không đông. Ngoài mấy người kể trên còn có ông bố và “Cậu Mácxim”. Mọi người trong nhà và cả đến người ngoài ai cũng gọi ông ta là “Cậu Mácxim”. Ông bố cũng như trăm nghìn những người chủ điền khác ở vùng Tây nam: tính nết nhu nhược, có phần hiền lành, coi sóc kẻ ăn người làm đâu vào đấy và rất thích xây đi xây lại mấy chiếc máy xay bột, những công việc ấy làm ông ta bận luôn tay gần hết ngày, chỉ đúng đến bữa ăn hoặc có việc gì tương tự mới thấy tiếng ông trong nhà. Những lúc đó, bao giờ cũng chỉ hỏi vợ có một câu: “Mợ nó, khỏe mạnh chứ!”. Hỏi xong là ngồi vào bàn, rồi từ đấy hầu như không nói năng gì hết. Chỉ thỉnh thoảng, họa hoằn lắm mới đem câu chuyện về những chiếc ống gỗ sên hay những chiếc trục xe ra nói. Con người thuần hòa, đơn giản ấy, tất nhiên gần như không có chút ảnh hưởng gì đến tâm trạng của đứa con trai.
Trái lại, “Cậu Mácxim” là một người khác hẳn. Mười năm trước khi xảy ra câu chuyện này, chú Mácxim nổi tiếng là tay hay gây gổ nguy hiểm, không những nhất vùng ấp trại nhà mà còn khét tiếng cả ở Kiép, vào những ngày phiên chợ “Kôngtơra”(1). Không ai hiểu được cái con người cứng đầu cứng cổ ấy lại có thể là em trai bà Pôpenska, tức Iatsenkô, gia đình danh giá. Không ai biết cư xử với cậu ta ra sao, làm thế nào cho cậu vừa lòng. Đáp lại những câu chào đón ân cần của những người quý tộc, cậu tỏ ra rất hỗn xược, còn mấy anh nông dân có điều gì thô lỗ kinh khủng với cậu; dù có gặp tay thượng lưu hòa nhã nhất đời họ cũng được mấy cái tát, thế mà cậu Mácxim lại bỏ qua. Về sau, thật là may mắn vô cùng cho tất cả những người tai to mặt lớn là chẳng rõ tại sao cậu Mácxim lại đi căm thù bọn Áo, cậu sang Ý kết bè với Garibanđi, một tay cũng hay gây gổ, vô thần, vô đạo như cậu. Cứ theo những người điền chủ đồn đại thì Garibanđi đang kết cánh với quỷ sứ, bất chấp cả đức Giáo hoàng - Tất nhiên hành động như vậy, cậu Mácxim vĩnh viễn mất cái đầu óc hiếu loạn vô đạo. Nhưng trái lại những phiên chợ “Kôngtơra” từ đó cũng hết hẳn những vụ ẩu đả, và trong những gia đình quý phái, nhiều bà mẹ cũng không còn phải lo cho số phận những đứa con trai của họ.
Cố nhiên người Áo cũng hết sức căm giận cậu Mácxim. Thỉnh thoảng tờ “Tin tức”, là tờ báo mà những người điền chủ vùng này thích đọc, có nêu tên cậu Mácxim trong số những nghĩa quân hăng hái nhất của Garibanđi. Một sáng kia, cũng trên tờ “Tin tức” có đăng tin cậu Mácxim, cả người lẫn ngựa, đã bị gục trong một trận đánh nhau. Bọn Áo vốn căm tức từ lâu cái con người điên cuồng dữ tợn ấy, cái con người đã giúp Garibanđi chống chọi lại được với họ (điều này ít ra cũng là ý kiến của đồng bào cậu Mácxim), nên họ đã lấy búa vằm nát cậu ra từng mảnh như thái xu hào.
Những người điền chủ láng giềng của cậu bảo nhau:
- Cậu Mácxim thế cũng là chết khổ!
Họ cho cậu chết là tại thánh Phêrô đã đặc biệt bênh vực cho người kế tục mình là Đức Giáo hoàng dưới hạ giới. Tất cả đều tin là cậu Mácxim đã chết.
Nhưng thực ra, lưỡi gươm của bọn Áo không chém đứt được cái linh hồn dẻo dai của cậu Mácxim. Linh hồn cậu cứ bám riết lấy cơ thể, mặc dầu cái cơ thể ấy đã bị hư hại quá nặng. Nghĩa quân của Garibanđi đã cứu được người bạn anh dũng của họ khỏi đám hỗn quân, và đưa đến một bệnh viện. Mấy năm sau, bất ngờ cậu Mácxim không biết ở đâu lừng lững trở về nhà bà chị, và ở hẳn đấy không đi đâu nữa.
Từ đấy cậu Mácxim không nghĩ gì đến gây lộn đánh nhau. Trái đùi bên phải bị cụt hẳn, nên đi đâu cậu cũng phải dùng một chiếc nạng. Ngoài ra, cánh tay trái cũng bị thương nặng, chỉ còn có thể cố gắng chống tạm được chiếc can. Nói chung là nay cậu Mácxim đã trở nên một con người nghiêm trang hơn, tính nết cậu đã thuần, chỉ còn cái lưỡi sắc thép của cậu thỉnh thoảng tỏ ra cũng bén như lưỡi gươm của cậu thời xưa. Cậu không đi chợ “Kôngtơra” nữa. Dần dần những buổi hội họp đông người, cậu cũng ít đến, cả ngày chỉ nhốt mình trong thư viện, giữa những đống sách, tuy không ai biết là sách gì, nhưng người ta đoán toàn là sách vô đạo cả. Cậu cũng có viết lách cái gì nữa đấy, nhưng vì tác phẩm của cậu không đăng trên tờ “Tin tức” nên cũng không ai chú ý đến lắm.
Khi đứa bé lọt lòng ra trong căn nhà quê mùa nhỏ bé và bắt đầu lớn lên, thì trên mái tóc húi ngắn của cậu Mácxim đã óng ánh điểm nhiều sợi bạc. Đôi vai cậu lúc nào cũng chống nạng nên dô cao hẳn lên, cả thân mình cậu như vuông lại. Cái hình thù kỳ quái và rầu rĩ, đôi hàng lông mày cứ nhíu lại của cậu Mácxim, tiếng lộc cộc đôi nạng nện xuống đất, và những đám khói thuốc luôn luôn trùm kín người vì cậu hút píp luôn mồm, tất cả những cái ấy làm cho người lạ ai cũng phải kinh hãi, chỉ có những người sống chung với cậu mới biết trong cái thân hình tàn tật ấy, một trái tim cao thượng, chứa đầy nhiệt huyết, đang đập mạnh và trong cái đầu to lớn vuông vắn, tóc dựng chởm lên rậm rạp, có một tinh thần đang làm việc không biết mệt.
Nhưng cả đến những người thân thích của cậu cũng không ai biết được cậu đang mê mải suy nghĩ vấn đề gì. Ai cũng chỉ thấy cậu Mácxim chìm lấp trong đám khói xanh, ngồi hàng mấy tiếng đồng hồ không động đậy, trầm mặc, ủ ê, đôi mắt lờ đờ, đôi lông mày nhíu lại. Người chiến sĩ tàn tật cho đời là một cuộc đấu tranh ác liệt không ngừng, trong đó không có chỗ đứng cho những kẻ tàn phế. Cậu thấy mình từ nay vĩnh viễn bị gạt bỏ ra ngoài hàng ngũ những người chiến đấu và cậu, một hiệp sĩ đã bị cuộc đời quật ngã, ném vào bụi bẩn, nay tiếp tục choán chỗ, làm bận cái thế giới này cũng chỉ là vô ích. Giẫy giụa như con giun bị xéo nát trên mặt đất, liệu có hèn mọn không? Cuộc sống nó cứ hớn hở đi lên, nay cố bám lấy cái bàn đạp của nó, để xin nó chút ân huệ cuối cùng, như vậy liệu có xứng đáng với cậu không?
Nhưng trong lúc cậu Mácxim đem hết can đảm, lạnh lùng và tập trung suy nghĩ về cái vấn đề nóng hổi, cân nhắc kỹ càng mọi lẽ phải trái, thì một sinh mệnh mới, tàn tật ngay từ thuở lọt lòng, bắt đầu làm cậu bận tâm. Ban đầu, cậu không để ý gì đến đứa bé mù, về sau, cậu lưu tâm thấy cái số phận của cậu và của đứa bé sao mà giống nhau đến thế.
Một hôm cậu liếc nhìn trộm đứa bé rồi trầm ngâm nghĩ:
- Hừm... hừm... đứa bé tội nghiệp này cũng là một kẻ tàn phế. Nếu gắn liền nó với ta có lẽ sẽ đúc nên một người khả dĩ cũng giúp ích được cho đời ít nhiều chăng.
Từ đấy trở đi, càng ngày cậu càng chú ý quan sát nhìn đứa cháu mù.
IV. Đứa bé lọt lòng ra đã bị mù. Lỗi ấy tại ai? Chả tại ai hết! Bên trong việc này không hề có một “ý chí xấu ác” nào. Cái nguyên nhân của tai họa này cũng giấu kín đâu tận trong chỗ uẩn áo của những quá trình bí mật và phức tạp của cuộc sống. Mỗi lần nhìn đứa bé mù, trái tim bà mẹ thắt lại, đau đớn, xót xa. Cố nhiên bà đau khổ, cái đau khổ của bà mẹ thấy con bị tàn tật và cảm thấy trước một cách thảm thương cái tương lai đau khổ đang rình đợi đứa bé. Nhưng thêm vào đấy, trong thâm tâm, thiếu phụ còn băn khoăn day dứt về ý nghĩ có lẽ nguyên nhân đứa bé bị tàn tật là ở nơi những người đã sinh ra nó.
Như thế cũng đủ để cả gia đình chỉ xoay quanh đứa bé có đôi mắt xinh đẹp mà lại bị mù, để cả nhà khuôn theo mọi ý muốn ỏe họe của đứa bé tai ngược, thứ tai ngược chưa có ý thức.
Một đứa bé mà tật bệnh đã mở lối cho cái tính hay hờn giận vô cớ, lại có đám người xung quanh quấn quít lấy, làm phát triển những tính tình ích kỷ của nó, chẳng hay đứa bé đó sẽ ra sao nếu không có cái số mệnh lạ lùng và lưỡi gươm bọn Áo buộc cậu Mácxim phải về nông thôn náu mình trong gia đình bà chị.
Việc có đứa bé mù trong nhà đã dần dần hướng tư tưởng luôn luôn hiếu động của người lính tàn tật đi theo một chiều khác hẳn một cách hết sức tế nhị. Vẫn như trước kia, cậu thường ngồi yên lặng hàng giờ, miệt mài hút thuốc, nhưng giờ đây, trong đôi mắt cậu đã ánh lên vẻ suy nghĩ của một người đang lưu tâm quan sát một vật gì chứ không còn có đau đớn âm thầm xót xa nữa. Cậu càng suy nghĩ, trán cậu càng nhăn, mồm càng rít mạnh thuốc. Một hôm cậu đánh liều can thiệp.
Nhả hết hơi thuốc này đến hơi khác, cậu Mácxim nói với chị:
- Thằng nhỏ này sẽ còn đau khổ hơn tôi nhiều. Thà nó đừng sinh ra lại hơn.
Bà Ana cúi đầu, một giọt nước mắt long lanh rơi xuống rổ khâu. Bà khe khẽ nói:
- Cậu Mác ơi, cậu nói thế đau lòng chị lắm, cậu nói làm gì?
- Nhưng là tôi nói thực với chị, hoàn toàn thực! Tôi mất một cánh tay và một chân, nhưng còn đôi mắt. Đằng này đôi mắt cháu nó bị hỏng, tức là nó sẽ không có chân tay, không có ý chí gì hết... - Tại sao?
Chú Mácxim dịu giọng nói:
- Chị Ana! Chị cố gắng hiểu ý của em. Không bao giờ em đi nói với chị những điều làm chị đau lòng để cho sướng miệng. Hệ thần kinh của cháu rất tế nhị. Giờ đây còn đủ thời giờ và mọi thuận tiện để làm phát triển mọi khả năng của cháu để bù đắp phần nào cho đôi mắt thiệt thòi của nó. Nhưng muốn như vậy, phải cho nó luyện tập. Còn tất cả những thứ nuông chiều ngu xuẩn chỉ làm đứa bé không bao giờ phải cố gắng, sẽ giết hết mọi khả năng tạo cho nó một cuộc sống đầy đủ hơn.
Vốn thông minh, bà Ana dằn lòng ngăn được mối xúc động đột nhiên nó thường khiến bà khi nghe tiếng đứa bé khóc rền rĩ là cuống cuồng chạy lại.
Mấy tháng sau đứa bé đã biết một mình bò tự do, nhanh nhẹn quanh khắp nhà. Thoáng có tiếng động, nó lại lắng tai nghe, gặp vật gì nó cũng hăm hở sờ nắn, cái hăm hở chưa từng thấy ở các trẻ em khác.
V. Đứa bé nhận ra được mẹ nó rất nhạy, chỉ cần bước chân đi, tà áo sột soạt và nhiều dấu hiệu khác của người mẹ, những dấu hiệu hết sức nhỏ nhặt, người ngoài không thể thấy được. Dù trong buồng có bao nhiêu người, mặc họ đi lại hay đứng yên, bao giờ em cũng đi được về phía mẹ, không hề lầm lẫn. Mẹ em có bất chợt bế em lên, em cũng nhận ra được ngay. Nếu là người lạ khác, em khẽ lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn lanh lẹ sờ mặt người bế và nhận ngay ra người đó là u già, là bố hoặc là cậu Mácxim. Nếu được người lạ bế, em xem xét thong thả hơn, vẻ mặt dè dặt và chăm chú, em đưa đôi bàn tay xinh xắn lên sờ nắn khuôn mặt lạ, lúc ấy nhìn nét mặt em thấy rõ bên trong em đang suy nghĩ căng thẳng, như thể em “nhìn” với mấy đầu ngón tay.
Bản chất em lanh lẹn và hiếu động. Nhưng ngày tháng trôi qua, đôi mắt mù dần dần đã ảnh hưởng rõ rệt đến thể chất của em, cái thể chất đã bắt đầu có bản sắc rõ rệt. Cử chỉ của em ngày một kém phần hoạt bát. Em hay ngồi một mình ở những chỗ vắng vẻ, ngồi mấy giờ liền không động đậy, nét mặt thừ ra như nghe ngóng cái gì. Khi trong buồng không có ai và những tiếng động xung quanh không đến làm rộn, những lúc ấy hình như em chìm đắm trong suy nghĩ và trên khuôn mặt, lộ vẻ ngạc nhiên ngơ ngác, cái khuôn mặt xinh xắn nhưng quá ư nghiêm nghị đối với cái tuổi thơ ấu của em.
Cậu Mácxim đã đoán đúng. Hệ thần kinh cực kỳ phong phú và tế nhị của em đã thắng thế, hình như trong một chừng mực nào, nhờ thính quan và xúc giác rất nhạy cảm, nó cố gắng bù đắp lại để các tri giác được đầy đủ. Ai cũng phải ngạc nhiên nhất về đôi bàn tay rất tinh tế của em. Đôi khi, người nhìn có cảm tưởng em nhận rõ được cả màu sắc. Lúc đôi tay em nắm những màu vải sặc sỡ, ngón tay mảnh dẻ của em ngừng lại lâu lâu, nét mặt em chăm chú. Tuy nhiên, về sau dần dần càng thấy rõ rệt là ở em, giác quan phát triển tinh tế nhất là thính giác.
Chẳng bao lâu, nghe tiếng động riêng của mỗi thứ, em đã biết được một cách rõ ràng kỳ lạ mọi đồ đạc trong nhà. Em phân biệt được tiếng chân đi của cha mẹ em và của những người ở trong nhà. Em nhận ra được tiếng ghế cót két của cậu Mácxim tàn tật, tiếng sàn sạt khô khan và đều đặn của sợi chỉ mẹ em cầm trên tay, tiếng tíc tắc đều đều của chiếc đồng hồ. Thỉnh thoảng trong lúc bò men theo bức tường, em vểnh tai lắng nghe một tiếng động nhẹ nhàng các người khác không thể nghe thấy, em giơ bàn tay nhỏ bé lên không chỉ về phía con ruồi đang bò trên bức tường. Khi con vật kinh hãi bay đi, khuôn mặt em bao giờ cũng lộ ra vẻ khó chịu, ngơ ngác. Em không hiểu nổi được con ruồi bí mật biến đi ra sao. Nhưng về sau, gặp những trường hợp tương tự, mặt em nom có vẻ chăm chú, một thứ chăm chú có ý thức. Em ngoảnh mặt theo hướng con ruồi bay: đôi tai thính nhạy của em nhận thấy rõ cả tiếng cánh con vật nhỏ đập nhẹ nhàng trên không.
Vũ trụ sáng chói chuyển động và xào xạc ở chung quanh thâm nhập vào đầu óc em, phần lớn dưới hình thức những âm thanh. Chính cũng dưới hình thức âm thanh mà mỗi biểu tượng được khuôn nặn trong trí óc em. Mặt em cũng khuôn nặn theo sức chăm chú hết sức đặc biệt để nghe ngóng. Chiếc hàm dưới nhô ra một chút trên cái cổ mảnh dẻ và dài. Đôi lông mày trở nên linh hoạt lạ thường, đôi mắt mù xinh đẹp làm cho nét mặt em có một cái gì vừa khắc khổ vừa khiến người nhìn phải cảm động thương tâm.
VI. Em bé vừa tròn ba tuổi. Ngoài sân tuyết bắt đầu tan. Những con suối mùa xuân róc rách chảy. Gần suốt mùa đông, em bé hơi ươn mình không bước ra khỏi phòng, nay đã mạnh hơn.
Mấy chiếc khuông chắn gió ở cửa sổ đã được cất đi; mùa xuân ào vào buồng. Mặt trời trẻ măng tươi cười nhìn những tấm kính tràn ngập ánh sáng. Những cành dẻ đung đưa ngay bên ngoài cửa sổ, vẫn còn trơ trụi; xa xa cánh đồng một màu đen ngòm, loáng thoáng điểm mấy đám tuyết đang tan trắng xóa, hoặc mấy đám cỏ xanh non mới nhú. Mọi vật đều khoan khoái hẳn lên, sinh vật nào cũng thấy trong mình trào lên một luồng sinh lực mới. Nhưng với em bé mù, mùa xuân chỉ biểu hiện qua những tiếng động dồn dập. Em nghe thấy tiếng nước mùa xuân róc rách chảy, nước nhảy vọt trên đám sỏi rồi biến mất vào lòng đất ấm áp, mềm mại. Những cành dẻ thì thầm sau cửa sổ, quấn quít lấy nhau, đến gõ nhẹ nhàng lên những tấm kính cửa.
Những giọt nước đóng băng vì sương giá buổi sớm mai treo lủng lẳng trên mái nhà, gặp ánh nắng, tan rơi xuống lộp độp, tiếng nghe vừa mau vừa sang sảng như trận mưa muôn ngàn hạt đá sỏi lấp lánh rơi vào trong phòng. Thỉnh thoảng xen lẫn những tiếng động ấy, nghe văng vẳng từ xa có tiếng hạc kêu. Tiếng hạc từ trên trời cao tít tắt dần, chậm chạp như nhẹ nhàng tan ra trong không trung.
Cảnh vật tươi mới lại làm nét mặt em bé mù căng thẳng, đau đớn. Em cố gắng nhíu đôi hàng lông mày, nghển cổ, lắng tai nghe. Lo lắng vì không sao hiểu được cái tiếng ồn ào, em giơ đôi cánh tay nhỏ bé tìm mẹ, chạy bổ lại áp chặt mặt vào ngực mẹ.
