Tinh mơ. Biển âm ẩm tối. Bầu trời ngổn ngang mây xám. Một chiếc
xuồng màu cam, vỏ kim loại, trọng tải chở được 35 người đã hạ xuống dập dềnh
trên sóng. Chưa có lệnh cho người xuống xuồng vào đảo Trường Sa vì trời đang
lác đác mưa. Chúng tôi ngồi chờ ở phòng câu lạc bộ sĩ quan trên tàu.
Một người trong đoàn công tác, có vẻ sốt ruột lên tiếng:
- Trời mưa lắc rắc thế này nhằm nhò gì mà phải ngồi đợi. Thấm
một tí mưa Trường Sa, cũng “ấn tượng” chứ sao?
Nở nụ cười hồn hậu, đại tá Nguyễn Văn Trí, chủ nhiệm chính trị
Vùng 4 hải quân chậm rãi nói:
- Trời biển Trường Sa thất thường lắm. Đêm êm ả yên lành bỗng
nổi cơn giận dữ. Mùa này, nói chung lặng sóng. Nhưng với những cơn mưa giông
như thế này thì không thể xem thường được. Mưa thường kèm theo gió lớn, có khi
còn xảy ra xoáy lốc. Xuồng đi biển mà gặp gió to, hoặc lốc xoáy khó an toàn lắm.
Người ta chưa cho người xuống xuồng lá có lý. Thôi, chịu khó chờ một chút, mưa
rào chắc sẽ mau tạnh thôi. Trong khi chờ mưa ngớt, tôi xin kể cho mọi người
nghe một câu chuyện: Năm ngoái, dạo tháng chín, chúng tôi lên tàu ra quần đảo
Trường Sa. Tàu vận tải, bé hơn ánh Ti Tan cứu hộ hiện đại này nhiều. Dạo ấy,
đang thời gió mùa Đông Bắc, biển hay bị động. Có bốn anh chị nhà báo, đăng ký
xin đi theo. Nhìn các anh chị, chúng tôi ái ngại quá. Mùa này ra biển, lính hải
quân có anh còn say sóng nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Huống chi những người
chưa một lần ra biển như họ. Chúng tôi khuyên mọi người hãy chờ một dịp khác biển
lặng hơn hoặc chúng tôi ra biển có chuyện gì về kể lại các nhà báo cứ thế “bịa”
ra thành bài cũng được. Các anh chị cười rôm rả, khen cánh lính thủy chúng tôi
có khiếu hài hước và nằng nặc đòi xin đi cho bằng được. Chúng tôi để bốn người
xuống tàu. Mới cách Vũng Tàu mấy hải lý tàu đã bị sóng lắc mạnh. Ba trên bốn
nhà báo bị say sóng vật vã, nôn ọe. Tội nhất là cô phóng viên bị say sóng, người
mềm lả ra như con sứa non, nôn vào cả ngực mình mà không biết. Cô em mặt mày trắng
nhợt, nằm như dán xuống sàn tàu, chân tay nhũn nhẽo không buồn nhúc nhích động
đạy, áo quần dính đầy chất nôn lớp nhớp, lầy nhầy. Xưa nay, chưa ai bị chết vì
say sóng nên anh em chúng tôi không lo lắm về tính mạng cô gái. Nhưng không thể
để cô ấy “bốc mùi chua” như thế mãi được. Thuyền trưởng, một sĩ quan chưa vợ
cho mời tôi lên và nì nèo thuyết phục tôi làm cái việc “thay quần áo cho cô
gái”.
Mấy cô văn công Quân khu 4 ngồi chờ xuống xuồng với chúng tôi
cười phá lên:
- Thế chú có mần cái việc nớ không, chú Trí?
- Răng lại không. Không muốn mần chú cũng phải mần. Vì không
mần thì làm răng chú sống yên được với mấy thằng “giặc biển” nớ. Đại tá Trí vui
vẻ đáp lời.
- Trời ạ! Rứa thì bác chộ hết của người ta chớ mô nữa. - Anh
sĩ quan trẻ ngồi đối diện tôi nhại lại giọng Quảng Bình trêu đại tá Trí.
- Chộ, chộ cái chi lúc nớ, chú em! Anh phải nhắm mắt, nhắm
mũi làm mau cho xong việc. Này - Vị đại tá hải quân quê ở miền gió Lào cát trắng
ấy bỗng hạ giọng xuống - Mọi người biết không, khi vào đảo Trường Sa ba phóng
viên bị say sóng ấy tìm đến nói nhỏ với mình: Anh xem chỗ nào có máy bay thuê
cho bọn em một chuyến vào đất liền, tốn hết bao nhiêu tiền chúng em đều chịu hết.