Thiếu phụ ngơ ngác hỏi mình rồi hỏi người khác:
- Kìa cháu nó sao thế?
Cậu Mácxim chăm chú nhìn khuôn mặt đứa bé, cậu cũng chịu không giải thích nổi mối lo sợ bất ngờ của nó. Thấy mặt con lúc nào cũng có cùng một vẻ khó chịu, ngơ ngác, bà Ana ngập ngừng nói:
- Cháu... cháu nó không hiểu được... Thực tế, đứa bé bồn chồn không yên, có lúc em phân biệt được những âm thanh mới, có lúc em ngạc nhiên vì không nghe thấy những âm thanh cũ mà em đã bắt đầu quen thuộc, những âm thanh ấy nay thốt nhiên im bặt và biến đi đâu mất.
VII. Sau cùng, tiếng ồn ào của mùa xuân cũng tắt hẳn. Dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, công việc của thiên nhiên lại bước theo lối cũ quen thuộc. Cuộc sống như tỏa ra ngày một rộng, bước chân đi mỗi ngày một dồn dập hơn, như đoàn tàu mỗi lúc một tăng tốc độ. Trong các đồng nội, từng đám cỏ phô sắc xanh tươi, hương thơm của những chồi bạch dương non mởn tỏa ngát cả bầu không khí.
Cả nhà định cho em bé ra chơi ngoài cánh đồng, chỗ bờ con sông nhỏ chảy gần đấy.
Bà mẹ dắt tay con. Cậu Mácxim tập tễnh chống nạng đi bên. Mấy người lần theo con đường nhỏ đến trái đồi ở bên cạnh, đất trên đồi nắng gió đã hút khô ráo. Trong khoảng mênh mông bát ngát này, mặt đồi cỏ mọc dày dặn mềm mại, quang cảnh nom thực lộng lẫy.
Ánh sáng mặt trời làm bà mẹ và cậu Mácxim chói cả mắt. Tia nắng sưởi nóng mặt hai người, nhưng những chiếc cánh vô hình của gió xuân đã xua hết nóng bức, làm không khí mát mẻ dịu dàng. Trên không, chập chờn bay một chất men ngào ngạt khiến cho tâm hồn như ngây ngất, mềm yếu, ủy mị.
Bà Ana thấy bàn tay nhỏ xíu của con ép chặt lấy tay mình. Nhưng hơi thở say dịu của mùa xuân khiến thiếu phụ không chú ý lắm đến cái dấu hiệu lo âu của đứa bé. Bà căng lồng ngực hít thở và cứ bước đi không hề ngoái lại. Nhưng nếu ngoảnh lại, bà sẽ thấy trên khuôn mặt đứa bé có một vẻ khác hẳn lúc bình thường. Nó trố mắt quay về phía mặt trời, đôi mắt đầy ngạc nhiên im lặng. Mồm há hốc, nó thở hổn hển như con cá vừa bị lôi lên khỏi nước. Trên khuôn mặt bối rối ấy, đôi khi vẻ ngây ngất đau đớn làm sáng lên một thoáng để rồi lại như ngạc nhiên, gần như sợ sệt, ngơ ngác không hiểu một chút gì hết. Duy có đôi mắt lúc nào cũng không động đậy, không có thần sắc.
Đến chân đồi, cả ba người ngồi xuống. Lúc thiếu phụ nhấc đứa bé đang đứng dưới đất lên đặt ngồi cho thoải mái hơn, nó co quắp bíu chặt lấy áo mẹ, như nó cảm thấy đất dưới chân biến mất nên sợ ngã. Lúc này thiếu phụ cũng vẫn không nhận thấy cái cử chỉ lo lắng của con, cảnh vật mùa xuân lộng lẫy trước mắt làm thiếu phụ mải mê ngắm nghía.
Trưa đến. Mặt trời từ từ lăn trên bầu trời xanh ngắt. Từ trái đồi chỗ họ ngồi, hai người nhìn dòng sông, nước ngập tràn bờ. Những tảng băng lớn bị nước đẩy đã giạt đi hết. Chỉ thỉnh thoảng còn mấy mẩu nhỏ như những vệt trắng lềnh bềnh trôi giữa dòng và đang tan dần. Trong đồng cỏ ngập phủm, nước tràn lan từng đám mênh mông. Những đám mây trắng nhỏ cùng bầu trời xanh soi mình trên mặt nước, và như lờ lững bơi dưới đáy. Những đám mây biến dần đi như đã tan ra cùng những mảnh băng nhỏ. Đôi lúc gió hiu hiu thổi, mặt nước gợn lăn tăn, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Xa xa bên kia bờ sông, cánh đồng trải ra bát ngát, đen ngòm. Ngoài đồng, sương khói như một lớp vải mỏng nhẹ nhàng và nhấp nhô sinh động, bốc phủ mờ những túp lều lợp rạ ở xa xa và đường cong xanh nhạt của khu rừng. Mặt đất như thở dài và nhả những làn khói cuồn cuộn bay lên trời.
Cảnh vật giãi ra bốn bề như một ngôi đền trước ngày vào hội. Nhưng với em bé mù, thiên nhiên bao giờ cũng chỉ là một đêm dài vô tận, xao động khác thường, cái đêm tối luôn luôn chuyển động, nó gầm thét, ngân nga như tiếng chuông và đang bước lại gần em. Những cảm giác lạ lùng kỳ dị đến vây kín lấy em, nó đầy dẫy tràn ngập, làm trái tim non nớt của em hồi hộp đập rất đau đớn.
Khi những tia nắng chiếu rọi vào mặt và sưởi nóng làn da mềm mại, em bé theo bản năng, tự nhiên quay mặt về phía mặt trời. Em cảm thấy mặt trời là trung tâm, mọi vật quanh em đều xoay về đấy. Với em, không có những vùng xa xa mờ ảo, không có bầu trời xanh ngắt, cả những chân trời mênh mông bát ngát cũng không. Em chỉ thấy có một cái gì cụ thể nóng ấm như một bàn tay vuốt ve, khẽ lướt qua mặt. Rồi, một cái gì mát mẻ, nhẹ nhàng, tuy nhiên vẫn không nhẹ bằng cái ấm nóng của tia nắng mặt trời, nó thổi vào mặt em, mát rượi, khoan khoái. Ở trong nhà, em bé đã quen đi lại tự do và biết được khoảng trống xung quanh mình. Nhưng ra đây, em ngạc nhiên thấy các làn sóng thay đổi mau lẹ lạ lùng, lúc vuốt ve êm dịu, lúc kích thích bồn chồn. Những cái hôn ấm áp của mặt trời bị làn gió hiu hiu lướt qua xua đi rất mau chóng. Một luồng gió xào xạc bên tai, phủ lấy mặt và hai bên thái dương, lùa từ đầu đến gáy, xoắn quanh người em như cố nhấc bổng em lên, mang em đến một nơi nào đó trong không gian mà em không nhìn thấy; cơn gió ru ngủ tâm hồn em, lôi kéo em vào lãng quên ủy mị. Em liền siết chặt thêm tay mẹ. Trái tim em lịm đi, có lúc tưởng chừng sắp ngừng đập hẳn.
Lúc bà mẹ đặt em ngồi xuống đất, em có vẻ bình tĩnh hơn. Giờ đây, mặc cho cái cảm giác lạ lùng tràn ngập trong người, em vẫn phân biệt được các âm thanh. Những làn sóng ấm áp và êm dịu vẫn cứ dồn dập mạnh mẽ, em cảm thấy nó thấm vào tận trong cơ thể em vì những tiếng đập của máu bị đảo lộn trong người em cũng tùy theo nhịp những làn sóng đó mà đập nhanh hay chậm. Nhưng bây giờ, những làn sóng đưa lại lúc tiếng hót thánh thót rõ ràng của một con sơn ca, lúc tiếng thầm thì nghẹn ngào của cây bạch dương nhỏ vừa lại mới đâm chồi xanh tươi, hoặc tiếng nước vỗ bập bềnh khe khẽ ngoài sông. Một con én bay qua, cánh đập vun vút, nó lượn quanh gần đấy mấy vòng ngoắt ngoéo, đàn ruồi nhỏ vo ve, và át lên tất cả, thỉnh thoảng có tiếng bác thợ cày giục bò kéo cày ngoài cánh đồng, tiếng lê dài, buồn bã.
Nhưng em bé không sao hiểu hết được tất cả những tiếng động ấy, tất cả những âm thanh ấy, em không ghép lại được, không phối hợp được chúng. Hình như lúc xuyên vào cái đầu bé nhỏ tối om của em, thì những âm thanh ấy, lẻ tẻ rơi xuống đáy, lúc êm ái bâng khuâng, lúc vang vang ầm ĩ. Đôi khi những âm thanh ấy dồn cả lại phát ra cùng một lúc, và xáo lộn với nhau tạo thành một thứ âm lỗi điệu vừa chối tai, vừa khó hiểu. Gió từ ngoài cánh đồng thổi lại vẫn vun vút bên tai, em cảm thấy những làn sóng lúc này đã chạy mau hơn, tiếng nó ồn ào, dập tắt mọi tiếng động khác mà lúc này chỉ còn văng vẳng như từ thế giới xa lạ đưa lại, như đã trở thành những kỷ niệm ngày hôm qua. Và khi mọi âm thanh dịu dần, thì một cảm giác uể oải kích thích thấm vào lồng ngực em bé mù. Mặt em chốc chốc lại nhăn nhó từng nhịp, mắt lúc nhắm nghiền, lúc mở to, đôi lông mày lúc nhíu lại, lúc giương lên sợ sệt, rõ là em muốn hỏi han điều gì mà không nói, và em đã cố gắng đau đớn trong suy nghĩ và tưởng tượng. Ý thức của em còn non nớt mà đã tràn ngập những cảm giác mới mẻ nên bắt đầu bị đè xuống. Ý thức non nớt ấy đã đấu tranh không lại được với những cảm giác ở khắp nơi tràn vào, nó muốn chống chọi lại, phối hợp những cảm giác ấy để chế ngự rồi chinh phục chúng, nhưng công việc ấy quá nặng đối với khối óc tối om của em, một đứa bé thiếu hẳn những biểu tượng mắt nhìn thấy để làm một việc như vậy.
Và những âm thanh lần lượt đến vây hãm em phức tạp quá, ầm ĩ quá. Những làn sóng từ những vùng tối tăm, náo động tràn ngập vào em, mỗi lúc một vang mạnh hơn, để thoáng lại biến ngay vào đêm tối như trước, nhường chỗ cho những làn sóng mới, những âm thanh mới. Những làn sóng đung đưa em, nâng em lên mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một cao, với một cái đà làm em phải khó chịu. Một âm điệu dài và buồn của tiếng người nói to lại một lần nữa vượt lên trên cái mớ âm thanh hỗn độn đang tắt dần, rồi thốt nhiên bốn bề im bặt.
Em bé khẽ rên và nằm vật xuống bãi. Bà mẹ quay lại nom thấy, kêu thét lên: em bé mặt tái nhợt, nằm mê man trên đám cỏ.
VIII. Việc xảy ra làm cậu Mácxim rất lo sợ. Ít lâu nay cậu tìm tòi nghiên cứu các sách nói về sinh lý học, tâm lý học và khoa sư phạm. Cậu đem hết nghị lực sẵn có vào việc nghiên cứu tất cả những điều khoa học nói về sự trưởng thành huyền bí và sự phát triển của tâm hồn các trẻ em.
Dần dần công việc nghiên cứu làm cậu say mê. Những ý nghĩ đen tối cho mình đã tàn phế, không còn sức để đấu tranh cho cuộc sống, những suy nghĩ chua chát về thân phận “con sâu bò trong đám cỏ bụi” vân vân ... tất cả đã dần dần bay khỏi cái đầu vuông cạnh của người chiến sĩ kỳ cựu. Thay vào đấy, lúc này óc cậu lại xáo động về những ý nghĩ khác do kết quả của một cuộc suy nghĩ lâu dài, thậm chí đôi khi trong trái tim đang cằn dần đi ấy, còn nảy ra những giấc mơ hồng tươi đẹp. Cậu Mácxim tin chắc tạo hóa đã không cho đứa trẻ đôi mắt để nhìn, quyết không nỡ cướp nốt cả các giác quan khác của nó. Đứa bé đáp lại hết sức đầy đủ và với một nghị lực phi thường, tất cả những cảm giác bên ngoài mà các quan năng em thu nhận được. Cậu Mácxim bắt đầu tin tưởng cậu được tạo hóa giao cho cái nhiệm vụ làm phát triển mọi năng khiếu tự nhiên của đứa bé, cậu sẽ gắng đem tinh thần và ảnh hưởng của mình để bù đắp cho bớt nỗi bất công của số mệnh. Trong hàng ngũ những người chiến đấu cho lý tưởng cao quý, tên lính mới này sẽ thay cậu, một tên lính mà nếu cậu, một người tàn tật tội nghiệp không can thiệp vào, trong tương lai sẽ không làm được việc gì có ích cho ai hết.
Người bạn già của Garibanđi nghĩ bụng: “Biết đâu đấy. Người ta rất có thể không cần gươm giáo mà vẫn đấu tranh được. Rất có thể đứa trẻ bị số mệnh bất công làm thương tổn này, một ngày kia sẽ giơ cao thứ vũ khí hợp với năng lực của nó để bảo vệ những kẻ đau khổ cùng bị cuộc sống hắt hủi. Và như vậy, ta đây, một tên lính già tàn tật, ta cũng sẽ không đến nỗi là kẻ sống thừa, trong cái thế giới này...”.
Vào thời buổi ấy, ngay đến những nhà tư tưởng tự do tiền tiến nhất cũng không thoát khỏi điều mê tín cho là vũ trụ này bị những “Ý muốn huyền bí” của tạo hóa chi phối. Cho nên, cậu Mácxim trong lúc theo sát từng bước trưởng thành của đứa bé, cậu thấy ở nó mỗi ngày một lộ rõ những khả năng ít có; cuối cùng cậu tin chắc rằng đứa bé bị mù cũng chỉ là do một trong những “Ý muốn huyền bí” ấy gây nên.
Cậu Mácxim sớm tặng cậu học trò yêu của mình câu châm ngôn: “Một kẻ chịu thiệt thòi cho tất cả những con người bất hạnh”.
IX. Sau lần dạo chơi đầu tiên vào buổi mùa xuân nọ, em bé bị mê sảng mất mấy ngày. Có lúc em nằm lịm, yên lặng trên giường, có lúc em trằn trọc, mồm nói lảm nhảm, tai lắng nghe tiếng động ở tận đâu đâu. Lúc nào nom mặt em cũng ngơ ngác kinh hãi.
Bà mẹ nói:
- Trời ơi, hình như con tôi nó cố gắng tìm hiểu một cái gì mà không làm sao hiểu nổi.
Cậu Mácxim ngồi trầm ngâm, đầu lắc lắc. Cậu biết rõ đứa bé bị xúc động quá mạnh và ngất đi như vậy là do những cảm giác tràn ngập vào nó nhiều quá, nên cậu quyết định chỉ cho những cảm giác ấy từ từ đến với đứa bé mới mệt dậy, đến từng cảm giác một. Cửa sổ buồng em bé ốm nằm đóng kín mít. Về sau dần dần khi em bình phục, mới thấy mở đôi lúc. Em được dắt đi chơi trong buồng, ra ngoài bậc cửa, ra sân, ra vườn. Mỗi khi thấy mặt em bé có vẻ lo lắng, mẹ em lại giảng giải cho em hiểu rõ bản chất những âm thanh vừa làm em kinh ngạc.
Đây là tiếng tù và của chú bé chăn cừu tít tận đằng kia, phía sau mé rừng. Còn tiếng này là tiếng chim bông lau hót giữa những tiếng chim sẻ ríu rít... Và bây giờ là tiếng con cò đậu trên bánh xe(2) đang kêu. Nó vừa mới ở miền xa xôi bay về tổ cũ.
Em bé hớn hở quay mặt về phía mẹ, tỏ vẻ biết ơn. Em cầm lấy tay mẹ, đầu gật gật, tai vẫn lắng nghe, vẻ mặt suy nghĩ, ra chiều đã hiểu rõ.
X. Bắt đầu từ đó, thấy cái gì đáng chú ý em lại hỏi han để biết. Hễ có tiếng động nào, là mẹ, hay thường thường là cậu Mácxim, lại bảo cho em biết âm thanh ấy là do những đồ vật hoặc những con vật nào đã phát ra. Lời bà mẹ giảng nghe sinh động và nhiều hình ảnh hơn làm em có ấn tượng mạnh mẽ hơn, đôi khi ấn tượng ấy rất đau đớn. Mắt đầy đau khổ và niềm ai oán không nhờ cậy vào đâu được, bà mẹ chăm chú giảng giải cho con nghe những khái niệm về hình thể và màu sắc. Em bé hết sức tập trung chú ý, đôi lông mày nhíu lại, thậm chí vừng trán trong trắng của em hằn lên mấy nếp nhăn nhè nhẹ. Chắc cái đầu nhỏ bé của em đang gặp phải một công việc quá phức tạp. Những lúc như vậy, cậu Mácxim cau mặt lại, khi đôi mắt bà mẹ rưng rưng lệ, và mặt em bé tái đi vì những cố gắng quá sức, người lính già liền xen vào, gạt chị ra và kể những câu chuyện khác cho cháu nghe; trong câu chuyện, cậu cố hết sức chỉ dùng những khái niệm về không gian và âm thanh. Nét mặt em liền dịu lại.
Em bé hỏi về con cò gõ trống trên chiếc cột: - Cậu ơi, con cò nó thế nào hở cậu? Nó có to không? Vừa hỏi, em vừa dang hai cánh tay ra. Mỗi lần hỏi những cái tương tự như vậy là em lại dang hai tay ra. Lúc nào thấy vừa vặn đúng là cậu Mácxim bảo thôi. Giờ đây em dang rộng cả đôi cánh tay bé nhỏ, nhưng cậu vẫn bảo:
- Không cháu ạ, con cò nó còn lớn hơn thế nhiều.Nếu bắt bỏ vào buồng và đặt nó xuống đất, đầu nó nghển sẽ cao quá lưng chiếc ghế dựa. Cháu hiểu chưa?
Em bé vẻ mặt trầm ngâm nói: - Thế ra nó lớn quá cậu nhỉ? Thế con chim bông lau to thế này chứ? - Em bé nhích đôi bàn tay nhỏ xíu cách nhau một chút.
- Phải, con bông lau to đúng như vậy... Nhưngchim lớn không bao giờ hót hay bằng con nhỏ. Khi con bông lau hót, nó cố hót hay để cho ai nghe cũng phải thích. Còn con cò là một giống chim nghiêm nghị, trong tổ, nó chỉ đứng có một chân, mắt luôn luôn nhìn xung quanh y như một lão chủ hà khắc đứng ốp thợ làm, quát tháo, mắng chửi, chả sợ gì làm phiền hàng xóm mà cũng không chút xấu hổ về cái tiếng khàn khàn của mình.
Nghe cậu tả, đứa bé bật cười và quên khuấy được một lát những cố gắng khó nhọc của em lúc này để hiểu được câu chuyện bà mẹ kể. Nhưng câu chuyện của bà mẹ hấp dẫn, nên em vẫn thường thích hỏi mẹ hơn là hỏi cậu Mácxim.
Chú thích:
(1) Kôngtơra là tên chợ ngày xưa nổi tiếng ở Kiép.
(2) Ở Ukren và ở Ba Lan, người ta thường cắm những chiếc cột thực cao cho cò đậu. Trên đầu cột có lắp những chiếc bánh xe cũ để cò làm tổ.