- Bịa, bịa. Đoạn này đúng là chú bịa ra- Mấy cô văn công lao
nhao nói. Trong phòng chờ tiếng cười òa ra, vui vẻ.
Tàu lắc hơn. Tôi đi ra cửa mở thông với boong tàu, nhìn ra
ngoài. Mây giăng kín trời, xám xịt. Gió đã nổi lên, ào ào. Mặt biển tối sẫm lại,
đen ngầu. Sóng cuộn lên cao hơn, nhấp nhô đầu bạc. Và, mưa căng rát gõ lóc cóc
xuống boong tàu. Đảo, với vệt cát san hô vàng nhạt, những ngôi nhà hai tầng, một
tầng thấp thoáng nhô lên sau những tán cây vừa mới trông thấy ban sớm đã bị màn
mưa che khuất. Mấy tia chớp sáng xanh phóng ngang bầu trời bí ẩn.
Hơn tiếng sau, mưa tạnh. Lạ lùng chưa, bầu trời và mặt biển
đã trong xanh hiền hòa trở lại. Bốn chuyến xuồng chở đoàn công tác, văn công
cùng với hàng hóa, thư từ, sách báo vào đảo. Anh em đã đứng đợi sẵn ở cầu cảng,
chờ đón những người con của đất liền ra thăm đảo.
Trường Sa! Trường Sa đây rồi! Quần đảo bão tố đây rồi ư! Người
ở đảo, người đất liền, bộ trưởng, tướng tá, binh nhất, binh nhì, nhà báo, nhà
thơ, văn công tíu tít bắt tay nhau, nhìn nhau, chào hỏi, cười nói để rồi cùng
chung nỗi niềm xúc động tất cả ùa đến bên cột mốc. Đến Trường Sa, có lẽ không
ai không dành cho mình những phút đầu tiên để vừa nắm chặt tay anh lính đảo đen
sạm vừa nhẩm đọc chậm rãi các dòng chữ: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM -
ĐẢO TRƯỜNG SA - Vĩ độ 8o38’B, Kinh độ 111o55’Đ”. Chỉ ngần ấy thôi mà biết bao
xương máu, mồ hôi đã đổ. Không chỉ của thế hệ chúng ta hôm nay. Từ rất lâu, với
thuyền buồm, bè mảng, với sự từng trải tích lũy của một cộng đồng sống kề bên
biển rộng, nghe con nước đoán được biển động, biển yên, nhìn trăng sao để định
vị phương hướng, luồng đi lạch đến ông cha ta đã đặt dấu chân Việt Nam lên quần
đảo Trường Sa. Từ rất lâu rồi… Lịch sử vẫn thường nhắc nhở chúng ta điều ấy.
Con cháu hôm nay đã đang và sẽ tạo dựng nên một vóc dáng Trường Sa mới, vững chải
và bề thế hơn, gần gũi và thân thuộc hơn với từng lối quê ngõ xóm đang quần tụ
yêu thương trên dải đất cong cong hình chữ S.
Làng đảo Trường Sa! Ý tưởng ấy, một phần đã hiện thực xanh mướt,
rung rinh lay động, mãnh liệt trong tôi khi đứng giữa Trường Sa. Nói chính xác
hơn, Trường Sa bây giờ, dù vẫn thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội ấy, dù vẫn là mặt
đá san hô mấp mô lởm chởm ấy nhưng nó hoàn toàn không trơ trụi cằn cỗi như tôi
được nghe, được đọc. Những đồng nghiệp của tôi, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo
đã từng ra đảo, nếu bây giờ trở lại Trường Sa chắc ngỡ ngàng nhiều lắm. Phóng
viên Tuấn Anh, báo Quân đội Nhân dân, năm 1993 đã ra Trường Sa lần này cùng đi
với tôi cứ nắc nỏm khen: “Trường Sa khác trước nhiều quá anh ạ. Em chỉ còn nhận
ra được mấy gian nhà thấp lè tè lợp phi brô xi măng rêu mốc xám xịt còn sót lại
kia thôi. Còn tất cả đều mới, đều kiên cố, bề vững. và cũng rất kiểu cách, rất
đẹp nữa. Hình như Trường Sa gần với phố, làng ở đất liền hơn.