Chương 2
I- Khối óc tò mò của em bé giàu thêm nhiều khái niệm mới. Nhờ thính quan cực kỳ tế nhị, em dần dần đi sâu vào thiên nhiên ở xung quanh. Trên đầu và quanh mình em bao giờ cũng thấy một thứ đêm tối mịt mùng dày đặc. Những bóng tối như đám mây nặng đè trĩu lên khối óc của em, mặc dầu bị như vậy ngay từ ngày mới lọt lòng và hình như em đã phải quen đi với nỗi đau khổ ấy, nhưng bản chất của em vâng theo một thứ bản năng cao đẳng, luôn luôn cố gắng tìm cách vén cái màn mờ đục kia đi. Mối hăm hở vô ý thức của đứa trẻ ham muốn được thấy ánh sáng mà nó chưa hề biết không bao giờ rời bỏ em và trên khuôn mặt em thấy hằn rõ một thứ cố gắng mơ hồ và đau xót.
Tuy nhiên em cũng có những phút vui vẻ trong sáng, những phút ngây ngất hồn nhiên êm dịu, nhất là khi những ấn tượng bên ngoài đến được với em, biến thành những cảm giác mới mẻ, mạnh mẽ, giúp em hiểu được những hiện tượng mới của vũ trụ vô hình. Thiên nhiên mênh mông và hùng vĩ không hoàn toàn đóng cửa em. Cho nên, một hôm được dắt đến đứng trên một tảng đá ở trên bờ sông, em trầm ngâm, nghiêm nghị lắng nghe tiếng sóng nhỏ bập bềnh vỗ nhè nhẹ dưới chân. Em cảm động, níu lấy vạt áo mẹ, lắng nghe những viên sỏi dưới chân lả tả dồn dập rơi xuống nước. Từ đấy, em hình dung chiều sâu dưới hình thức tiếng nước rì rào nhè nhẹ dưới chân một tảng đá, hoặc tiếng lạo xạo kinh hãi của những viên sỏi nhỏ dồn dập lăn xuống nước.
Không gian vang dội đến tai em như một bài ca tắt dần. Nhưng khi tiếng sấm mùa xuân vang khắp bầu trời, làm toàn thể không gian huyên náo, rồi, sau một tiếng ầm ầm phẫn nộ tiếng vang tắt dần vào trong những đám mây, em bé mù lắng nghe, trong lòng sợ hãi thành kính, tâm trí em hớn hở và trong đầu em vụt nảy ra khái niệm huy hoàng về bầu trời bát ngát.
Xem thế, với em, âm thanh là biểu hiện chính, biểu hiện trực tiếp nhất của cái thế giới bên ngoài. Những ấn tượng khác chỉ để bổ sung cho những ấn tượng của thính giác. Mọi quan niệm của em đều khuôn nặn trên những ấn tượng âm thanh ấy.
Đôi khi, vào một buổi chiều nóng bức, bốn bề im phăng phắc, không còn tiếng chân người đi lại và cảnh vật thiên nhiên chìm trong vắng lặng, một thứ yên lặng trong đó người ta đoán chừng chỉ có những sức sống đang lặng lẽ không ngừng vươn lên, những lúc ấy khuôn mặt em bé nom đặc biệt lạ thường. Hình như do ảnh hưởng của cái vắng lặng xung quanh, có những âm thanh mà chỉ có em nắm được nhịp điệu, tự đáy tâm hồn em dâng lên, và em trầm ngâm lắng nghe. Những lúc ấy nhìn em tưởng như có một ý nghĩ đang nảy ra, còn mơ hồ, bắt đầu rung động trong trái tim em như một khúc nhạc bâng khuâng.
II- Em bé đã lên năm. Người mảnh dẻ, yếu ớt, nhưng em vẫn đi lại và chạy khắp nhà. Nếu một người lạ nhìn em đi trong buồng, chân bước vững vàng, gặp vướng là quay người tránh, cần đến gì là tìm được ngay, thì người ấy không bao giờ lại tin là mình đang đứng trước mặt một đứa bé mù. Người ấy sẽ cho em là đứa bé trầm mặc một cách kỳ quặc, một em bé có đôi mắt suy nghĩ đăm đăm nhìn nơi xa thẳm. Nhưng ra sân, em đi lại rất khó khăn. Em phải dùng một chiếc gậy nhỏ, khe khẽ đập xuống đất đằng trước mặt.
Lúc không có gậy, em thường thích bò xuống đất, gặp vật gì cũng tỉ mỉ nắn bóp.
III- Một buổi chiều tối mùa hè đẹp đẽ. Cậu Mácxim ngồi trong vườn. Cũng như mọi bữa, bố em bé còn bận việc ở ngoài đồng. Trong sân và xung quanh, bốn bề im ắng. Thôn xóm ngủ yên.
Trong bếp cũng không còn thấy tiếng chuyện trò của mấy người lao công và gia nhân đày tớ. Em bé đã được đặt ngủ trên giường đến gần nửa tiếng.

Em đang thiu thiu ngủ. Từ ít lâu nay, trong người em có một thứ hồi ức lạ lùng ăn nhịp với cái không khí êm dịu của giờ khuya muộn này. Đành rằng em không nhìn thấy bầu trời xanh tối dần, hoặc những đỉnh cây đen sẫm lung lay in rõ hình lên nền trời đầy sao, em không thấy được những mái tranh của những ngôi nhà vây quanh sân nhăn nhúm lại, và những bóng tối xanh biếc trộn với ánh trăng óng ả bao phủ mặt đất. Nhưng từ mấy hôm nay, những lúc em nằm ngủ, có một cảm giác lạ lùng, quyến rũ, nó đến xâm chiếm chế ngự em, và hôm sau, lúc thức dậy, em không sao hiểu được.
Vào khoảng lúc tâm trí em thiu thiu ngủ, lúc tiếng xào xạc mơ hồ ở lùm dẻ đã im bặt và em đã không còn phân biệt rõ tiếng chó sủa ở xa xa trong làng, tiếng hót líu lo của con chim họa mi bên kia sông, và tiếng nhạc lanh canh buồn bã của mấy con ngựa đang gặm cỏ trong nội, khi tất cả các thứ tiếng động riêng lẻ ấy nhỏ dần rồi mất hẳn trong không gian bát ngát, thì em bé bắt đầu có ấn tượng như tất cả những cái đó quyện vào nhau, tạo thành một hòa âm êm ái bay qua cửa sổ vào trong buồng em, nó bay lượn mãi quanh giường em nằm và ru em vào một giấc mơ dịu dàng. Sáng hôm sau, thức giấc, lòng bồi hồi cảm động, em ríu rít hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, hôm qua có cái gì thế hả mẹ? Cái gì thếhả mẹ? Bà mẹ không biết đầu đuôi ra sao, bà tưởng những giấc mơ đến quấy đảo con bà. Bà ẵm nó đặt lên giường, làm dấu rồi đợi mãi lúc em thiu thiu ngủ mới lui ra. Bà không thấy có gì lạ. Nhưng sáng hôm sau, em bé lại hỏi mẹ như hôm trước. Em kể lại cho mẹ nghe những cảm giác làm em ngây ngất đêm qua.
- A, mẹ yêu quý của con ơi! Hay quá, hay quá mẹ ạ... Cái gì thế hả mẹ?
Một buổi chiều, bà định ngồi nán lâu hơn với con để xem cái bí mật lạ lùng kia là cái gì. Ngồi trên một chiếc ghế dựa bên cạnh chiếc giường nhỏ, bà lơ đãng tay đan áo, tai lắng nghe hơi thở đều đặn của bé Pie. Em như đã ngủ yên, bỗng tiếng em thỏ thẻ trong bóng tối:
- Mẹ ơi... mẹ còn ngồi đó ư?
- Phải, phải, mẹ ngồi đây con ạ...
- Mẹ đi ra đi, con xin mẹ... Cái ấy nó sợ mẹ, nóvẫn chưa đến. Con sắp ngủ rồi mà nó chưa đến...
Ngạc nhiên, bà Ana lắng nghe tiếng con thì thào, rầu rĩ, giọng ngái ngủ, trong bụng lấy làm quái lạ. Em nói với mẹ về những giấc mơ, em kể rành rọt như những cái gì cụ thể, có thực vậy. Tuy nhiên bà cũng đứng dậy, cúi xuống hôn con rồi nhón chân đi ra, định bụng rình chỗ dưới cửa sổ mở trông ra vườn.
Nhưng chưa ra đến cửa sổ, bà đã hiểu ra điều bí ẩn nọ. Đột nhiên có tiếng tiêu dịu dàng êm ái từ phía tàu ngựa văng vẳng đưa lên, tiếng tiêu hòa với tiếng rì rầm của đêm khuya ở miền Nam. Bà hiểu ngay ra những nốt đơn giản của khúc nhạc quê mùa vang lên trong không gian huyền bí khuya vắng đã làm cho những hồi ức ban đêm của con bà trở nên vô cùng êm dịu.
Bà ngừng lại, đứng yên một lát để nghe điệu nhạc uyển chuyển ngân nga và cảm động của bài hát Ukren. Sau bà hết sức bình tĩnh đi ra, bà gặp cậu Mácxim đang đứng đợi trong lối đi tối om ngoài vườn.
Bà nghĩ bụng:
- Chà, thằng Iokhim nhà này thổi tiêu hay quá! Aingờ đâu con người bề ngoài thô kệch mà lại giàu tình cảm đến như vậy.
IV- Thực tế, Iokhim thổi tiêu hay vô cùng. Anh còn chơi thạo cả cây đàn vĩ cầm lắt léo. Người ta kể lại trước kia, vào những ngày chủ nhật, ở quán nước không ai chơi hay bằng anh bài “Côdắc” hay bài “Cô gái Cracôvi tình tứ”. Ngồi trong một xó, trên chiếc ghế đẩu, cái cằm nhẵn nhụi ghì chặt cây đàn vĩ cầm, chiếc mũ lông thú cao cao, ngạo nghễ lật ra sau gáy, anh lướt chiếc mã vĩ cong cong lên trên dây đàn căng thẳng, thì trong phòng không mấy ai có thể ngồi yên được. Ngay cả đến lão Do thái già chột mắt thường đệm đàn côngtơbát cho Iokhim, cũng long lên sòng sọc. Lão cố gắng kéo cho tiếng đàn nặng nề trầm trầm của lão theo kịp những tiếng đàn réo rắt, nhẹ nhàng và nhảy nhót của Iokhim, làm chiếc nhạc cụ nặng nề quê mùa của lão tưởng chừng đến vỡ tung ra mất. Và cả đến lão Yăngken cứ mỗi cử động, đôi vai lại nhảy thách lên, cũng lúc lắc cái đầu hói chụp chiếc mũ ca nô; lão rung cả người theo điệu nhạc linh hoạt và nhí nhảnh. Huống hồ những người có đôi chân vốn từ đời kiếp nào đã đúc nặn nên để hễ động nghe tiếng một điệu nhạc khiêu vũ vang lên là nhảy, là múa.
Nhưng từ dạo Iokhim phải lòng Maria, một cô bé làm thuê ở ấp bên cạnh, thì không biết tại sao anh
chàng lại đâm ra ghét cay ghét đắng cây đàn vĩ cầm vui vẻ nọ. Phải nói thực là cái đàn của anh không giúp gì cho anh để chiếm đoạt trái tim cô gái tinh quái, cô ả thích khuôn mặt bảnh bao nhẵn nhụi của một anh đi ở hơn là cái bộ mặt xấu xa, râu ria rậm sì của anh chàng nghệ sĩ người Ukren giỏi đàn vĩ cầm. Từ ngày ấy, trong quán nước hay ở những buổi dạ hội trong làng, không ai còn được nghe tiếng đàn réo rắt của Iokhim nữa.
Anh treo cây đàn lên một chiếc đinh trong chuồng ngựa. Cây đàn trước kia anh yêu quý nâng niu là thế mà nay mấy sợi dây bị ẩm đứt dần, anh cũng không buồn ngó tới. Dây đàn đứt bật ra những tiếng nghe vô cùng não nuột, buồn nát lòng làm đàn ngựa cũng phải thương tâm hí rầm lên. Chúng quay đầu lại nhìn chủ nhân và ngạc nhiên không hiểu sao anh lại nhẫn tâm đến thế.
Để thay chiếc đàn, Iokhim mua một ống tiêu của người vùng núi Cácpát. Chắc anh thấy tiếng tiêu dịu dàng êm ái đó phù hợp với cái số phận hẩm hiu của anh hơn và tin là nó sẽ diễn tả được thấm thía hơn mối u uất trong trái tim bị hắt hủi của anh.
Nhưng chiếc tiêu anh vừa mua của người miền núi làm anh thất vọng. Anh xoay thử đủ cách: cắt xén, nhúng vào nước rồi đem phơi nắng, sau lấy chỉ buộc treo dưới mái nhà, nhưng vô hiệu. Chiếc tiêu miền núi không hợp với trái tim Ukren. Lúc đáng ca hát nó lại rít lên, lúc Iokhim muốn những rung động lả lướt, chiếc tiêu lại phát ra những tiếng chói tai. Tóm lại, chiếc tiêu tuyệt nhiên không muốn diễn tả tâm tình của chủ. Iokhim mua hàng chục chiếc tiêu. Sau anh phát cáu với tất cả bọn người miền núi lang thang nọ. Iokhim cho là họ không làm nổi một ống tiêu tốt, anh quyết làm lấy một chiếc theo sở thích của mình.
Suốt mấy ngày, anh bực dọc, lang thang vượt đồng, qua ruộng, gặp bụi lau nhỏ nào cũng dừng lại xem xét từng cành và cắt lấy vài đoạn. Nhưng vẫn chưa được ống nào vừa ý. Lông mày anh cứ cau có, nhíu lại, anh đi xa mãi tìm kiếm. Về sau anh dừng lại ở một chỗ có con sông con nước chảy lờ đờ. Trong cái vũng nhỏ này, sóng nước chỉ khẽ làm rung rinh mấy bông sen trắng. Ở đây hầu như không bao giờ nó lướt tới vì lau mọc um tùm dày đặc, đám lau bình tĩnh và trầm ngâm nghiêng mình soi bóng trên mặt nước, phẳng lặng và sầu thảm.
Iokhim rẽ đám cây con, anh đứng yên mấy phút bên mạn nước và thốt nhiên biết mình sẽ tìm được ở đây một cây sậy để làm ống tiêu như ý muốn. Anh hớn hở, rút ở túi một con dao nhíp có quai da buộc, sau khi đưa mắt chú ý nhìn bụi lau đang xào xạc, anh bước mạnh lại một cây sậy nhỏ, thân mảnh dẻ và mềm mại đang rung rinh trên bờ sông, nước sông soi mòn bờ đến vỗ sát tận bụi lau. Anh búng cây sậy một cái và sung sướng nhìn cái thân cây mềm mại, lắng tai nghe đám lá rì rào, rồi gật gật đầu.
Iokhim vui sướng quá:
- Đây rồi, cây này mới là cây ta đang cần. Nhữngống sậy cắt được từ trước, anh vứt đi hết.
Ống tiêu mới làm anh vừa ý hết sức. Ống sậy phơi đã khô, anh lấy chiếc dây thép nướng đỏ đốt hết những ruột bấc bên trong, khoét sáu lỗ tròn thẳng hàng và thêm một lỗ thứ bảy khoét chếch đi.
Anh lấy nút gỗ bịt vào một đầu ống tiêu, để chừa ra một khe nhỏ, đoạn lấy chỉ buộc treo lủng lẳng phơi nắng gió suốt một tuần. Về sau anh gọt giũa, lấy kính nạo, lấy miếng len kỳ cọt chau chuốt. Mặt trên ống tiêu tròn trặn. Giữa có mấy khoảnh mặt con con rộng bằng nhau, đánh nhẵn bóng. Iokhim lấy những miếng sắt mỏng cong queo nướng đỏ áp lên trên những mặt nhẵn, khắc thành những hình thù chạm trổ cầu kỳ. Sau khi thử vài nốt, Iokhim cảm động gật gật đầu, lẩm bẩm mấy tiếng, ra chiều thích thú và vội vã đem giấu kín chiếc tiêu vào một xó gần giường. Anh không muốn thổi thử tiếng tiêu đầu tiên trong không khí ồn ào ban ngày. Nhưng chiều tối vừa buông xuống, từ tàu ngựa đã vọt ra những tiếng sáo dịu dàng ngân nga, vô cùng êm ái khiến người nghe ngây ngất mơ màng. Iokhim hết sức vừa lòng với chiếc tiêu mới, coi nó khác nào xương thịt của mình. Tiếng tiêu réo rắt như từ trong trái tim, ấm áp và xúc động của anh ngân ra, vì tiếng tiêu thần diệu ấy đã nói lên được những khía tình cảm tinh vi, những run rẩy nhỏ nhất của mối buồn trong lòng anh. Những tiếng sáo rung động theo nhau bay vào trong đêm tối đang chăm chú lắng nghe.
V- Giờ đây, Iokhim say mê chiếc tiêu. Người và tiêu cùng nhau vui hưởng tuần trăng mật. Ban ngày, anh làm hết sức chu đáo bổn phận người hầu ngựa, dắt ngựa đi uống nước, đóng ngựa vào xe, đánh xe cho bà chủ hay cậu Mácxim đi dạo chơi. Đôi khi có việc đi qua làng bên, nơi cô bé Maria độc ác ở, anh thấy lòng se lại, nhưng chiều đến, anh lại quên tất cả. Ngay đến hình ảnh cô bé có đôi hàng lông mày đen láy tuyệt đẹp kia, cũng bị phủ một lớp sương mù. Cái hình ảnh ấy không còn có cái cụ thể, nóng cháy của nó. Trước mắt anh nó hiện ra trên một nền mơ hồ, vừa đủ thấy để làm tiếng sáo du dương kỳ diệu nghe thêm mơ màng buồn bã.
Chiều hôm ấy, cũng như mọi hôm, Iokhim nằm trong chuồng ngựa, ngây ngất vì điệu nhạc, và đang lắng mình thổi những khúc nhạc ai oán. Anh nhạc sĩ đã quên cô gái độc ác, quên cả cuộc sống của chính mình. Thốt nhiên anh rùng người đứng nhổm dậy.
Vào lúc cảm động nhất, anh thấy một bàn tay nhỏ bé lanh lẹn đưa ngón tay vuốt nhẹ nhàng mặt anh, rồi lùa trên tay sờ vội ống tiêu anh đang thổi. Cùng một lúc anh nghe bên cạnh mình có hơi người thở rộn ràng, cảm động.
Tưởng bị ma ám, anh vội làm dấu và quát lên: “Quỷ sứ hay Thượng đế sai mày đến đây hả?”. Anh muốn xem có phải mình bị ma quái ám ảnh hay không?
Nhưng một tia ánh trăng vừa lọt qua cửa tàu ngựa còn bỏ ngỏ, anh biết mình lầm. Đứng gần sát giường, em bé mù đang giơ đôi bàn tay nhỏ nhắn về phía anh.
Một giờ sau, bà mẹ muốn vào ngó thăm con ngủ, bà không thấy con trên giường. Thoạt tiên bà giật mình sợ hãi nhưng bản năng người mẹ đã giúp bà đoán biết ngay con bà đi đâu. Lúc ngừng thổi tiêu để lấy hơi, Iokhim thấy chính bà chủ đứng trên bậu cửa tàu ngựa, anh luống cuống thẹn thùng. Bà đứng đấy từ nãy, lắng nghe anh thổi tiêu và nhìn cậu con trai đang khoác chiếc áo bông ngắn của Iokhim ngồi trên giường mê mải nghe điệu nhạc bị cắt đứt.
VI- Từ bữa đó, ngày nào cũng cứ chiều chiều chú bé lại xuống tàu ngựa. Không bao giờ em nài Iokhim thổi tiêu ban ngày. Em có cảm giác vào buổi ban ngày xáo động, người đi lại ồn ào, không sao thổi được những điệu nhạc êm ái như vậy. Nhưng khi bóng chiều chớm buông, Pie đã bắt đầu thấy nóng lòng nóng ruột. Bữa cơm chiều chỉ để báo cho em biết là sắp đến cái giờ phút sung sướng mà thôi; còn bà mẹ theo bản năng, vốn không thích lối nghe thổi tiêu như vậy, nhưng cũng không sao cấm được cậu con trai yêu quý đến thăm anh nhạc sĩ quê mùa, hoặc cấm em ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trong tàu ngựa trước khi đi ngủ. Những giờ nghe thổi tiêu như vậy trở thành những giờ phút sung sướng nhất trong ngày của em. Lòng ghen tức nung nấu bà mẹ, bà biết rõ những cảm giác du dương ban đêm này sẽ làm em bé suy nghĩ suốt ngày hôm sau. Bà nhận thấy mấy hôm nay em bé không vồn vã âu yếm đáp lại những lúc bà vuốt ve em như trước. Ngồi trên gối mẹ, ôm hôn mẹ mà em vẫn trầm ngâm tưởng nhớ đến những tiếng tiêu Iokhim thổi đêm trước.
Bà nhớ lại hồi bà theo học ở ký túc xá nữ sinh của bà Rađétska ở Kiép, trong các nghệ thuật giải trí bà có học dương cầm. Nói thực ra, những kỷ niệm hồi đó của bà không có gì là cực kỳ thú vị cho lắm, vì những kỷ niệm ấy gắn bó với hình ảnh cô Klap, một nữ giáo viên người Đức, một cô giáo già, gầy gò, tính nết tầm thường và nhất là rất ác. Cô ta hay cau có gắt gỏng lạ thường. Cô ta có thể bóp nát ngón tay học trò để uốn nắn cho nó được mềm mại. Cô thực đã hoàn toàn thành công trong việc bóp chết mọi nhạc cảm trong người đám học trò cô ta dạy. Cô Klap có một quan niệm thực kỳ dị về phương pháp sư phạm. Cứ đứng trước mặt cô là đủ để cái nhạc cảm nhút nhát biến mất hết chứ khoan nói đến phương pháp dạy của cô ta. Cho nên sau khi học xong và đi lấy chồng, bà Ana Mikhailốpna không bao giờ nghĩ đến chuyện tập luyện lại nhạc nữa. Nhưng giờ đây, lắng nghe anh chàng Ukren thổi sáo, tuy vẫn thấy ấm ức trong lòng, bà cảm thấy trái tim dần dần trở nên dễ rung động trước thứ âm nhạc chân chính, còn hình ảnh cô giáo Klap người Đức kia mờ hẳn đi. Bà Pôpenska năn nỉ chồng gửi mua cho một chiếc dương cầm tận ngoài tỉnh.
Ông Pôpenski, một ông chồng gương mẫu, bảo vợ:
- Mợ muốn thì tôi cũng mua. Nhưng nếu tôi khônglầm, thì xem như mợ cũng không thích âm nhạc cho lắm.
Ngay hôm ấy, ông viết thư gửi ra tỉnh, nhưng cũng phải vài ba tuần mới có dương cầm đưa về tận nhà quê đây được.
Trong khi đó, chiều nào tiếng tiêu du dương cũng từ tàu ngựa réo rắt bay lên. Em bé mù không kịp xin phép mẹ, hấp tấp chạy xuống.
Mùi thơm cỏ khô lẫn với mùi đặc biệt của tàu ngựa và mùi nồng nặc của bộ dây cương. Mấy con ngựa như thong thả, mồm ngoạm rơm để ở máng cỏ nghe xào xạo. Khi Iokhim ngừng lấy hơi để thổi, tiếng thì thầm của đám cây lá dẻ xanh ngoài vườn bay vào nghe rõ mồn một. Em Pie lắng tai nghe, mê mệt, say sưa.
Không bao giờ em ngắt tiếng tiêu. Chỉ khi Iokhim tự ý ngừng thổi được vài ba phút, mặt em mới không còn lặng lẽ mơ màng, mà lại có vẻ háo hức lạ lùng như muốn được nghe nữa. Em với lấy ống tiêu, hai tay run rẩy, đưa lên môi. Nghẹn ngào vì cảm xúc quá mạnh, tiếng tiêu đầu tiên em thổi ngập ngừng, không rõ. Nhưng lâu dần, em cũng làm quen được với chiếc nhạc cụ thô sơ. Iokhim dạy em đặt tay lên các miệng lỗ tiêu. Ngón tay xinh xắn của em tuy che chưa kín, nhưng em thuộc nốt nhạc rất mau. Với em, mỗi nốt nhạc có một tính cách riêng, một diện mạo riêng. Em đã biết chỗ nốt nhạc nào ở đâu, thổi ra sao và đôi khi, theo tiếng sáo rất mộc mạc của Iokhim ngân nga, mấy ngón tay của em cũng bắt đầu buông bắt theo nhịp hát. Em hình dung rất rõ các nốt nhạc xếp liên tiếp theo thứ tự lên hay xuống.
VII- Đúng ba tuần sau, chiếc dương cầm đặt mua ở tỉnh được mang về. Pie đứng ngoài sân, lắng tai nghe mấy bác người làm nhộn nhịp khuân chuyển “Cái nhạc” vào trong nhà. Chiếc đàn chắc nặng lắm nên lúc nhấc nó lên, chiếc xe lăn kêu răng rắc, mấy người khiêng phải rên lên, mồm thở hổn hển. Họ bước nặng nề, mỗi bước lại có cái gì vo vo, rung lên rầm rầm ở phía trên đầu. Khi đặt chiếc đàn xuống sàn nhà trong phòng khách, có tiếng gầm lên như chiếc đàn đùng đùng giận dữ dọa nạt ai. Tất cả làm em bé có cảm giác gần như khiếp sợ và có ác cảm ngay với cái “người khách lạ” quái ác tuy nó chỉ là vật vô tri. Em đi ngay ra ngoài vườn, không nghe người ta kê đàn, và cũng chẳng đợi nghe thợ lên dây đàn ra sao. Người thợ này bố mẹ em thuê riêng từ tỉnh về để sửa phím và căng lại dây. Khi mọi việc xong xuôi, bà mẹ cho gọi Pie đến.
Cậy có cây đàn do tay một nhà chuyên môn bậc nhất ở thành Viên chế tạo, bà Ana cầm trước sẽ thắng chiếc sáo thô sơ quê mùa. Bà chắc mẩm từ nay con trai bà sẽ quên cái tàu ngựa, quên cả anh chàng thổi tiêu. Bà sẽ là nguồn vui độc nhất của nó. Bà tươi cười nhìn con đang rụt rè cùng cậu Mácxim và Iokhim bước vào. Anh Iokhim cũng xin cho đứng nghe chiếc đàn lạ. Anh ngượng nghịu đứng ở ngưỡng cửa, mặt cúi nhìn xuống đất, chòm tóc rủ dài trên trán. Khi cậu Mácxim và Pie ngồi xuống đi văng, đột nhiên bà Ana ấn phím đàn.
Bà dạo một bản nhạc mà trước kia hồi trọ học ở nhà bà Rađepska, cô Klap đã luyện cho bà đến nơi đến chốn. Bản nhạc có cái gì hết sức ầm ĩ và phức tạp, ngón tay người dạo phải hết sức mềm mại. Chính hồi thi đàn, cô Ana dạo bài này và đã làm người nghe không ngớt lời khen, nhưng phần nhiều là ngợi khen người dạy. Không ai biết rõ lắm, nhưng nhiều người cho là cái ông Pôpenski lầm lì kia chắc đã say mê cô Iátsenkô đúng trong cái khắc đồng hồ ngắn ngủi cô dạo bài nhạc cực khó đã làm thính giả ngây ngất. Giờ đây dạo lại bản nhạc, trong lòng thiếu phụ hy vọng một chiến thắng mới: bà cố gắng giành lại trái tim nhỏ nhắn của đứa con trai đang mê mệt về chiếc sáo Ukren tầm thường.
Nhưng lần này bà đã hy vọng lầm: Chiếc đàn thành Viên không đủ tài địch lại với một mẩu sậy Ukren. Đành rằng chiếc dương cầm lạ kia có nhiều cách để làm người nghe phải say mê: nào gỗ quý, nào dây đàn vào hạng tốt nhất, người chế tạo lại là một nhà chuyên môn bậc thầy ở thành Viên, âm vực của nó lại vô cùng rộng rãi phong phú. Nhưng trái lại, chiếc sáo xoàng xĩnh nọ cũng có những đồng minh của nó, vì nó sinh trưởng ngay nơi quê nhà, trên đất nước quê hương, trong khung cảnh thiên nhiên Ukren thân thuộc.
Trước khi Iokhim lấy dao cắt và lấy sắt nung đỏ đốt trái tim nó, nó vẫn rung rinh ở gần đây, trên mặt con sông nhỏ quen thuộc và yêu mến của em. Mặt trời Ukren vuốt ve và sưởi nắng cho cây sậy, gió Ukren uốn cây nghiêng ngả cho đến lúc con mắt sắc sảo của anh chàng thổi sáo Ukren nhận ra nó đang phập phồng trên bờ sông nước soi mòn nham nhở. Chiếc đàn mới khó mà địch nổi chiếc sáo con con quê mùa, vì tiếng sáo đến với em bé vào những giờ êm ái, lúc em thiu thiu ngủ. Nó đến với em trong bầu không khí mê li huyền ảo buổi chiều, giữa tiếng xào xạc của đám dẻ gai cũng đang thiu thiu ngủ, và tiếng rì rầm quen thuộc của cảnh vật Ukren.
Vả lại, bà Pôpenska không sao đọ được với Iokhim. Đành rằng, những ngón tay xinh xắn của bà mềm dẻo và lanh lẹ hơn, khúc nhạc bà dạo có phức tạp và phong phú hơn, và xưa kia cô Klap đã tận tâm dạy bảo cô học trò sử dụng được rất tinh thông chiếc đàn khó khăn này, nhưng mặt khác, Iokhim lại có khiếu về nhạc từ thuở lọt lòng. Anh đã yêu đương, đã đau khổ, và tình yêu, nỗi buồn, anh đem gửi cả vào điệu nhạc mà anh thuộc lòng từ ngày còn thơ ấu. Những điệu nhạc hết sức giản đơn nọ, anh học được ở cảnh vật thiên nhiên vô cùng thân thuộc, ở tiếng rừng xào xạc, tiếng cỏ thì thào trong thảo nguyên và ở câu hát cổ nơi quê hương mà anh được nghe từ ngày còn nằm trong nôi, những câu hát mơ màng và gần gũi quá.
Phải, chiếc đàn thành Viên khó mà thắng nổi chiếc sáo Ukren. Được một lát, cậu Mácxim nện mạnh chiếc nạng xuống sàn nhà. Bà Ana quay lại, trên mặt con trai vẫn lại cái vẻ ngơ ngác như buổi dạo chơi đầu tiên mùa xuân nọ, lúc em lăn ra nằm ngất trên bãi cỏ.
Iokhim nhìn em bé thương hại. Anh ngước mắt nhìn “chiếc nhạc Đức” nọ, cái nhìn khinh miệt. Anh quay mình đi ra, đôi giầy quê mùa nặng nề nện mạnh xuống đất.
VIII- Lần thất bại này đã làm bà mẹ tội nghiệp mất bao nước mắt và tủi hổ. “Bà lớn” Pôpenska, một người đã được đám “thính giả ưu tú” hoan nghênh mà nay lại chịu thất bại đau đớn như vậy ư? Và kẻ thắng là ai? Iokhim, một anh chăn ngựa tầm thường, với một chiếc ống sáo bằng sậy. Mỗi lần hình dung lại cái nhìn thương hại khinh bỉ của Iokhim sau bài nhạc dạo không thành công, mắt bà Ana lại đỏ lên vì xấu hổ. Bà ghét cay ghét đắng cái tên “mu-dích hèn hạ” ấy.
Tuy nhiên chiều chiều hễ con trai bà trốn xuống tàu ngựa, bà lại mở cửa sổ, tì tay lên thành cửa lắng tai nghe. Ban đầu, bà nghe mà trong lòng vẫn khinh miệt, bực tức, bà nghe chỉ để cố tìm những khía cạnh lố bịch của cái thứ tiếng “ríu rít ngớ ngẩn” ấy. Nhưng về sau, chính bà cũng không hiểu duyên cớ ra sao cái “tiếng ríu rít” ấy lại dần dần lôi cuốn, khiến bà phải chăm chú nghe, rồi như say mê, bà buông mình theo những tiếng sáo du dương và buồn bã. Nhận thấy chính mình cũng say tiếng tiêu của Iokhim, bà tự hỏi không biết vì sao tiếng tiêu lại hấp dẫn, lại mê ly huyền bí như vậy. Dần dần những đêm xanh ngắt, những bóng mờ ảo buổi hoàng hôn, và tiếng sáo ăn nhịp lạ lùng với cảnh vật xung quanh đã khiến bà hiểu rõ.
Rồi bà chịu thua và cũng say mê tiếng sáo. Bà tự nhủ thầm: “Ừ, trong tiếng sáo của anh ta có một thứ tình cảm rất đặc biệt, rất chân thực,... một thi vị huyền diệu không thấy có dạy ở một sách nhạc nào”.
Thực thế. Cái huyền bí của thứ thi vị ấy là ở trong quan hệ tế nhị giữa cái quá khứ đã mất đi từ lâu và cảnh vật thiên nhiên trước mắt, luôn luôn xúc cảm tâm hồn con người, cái thiên nhiên bất diệt đã chứng kiến cái quá khứ trên kia. Anh nông dân thô lỗ, đôi bàn tay đầy chai, chân đi đôi giầy ống to kệch ấy, trong người lại có mang cái hòa điệu nhịp nhàng, cái tình yêu thiên nhiên mãnh liệt như vậy.
Bà Ana thấy con người kiêu hãnh trong thâm tâm của bà đành chịu cúi đầu thua anh chăn ngựa. Bà quên cả những tấm quần áo thô kệch anh mặc, cái mùi dầu hắc ín lúc nào cũng sực trong người anh. Qua những âm thanh rắt réo ngân nga của chiếc sáo quê mùa, bà thấy anh Iokhim hiền lành quá, đôi mắt xám của anh nom dịu dàng, và dưới đôi ria mép của anh luôn luôn ẩn một nụ cười vừa e lệ vừa châm biếm. Nếu thỉnh thoảng mặt và đôi bên thái dương bà Pôpenska còn đỏ lên là vì trong cuộc tranh giành để được con trai bà chú ý đến, bà thấy mình đứng trên cùng một vũ đài với anh nông dân, cùng đứng ngang hàng với anh, mà rốt cuộc, chính anh ta lại là người chiến thắng.
Cây cối trong vườn thì thào trên đầu. Đêm đã nhóm đầy đốm lửa trên bầu trời mênh mông, da trời một màu đen kịt và trải xuống trái đất những bóng tối xanh ngắt; nỗi buồn da diết trong tiếng tiêu của Iokhim thấm vào tâm hồn người thiếu phụ. Bà chịu khuất phục dần dần, cái huyền bí ngây thơ của thứ thi vị mộc mạc, trong trắng không chút mầu mè giả tạo ấy đã chinh phục được bà.
IX- Ừ, anh mu-dích Iokhim có những tình cảm mạnh mẽ và chân thực ấy. Còn bà thì sao? Có thể nào những tình cảm ấy, bà lại không có hẳn ư? Nếu quả bà không có thì tại sao trái tim bà vẫn thường xao xuyến, tại sao bà hay bồn chồn lo lắng và nước mắt cứ trào ra không ngăn được?
Đây không phải là tình cảm hay sao, tình cảm của người mẹ thiết tha yêu đứa con mù đã bỏ mẹ để theo Iokhim, đứa con mà bà chưa biết làm thế nào để nó được say sưa thưởng thức như khi nó lắng nghe tiếng sáo của Iokhim.
Bà luôn luôn nhớ đến vẻ mặt đau đớn của đứa con trai lúc nghe bà dạo dương cầm. Nước mắt đắng cay chảy ròng ròng trên đôi gò má và đôi khi, không sao ngăn được, bà nghẹn ngào nức nở khóc.
Ôi, tội nghiệp cho bà mẹ! Đôi mắt mù của đứa con trai hóa thành thương tật của mẹ, một thứ thương tật không sao chữa được. Nó biến thành một tình thương yêu con thái quá và ủy mị, một tình thương làm bà mê mải và bằng muôn ngàn sợi tơ vô hình, nó ràng buộc trái tim bà với từng đau khổ nhỏ nhất của đứa con. Vì thế, với một bà mẹ khác thì việc ganh đua kỳ lạ với anh thổi sáo quê mùa chỉ gây nên hờn giận là cùng, nhưng với thiếu phụ đây, nó lại trở thành một nguồn đau khổ dữ dội, quá sức.
Ngày tháng trôi qua không đem lại cho thiếu phụ chút khuây khỏa, nhưng không phải là hoàn toàn vô ích: trong người bà đã bắt đầu cảm thấy trào lên những rung động của thi vị nhạc, những rung động đã làm bà say mê lạ lùng trong những lúc nghe tiếng sáo của Iokhim. Thế là hy vọng lại sống lại trong lòng người thiếu phụ. Đột nhiên bị kích thích, và vững tin ở mình hơn, mấy lần bà lại gần chiếc dương cầm, mở nắp ra, định dạo lên những điệu dồn dập để làm át tiếng sáo rụt rè của anh chăn ngựa đi, nhưng hễ mó đến đàn, bà lại ngượng ngùng, rụt rè, nên lại thôi.
Nhớ lại khuôn mặt sợ sệt của Pie, và cái nhìn dè bỉu của anh Iokhim, bà lại xấu hổ, đôi má đỏ bừng trong bóng tối. Bà đành chỉ lấy tay vuốt qua mặt đàn, lòng đầy thèm muốn và ngại ngùng.
Nhưng ở thiếu phụ, ý thức sâu sắc về khả năng của mình ngày càng mạnh. Một buổi chiều, nhân lúc con trai ra chơi ở lối vườn đằng xa hay đi dạo chỗ khác, thiếu phụ ngồi vào luyện dương cầm. Những buổi đầu tiên bà không vừa ý chút nào. Ngón tay không sao diễn đạt lên được những hiểu biết trong óc. Tiếng đàn lúc đầu không ăn nhịp với tâm trạng mới của bà. Nhưng dần dần tiếng đàn diễn tả ngày một đầy đủ hơn, dễ dàng hơn những tình cảm, những tâm tư của thiếu phụ. Bài học của anh mu-dích đã đem lại kết quả; một mặt khác, lòng mẹ thương con và óc thông minh tế nhị hiểu rõ vì đâu con bà say mê tiếng sáo, tất cả đã giúp thiếu phụ lợi dụng được mau chóng những bài học của Iokhim. Bà bỏ những bản nhạc ầm ĩ, phức tạp và từ nay trong nhà, chỉ còn réo rắt tiếng nhạc êm ái buồn bã của bài “đumka” Ukren, làm thiếu phụ mủi lòng.
Về sau, thiếu phụ thấy mình đã mạnh, đã đủ sức để công khai đua tranh. Thế là một cuộc ganh đua diễn ra giữa tòa lâu đài và túp tàu ngựa của Iokhim. Từ gian nhà trái tối om lợp dạ, tiếng sáo réo rắt êm đềm bay ra gặp tiếng dương cầm nhịp nhàng vọt ra từ mấy khung cửa sổ mở toang trên lầu sang trọng, đang phản chiếu ánh trăng lấp lánh qua vòm lá dẻ.