Các công trình ở đảo hầu hết đã được bê tông hóa. Đã có nhà
hai tầng, ba tầng để ở và làm việc. Đường đi lối lại sạch sẽ. Chúng tôi vào
thăm phòng ở một trung đội. Chà, ngăn nắp và gọn gàng quá. Ba lô đặt ngay ngắn
thẳng hàng trên giá. Chiếu trải phẳng tưng không một chút gợn. Chăn màn gấp
vuông thành sắc cạnh không kém gì ở đơn vị huấn luyện tân binh.
Tôi hỏi Nguyễn Ngọc Thảo, một hạ sĩ khá điển trai, chỉnh chu
trong bộ áo quần hải quân là nhân viên thư viện đảo, người dẫn chúng tôi đi:
- Này em, ngày nào lính ta cũng làm “nội vụ” gọn đẹp như thế
này à?
Không chút ngập ngừng, chàng trai quê ở xã Văn Từ, Phú Xuyên,
Hà Tây ấy hồn nhiên trả lời:
- Công việc thường ngày của chúng em anh ạ. Chiều nào cán bộ
cũng đều đi kiểm tra nội vụ vệ sinh và chấm điểm. Bọn em chẳng đứa nào muốn điểm
thấp cả nên ai cũng cố gắng thực hiện tốt.
Chúng tôi dạo một vòng quanh đảo. Có khá nhiều cây xanh nhưng
chủ yếu cũng chỉ là cây bàng vuông, cây bàng ta, phong ba và phi lao. Trường Sa
vốn là xứ sở của cây phong ba. Từ trước tới nay chỉ có phong ba mới chịu đựng nỗi
bão tố vốn thường rất dữ dội của vùng biển này. Chỉ có phong ba mới chịu cắm rễ
trên đá san hô, để nhẫn nại cao dần lên từng xăng ti mét một và vào dịp cuối
xuân sang hè lại líp nhíp mọc ra những bông hoa màu trắng chỉ nhỉnh hơn chiếc
cúc áo. Có người, đảo san hô có thêm cây mới làm bạn với phong ba. Cây bàng ta
và phi lao theo tàu vượt sóng gió ra Trường Sa. Đất màu lấy từ đất liền, được
đóng gói rất cẩn thận chở ra quần đảo. Lính dùng choòng, xà beng đục đào mặt đá
san hô thành những hố vuông, kích thước tùy theo độ cây to nhỏ rồi đổ đất
màu xuống để trồng cây. Ở Trường Sa, dù không ai mua đất, bán đất nhưng còn quý
hơn vàng. Anh Nguyễn Văn Trung, trung tá, trợ lý phòng tham mưu Cục hậu cần của
Quân chủng hải quân cho tôi biết để phát triển trồng cây xanh và rau tươi cho
quần đảo Trường Sa, năm 1999 đã có 268 tấn đất màu được chuyển ra đây. Có những
chuyến tàu vận tải chỉ chở ra Trường Sa một mặt hàng duy nhất là đất.
Ở Trường Sa, hình như đất không chỉ là đất. Cầm trên tay vốc
đất nâu thẫm mịn tươi dường như người lính nghe được hơi thở của đồng quê xóm
bãi, tiếng cựa mình xôn xao của những hạt giống nảy mầm, tiếng ngọn gió heo may
se se thổi qua bờ vai của mẹ. Những khay rau muống, rau dền, rau cải, rau quế
những chậu cau cảnh, sứ cảnh, những khóm ớt lác đác quả xanh, mấy cụm dọc mùng
bên bể nước, chục dây mùng tơi trồng trong thùng đạn quấn quýt leo lên như những
nốt nhạc xanh… có mặt ở Trường Sa dễ thương như kỷ niệm. Rau ở Trường Sa không
phải chỉ để ăn mà còn được để nhìn. “Nhìn cây cho đỡ nhớ đất liền”. Đã hơn một
lần tôi được nghe lính đảo nói như vậy.