Lúc đầu, cả em bé lẫn Iokhim không ai muốn nghe thứ “nhạc giảo hoạt” mà hai người vốn có thành kiến. Thấy Iokhim ngừng thổi lắng tai nghe, em bé cau mày gắt:
- Kìa! Thổi nữa đi!
Nhưng hai hôm sau, Iokhim chốc chốc lại ngừng tiếng sáo, càng về sau càng năng ngừng hơn. Anh đặt ống tiêu xuống một bên để lắng nghe tiếng dương cầm, mỗi lúc một chăm chú. Pie cũng lắng nghe, quên không gắt bạn nữa. Một chiều kia, Iokhim trầm ngâm nói:
- Hay!... Thế mới tuyệt!...
Rồi, lơ đãng trầm ngâm như bất kỳ ai khi chăm chú lắng nghe, Iokhim bế em bé đi qua vườn đến cạnh cửa sổ phòng khách đang bỏ ngỏ.
Anh tưởng bà chủ dạo đàn chơi, không để ý đến anh và Pie. Nhưng những lúc ngừng tay, bà Ana nhận thấy chiếc sáo địch thủ của bà im tiếng. Biết mình đắc thắng, tim bà đập rộn lên vì sung sướng.
Đồng thời, bà không còn thấy giận anh Iokhim chút nào. Bà sung sướng và biết rằng diễm phúc ấy chính nhờ Iokhim bà mới có: anh đã dạy bà cách chinh phục được đứa con yêu, và nếu từ nay bà có thể cho đứa con trai yêu dấu của bà, kho tàng vô tận những cảm giác mới, thì cả hai mẹ con bà phải biết ơn anh chàng thổi sáo quê mùa, ông thầy chung cho cả hai người.
X- Băng đã tan. Hôm sau, em bé rụt rè bước vào phòng khách mà từ ngày có chiếc đàn lạ kỳ dị ở tỉnh đến, em thôi không bước chân đến. Em coi chiếc đàn như một vật gì bướng bỉnh và ầm ĩ. Hôm vừa qua, tiếng đàn này em nghe thấy hay quá, nên em không còn ghét nó như trước. Tuy nhiên, em vẫn còn hơi rụt rè, men dần lại chỗ đặt chiếc dương cầm, đứng xa nó một quãng, nghển cổ lắng tai nghe. Không một ai trong phòng. Mẹ em ở buồng bên đang ngồi đan áo trên chiếc đi-văng. Bà nín hơi nhìn, ngắm nghía từng cử động, từng thay đổi nhỏ trên nét mặt hàm xúc ý tứ của đứa con.
Pie đưa tay sờ mặt đàn đánh si nhẵn bóng, rồi sợ hãi rụt ngay tay lại. Hai lần như vậy, em nhích lại gần chiếc đàn thêm một chút, để ý xem xét kỹ lưỡng. Em cúi sát xuống tận sàn nhà, sờ nắn chân đàn, nắn vòng quanh chiếc đàn một lượt. Sau cùng tay em đặt lên những phím đàn nhẵn bóng.
Một tiếng đàn êm ái e lệ rung lên trong không gian. Pie lắng nghe mãi những âm rung mà người mẹ không nghe thấy. Rồi, dồn hết tâm tư, em ấn một phím khác. Đoạn mấy ngón tay em lướt khắp mặt đàn, một nốt nhạc cao lanh lảnh vang lên. Em lắng nghe rất lâu từng nốt nhạc. Tiếng đàn nối nhau vang lên rồi tan vào trong không gian. Nhìn vẻ mặt, biết em thích thú, nhưng đồng thời trí óc em hết sức căng thẳng. Em nghiền ngẫm từng tiếng đàn. Chỉ xem em chú ý cao độ đến những âm thanh giản đơn, những phần cơ bản của mỗi bản nhạc, ta đủ thấy ở em có thiên tư của một nghệ sĩ.
Nhưng ngoài ra, em bé mù như còn thấy ở mỗi âm thanh có những đặc tính riêng. Một nốt nhạc cao vui vẻ, trong sáng vọt ra dưới ngón tay em, em liền vui vẻ ngửa mặt như dõi theo tiếng đàn đang nhẹ nhàng lan trong không trung. Trái lại, mỗi lần tiếng đàn rung lên trầm nặng, chỉ thoáng nghe thấy, em liền nghiêng đầu ghé tai lắng nghe. Em thấy hình như tiếng đàn nặng nề đó chắc phải lan ra dưới sát mặt đất, tản mạn trên sàn nhà rồi biến vào những xó tối om.
XI- Cậu Mácxim thấy cháu thử đàn chỉ đứng lặng im thương hại. Có một điều kỳ quặc là những thiên hướng sớm lộ ở em bé mù ấy lại làm nảy ra trong óc cậu Mácxim những cảm giác trái ngược nhau. Một mặt, thấy Pie có khiếu về âm nhạc, cậu mừng thầm cho đứa cháu có một tài năng chắc chắn như vậy, có thể có tương lai. Nhưng mặt khác, trong thâm tâm người lính già còn có một cảm giác mơ hồ thất vọng.
Cậu nghĩ thầm: “Đành rằng âm nhạc là một sức mạnh phi thường giúp người ta chinh phục được trái tim quần chúng. Nó mù, nhưng sau này nó vẫn có thể làm trăm nghìn các bà các cô quý phái và những tay thượng mã phong lưu xô nhau đến. Nó sẽ dạo những điệu vansơ, những bản dạ khúc, làm họ phải lấy mù xoa ren lau nước mắt (cần nói rõ là kiến thức về âm nhạc của cậu Mácxim không xa quá những điệu “vansơ” và mấy bản “dạ khúc”). Trời ơi! Ta đâu muốn cho cháu ta như vậy, nhưng biết làm thế nào? Thằng bé tội nghiệp bị mù, thôi thì sống ở đời, nó làm được gì thì làm, có lẽ nó học hát lại hơn? Hát không những chỉ làm rung động người nghe, nó còn khêu gợi những hình ảnh, buộc trí óc phải suy nghĩ, giúp tâm hồn thêm can đảm.
Một buổi chiều cậu Mácxim theo Pie vào tàu ngựa. Cậu bảo Iokhim:
- Này Iokhim! Vứt cái sáo của mày đi. Cái đó đểcho trẻ ngoài phố hay đứa chăn bò ngoài đồng chơi. Mày lớn rồi, là một anh mu-dích hẳn hoi còn gì. Dù con bé Maria có làm mày ngây dại, cũng thôi đừng thổi nữa. Xì! Xấu hổ chưa! Con gái nó mới quay lưng một cái đã đờ đẫn ra. Cứ rít lên suốt đêm như con chim bị nhốt lồng ấy!
Nghe chủ mắng gắt một tràng, Iokhim cười trong bóng tối về cơn giận vô cớ ấy. Duy có điều cậu Mácxim so bì anh với trẻ ngoài phố và trẻ chăn bò là làm anh hơi mếch lòng.
- Cậu đừng nói thế. Một ống tiêu như ống tiêu củatôi, không một đứa chăn cừu nào ở xứ Ukren này có được, chứ đừng nói đến lũ chăn bò. Chúng nó chỉ có những ống sáo tầm thường, còn ống tiêu của tôi... Cậu hãy lắng nghe xem...
Lấy ngón tay bịt tất cả các lỗ tiêu, anh thổi hai nốt nhạc lên cao rồi gật gù khoái hưởng cái âm thanh tuyệt diệu. Cậu Mácxim khạc nhổ xuống đất.
- Trời ơi, mày ngốc quá!... Dễ tao cần ống tiêu củamày lắm đấy! Ống tiêu, đàn bà, kể cả con Maria của mày, cùng một giuộc cả! Mày cứ hát một bài cho tao nghe lại hơn. Một bài hát cổ ấy!
Cậu Mácxim, cũng người Ukren, cậu giản dị và thẳng tính. Đối với người ăn làm và những người mu-dích cậu cư xử bình đẳng. Nhiều lúc cậu có la mắng họ, nhưng trong lời la mắng vẫn có một cái gì tốt bụng, nên không ai giận. Với cậu, mọi người tuy không phải câu nệ, nhưng ai cũng kính trọng.
- Sao lại không? Trước kia tôi đã từng hát và hátcũng không tồi lắm. Nhưng thưa cậu, có lẽ bài hát của người mu-dích chúng tôi, sẽ không làm vừa lòng cậu? - Iokhim nói có ý giễu nhẹ nhàng cậu Mácxim.
- Hát đi! Hát đi! Đừng vớ vẩn nữa! Thổi tiêu bì saođược với hát hay, tất nhiên là phải đem hết tâm hồn vào câu hát. Này Pie, cậu cháu ta hãy lắng tai nghe Iokhim hát nhé. Nhưng cậu không biết liệu cháu có hiểu được không?
Pie hỏi:
- Bài hát mu-dích ư? Lối hát đó cháu hiểu lắm!
Mácxim thở dài. Cậu vốn là tay lãng mạn. Xưa kia cậu đã từng ước mơ làm sống lại những phong tục phóng khoáng của người Côdắc.
- Cháu ạ! Đây không phải là những bài hát củabọn nông nô xưa đâu. Trái lại, đây là những bài hát của một dân tộc hùng mạnh và tự do. Các cụ bên ngoại nhà cháu xưa kia thường hát nó trên những cánh thảo nguyên, dọc bờ sông Niép, Đanuýp và bờ biển Hắc Hải... Những cái đó một ngày kia cháu sẽ hiểu. Rồi cậu mơ màng nói thêm: nhưng bây giờ, bây giờ cậu sợ một điều khác...
Quả thực, cậu Mácxim ngại Pie lại một lần nữa không hiểu. Cậu nghĩ muốn làm rung cảm trái tim, những hình ảnh mạnh mẽ của bài ca hùng tráng nhất định đòi hỏi người nghe phải hình dung lại những cái mắt đã nhìn thấy được từ trước. Cậu sợ khối óc tối mò của đứa cháu không thể nào hiểu được ngôn ngữ đẹp đẽ của những bài dân ca. Cậu quên khuấy rằng ngày xưa, các thi sĩ dân gian, những ca sĩ Ukren và những nghệ sĩ chơi đàn băng-đu-ra phần lớn cũng là những người mù. Thực ra, nhiều khi cũng là do tai họa hay vì tàn tật mà họ phải ôm đàn đi ăn xin. Nhưng không phải tất cả họ đều là những người hành khất có cái giọng khàn khàn và cũng không phải là người nào cũng về già mới bị mù. Đôi mắt mù gói cả vũ trụ trong một tấm màn đen đặc, tấm màn đè nặng xuống khối óc, nó đè ép và ngăn cản sự hiểu biết của người xấu số. Nhưng nhờ những khái niệm di truyền, nhờ những ấn tượng do những giác quan khác thâu lượm được, nên khối óc người mù trong bóng tối cũng tự tạo cho mình một vũ trụ riêng, một vũ trụ tối tăm, buồn bã, tẻ ngắt, nhưng vẫn không phải không đượm một thứ thi vị mơ hồ, đặc biệt.
XII- Cậu Mácxim và Pie ngồi trên đống rơm. Iokhim ngả mình trên thành giường (nằm như thế rất phù hợp với tâm hồn nghệ sĩ của anh). Anh suy nghĩ một lát rồi hát.
Không hiểu do ngẫu nhiên hay do bản năng nghệ sĩ, bài anh chọn hát rất hay, nó nhắc lại một trang lịch sử:
Trên kia, trên ngọn đồi xanh,
Cùng nhau gặt lúa nhanh nhanh một đoàn...
Tất cả những ai đã được nghe hát cho ra hát bài dân ca đẹp đẽ này, sẽ khắc sâu vào trong trí nhớ cái âm điệu cổ kính, khi lanh lảnh, lúc ngân nga và như phủ một mối buồn man mác vấn vương về những kỷ niệm xa xôi trong lịch sử. Bài ca không kể lại những biến cố lớn lao, tiếng tăm vang dội, những cuộc giao tranh đẫm máu, những chiến công oanh liệt, nó cũng không phải là lời một chàng thanh niên Côdắc từ biệt người yêu, một cuộc tấn công gan dạ hoặc một cuộc viễn du trên biển xanh và trên sông Đanuýp . Đây chỉ là hình ảnh những kỷ niệm của một chàng trai Ukren vụt hiện ra nhanh chóng như làn chớp nhoáng, một giấc mộng mơ hồ, một mảnh giấc mơ làm sống lại cái quá khứ xa xôi. Trong ngày buồn tẻ, lòng nặng trĩu những phiền muộn vẩn vơ, thốt nhiên trong trí tưởng tượng của anh chàng, bức tranh nọ hiện ra mờ mờ, hỗn độn, đượm vẻ buồn của thời đại cổ xưa vô cùng thân mến và đã biến vào dĩ vãng. Phải, cái thời đại ấy đã biến đi nhưng không phải là không còn để lại chút dấu vết gì. Chính cái thời đại đã qua ấy, ngày nay những đống gò cao ngất, nơi những đống xương Côdắc yên nghỉ, vẫn còn nhắc lại cho chúng ta, và cứ nửa đêm ở nơi đây lại lập lòe những đốm sáng huyền bí và nổi lên những tiếng rền rĩ, âm âm...
Câu chuyện cổ tích và bài hát dân gian đang tắt dần nọ chính là nhắc nhở chúng ta đến những thời xa xôi ấy:
Trên kia, trên ngọn đồi xanh,
Cùng nhau gặt lúa nhanh nhanh một đoàn.
Dưới kia chân quả đồi xanh, Đoàn người Côdắc hành binh trùng trùng,
Đoàn người Côdắc hành binh trùng trùng...
Lắng nghe lời ca buồn thấm thía, cậu Mácxim ngây ngất cả người. Bức tranh do khúc nhạc êm đềm gợi ra sao mà ăn nhịp với đề tài câu hát đến thế, bức tranh vụt hiện ra trong óc cậu như được rọi sáng bởi những ánh phản chiếu buồn bã của buổi chiều tà. Trên cánh đồng yên tĩnh, trên ngọn đồi xanh xanh, đám thợ gặt đang khom khom lặng lẽ cắt lúa. Dưới chân đồi, từng đoàn chiến sĩ nối đuôi nhau lặng lẽ đi qua, để rồi biến vào trong bóng tối buổi chiều đang buông xuống trùm lên cả vùng thung lũng.
Tiếng hát ngân dài, phập phồng, rung động, lặng tắt trong không trung để rồi lại vang lên và làm sống lại trong buổi hoàng hôn những hình ảnh luôn luôn mới mẻ.
XIII- Pie lắng nghe, mặt rầu rầu buồn bã. Khi Iokhim hát đoạn nói đến đám thợ gặt trên ngọn đồi thì óc tưởng tượng đưa ngay em lên tận đỉnh tảng đá quen thuộc. Em nhận ra bởi tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng, khe khẽ đập vào chân tảng đá to lớn. Em cũng đã biết người thợ gặt ra làm sao: em nghe rõ tiếng hái xén xoèn xoẹt, tiếng bông lúa đổ xuống rào rào. Khi bài hát gợi đến cảnh ở dưới chân đồi, óc tưởng tượng lại đưa ngay em xuống tận thung lũng.
Tiếng hái lách cách tắt bẵng, nhưng em biết đám thợ gặt vẫn còn ở trên kia, trên lưng chừng trái đồi, và nếu em không còn nghe thấy gì nữa là do họ ở quá cao, cao bằng ngọn những cây phi lao mà em thường nghe tiếng rì rào những lúc em ngồi dưới chân tảng đá. Và dưới kia, theo dọc con sông, vang lên tiếng vó ngựa đều đều, mau bước... Đoàn kỵ mã đông người: trong bóng mờ mờ tối dưới kia, dưới chân đồi có tiếng rầm rầm hỗn độn. Đấy là “Đoàn người Côdắc hành binh trùng trùng...”
Em cũng đã biết thế nào là “người Côdắc”. Ông già Phếtcô thỉnh thoảng vẫn lại thăm gia đình em. Ai cũng biết ông lão là một “ông già Côdắc” và đều gọi ông như vậy. Ông thường bế em, đặt em lên đầu gối, tay ông lão run run, vuốt ve mái tóc em. Khi theo thói quen, em đưa tay nắn nắn mặt ông lão, ngón tay thành thạo của em sờ thấy những nếp nhăn sâu, những chiếc ria mép rủ quặp xuống và mấy giọt nước mắt già nua lăn trên đôi má hóp.
Nghe tiếng hát ngân nga, em hình dung đoàn người Côdắc đang đi dưới chân đồi là những người như vậy. Họ đều cưỡi ngựa, cũng râu ria, lưng còng và cũng già như ông lão Phếtcô, họ tiến quân như những bóng mờ mờ trong đêm tối và y như ông Phếtcô, họ cũng khóc, có lẽ vì trên ngọn đồi và trong thung lũng chập chờn bay những tiếng rền rĩ rầu rầu, não ruột của bài ca mà hôm nay Iokhim đang hát, bài ca của anh chàng Côdắc nông nổi nọ đã đem đổi vợ lấy chiếc điếu cày và lấy những vinh nhục của chiến tranh.
Chỉ thoáng nhìn, cậu Mácxim biết ngay đứa cháu yêu quý tuy mù, nhưng bản chất đa cảm của nó rung động mạnh mẽ trước những hình ảnh nên thơ của bài ca.
Chương 3
I- Nhờ cậu Mácxim vạch cho Pie một lối sống riêng nên được chừng nào hay chừng nấy, gia đình đã để em sống thả theo sức mạnh của riêng em. Việc này chẳng bao lâu đã có những kết quả hết sức rực rỡ. Ở trong nhà, nom em không có vẻ gì là đứa bé tàn tật. Em dạo chơi khắp nhà, bước đi vững vàng. Em tự thu dọn lấy buồng ở, biết xếp đặt quần áo, đồ chơi rất ngăn nắp. Ngoài ra, cậu Mácxim còn lo lắng cả việc rèn luyện thân thể cho em, cậu sai người dạy em tập thể dục. Khi Pie lên sáu, cậu tặng cho em một con ngựa nhỏ hiền lành. Ban đầu, bà Pôpenska không tưởng tượng được đứa con trai mù của bà lại cưỡi ngựa, nên bà cho việc ông cậu ngông cuồng cho cháu con ngựa là hết sức điên rồ. Nhưng ông cậu tàn tật đã đem hết sức mình ra luyện cho cháu, và trong có vài ba tháng, Pie đã vui vẻ cưỡi ngựa, đi sóng đôi bên Iokhim và chỉ đến chỗ đường ngoặt, Iokhim mới phải nhắc. Thế là đôi mắt mù không hề cản trở thân thể em phát triển một cách bình thường, và ảnh hưởng của nó đến tâm hồn em cũng giảm đi nhiều. Vào trạc tuổi em, Pie là đứa bé lớn người, dong dỏng, nước da hơi tái, nét mặt xinh xắn khôi ngô. Mái tóc đen láy càng làm tăng màu nước da tai tái. Đôi mắt to và đen, ít động đậy, khiến vẻ mặt thêm kỳ cục, ai nom thấy cũng phải để ý đến ngay. Một nếp nhăn hằn nhẹ trên đôi hàng lông mày. Cái thói quen hơi nhô đầu về phía trước và cái vẻ buồn, đôi khi như đám mây lướt trên khuôn mặt xinh xắn của em, đấy là tất cả những cái để cho người ta đoán biết là em bị mù. Tuy ở những chỗ quen, em đi đứng rất vững vàng, nhưng ai cũng thấy rõ cái tinh thần hoạt bát tự nhiên của em bị nén xuống và chỉ thỉnh thoảng nó mới bật ra trong một vài cử chỉ nóng nẩy, đột ngột.

Giờ đây, những ấn tượng về thính quan đóng vai trò chủ chốt trong đời sống em bé mù. Những âm thanh đã thành hình thức suy nghĩ chính, thành trung tâm mọi công việc về trí óc của em. Em nhớ kỹ những nhạc điệu các bài hát, và khi học lời, em thường nhuộm lời ca thêm buồn, vui hay mơ mộng.
Càng ngày em càng chú ý đến những tiếng nói của thiên nhiên lọt đến tai em. Rồi hòa trộn những cảm giác mơ hồ của em với những nhạc điệu quen thuộc, đôi khi em phối hợp thành một bản nhạc ngẫu hứng tự do, trong đó khó biết đâu là phần dân ca quen thuộc và đâu là phần sáng tạo của em. Hai phần khăng khít với nhau quá, đến em cũng không phân biệt được. Em học rất chóng những điệu nhạc mẹ em dạy: bà dạy em biểu diễn dương cầm nhưng em vẫn yêu quý chiếc sáo của Iokhim như trước. Đành rằng chiếc dương cầm phong phú, nhiều âm điệu hơn, nhưng nó bị buộc chặt trong buồng. Còn chiếc sáo, em có thể mang ra giữa đồng, tiếng sáo réo rắt hòa với tiếng thảo nguyên rì rầm đến nỗi lắm lúc em cũng không hiểu rõ có phải chính làn gió từ xa đưa lại bên tai em những ý nghĩ mơ hồ chập chờn hay chính em làm cho nó phát ra từ chiếc tiêu.
Lòng ham mê nhạc đã thành trọng tâm phát triển trí óc của em: nó làm cuộc sống của em bận rộn. Cậu Mácxim lợi dụng nhạc để dạy em về lịch sử đất nước, cuốn lịch sử với trí tưởng tượng của em được dệt toàn bằng âm thanh. Ham thích một bài ca, em làm quen với các nhân vật trong bài, làm quen với số phận của họ, với số phận Tổ quốc của em. Do đó em nảy ra lòng ham thích văn chương. Đến năm Pie lên chín, cậu Mácxim bắt đầu dạy em học. Cậu đã nghiên cứu làm quen với những phương pháp dạy người mù, nên bài học cậu dạy thực hấp dẫn, khiến Pie thích thú vô cùng. Bài học đưa vào tâm hồn em một yếu tố mới: cái tinh thần chính xác và minh bạch để bù vào những cảm giác mơ hồ của âm nhạc.
Như vậy, ngày tháng của em sống rất đầy đủ, em không có thể phàn nàn được là còn nghèo nàn về cảm giác. Với lứa tuổi của em, em như đã được hưởng một cuộc sống hết sức phong phú. Em cũng hầu như quên cả đôi mắt mù.
Tuy nhiên tính nết em vẫn đượm một vẻ buồn kỳ lạ, cái vẻ buồn không phải là của lứa tuổi bé nhỏ. Cậu Mácxim cho là tại em không có bạn. Cậu cố tìm cách bù đắp phần thiếu sót ấy cho em.
Lũ trẻ trong làng được rủ đến chơi với em thấy ngượng nghịu, chúng không chơi bời tự nhiên như mọi ngày. Không những tại ở đây chúng lạ nhà mà còn tại cả đôi mắt của Pie làm chúng bối rối. Chúng nhìn em, rụt rè, đứng xít lại nhau, yên lặng, hoặc thì thào với nhau khe khẽ. Khi để mặc chúng chơi một mình ngoài vườn, hoặc ngoài đồng, chúng trở nên tự do và bạo dạn hơn. Nhưng người ta thấy em Pie vẫn cứ lặng im đứng riêng một chỗ, buồn bã lắng nghe lũ bạn mới nô đùa vui vẻ.
Đôi khi Iokhim gọi lũ trẻ quây quanh anh và kể cho chúng nghe chuyện cổ tích và những chuyện buồn cười. Với lũ trẻ nhà quê, con quỷ Ukren ngốc nghếch và mụ phù thủy độc ác là những cái chúng quen thuộc hết sức, nên tự chúng có thể thêm thắt vào những đoạn Iokhim quên sót, thành thử đám kể chuyện vui nhộn đáo để. Pie chăm chú lắng nghe, trong lòng vui thích, nhưng chỉ họa hoằn em mới cười. Xem thế đủ biết những cái ý vị hài hước trong lời nói sinh động, phần lớn em không hiểu được, cái đó cũng không có gì lạ. Em có nhìn đâu thấy đôi mắt long lanh hóm hỉnh của người kể chuyện, em có thấy đâu những nếp cười nhăn trên mặt Iokhim, và chòm ria mép dài của anh nó rủ xuống rung rinh, nom đến khôi hài.
II- Ít lâu nay ở ấp bên cạnh, người tá điền đã bị đuổi. Anh chàng trước kia tính khí bon chen, bướng bỉnh. Ông Pôpenski hiền lành củ mỉ như thế mà cũng có lần hắn gây chuyện với ông về chuyện trâu bò phá ruộng. Người mới đến là vợ chồng ông già Iaskunski. Hai vợ chồng tuy tuổi cộng lại ngót nghét một trăm, thế mà họ cũng chỉ vừa mới lấy nhau. Ông Iaskunski chật vật lắm mới dành dụm được món tiền lĩnh canh lại cái ấp này. Để có tiền, ông đã phải đi làm quản gia cho những nhà giàu có. Còn bà Iaskunski tương lai, trong khi chờ đợi hạnh phúc, cũng bắt buộc phải làm chân nữ tì ở nhà bá tước Pôtốcka. Đến ngày hai vợ chồng đưa nhau ra nhà thờ làm phép cưới thì râu tóc của ông chồng trung hậu nọ đã thấy sợi trắng nhiều hơn sợi đen, và khuôn mặt thẹn thò đỏ ửng của bà vợ cũng đã có những vòng tóc bạc rủ vòng quanh.
Tuy vậy, cái đó cũng không hề cản trở hạnh phúc của đôi vợ chồng và kết quả cuộc tình duyên muộn mằn ấy là hai ông bà sinh hạ được một cô con gái độc nhất, suýt soát tuổi với em bé mù. Đã nhiều tuổi lại sống trong căn nhà của mình, tuy là trại lĩnh canh nhưng cũng có thể coi như của mình được, hai ông bà Iaskunski bắt đầu sống một cuộc đời yên tĩnh và nhũn nhặn như thể hai người muốn đem cái yên lặng cô quạnh này đền bù cho những năm vất vả đầy lo lắng, sống dưới mái nhà người khác.
Lần lĩnh canh đầu tiên không được may mắn lắm. Hai vợ chồng phải bảo nhau giảm chi tiêu một chút. Nhưng đến ấp mới lần này hai ông bà liền thu dọn ngay theo sở thích và theo thói quen của mình. Trong góc buồng, có bày mấy bức tượng thánh, quanh tượng có dây trường xuân kết hoa, bên cạnh mấy nhành liễu và một cây nến, bà Iaskunski có để mấy chiếc bị chứa đầy những cỏ và rễ bà dùng làm thuốc chữa cho chồng và cho những người nhà quê thường đến nhờ bà khám bệnh. Những bị cỏ tỏa ra trong phòng một hương vị đặc biệt làm khách đến chơi nhà hễ nhớ đến nó ai cũng nhớ ngay đến căn nhà xinh xắn, sạch sẽ và yên tĩnh, đồ đạc hết sức gọn gàng, và nhớ đến cặp vợ chồng già sống một cuộc đời vô cùng bình tĩnh rất hiếm có trong thời buổi bấy giờ.
Hai ông bà già sống yên vui với cô con gái độc nhất và quý con như vàng. Em bé có bím tóc dài vàng hoe và đôi mắt xanh biếc. Khách đến chơi ai cũng phải để ý đến cái vẻ nghiêm trang trong thái độ của em. Hình như cái êm đềm của mối tình muộn mằn đã chung đúc lại và phản ánh lên trong tính tình của cô con gái, trong cái khôn ngoan như người lớn, trong những cử chỉ khoan thai, và trong đôi mắt xanh biếc mơ màng sâu sắc của em. Gặp người lạ, em không hề sợ hãi, gặp lũ trẻ cùng lứa tuổi, em không lảng tránh, em vui vẻ cùng chơi đùa với chúng. Những lúc như vậy, em tỏ ra ân cần chiếu cố hết sức thành thực, như thể bản thân em, em không muốn chút nào. Thực thế, với cái xã hội bé nhỏ riêng của em, em thấy cũng đủ lắm rồi, em dạo chơi, ngắt hoa, chuyện trò cùng con búp bê và lúc nào em cũng rất nghiêm trang, khiến cho đôi khi người lạ tưởng em là một thiếu phụ trẻ chứ không phải là một em bé còn rất ít tuổi.
III- Một hôm, Pie ngồi một mình trên một trái đồi nhỏ, ở ven sông. Mặt trời lặn dần. Trên không trung yên lặng như tờ, duy có tiếng trâu bò về chuồng rống từ đằng xa vẳng đưa lại. Chú bé thổi tiêu một lúc, rồi ngả mình xuống bãi cỏ, lắng mình khoái hưởng những phút say sưa uể oải của buổi chiều hè. Chú thiu thiu mơ màng một lát, chợt có tiếng chân bước nhẹ làm chú giật mình tỉnh lại. Bực mình, chú chống nẹ, hơi nhấc mình lên một chút, lắng tai nghe. Tiếng chân dừng dưới chân đồi. Chú không nhận ra tiếng chân ai.
Thốt nhiên có tiếng đứa bé nào gọi:
- Này anh có biết ai vừa thổi sáo đấy không?
Những lúc ngồi vắng vẻ một mình, Pie không thích ai đến quấy rầy, nên lầu bầu đáp lại:
- Ta chứ ai...
Có tiếng “chà!” nhẹ nhàng, đầy vẻ ngạc nhiên. Rồi tiếng một cô bé con ngây thơ tiếp theo như khen ngợi:
- Hay quá!
Pie nín lặng. Một lát sau, thấy cái cô bé vô duyên nọ vẫn cứ đứng lì ra, Pie liền hỏi:
- Này, cô kia sao không đi ra chỗ khác đi?
Cô bé ngạc nhiên, giọng trong trẻo, ngây thơ hỏi lại:
- Sao anh lại đuổi tôi?
Giọng cô bé ngây thơ, dịu dàng làm Pie thấy êm tai. Nhưng em vẫn cứ lầu bầu đáp lại:
- Tôi không thích ai đến quấy rầy...
Cô bé phá ra cười:
- Chà, gớm nhỉ?... Thế trái đất này là riêng củaanh hay sao mà anh có quyền cấm không ai được đến dạo chơi ở đây?
- Mẹ tôi cấm không cho ai đến đây.
Cô bé tỏ vẻ suy nghĩ rồi nói:
- Mẹ anh à? Thế nhưng mẹ tôi lại cho phép tôi ra chơi ở bờ sông này thì sao?
Vốn được mọi người nuông chiều, em bé mù từ trước không quen ai cãi lại mình như vậy. Cơn giận nổi lên, mặt em cau có, nhăn nhúm, em vùng vằng nói:
- Cút đi! Cút đi! Cút đi!
Thực khó nói câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Nhưng vừa hay có tiếng Iokhim gọi Pie về uống trà. Pie chạy vội xuống chân đồi. Em vẳng nghe tiếng cô bé tức bực nói theo sau:
- Chà! Thằng bé này ác thực!
IV- Hôm sau đến ngồi chỗ cũ, Pie nhớ lại câu chuyện gặp gỡ bữa qua. Nhớ lại, em không còn thấy giận chút nào. Trái lại, em ước ao lúc này cái cô bé có tiếng nói dịu dàng nghe rất vui tai kia trở lại. Chưa bao giờ em được nghe tiếng ai nói êm ái như vậy. Cái bọn trẻ con mà em quen, chúng kêu la, cười ha hả, đánh lộn nhau, khóc lóc ầm ĩ, chứ không có một đứa nào ăn nói dịu dàng như cô bé. Em giận mình đã làm phật ý cô bé và chắc cô ta không còn trở lại nữa.
Quả vậy, ba ngày liền cô bé không trở lại. Nhưng đến hôm thứ tư, Pie chợt nghe thấy tiếng chân cô bé ở tít dưới kia, về phía bờ sông. Cô bé bước nhẹ nhàng, chân đạp trên sỏi nghe lạo xạo, miệng khe khẽ ngâm một bài hát Ba Lan.
Khi thấy cô bé lên ngang chỗ mình ngồi, Pie gọi to:
- Này! Cô lại đến đấy ư?
Cô bé không đáp lại. Đá sỏi vẫn lạo xạo dưới chân. Nghe giọng hát có vẻ làm ra thờ ơ, Pie biết cô ta còn giận lắm.
Nhưng đi được vài bước, cô bé đứng lại. Hai ba giây lặng lẽ trôi qua. Cô bé sắp lại gọn ghẽ bó hoa nhỏ hái ngoài đồng cô đang cầm trong tay. Pie nín lặng đợi. Trong cái đứng ngừng lại và tiếp đến lặng im, Pie thấy có thoáng chút khinh bỉ.
Sau cùng, cô bé thôi không xếp lại hoa nữa và lấy giọng trang nghiêm hỏi lại:
- Thế anh không nhìn thấy chính tôi đây à?
Cái câu hỏi đơn giản có thế mà gây nên một tiếng vang đau xót trong tâm hồn Pie. Em nín lặng không đáp, duy có hai tay chống xuống đất là run run bám lấy đám cỏ. Nhưng dù sao thì câu chuyện giữa hai em cũng bắt đầu. Cô bé vẫn đứng nguyên một chỗ, tay mân mê bó hoa. Cô lại hỏi:
- Ai dạy anh thổi sáo hay thế?
- Iokhim đấy.
- Hay quá. Nhưng tại sao hôm nọ anh lại cáu với tôi?
Pie khe khẽ nói:
- Tôi không cáu... với cô.
- Vậy thì được. Tôi cũng không giận anh nữa... Thế chúng ta cùng chơi với nhau nhé?
Pie cúi đầu, đáp lại:
- Tôi chơi với cô làm sao được!
- Anh không biết chơi à? Tại sao?
- Vì...
- Tại sao?
- Vì... - Pie nhắc lại nhỏ quá. Em càng cúi gầmmặt xuống. Từ trước chưa hề bao giờ em phải nói với một ai về cái tật đau khổ của em. Giờ đây, cái giọng hồn nhiên của cô bé cứ ngây thơ săn đón hỏi, làm em thấy âm thầm đau đớn.
Cô bé trèo lên đồi:
- Anh thực buồn cười quá - giọng cô như ăn năn,đầy vẻ ân cần, cô đến ngồi xuống cạnh Pie
- Có lẽ anh chưa biết tôi. Khi đã quen, anh sẽ không sợ tôi nữa. Còn tôi, tôi chẳng sợ ai hết.
Cô bé nói bình tĩnh, đâu ra đấy. Pie nghe thấy cô bé vứt mấy bông hoa vào lòng vạt áo khoác ngoài, liền hỏi:
- Cô hái những bông hoa này ở đâu?
- Ở đằng kia. Cô bé hất đầu chỉ về đâu phía sau.
- Trong nội cỏ à?
- Không, đằng kia.
- Vậy ra trong bụi cây à? Nhưng hoa gì thế?
- Ờ, thế anh không biết là hoa gì à? Anh kỳ quặcthật... kỳ quặc quá thế, trời ơi!
Em bé mù cầm một bông hoa. Ngón tay em lướt nhanh qua mấy chiếc lá và vành cánh hoa.
- Hoa này là hoa cúc. Còn đây hoa viôlét.
Về sau, em muốn dùng tay sờ mặt để làm quen cô bạn mới: tay trái em nắm vai cô bé, tay phải sờ nắn mái tóc và đôi mi mắt, mấy ngón tay em lại lướt nhanh trên mặt cô bé, thỉnh thoảng ngừng lại để chăm chú nghiền ngẫm những nét lạ.
Tất cả, em làm nhanh và bất ngờ quá khiến cô bé hết sức ngạc nhiên, không kịp nói được lời nào. Cô bé trố mắt nhìn Pie, sững sờ, gần như khiếp sợ.
Lúc bấy giờ, cô bé mới nhận thấy trên khuôn mặt người bạn mới của cô có một cái gì kỳ lạ. Những nét xinh xắn và tái nhợt vì chăm chú căng thẳng nên nom đanh lại, trái ngược hẳn với đôi mắt nhìn không động đậy. Đôi mắt chú bé nhìn tận đâu đâu, không hề chú ý đến việc chú làm và ánh mặt trời buổi chiều tà phản chiếu trong đôi con ngươi của chú nom thực kỳ quái. Trong giây lát, cô bé tưởng mình ở trong một cơn ác mộng.
Hắt tay chú bé ở vai ra, em thốt nhiên chồm dậy, òa ra khóc và la lên:
- Sao mày làm tao sợ hết hồn, thằng tồi kia?
- Giọng cô bé thấm qua nước mắt nghe cáu kỉnh. Tao làm gì mày nào...? Tại sao?
Còn Pie kinh ngạc, vẫn ngồi yên một chỗ, cúi gằm mặt xuống. Một cảm giác kỳ quái, vừa tức giận vừa tủi thân, làm em đau đớn xót xa. Lần đầu tiên trong đời, em cảm thấy nỗi nhục nhằn của một người tàn tật. Lần đầu tiên em thấy đôi mắt của em không những để người khác nhìn thấy phải thương hại mà còn có thể làm người ta phải sợ lên được nữa. Đành rằng, em không thể mường tượng thấy rõ ràng cái cảm giác nó đang giày vò em, và tuy cái cảm giác ấy nó mơ hồ không rõ rệt, em vẫn thấy đau khổ vô cùng.
Có cái gì đau đớn, chua xót, chẹn tắc cổ họng em: em nằm vật ra bãi cỏ, nức nở khóc. Vốn bẩm sinh hay tự ái, em cố gắng nén, nhưng càng cố nén, em càng nức nở khóc thêm, thân hình nhỏ bé của em càng quằn quại co rúm lại.
Cô bé lúc chạy xuống chân đồi, nghe có tiếng nức nở khóc nên ngạc nhiên ngoảnh lại. Nhìn thấy chú bé gằm sát mặt xuống đất khóc, cô thương hại, quay lại, nhẹ nhàng leo lên đồi, đến sát gần chú bé.
Cô khẽ dỗ:
- Này sao anh khóc? Anh tưởng tôi đi mách phảikhông? Thôi đừng khóc nữa, tôi sẽ không nói với ai đâu.
Lời nói dịu dàng, giọng ôn tồn vuốt ve của cô bé làm Pie càng nức nở khóc to. Cô bé liền ngồi xổm xuống bên cạnh Pie và cứ ngồi thế một lúc lâu. Cô lấy tay nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc của bạn rồi dịu dàng kiên nhẫn như một bà mẹ an ủi đứa con vừa bị mắng. Cô nâng đầu Pie dậy, lấy khăn mùi xoa lau mặt ướt đầm nước mắt của chú.
Hệt như giọng một thiếu phụ, cô bé nói:
- Này... thôi anh đừng khóc nữa! Tôi hết giận từ lâu rồi. Tôi biết là anh đã hối hận vì làm tôi kinh sợ...
Để nén xúc cảm, Pie thở dài đáp lại:
- Nào tôi có muốn làm cô sợ đâu!
- Thôi được! Tôi hết giận rồi. Từ nay anh đừng làm thế nữa nhé!
Cô bé nâng Pie dậy và đặt ngồi bên cạnh. Pie ngoan ngoãn theo. Giờ đây, em ngồi im như trước, mặt ngoảnh về phía mặt trời lặn. Khi cô bé nhòm lại mặt người bạn nhỏ, thấy ánh mặt trời đỏ nhạt buổi chiều chiếu rọi vào làm khuôn mặt em càng lạ lùng hơn. Đôi mắt vẫn ướt đầm, không thấy động đậy. Nét mặt vẫn còn nhăn lại giần giật, nhưng đồng thời đượm một vẻ buồn u uất, nặng trĩu, không có chút gì là nỗi buồn của một em bé còn ít tuổi.