Chẳng có nỗi cực nhọc vất vả nào sánh bằng nỗi cực nhọc vất vả
của việc trồng cây, trồng rau ở Trường Sa. Vào mùa mưa bão, biển lồng lộn sùng
sục như muốn nhấn chìm tất cả những cái gì nhô cao trên mặt nước. Sóng đánh
tràn qua đảo, sóng chồm lên trắng xóa đến ô cửa tầng hai của nhà kiên cố. Nhẹ
hơn, chỉ cần sóng đánh vào kè đá, bụi nước mặn chát đã hắt vào đầy mặt đảo. Chỉ
cần một lần như thế, rau đã bị rụi lá, úa vàng rồi chết. Khi nghe đài báo bão,
cái công việc lính đảo không thể quên được là mau chóng che chắn đậy điệm thật
kỹ càng các ô rau (gọi là ô vì xung quanh phải xây tường xi măng lên cao gần
hai mét) và sơ tán các khay rau vào chỗ kín. Cái nỗi cực nhọc rất Trường Sa này
đã được chiến sĩ Hùng Hậu miêu tả trong bài thơ “Lính đảo trồng rau” viết trên
báo tường của đảo (tờ báo Niềm tin ra dịp 26-3-2000).
Lính Trường Sa chẳng điệu đâu
Cái tay làm đất, cái đầu phải lo
Chọn từng chậu đất, nắm tro
Làm nhà che chắn gió to, mưa rào
Rau sam cấy ở chỗ cao
Rau dền đất thấp, hàng rào mồng tơi.
Đến bao giờ người lính đảo Trường Sa mới có rau tươi dùng thỏa
thuê? Và, tận bao giờ các đảo ở Trường Sa sẽ được xanh hóa? Câu hỏi ấy, cứ day
dứt mãi trong tôi, những người có mặt ở Trường Sa vào năm 2000. Bất giác tôi nhớ
tới lời ca sĩ Bích Ngọc, diễn viên đoàn văn công Quân khu 4: “Các anh ạ. Em có
một đề nghị như thế này. Sau này các đoàn ra thăm quần đảo, mỗi người nên bớt
2kg hành lý để mang theo 2 kg đất màu cho Trường Sa”… Chẳng hiểu có lãng mạn
quá không lời đề nghị của Bích Ngọc, nhưng theo tôi nên chăng cả nước dấy lên một
phong trào “đất cho Trường Sa”. Mỗi tỉnh thành đảm nhiệm một đảo, vận động
quyên góp tiền mua đất màu chở ra Trường Sa.
So với các đảo khác, đảo Trường Sa có phần được thiên nhiên
ưu đãi hơn. Đảo nổi, khá lớn, lại có cả nước lợ. Lính ở đây và cả người đất liền
nữa đều gọi đùa là Trường Sa Lớn là thủ đô của quần đảo Trường Sa.
Chiều nay, giữa thủ đô của quần đảo tôi được chứng
kiến những vùng lượn thanh bình của một đoàn chim bồ câu đông tới vài chục
con. Những con chim biểu tượng của hòa bình lông màu trắng, màu nâu nhạt, màu
xám bay vòng tròn trên đảo. Có vẻ như chúng cũng biết đảo hôm nay có khách,
khách quý từ đất liền ra. Trước đây, đọc sách báo tôi được biết Trường Sa rất
nhiều chim. Chim kêu ầm ĩ chao chác khi nhác thấy bóng người., chim đẻ trứng
tùm lum trên đảo. Người phải gạt trứng chim mới bước đi được. Những cư dân đông
đúc, chủ yếu của Trường Sa thời hoang vu ấy bây giờ đã bay đi đâu mất.
Đàn chim bồ câu bay vui trong nắng chiều oi ả. Trường Sa lộng
gió nhưng nắng biển vẫn gay gắt. Nắng như trộn với muối, mặn ít, oi nồng. Lành
như chim bồ câu mà vẫn sống khỏe giữa Trường Sa, hay thật.
Người Trường Sa yêu cây cối và súc vật. Những con vật bình
thường ở đất liền khi ra đây đã trở thành người bạn thân thiết của cánh lính ta
vì nó là một phần hình ảnh của cuộc sống ở quê nhà. Những chú ỉn thả rông lật đật
chạy đến với người khi nghe tiếng gọi. Một chú gà trống, dăm ba ả gà mái thế là
đã có tiếng gáy eo óc, tiếng cục tác ồn ã. Tiếng gà - tiếng quê, lính Trường Sa
nói thế. Và, đông đúc hơn cả, mượt mà, màu sắc hơn cả trong các loại vật nuôi ở
đảo là chó. Chó là con vật dám chịu chơi với nắng gió mưa bão Trường Sa, lại được
lính ta chăm sóc chu đáo kỹ càng nên các cô các chú cứ lớn lên nổng nẩy, láng
mượt như được đắp bồi, chải chuốt. “Chó ở đây đề được đặt tên cẩn thận. Có lễ hẳn
hoi, chứ không phải đùa đâu các anh ạ?”