- Nhưng mà nom anh vẫn kỳ dị thế nào ấy...
Cô bé nói, giọng vừa thương hại vừa mơ màng... Pie nhăn mặt đau đớn đáp lại:
- Không, tôi có gì là kỳ dị đâu... Tôi chả kỳ dị chút nào hết. Tôi... Tôi... mù...
- Mù...ù...à!
Giọng cô bé kéo dài. Thốt nhiên cô run run, như tiếng “mù” buồn bã mà Pie khe khẽ nói ra đã đâm sâu vào trái tim thiếu nữ nhỏ nhắn của cô.
- Mù...ù... à!
Cô bé nhắc lại. Giọng cô run hơn nữa. Rồi thốt nhiên cô ôm chầm lấy cổ chú bé, ép mặt vào mặt chú, như để chống lại mối xúc cảm thương tâm tràn ngập trong lòng.
Điều phát hiện bất ngờ kinh khủng làm cô bé choáng váng, không đủ sức giữ được vẻ nghiêm trang như trước, nó khiến cô trở lại thành một đứa bé con buồn rầu, đau khổ tuyệt vọng và giờ đây đến lượt cô òa lên nức nở khóc...
V- Mấy phút lặng lẽ trôi qua.
Cô bé nín không khóc nữa, cô nén lòng, chỉ thỉnh thoảng bật nấc lên một tiếng. Mắt còn ướt lệ, cô ngắm nghía mặt trời và có ấn tượng mặt trời quay trong khí quyển cháy đỏ rực đằng tây và ngụp xuống sau dải chân trời tối om. Mảnh chiêng vàng đỏ ối rực sáng lên một lần nữa rồi bắn vọt ra hai ba tia lửa. Thốt nhiên, hình thể tối mờ của khu rừng đằng xa in rõ lên nền trời thành một đường xanh mờ liên tục.
Một làn gió mát thổi từ dưới sông lên, không khí tĩnh mịch êm ái buổi chiều phản chiếu lên khuôn mặt em bé mù. Em ngồi cúi đầu, hình như ngạc nhiên về cái cử chỉ thương xót nồng nhiệt của cô bé.
Một lát, cô bé nói, giọng còn nghẹn ngào:
- Uổng chưa!
Hình như cô muốn giải thích nỗi yếu lòng của mình.
Sau cô bé trấn tĩnh dần và nói sang chuyện khác. Cô tìm những chuyện ở đâu đâu, để có thể tha hồ nói mà không bị xúc động. Cô bé trầm ngâm nói:
- Mặt trời lặn rồi.
Pie buồn rầu đáp:
- Tôi có biết mặt trời lặn ra thế nào đâu! Tôi chỉ...cảm thấy mà thôi.
- Thế anh không biết mặt trời thế nào ư?
- Không...
- Thế mẹ anh, anh cũng không biết ư?
- Có chứ, tôi biết rõ mẹ tôi lắm. Nghe mẹ tôi đi từ xa lại, tôi cũng nhận ra ngay.
- Ừ, đúng đấy! Tôi cũng vậy. Nhắm mắt lại tôi cũng nhận được ra mẹ tôi.
Câu chuyện giữa hai em trở nên bình tĩnh hơn. Giọng Pie nói nghe đã vui vui lên một chút.
- Này, tôi có cảm giác thấy được mặt trời và biếtrất rõ cả lúc nó lặn.
- Anh làm thế nào mà biết được?
- Vì... cô hiểu đấy... Tôi, tôi cũng chẳng biết tại sao.
- À phải!...
- Cô bé rất hài lòng về câu trả lời. Cả hai nín lặng, Pie lại nói:
- Tôi biết đọc nữa cơ, tôi cũng sắp học cầm bút viết.
- Nhưng anh học ra sao?...
- Cô bé nói được có thế rồi thốt nhiên nín bặt. Cô bối rối, cô không muốn cứ tiếp tục hỏi những câu khổ tâm như vậy. Nhưng Pie hiểu ngay.
- Tôi đọc trong sách riêng của tôi, đọc bằng ngón tay.
- Bằng ngón tay! Chà! Tôi thì không bao giờ tôi đọc được sách bằng ngón tay. Mắt nhìn còn ngắc ngứ nữa là... Bố tôi bảo đàn bà hiểu về khoa học rất ít.
- Tôi biết đọc cả tiếng Pháp.
- Cả tiếng Pháp! Cũng bằng ngón tay chứ? Anh thông minh quá!
Cô bé la lên, cô thành thực khâm phục anh bạn nhỏ. Nhưng này anh, tôi sợ anh bị cảm mất. Trên mặt sông, sương bốc mù mịt ghê chưa!
- Còn cô?
- Tôi ấy à? Tôi chả sợ gì hết. Với tôi, cái đó có đángkể chi.
- Thế thì tôi cũng không sợ. Có lẽ nào đàn ông lại dễ bị cảm hơn đàn bà được? Cậu Mácxim bảo đàn ông không được sợ gì hết. Đói, rét, sấm, mưa, tất cả không có gì đáng sợ.
- Cậu Mácxim!... Có phải cái người vẫn cứ chống nạng đi ấy không? Tôi cũng gặp ông ta. Nom ghê chết!
- Không! Cậu tôi không có gì đáng ghê đâu, trái lại, cậu tôi tốt lắm.
- Có, nom ông ta mà ghê cả người!
- Cô bé khăng khăng nhắc lại. Anh không nom thấy nên không biết đấy.
- Sao tôi lại không biết, tất cả những cái tôi học được là nhờ cậu tôi dạy kia mà!
- Thế ông ta có đánh anh bao giờ không?
- Cậu tôi ấy à? Không bao giờ cậu tôi đánh tôi, mà cũng không bao giờ nổi giận với tôi. Không bao giờ...
- Thế thì hay quá. Ai lại đi đánh một cậu bé mù bao giờ?... Tội chết!
- Nhưng cậu tôi có đánh ai bao giờ đâu!
- Pie nói, vẻ hơi đãng trí vì em vừa thoáng nghe thấy tiếng chân của Iokhim.
Quả nhiên một thoáng đã thấy vóc dáng vạm vỡ của anh chàng Ukren in rõ trên đỉnh ngọn đồi mấp mô ngăn bờ sông với khu trại. Tiếng Iokhim gọi vang tận xa trong vắng lặng buổi chiều.
- Ô hê!... Cậu Pie ơi!..
Cô bé đứng dậy bảo:
- Kìa! Người nhà đang gọi anh về.
- Phải, nhưng, tôi không muốn về.
- Thôi, về đi, về đi... Mai tôi sẽ lại thăm anh. Bố mẹ anh đang đợi anh ở nhà và ở nhà tôi chắc cũng vậy.
VI- Cô bé giữ lời hứa. Cô còn đến sớm, trước cả lòng mong đợi của Pie. Sáng hôm sau, trong lúc Pie đang làm bài trong phòng, trước mặt cậu Mácxim như mọi ngày, thốt nhiên em ngẩng đầu lên, lắng nghe một lát rồi hớn hở nói:
- Cậu cho cháu ra ngoài một lát. Có một cô bé đến chơi.
Cậu Mácxim ngạc nhiên hỏi:
- Một cô bé? Cô bé nào?
Rồi cậu theo Pie đi ra ngoài cổng. Quả nhiên, cô bạn hôm qua của em vừa vào đến sân. Thấy bà Ana Mikhailốpna, cô bé ngập ngừng, rồi đến thẳng trước mặt bà. Bà tưởng cô bé đến có việc gì, liền hỏi:
- Em muốn gì, hở em?
Rất nghiêm trang, cô thiếu nữ bé bỏng chìa tay ra hỏi bà Ana:
- Thưa bà có phải đây là nhà của cậu bé mù không ạ?
Bà Ana vừa ngắm đôi mắt trong trẻo và cử chỉ hoạt bát của cô khách lạ, vừa đáp:
- Phải đấy, cháu ạ.
- Thưa bà, ... mẹ cháu cho phép cháu đến thăm anh ấy. Vậy cháu có thể gặp anh ấy bây giờ được không?
Vừa vặn lúc đó Pie chạy lại, cậu Mácxim đã theo ra đến bậc cửa. Chú bé vừa chào cô bạn mới, vừa nói với mẹ:
- Thưa mẹ, đây là cô gái con đã nói với mẹ hôm qua. Nhưng bây giờ con đang phải làm bài...
Bà mẹ bảo:
- Lần này, cậu Mácxim cho con nghỉ, mẹ sẽ xin phép cho.
Trong lúc đó, cậu Mácxim chống nạng đi đến. Cô bé tự nhiên như ở nhà mình, đi thẳng đến trước mặt cậu. Cô chìa tay ra nói với cậu Mácxim, giọng khen ngợi duyên dáng:
- Ông không đánh một cậu bé mù, thực tốt quá! Anh ấy kể cho tôi thế.
- Thưa bà, đánh sao được?
Cậu Mácxim kêu lên với vẻ khôi hài trịnh trọng. Bàn tay to lớn của cậu nắm lấy bàn tay xinh xắn của cô bé và nói: “Con ơi! Ta thực hết sức cảm ơn học trò ta đã gây cảm tình cho ta với một cô bé thùy mị, khôn ngoan như con”.
Nói xong cậu cười và vuốt ve bàn tay xinh xắn nắm trong tay mình. Đôi mắt ngay thẳng của cô bé vẫn cứ ngó chòng chọc vào cậu Mácxim, làm trái tim vốn ghét đàn bà của cậu cũng phải thấy yêu mến cô bé đứng trước mặt.
Cậu mỉm cười, một nụ cười lạ lùng và, quay lại nói với chị:
- Này, chị Ana, thằng Pie nhà này thế là một mình đã biết kết bạn rồi đấy. Chị ạ, nó tuy mù mà chọn giỏi đấy, phải không chị?
Bà Ana mặt đỏ ửng, nghiêm giọng hỏi lại:
- Cậu Mác, cậu nói thế là nghĩa làm sao?
Cậu Mácxim biết mình chạm đến điểm dễ động lòng của người chị, cậu hiểu ý nghĩa thầm kín nảy ra trong lòng người mẹ hay lo xa ấy, nên cậu chỉ đáp lại gọn lỏn:
- À, tôi nói đùa!
Bà Ana càng đỏ mặt. Bà vội cúi xuống, trìu mến ôm hôn cô bé. Thấy bà Ana âu yếm mình một cách mạnh bạo và đột ngột, cô bé vẫn nhìn bà với đôi mắt trong sáng, tuy hơi ngạc nhiên một chút.
VII- Từ đó giữa hai gia đình Iaskunski và Pôpenski đi lại thân mật thắm thiết. Cô bé, tên là Êvơlin, ngày nào cũng sang chơi. Ít lâu sau cô cũng sang theo học cậu Mácxim.
Thoạt đầu, ông Iaskunski cũng không thích cho con gái học chung như vậy. Một là ông cho đàn bà con gái biết ghi chép được quần áo và sổ sách chi tiêu là đủ lắm rồi. Hai nữa, ông vốn là người ngoan đạo. Ông nhất định cho việc cậu Mácxim bất chấp cả ý muốn của Đức Giáo hoàng, đi đánh lại người Áo như thế là lầm. Sau hết, ông tin tưởng sắt đá là trên trời có Đức Chúa, còn Vônte và bọn đi theo Vônte đều phải sa địa ngục, phải nhúng trong vạc dầu. Và theo ý kiến mọi người, cậu Mácxim rồi cũng sẽ chịu tội như vậy. Tuy nhiên, từ ngày quen biết cậu Mácxim, ông Iaskunski cũng phải nhận là con người vô đạo hay gây gổ kia, thế mà rất lịch thiệp và thông minh, nên ông cũng thuận dàn hòa.
Tuy vậy, trong thâm tâm của ông già thượng lưu Ba Lan nọ vẫn còn chút băn khoăn nghi ngại, nên hôm mang con gái đến xin nhập học, ông đã thuyết cho con gái nghe rất trang trọng và dài dòng, nhưng chính là nhằm nói với cậu Mácxim nhiều hơn.
Tay nắm vai con gái, mắt nhìn ông giáo tương lai của con, ông nói:
- Này con, con hãy lắng nghe lời cha bảo. Con không bao giờ được quên là trên trời có Chúa và Đức Giáo hoàng Thánh cha của chúng ta hiện nay ở La Mã, là người thay mặt Chúa ở trên thế gian này. Chính cha của con, Valăngtanh Iaskunski, bảo con như vậy và con phải tin lời cha vì cha đã đẻ ra con. Đấy là điểm Primô.
Nói đến đây ông lại nhìn cậu Mácxim, cái nhìn đầy ý nghĩa. Ông nhấn mạnh chỗ nói tiếng La tinh để tỏ ra ông cũng không lạ gì các môn khoa học, vậy khó có ai đem khoa học mà bịp được ông.
- Sêcungđô, cha muốn nói với con, cha là một nhà quý phái Ba Lan, mà phù hiệu, ngoài hình một đụn lúa và con chim khướu còn có một cây thánh giá trên nền trời xanh lơ. Dòng dõi nhà Iaskunski là dòng dõi những người hiệp sĩ nổi danh, nhưng cũng đã có nhiều người đã đổi thanh kiếm lấy cuốn kinh thánh và công việc về đạo giáo họ đều thành thạo cả. Vậy đấy lại là một lý do nữa để con phải hết sức tin cậy ở cha. Còn ngoài ra, orbis terrarum, nghĩa là mọi việc dưới trần gian này, con hãy vâng theo tất cả những điều ông Mácxim Iatsenkô đây dạy bảo và con cố gắng học cho chăm chỉ, nghe!
Cậu Mácxim mỉm cười bảo:
- Ông Valăngtanh ơi, ông đừng ngại gì hết. Chúng tôi không mộ những cô bé con này vào hàng ngũ Garibandi đâu.
VIII- Pie và Êvơlin được dạy dỗ chung. Pie học có phần mau hơn cô bạn, nhưng không vì thế mà giữa hai em không có sự thi đua. Ngoài ra, đôi khi Pie giúp Êvơlin làm bài và Êvơlin lại thường tìm cách rất khéo để giảng cho bạn hiểu được những điều mà bạn khó hiểu vì đôi mắt bị mù. Hơn nữa có Êvơlin cùng học, sự học hành của Pie có một cái gì đặc biệt và trong suy nghĩ của em có thêm một cái gì nó kích thích rất êm dịu.
Tóm lại, tình bạn bè thân thiết này thực là một ân huệ của cái số phận giàu nhân đức. Giờ đây, em Pie không còn tìm nơi hẻo lánh để ngồi một mình. Em đã tìm thấy trong tình bạn với Êvơlin cái mà lòng trìu mến của người lớn không sao mang lại được cho em. Ngay cả trong những phút mơ màng thanh thản nhất, em cũng muốn lắng mình trong mối tình thân ái đó. Hai em thường cùng dắt nhau lên ngọn đồi nhỏ hoặc ra ven sông. Khi Pie thổi sáo, Êvơlin lắng nghe, trong lòng ngây thơ thán phục. Khi Pie ngừng thổi, Êvơlin lại bắt đầu diễn tả cho Pie nghe những cảm giác vui vẻ của một đứa trẻ nhỏ như em lúc đứng trước quang cảnh thiên nhiên ở bên quanh mình. Tất nhiên, em còn chưa biết diễn tả đầy đủ những điều mắt thấy. Lời nói, em còn thiếu, nhưng trái lại, nghe những câu chuyện ngây thơ, nhất là nghe cái giọng duyên dáng của cô bạn, Pie hình dung được rõ rệt cái màu sắc riêng của hiện tượng Êvơlin đang miêu tả cho em nghe. Chẳng hạn như khi Êvơlin nói về ánh hoàng hôn đương trùm xuống mặt đất vào một buổi chiều ẩm ướt tối tăm, trong giọng Êvơlin ngập ngừng dè dặt, Pie dường như nghe thấy những bóng tối đang rủ xuống. Khi Êvơlin ngẩng khuôn mặt mơ màng lên trời bảo Pie: “Ồ! Cái đám mây nó đang lại gần, sao mà tối tăm mù mịt làm vậy”, thì thốt nhiên Pie thấy có một thứ hơi thở lạnh lẽo và nghe trong giọng nói của Êvơlin như có con quái vật đang bò đâu ở tít trên mây xanh, ầm ầm lướt qua ghê rợn.
Chương 4
I- Có những người sinh ra hình như để chịu đựng những hy sinh thầm lặng, những hy sinh cần thiết cho một tình yêu đầy âu sầu và lo lắng. Có những người lấy những lo lắng, băn khoăn do đau khổ của người thân làm không khí sống riêng của mình, coi nó là một cái gì cần thiết như xương máu. Tạo hóa đã phú trước cho họ cái nết bình tĩnh, nếu không, họ không sao chịu được những hy sinh hàng ngày ấy. Tạo hóa lo xa, đã làm dịu bớt những ham muốn, những hiếu thắng riêng của những con người đó, đã đem tất cả tinh thần chịu đựng hy sinh một cách thầm lặng phục theo cái nét chủ yếu của họ. Đôi khi coi họ có ấn tượng như những con người quá lạnh lùng, quá khôn ngoan, không có tình cảm. Nghe những tiếng kêu gọi làm rối lòng của thế giới này, họ làm ngơ, cứ bình tĩnh đi trên con đường khắc khổ của bổn phận như thể đi trên con đường hạnh phúc tột bậc vậy. Họ hình như cũng lạnh lùng và hùng vĩ như những đỉnh núi phủ tuyết. Những lo lắng tầm thường ở thế gian này không bén mảng đến gần họ được. Những chuyện chạo bậy, những lời vu cáo không sao làm nhơ được áo quần trắng tinh của họ, cũng như bộ lông trắng như tuyết của chim thiên nga không bùn nào vấy bẩn được.
Cô bé bạn thân của Pie có đầy đủ những nét riêng của kiểu người như vậy, những nét quý hóa mà cuộc sống và giáo dục họa hoằn mới đào tạo nên được. Cũng như tài năng, hoặc thiên tài, đức tính chịu đựng hy sinh này cũng là vật đặc hữu, riêng của những con người chọn lọc, và nó biểu lộ ra rất sớm. Bà mẹ em bé mù biết rất rõ hạnh phúc dành cho con bà nằm trong mối tình bè bạn giữa đôi trẻ này. Cậu Mácxim cũng hiểu vậy. Cậu tưởng thế là giờ đây đứa học trò của cậu đã có tất cả những cái mà đến nay nó vẫn thiếu, và từ nay việc học hành của Pie sẽ tiến đều đặn êm ả, không có gì đến quấy rối được nữa.
II- Trong mấy năm đầu Pie còn thơ ấu, cậu Mácxim nghĩ chỉ có một mình cậu cai quản mặt phát triển tinh thần của em hay ít ra nếu sự phát triển tinh thần ấy không chịu ảnh hưởng trực tiếp của cậu thì cũng sẽ không có một sự thay đổi, một bước tiến bộ nào của nó không chịu sự kiểm soát của cậu. Nhưng khi em đã đến thời quá độ khỏi tuổi thơ ấu, sắp sang tuổi thanh niên thì cậu Mácxim nhận thấy những giấc mơ sư phạm kiêu hãnh của cậu trước kia thật vô cùng hão huyền. Gần như mỗi tuần đều có mang lại cho em bé mù một cái gì mới, một cái gì đôi khi thực bất ngờ. Cậu Mácxim thấy bối rối mỗi khi cậu cố gắng tìm ra nguồn gốc một ý nghĩ hoặc một khái niệm mới nảy ra trong đầu óc của đứa cháu.
Một sức mạnh xa lạ nào đang tung hoành trong sâu xa tâm hồn thơ ấu của em bé mù và làm bật ra những biểu hiện bất ngờ của một tinh thần đang phát triển hoàn toàn độc lập. Và cậu Mácxim chỉ đành kính cẩn nghiêng mình trước những quá trình huyền bí của tạo hóa đang xen vào công việc dạy dỗ của cậu. Hình như những kích thích của thiên nhiên, những cái phát hiện bất ngờ ấy, dành cho em bé mù những kiến thức mới mà vì mù nên kinh nghiệm trực tiếp của bản thân em không thể nào mang lại cho em được, và cậu Mácxim đoán thấy ở đây mối liên tục khăng khít của những hiện tượng chủ yếu cho sinh mệnh, mối liên tục ấy rải tung ra muôn ngàn chặng, trùm lên cả một chuỗi bao nhiêu sinh mệnh con người.

Thoạt tiên, thấy thế, cậu Mácxim lo lắng, cậu thấy không phải chỉ riêng mình cậu cai quản tinh thần em bé mà tinh thần em còn chịu ảnh hưởng của một cái gì hoàn toàn không dính dáng đến cậu, cậu lo lắng cho số phận mai sau của đứa học trò. Cậu lo sợ những nhu cầu mới sẽ gây cho đứa bé mù những nỗi đau đớn mà cậu sẽ không tìm được những phương thuốc chạy chữa. Cậu cố tìm nguồn gốc những ngọn suối không hiểu vọt từ đâu ra, để lấp chặn nó lại, cho đứa cháu mù của cậu khỏi đau khổ.
Cậu đã lầm...
Bà Ana cũng nhận thấy những hiện tượng bất ngờ ấy. Một buổi sáng Pie cuống cuồng chạy lại bên mẹ, kêu lên:
- Mẹ ơi mẹ! Con vừa thấy một giấc mơ.
Bà mẹ buồn rầu, nghi ngờ hỏi lại con:
- Thế con mẹ đã mơ thấy những gì?
- Trong giấc mơ con đã nhìn thấy mẹ... mẹ và cậu Mácxim và con... con nhìn thấy tất cả... Đẹp quá, mẹ ơi... Đẹp quá!
- Thế con mẹ... còn nhìn thấy những gì nữa?
- Con không nhớ rõ.
- Thế con có còn nhớ mẹ không?
Cậu bé trầm ngâm đáp:
- Không, không... Con quên hết cả rồi.
- Em yên lặng một phút và nói tiếp:
- Thế nhưng con đã nhìn thấy... con đã nhìn thấy.
Thốt nhiên em ủ rũ. Một giọt nước ứa ra nơi khóe mắt. Đã nhiều lần Pie khóc với mẹ như vậy, và mỗi lần, em lại càng buồn rầu lo lắng hơn.
III- Một hôm, lúc đi ngang qua sân, cậu Mácxim nghe từ phòng khách, nơi hàng ngày Pie học nhạc, có tiếng tập đàn văng vẳng đưa ra. Tiếng đàn tập nghe sao lạ lùng làm vậy! Có hai nốt: Thoạt đầu giữa những tiếng đàn bấm liên tiếp nhanh như vũ bão, gần hòa lẫn nhau, rung lên nốt nhạc cao nhất, rồi thốt nhiên, tiếp ngay đến tiếng đàn trầm trầm, rên âm ỉ. Tò mò muốn biết ra sao, cậu Mácxim tập tễnh đi qua sân và một phút sau, cậu vào đến phòng khách. Cậu đứng ngẩn người ra trên thềm cửa, hết sức ngạc nhiên trước một cảnh tượng bất ngờ.
Em bé mù giờ đây gần tròn mười tuổi; em đang ngồi trên chiếc ghế dựa nhỏ xíu, đặt bên cạnh chân bà mẹ. Bên cạnh em, một con cò nhà nuôi, đang vươn cổ, lắc lắc cái mỏ, con cò này Iokhim vừa làm quà cho “cậu chủ”. Sáng nào Pie cũng mớm cho cò ăn, con chim không rời người bạn mới nuôi nấng nó. Hết sức chăm chú, Pie một cánh tay ôm chim, một tay nhẹ nhàng vuốt ve bộ lông. Bà mẹ em, mặt đỏ bừng như bị kích thích quá mạnh, đôi mắt buồn rầu, ngón tay bà lanh lẹn bấm phím đàn, một tiếng đàn trong và cao rung mãi không ngừng. Ngồi trên chiếc ghế đẩu, cúi mặt về phía trước, bà băn khoăn chăm chú nhìn mặt con. Lúc tay em Pie lướt trên đám lông trắng bóng, chạm đến chỗ màu trắng tuyết đột nhiên bước sang màu đen huyền, thì bà Ana lanh lẹn đưa tay bấm phím ở tận đầu ngoài mặt đàn, và lập tức một nốt nhạc trầm rền rĩ vang âm âm trong phòng.
Cả hai mẹ con mải quá, không biết cậu Mácxim đến. Lấy lại bình tĩnh một chút, cậu xen vào hỏi:
- Kìa chị Ana, thế là nghĩa làm sao?
Thiếu phụ, ngước mắt, gặp đôi mắt cậu Mácxim đang chăm chú nhìn, bà xấu hổ như người làm bậy bị chủ nghiêm khắc bắt được quả tang.
Bà thẹn thùng, ấp úng nói:
- Là vì... là vì... cậu biết đấy, cháu Pie nói với tôi là nó biết được phần nào sự khác nhau giữa các màu sắc của lông cò, nhưng cháu nó không hiểu rõ ra sao. Tôi đoan với cậu là tự cháu nó nói ra đầu tiên, và tôi thấy nó cũng có lý.
- Vậy thì sao?
- Vậy sao? ... Không, có gì đâu! Tôi chỉ muốn giúp cháu nó một chút... tôi muốn dùng âm thanh để giảng cho cháu nó hiểu cái khác nhau giữa các màu sắc... có thế thôi. Cậu Mác ạ, cậu đừng giận. Tôi thấy hình như giữa âm thanh và màu sắc có một cái gì giống nhau.
Cái ý nghĩ độc đáo ấy làm cậu Mácxim sửng sốt cả người, thành thử thoạt đầu cậu không biết trả lời chị ra sao. Cậu bảo bà thử bấm lại mấy nốt đàn, và sau khi ngắm một lúc lâu cái khuôn mặt căng thẳng của đứa cháu mù, cậu lắc đầu.
Khi Pie đi ra, chỉ còn hai chị em, cậu Mácxim bảo chị:
- Chị Ana, chị không nên gợi cho cháu những vấn đề mà không bao giờ, phải, không bao giờ, chị có thể trả lời thỏa mãn cho cháu được.
Bà Ana ngắt lời nói:
- Nhưng chính cháu nó nói ra đầu tiên đấy chứ.
- Thôi, cái đó không sao. Rồi nó quen với đôi mắt mù của nó. Còn ta, ta phải làm cho nó quên không nghĩ đến ánh sáng. Với tôi, tôi hết sức gạt hết mọi ấn tượng tự bên ngoài có thể gợi cho cháu nó đặt ra những câu hỏi vô ích. Nếu gạt hết được những ấn tượng ấy, cháu nó sẽ không cảm thấy nó thiếu thốn về cảm giác. Chúng ta, chẳng hạn chúng ta có năm giác quan, chúng ta không hề đau khổ vì không có giác quan thứ sáu... Thế nào?
Bà Ana khe khẽ đáp:
- Có, cậu Mácxim ạ, chúng ta vẫn đau khổ!
- Chị Ana!
Bà Ana vẫn một mực cãi:
- Có, có chứ. Chúng ta vẫn đau khổ... Chúng tathường đau khổ vì không có được cái không thể có được...
Tuy nhiên, bà Ana cũng nghe lời em. Nhưng lần này cậu Mácxim đã lầm khi cậu muốn gạt hết những ấn tượng bên ngoài. Cậu quên khuấy rằng những xúc động mạnh mẽ ấy chính là do tay tạo hóa đã đưa vào tâm hồn đứa bé.
IV- Có người nói: “Đôi mắt là chiếc gương soi của tâm hồn!” Nhưng có lẽ đem so sánh đôi mắt với đôi cửa sổ để cho những ấn tượng của một thế giới sáng sủa chói lọi và muôn màu tràn vào tâm hồn thì đúng hơn. Ai là người nói rõ được bộ phận nào trong cơ thể chúng ta lệ thuộc vào những cảm giác của mắt nhìn?
Mỗi người là một mắt xích trong chuỗi dây xích vô tận của cuộc sống, chiếc dây này từ quá khứ xa xăm truyền qua con người đến một tương lai vô tận. Và chẳng may, một rủi ro ác nghiệt đã muốn đóng chặt đôi cửa sổ của một mắt xích của em bé mù, làm suốt đời em phải chìm trong đêm tối. Như vậy có phải vì thế mà tất cả những sợi dây để linh hồn phản ứng lại những cảm giác về ánh sáng, đã vĩnh viễn bị cắt đứt không? Không, cái quan năng cảm thụ ánh sáng ở bên trong em phải còn mãi, mặc dầu nó quằn quại trong đêm tối, cái quan năng ấy phải di truyền cho thế hệ sau. Em bé mù có một linh hồn con người đầy đủ và bình thường, phong phú đầy đủ mọi quan năng. Vì mỗi quan năng đã chứa ngầm trong bản thân cái khao khát được thể hiện ra, cho nên trong linh hồn tối mò của em bé vẫn bừng lên mối khao khát ánh sáng không sao dập tắt được.
Ở đâu trong những phần sâu xa huyền bí, dưới hình thái mơ hồ “những khả năng”, có những sức mạnh di truyền đang ngấm ngầm sẵn sàng vọt ra để gặp tia ánh sáng đầu tiên. Nhưng đôi cửa sổ vẫn đóng chặt. Số phận đứa bé đã an bài như thế. Không bao giờ em được nom thấy tia sáng ấy! Cả cuộc đời em sẽ trôi trong đêm tối!...
Và trong bóng tối đó lại đầy rẫy những ma quỷ. Nếu em phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn lo âu, có lẽ trí óc em đã phải bận về những nguyên nhân phiền muộn bên ngoài. Nhưng những người xung quanh em đã lo tránh xa hết mọi nỗi lo âu cho em. Em được sống yên ổn bình tĩnh, và nay, chính cái vắng lặng trong tâm hồn em lại làm cái lỗi điệu bên trong của em vang lên thêm rõ rệt. Trong cái yên lặng và đêm tối quanh em, nảy ra cái ý thức mơ hồ da diết của một nhu cầu cần được thỏa mãn và cũng nảy ra lòng khao khát mãnh liệt tìm lối thoát cho những sức mạnh đang tiềm tàng tận đáy tâm hồn em.
Do đó có biết bao nhiêu những dự cảm hỗn độn, biết bao nhiêu mối hăm hở giống như những khao khát được bay bổng mà mỗi người chúng ta đã cảm thấy hồi thơ ấu, và vào trạc tuổi này, những dự cảm, những hăm hở ấy đều được thể hiện qua những giấc mơ kỳ lạ.
Cũng vì thế mà có những gắng công theo bản năng của khối óc ngây thơ, và trên nét mặt em hằn lên nỗi lo lắng lúc nào cũng như muốn hỏi han về điều gì. Những “khả năng” về hình tượng thị giác di truyền không được dùng đến trong cuộc sống, hiện ra trong đầu óc em như những con ma, không có hình thù, mơ hồ và tối tăm, nó gây cho em bao gắng sức nhọc nhằn không có mục đích gì chính xác.
Thiên nhiên bất giác đã chống đối lại với cái “trường hợp cá biệt” đã vi phạm quy luật chung của cuộc sống.
Cho nên mặc dầu cậu Mácxim đã cố hết sức tìm cách để tránh mọi “ấn tượng bên ngoài” cậu cũng không thể kìm hãm nổi cái thôi thúc tự bên trong của một nhu cầu chưa được thỏa mãn. Có lo xa, cậu giỏi lắm cũng chỉ không đánh thức sớm cái nhu cầu đó, không làm tăng thêm quá sớm nỗi đau khổ của đứa cháu mù. Còn ngoài ra, số phận bi thảm của đứa trẻ cứ tiếp diễn với mọi hậu quả đau xót của nó.
Cái số phận ấy nó cứ lừng lững lại gần như một đám mây đen sẫm. Càng lớn lên, một mặt cái bản chất linh hoạt của em càng kém dần, khác nào ngọn sóng lúc rút lui, một mặt cái tâm trạng sầu muộn u uất của em càng phát triển và ảnh hưởng đến cả thể chất em. Hồi nhỏ, gặp bất kỳ một cảm giác dù nhẹ nhàng hay mạnh mẽ, em thường thốt ra tiếng cười vui vẻ, cái cười hồn nhiên ấy nay chỉ họa hoằn mới thấy hiện trên môi. Cười, vui, khôi hài, những cái ấy em thấy khó hiểu. Trái lại, những cái buồn bã mập mờ, những cái u uất mơ hồ trong cảnh vật miền Nam, trong bài hát dân gian, em hiểu và nắm được rất dễ dàng. Mỗi khi nghe tiếng “nấm mồ trong thảo nguyên thầm thì với gió”, nước mắt em lại trào ra và em thường thích thơ thẩn ngoài cánh đồng lắng nghe những tiếng thì thào của đồng nội.
Càng ngày em càng thích được ở một mình những chỗ quạnh hiu. Vào những lúc rảnh rang em hay thơ thẩn dạo chơi một mình. Gia đình cũng không ai đi theo, để em được yên tĩnh. Ngồi trên mô đất ngoài thảo nguyên, trên ngọn đồi ven sông, hay trên tảng đá quen thuộc, em chỉ nghe thấy tiếng lá cây rì rào, tiếng cỏ thầm thì hoặc tiếng thở dài nhè nhẹ của làn gió. Tất cả những âm thanh ấy sao khéo ăn nhịp với tâm trạng em đến thế. Trong mức độ hiểu biết được về thiên nhiên của em, thì chính ở đây em đã hiểu thiên nhiên hơn hết. Thiên nhiên không giày vò em với những vấn đề vừa chính xác, vừa không sao giải đáp được. Gió lùa vào tận trái tim em, những ngọn cỏ như thì thầm với em những lời dịu dàng tỏ lòng thương hại. Và khi tâm hồn em tràn ngập cái nhịp nhàng êm ái của cảnh vật xung quanh và mềm dịu lại bởi những cái vuốt ve ấm áp của thiên nhiên, thì em thấy có một cái gì nó trào lên trong lồng ngực, nó tỏa rộng ra và lan khắp cơ thể em. Những lúc ấy, em gục mặt xuống đám cỏ tươi còn ẩm sương, lặng lẽ khóc, nhưng những giọt nước mắt ấy không có chút gì là sầu thảm. Đôi khi em cầm ống tiêu, lơ đãng thổi mấy khúc mơ màng, diễn tả tâm tình em và cái không khí vô cùng yên tĩnh của cánh thảo nguyên.
Cho nên hơi có một tiếng người đến khuấy động những giờ phút say đắm này là em thấy khó chịu và đau đớn. Gặp những lúc ấy, em chỉ chia sẻ nỗi lòng được với một tâm hồn chí thiết, hết sức gần gũi. Thế mà em chỉ có một người bạn thân cùng tuổi là cô bé tóc vàng hoe ở trại bên cạnh.
Tình bạn giữa hai em ngày một thắm thiết, và đây là một thứ tình bạn có trao đổi. Nếu Êvơlin đềm lại cái bình tĩnh dịu dàng, cái vui vẻ êm đềm và làm cho Pie hiểu được sắc thái mới của cuộc sống xung quanh thì Pie cũng truyền lại cho Êvơlin... nỗi đau khổ của mình. Hình như buổi gặp gỡ chú bé lần đầu đã để lại trong trái tim đa cảm của Êvơlin một vết thương sâu. Rút lưỡi dao ra sẽ làm cô bé mất máu mà chết. Ngay từ lúc làm quen với Pie trên ngọn đồi trong thảo nguyên, Êvơlin đã cảm thấy vô cùng đau đớn vì thương xót bạn và từ đấy, gặp mặt Pie đã trở thành một nhu cầu mà em không thể nhịn được. Em có cảm giác rõ rệt là xa Pie, vết thương của em sẽ vỡ ra, em sẽ đau đớn thêm bội phần, thế là em chạy lại với người bạn nhỏ, luôn luôn ân cần săn sóc đến bạn để làm dịu bớt những đau khổ của chính mình.
VI- Một chiều thu êm đềm, hai gia đình ngồi đông đủ ở trước cửa nhà chuyện trò, ngắm bầu trời vằng vặc sao và cái nền xanh ngắt sâu thẳm sáng lấp lánh. Cũng như mọi bận, Pie đứng gần Êvơlin, bên cạnh bà mẹ.
Mọi người ngừng chuyện trong một lát. Bốn bề vắng lặng như tờ, chỉ thỉnh thoảng có mấy tàu lá thì thầm với nhau rồi im bặt.
Thốt nhiên, một ngôi sao sáng lóe từ bầu trời sâu thẳm vọt ra, vạch trên nền trời một vệt sáng và bỏ lại đằng sau một dải lân tinh dần dần tắt hẳn.
Mọi người ngẩng mặt lên nhìn. Bà Ana ngồi sát bên Pie, nắm tay con, bà thấy em rùng mình quằn quại. Pie quay lại, nét mặt cảm động, hỏi mẹ:
- Cái gì thế hở mẹ?
- Một ngôi sao sa đấy con ạ.
Pie trầm ngâm nhắc lại:
- A, phải... một ngôi sao... con biết rõ...
Bà nghi ngờ, buồn rầu hỏi:
- Làm sao con lại biết được, hở con?
Êvơlin xen vào nói:
- Có, có. Anh ấy nói thực đấy. Anh ấy biết vô số cái “như thế”...
Càng ngày Pie càng tế nhị trong cảm giác. Điều này chứng tỏ em sắp đến cái tuổi khủng hoảng, cái tuổi quá độ từ thời niên thiếu bước sang tuổi thanh niên. Nhưng trong khoảng đó, em vẫn bình tĩnh lớn đều. Người ta có ấn tượng như em đã cam chịu cái số phận hẩm hiu, và nỗi buồn rầu bằng phẳng lạ lùng, không hy vọng, không sôi nổi, xót xa, mối buồn đó đã trở thành cái nền cho cuộc sống của em và lúc này như có dịu đi đôi chút. Nhưng đấy cũng chỉ là một cuộc hoãn chiến ngắn ngủi. Hình như tạo hóa cố ý dành những giai đoạn nghỉ ngơi ngắn ngủi ấy cho cái cơ thể non yếu có đủ thời giờ mạnh mẽ thêm lên để chuẩn bị đương đầu với một trận phong ba mới. Chính trong những cơn lặng gió tạm thời này, có biết bao nhiêu là vấn đề mới đang chồng chất và chín mùi, chỉ một va chạm là tất cả cái thế quân bình bên trong đều rung chuyển, khác nào mặt biển đang phẳng lặng gặp cơn sóng gió đột nhiên nổi lên.
(1) Primo: thứ nhất (tiếng La tinh).
(2) Secundo: thứ hai (tiếng La tinh).
V. Korolenko
Nguyễn Văn Sỹ dịch
Theo http://vanhoc.xitrum.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phía trước nhà có giàn mơ dại

Phía trước nhà có giàn mơ dại Cánh cổng gỗ thôi màu sơn, tróc từng mảng, lập cập mở ra cùng tiếng kẹt dài hút sâu về phía mênh mông cả cán...