Hạ sĩ Cao Xuân Hùng, khẩu đội trưởng hóm hỉnh nói với chúng tôi bằng cái giọng Diễn Châu, Nghệ An trọ trẹ khi nghe tôi gọi chú chó trắng chừng hai tháng tuổi của các anh nuôi là Cún. Tiếp lời Hùng, binh nhất Mai Xuân Thủy, pháo thủ số 4 quê ở Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định, một chàng trai dong dỏng cao, mắt sáng hay tủm tỉm cười vui vẻ kể lại cho chúng tôi nghe cái Lễ đặt tên cho chó. Xin bạn đọc hãy hình dung thế này: Chú chó mới xin về trắng mịn như một cục bông, mở to đôi mắt đen nhánh ngỡ ngàng nhìn năm chàng lính trẻ măng, đen cháy đang ngồi xếp bằng hoặc chồm hỗm quanh mình.
Hạ sĩ Cao Xuân Hùng, khẩu đội trưởng hóm hỉnh nói với chúng tôi bằng cái giọng Diễn Châu, Nghệ An trọ trẹ khi nghe tôi gọi chú chó trắng chừng hai tháng tuổi của các anh nuôi là Cún. Tiếp lời Hùng, binh nhất Mai Xuân Thủy, pháo thủ số 4 quê ở Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định, một chàng trai dong dỏng cao, mắt sáng hay tủm tỉm cười vui vẻ kể lại cho chúng tôi nghe cái Lễ đặt tên cho chó. Xin bạn đọc hãy hình dung thế này: Chú chó mới xin về trắng mịn như một cục bông, mở to đôi mắt đen nhánh ngỡ ngàng nhìn năm chàng lính trẻ măng, đen cháy đang ngồi xếp bằng hoặc chồm hỗm quanh mình.
Khẩu đội trưởng Cao Xuân Hùng tuyên bố: “Hôm nay, ngày
hai tháng hai năm 2000, khẩu đội 1 làm Lễ đặt tên cho chú mày. Chú em là con
trai đầu của mẹ Linh Hương (do tiểu đội 2 mua từ ba năm nay) khẩu đội 1 nhà tớ
mới xin về hôm qua. Nay, từng đồng chí … (làm gì mà nghiêm trang thế - có tiếng
ai đó kêu lên) - Ừ, thì từng thằng một đề xuất tên gọi cho nó”.
Binh nhất Phan Trung Hải, giọng nói miền Nam ấm áp
- Tui đề nghị đặt tên cho nó là Mỹ Lan.
- Hầy, cũ quá, cũ quá rồi. Vả lại Mỹ Lan là ca sĩ nữ còn của
ta là con trai cơ mà - binh nhất, pháo thủ số 5 Phạm Ngọc Trâm, quê Hải Hưng, Hải
Hậu, Nam Định phản đối - Tao đề nghị, khẩu đội ta cứ gọi nó là Pháo.
- Chu cha! Pháo, nghe nó nặng nề và cứng quá ta.
Hay là cậu muốn biên chế nó thành pháo thủ số 6 - Phan Trung Hải lê tiếng chọc
yêu Trâm.
Từ nãy đến giờ binh nhất Phạm Văn Trọng, quê ở Quảng Đại, Quảng
Xương, Thanh Hóa ngồi im lặng, tay luôn mân mê cái tai cụp của con chó nay thủng
thỉnh lên tiếng.
- Theo tao, đừng mĩ miều, hồng hoa, thanh thoát chi tiết, cứ
gọi nó là Muống. Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương, ấy mà! Gọi thế chốn nôm
na, mộc mạc chúng này ạ.
Cả khẩu đội bất ngờ khi nghe Trọng đề xuất. Và cả năm chàng
pháo thủ sau một giây im lặng đưa mắt nhìn nhau, bỗng vỡ òa ra tiếng cười sảng
khoái. Năm bàn tay phải cùng một lúc vỗ chập vào nhau cùng với tiếng reo hồn
nhiên tươi trẻ:
- Đúng lắm! Hay lắm! Muống! Tên nó là Muống!.
4/8/2014
N.H.Q
Nguồn: Tạp chí Cửa Việt số 69,
tháng 6 năm 2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét