Rằm tháng giêng, ngày rằm đầu tiên của năm, tôi đọc thơ Rằm của
Thi Vũ. Chỉ nội tên Rằm đã chất ngất uyên nguyên Việt tính. Không có ngôn ngữ
nào khác trên thế giới có chữ rằm. Rằm gọi ngay thời điểm mặt trăng sáng nhất
trong tháng, nói về trăng mà không nhắc đến tên trăng. Chỉ còn sự giao hòa giữa
người và trăng, không cần đến ngón tay chỉ mặt trăng rắc rối thế gian cứ mãi
vin vào. Rằm ngự trị đêm cho tình yêu hội tụ. Rằm lấp lánh tinh anh cho ta quên
đi sự chói chang của mặt trời. Mọi ngày rằm trong năm là những ngày lễ, vía, những
dấu mốc quan trọng trong đạo Phật. Rằm mở lối để nhìn vào một thế giới khác của
con người, nơi đó tịch mịch, trầm tư và rộng lượng hơn là thế giới ồn động ban
ngày.
Thơ Rằm vừa được Nhà Xuất Bản Quê Mẹ, Paris phát
hành đầu năm 2019. Gáy sách không dán mà cột chỉ, dáng sơ nguyên như cổ thư.
Nhan đề Rằm được trình bày bằng chính thủ bút của tác giả, quắc thước
và yên ngơi móng phượng. Ồ, có phải Em, hay Thơ, từ một đêm rằm, sáng vịnh La
Herradura? Mũi chân mây cuối trời co mình đeo đẳng một mối ly hương, một dấu
yêu đã cách nghìn trùng?
HERRADURA
sao em móng phượng
để dài
để dài
khiến ta đi khuất
còn sai
mộng về
còn sai
mộng về
Rằm dày hơn 120 trang, mở sách ra đượm thơm mùi giấy mới.
Từng mỗi trang, ô cúc vàng ôm lấy thơ giữa lòng giấy trắng. Vàng của quá khứ và
hoàng mơ xa xưa. Cúc ươm xuân thì một thời la belle époque. Không gì trang
nhã và quý phái hơn!
Rằm có 108 bài thơ trích từ 203 bài làm từ thời 1973.
Sao lại 108 mà không là con số khác? 108 hạt bồ đề cho 108 phiền não? Đó là
theo quan niệm đạo đức học Phật giáo, có phiền não nên có bồ đề. Tác giả có một
lý do khác khi chọn con số 108. Theo ông thì “ít ai ngờ tới ý niệm y khoa về
con người. Đây là lối nhìn Đông phương, trong suy tư, tư tưởng, triết học người
Đông phương có cái nhìn liên ngành và toàn bộ, nhất là cái nhìn y học của sự sống.
Trong bộ phận thân thể con người có 108 khớp xương kéo, nối, để dẫn đến sự
nhanh nhẹn, hoà hài, linh động của một con người khỏe mạnh, cường tráng, trong
võ thuật cũng như trong đời sống. Phát khởi của con số 108 (linh thiêng (?) Phật
Lão) đến từ đây.”
Mỗi bài thơ trong tập Rằm chỉ có 14 chữ, mặc tạm âm
vận lục bát nhưng không mang hình thái lục bát. Không có câu 6, và xuống hàng
câu 8. Thơ ngắt chữ vừa đủ để ngỏ ý, thơ xuống hàng hiêu nhiên bàng bạc chất
sinh động của hơi thở bởi chưng “Con người bước vào cuộc nhân sinh bằng một hơi
thở chứa ngầm thi tính”. Tác giả quan niệm rằng “Thơ 14 chữ bộc lộ sự sống,
cách sống, thế sống. Nhuần trọn một hơi thở. Ở đó biên cương sinh tử được khép
kín.”.
Hơi thở đó mang ta về một trời cố hương yêu dấu, những đất
đai phôi pha địa lý nhưng đậm đặc trí nhớ, những góc bể chân trời đã đi qua còn
sót lại “như ánh đèn nhỏ, bước đi từng bước nơi vũ trụ không mặt trời…”. Ông
mở đầu tập Rằm với Cố Hương, tiếng hót của loài chim sống gần
sông nước, cho đó là Hương Giang, là Hồng Hà, là chín con rồng thần thánh Cửu
Long. Con chim sống gần nước nên nhớ Nước, bởi Nước là Tổ, chim nhớ Tổ như nước
nhớ Nguồn. Ta còn lại gì ngoài một mùi hương dị kỳ yêu ngái ở lại ngất ngây khứu
giác. Có hương nào khác ngoài hương thôn, bản trạch của chính mình một thời?
CỐ HƯƠNG
con chim
hót
hót
một tràng sông
nụ cười bản trạch
thơm nồng
cõi xa
nụ cười bản trạch
thơm nồng
cõi xa
Cố Hương có thể không chỉ là hương thôn trên mặt đất mà còn
mang góc cạnh vũ trụ quan. Tác giả giải thích thêm, “Bài Cố hương là cái nhìn
phóng xuyên vũ trụ (Cosmic). Bao lần trước mông lung, nhìn thấy đường bay của
chim thả vào không trung từng hạt hót. Tiếng hót ấy rơi xuống địa cầu thành những
dòng sông dài dưỡng nuôi đất. Sông tuôn từ tiếng hót. Cõi người là nụ Cười.” Lần
đầu tiên tôi đọc Cố Hương mấy chục năm trước, nụ cười Phật hiện đến ngay trong
đầu, một niềm thư thái và uyên nguyên bảng lảng từ 14 chữ đó. Bây giờ qua lối
nhìn từ một góc độ khác của tác giả, con chim ấy như đã cất cánh bay vào vũ trụ
thành chim Ca Lăng tần già, tiếng hót là những thiên hà dẫn về quê hương, chẳng
phải Le Royaume của Camus nhưng nơi nụ cười chưa bao ngừng ở chốn Di Đà.
Rằm là hành trình trang trải với bể dâu của cả một đời
người qua nhiều khía cạnh: quê hương, chiến tranh, tình yêu… Lãng đãng từ những
ước mơ. Tự tình khi người ngồi xuống để thu nhiếp thời sự xáo động ngút ngàn nhất
của thời đại. Tôi có tìm thấy tôi, người có tìm thấy người giữa lao lung? Hay cả
một thế hệ dập vùi vong tính? Này nhé, vì đâu?
VÌ ĐÂU
vì cha
hay bởi vì ai
con ba tuổi lớn
đứng phà
đợi sông
con ba tuổi lớn
đứng phà
đợi sông
14 chữ gợi hết cả thế kỷ điêu linh nơi đất Việt. Ta tội tình
gì lúc mới ba tuổi lớn khi người cha, rường cột của nhà, không có bên cạnh? Những
người cha vùi thây chốn bưng biền, những tiếng rú nghẹn từ ngập đầu chôn sống.
Những người cha vắng mặt khi con mới sơ sinh, từ hai phía, họ luôn nhân danh cho
một thứ gì cao cả đó. Chỉ còn lại trẻ thơ bơ vơ đứng đợi một hình ảnh chưa hình
thành trong tâm trí. Phải đợi ai đây? Không phải cha. Đất nước đó nào còn rường
cột. Đợi sông. Sông thì mông lung như tương lai mịt mù của bé. Thời của
Thi Vũ, bé đứng phà đợi sông. Thời “đại thắng mùa xuân”, bé đứng bờ đợi biển.
Sông xưa mịt mù, biển nay cuồng lộng đang chực chờ nuốt chửng những ước vọng của
hai chữ tự do. Hai chủ thuyết Tây phương, cọng sản và tư bản, lấy quê hương Việt
làm thí điểm, kết quả là bao thế hệ đợi sông, đợi biển . Hư vô làm
sao, hụt hẫng ngần nào từ hai lời chót của bài thơ “Vì đâu”!
Lối kết luận chỉ cần một chữ hay đôi lời mà khơi mở cả một
khí hậu mênh mang, những giằng co ngấn tích, là đặc tính của thơ Rằm 14
chữ. Chữ cô đọng, vừa đủ, không thiếu, không dư, lại gợi ý khôn hàn bát ngát.
Thi pháp Thi Vũ cư ngụ một cõi thiên nhai riêng biệt mình ông, những bài thơ
sáng tác từ thời 60, 70 của thế kỷ trước. Đan cử một ví dụ khác về lối dùng chữ
mới, lạ và đầy ngạc nhiên trong thơ 14 chữ của Thi Vũ, sự đột biến thích thú
trong ngôn ngữ sáng tạo:
NI CÔ
em về
phơi áo trên cồn
qua đêm
trăng cháy
qua đêm
trăng cháy
một hồn anh sông
Hồn anh sông. Hồn thúc dục, cuồng dâng thác lũ. Người đọc
thông thường sẽ dự tính “một hồn anh mang” nhưng không, câu thơ chấm dứt bằng chữ
“sông” bất ngờ. Hồn anh thành sông chảy, hồn anh thành lưu lượng nước. Nguồn thủy
lực ấy đối chọi với sự bốc lửa của trăng cháy đêm qua. Từ khi nào ánh sáng của
trăng gây tác động “cháy”? Qua một đêm dài lê thê chờ đợi? Áo của Ni, như nợ trần
kia, liệu có kịp khô dưới ánh rằm khi mênh mông anh sông đằm đìa nhịp nước? Ni
cô có phải là một bóng hồng tự tiền kiếp gặp lại từ tiếng khánh ngân, hay ni cô
là một biểu tượng cộng đồng Phật giáo tác giả muốn chuyên chở trong hoài bão của
mình? Thơ không cần thiết phải bàn luận, phân tích chi li. Thơ cần được đọc và
cảm, từ đó khơi mào nhiều câu hỏi khác. Thơ thành công ở chỗ tiếp tục đánh động
niềm tra vấn từ lòng người đọc. Rằm gõ ở tôi rất nhiều thanh âm, điểm
hẹn. Lắm khi điểm hẹn chuyển di, những con chim của vệt nhớ… khi sân ga không
là điểm đến, sân ga trở thành hành khách trong cuộc viễn du đuổi bướm chạy vào
sương, những nhỏ bé vô thường như mốc định của con người chạy song song với những
điều bất khả. Đường song song nghĩa là con đường không bao giờ gặp gỡ, hay ta
cùng hẹn ở một nơi vô định vậy?
TÀU LỬA
con tàu
chở
chở
những sân ga
song song đuổi bướm
chạy sà
vào sương
song song đuổi bướm
chạy sà
vào sương
Con tàu đó như kiếp người bận bịu với chốn đi và chỗ đến, những
định nghĩa thăng trầm vong tính bên cạnh dòng luân sinh, chữ của Thi Vũ, bời
bời miên viễn mặc kệ cho những chọn lựa nhị nguyên từ nhân gian hời hợt. Chùa
viện là chốn tĩnh yên, phố thị là nơi manh động hay ngược lại? Có thể lắm, tất
cả tùy thuộc vào lối nhìn và cách sống, khi bản ngã mọc rễ và dựng xây thành lũy,
vong tính lớn rộng lũy thừa.
NHỊ VONG
về chùa
xuống phố
hai nơi
xuống phố
hai nơi
Cho nên thấy vậy mà không phải vậy, “Chốn ẩn” vạch ra niềm tự
tại của tâm an khi thỏng tay bước xuống chợ đời, nhìn như thể ở đó mà thật chẳng
ngụ vào đâu.
CHỐN ẨN
thân
vô trú xứ
như là
em
như là
em
nơi trú xứ
la đà
một
hai
la đà
một
hai
Như một nhân chứng trong bối cảnh đất nước, từ những phong
trào yêu nước chống đô hộ Pháp đến cảnh nồi da xáo thịt trong cuộc nội chiến
tương tàn thế kỷ trước, Rằm gióng lên những chua xót trước sự chia rẻ,
đố kỵ phe phái và những ước vọng hòa bình, người biết lắng nghe người.
NGỪNG
tay bưng dĩa muối
chấm gừng
ba mươi năm
máu
chấm gừng
ba mươi năm
máu
thôi ngừng
trò chơi
trò chơi
ĐẬP CỬA
ngói khuya
đập cửa
gọi lòng
đập cửa
gọi lòng
bên trong ai ngủ
ai mong
bên ngoài
ai mong
bên ngoài
NGHE CHOPIN
trên đường Lý Thái Tổ, Hà Nội
trên đường Lý Thái Tổ, Hà Nội
dương cầm
giọt bích
rơi ngân
giọt bích
rơi ngân
đường đêm rách chảy
một lằn
nước chia
một lằn
nước chia
GENEVA
bỏ nhà
đi miết cõi xa
chuyện anh em
chuyện anh em
gọi
người ta chia lìa
Thi Vũ đã sống một thời sinh viên nghèo, du học ở Pháp và Đức.
Có lúc ông ở trọ trong mansarde, kiểu gác lửng sát mái rẻ tiền dành cho sinh
viên, nghệ sĩ và lũ chim bồ câu không hẹn rúc sáng. Có hề chi, ông thi vị hóa
chốn trọ trần gian ấy như thế này,
PARIS
lầu cao
môi nụ
sương hồng
bồ câu
rúc sáng
môi nụ
sương hồng
bồ câu
rúc sáng
giấc nồng thơm em
Mùa hè nóng hực đã đành, khi mùa đông giá băng dưới nhiệt độ
âm đến, ông nung gạch nóng dùng để sưởi ấm. Bài thơ WINDTHORSSTRAßE nhắc
đến một kinh nghiệm sống mà cũng là một chân lý muôn đời. Đó là con người lớn dậy
từ nỗi khổ, như hoa sen kia mở cánh từ chốn bùn nhơ. Niết bàn không đâu khác
ngoài chốn trầm luân này. Thấu hiểu thực trạng và nguồn gốc của sự khổ, từ đó
rút tỉa phương cách dẫn đến sự kết thúc và chấm dứt khổ đau. Thấm nhuần tư tưởng
Phật đà, Thi Vũ là một người sống chết với Phật giáo và dân tộc, ông không ngừng
nghỉ suốt cuộc đời dấn thân cứu nước trong tinh thần Bồ Tát đạo của Lục Độ Thập
Kinh, “Bồ Tát thấy dân kêu ca, liền gạt lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để
cứu dân khỏi nạn lầm than”.
WINDTHORSSTRAßE
mười lăm độ
lạnh
lạnh
dưới không
sáp nung vụn gạch
cho hồng
nụ
sen
sáp nung vụn gạch
cho hồng
nụ
sen
WINDTHORSSTRAßE làm tôi nhớ đến hai câu thơ của
hai thiền sư đời Lý, Liên phát lô trung thấp vị can - Sen nở trong lò sắc
chẳng khô (Ngộ Ấn)
Lô trung hoa nhất chi - Trong lò một cành hoa (Đạo
Huệ)
Cái diệu thể Ngộ Ấn và diệu tánh Đạo Huệ, biểu tượng bằng
cánh hoa là trí tuệ thường hằng (Tánh giác) nằm trong tấm thân vô thường của
chúng ta, vốn như lò lửa thiêu đốt từng phút từng giây bởi ảo giác và những ham
muốn thúc giục không ngừng, nhưng tánh giác kia không hề khô héo.
Thập niên 60 thế kỷ trước, người ta hô hào cho phong trào “Phật
giáo hiện đại hóa”, “Phật giáo đi vào cuộc đời”, họ ngưỡng mộ loại
trí thức đập vỡ thần tượng dưới chân trên đường “bước về hố thẳm”… Hỡi ôi, tất
cả chỉ là thời thượng, những náo động bề ngoài, thực chất có lẽ Thi Vũ từng sống
rất gần với những hiện tượng đó nên ông có được cái nhìn rất thật từ bên trong
qua những bài sau.
ĐƯỜNG GUY DE LA BROSSE PARIS
thiên tài khuấy nước
sông trong
thêm sư
dấy động
sông trong
thêm sư
dấy động
khuya song vơi đầy
ĐƯỜNG VÉNUS
Maisons Alfort
cưu mang
thầy
thầy
muốn cứu đời
nhưng cô
đã tới
thôi rồi
chúng sinh
nhưng cô
đã tới
thôi rồi
chúng sinh
Bên cạnh sự ghi nhận những biến động nhọc nhằn của đất nước, Rằm không
thiếu khí hậu thư thái lãng mạn rất thơ. Khi nhắc đến Huế, Đà Lạt… hoặc địa
danh một thuở, em là địa danh hay em là bóng dáng một thời, rất êm đềm âu yếm?
HUẾ
tóc em bên giậu
mùi mây
con thuyền
ta chở
khoang đầy
bóng em
mùi mây
con thuyền
ta chở
khoang đầy
bóng em
ĐÀ LẠT
cao cao
hồng
chấm
hồng
chấm
nụ cười
cam xanh
giọt bích
thông
mười trời
xông
giọt bích
thông
mười trời
xông
MÂY
em đi
Có phải người là mây, bóng đổ xuống Kim Luông, tiếng cười phiếu
diễu chốn cao hồng nụ? Ừ, hồng tiếu trong cổ tích tròn trịa khuôn trăng ngọc
bích như một âm đàn nghiêng bước xuống giữa trưa. Như thế là lài rụng, như
thế là mộng nhoài, cùng với tay, hay tay với?
TÂY BAN CẦM
đàn trưa
lài rụng sân ngoài
nắng nung
giấc lá
mộng nhoài
với tay
nắng nung
giấc lá
mộng nhoài
với tay
Tập thơ Rằm được tác giả đề tặng đến Ỷ Lan. Ỷ Lan
Penelope Faulkner, người con gái đến từ cố đô York xứ mù sương, là người đã hy
sinh hết cuộc đời thanh xuân của cô để phụng sự tự do, nhân quyền cho một đất
nước Việt Nam mà cô chưa hề đặt chân đến. Cô sống cho lý tưởng đó còn hơn rất
nhiều người Việt khác.
PEN
Cỗi trao vương miện
từ cung
bước chân
lời
chữ
từ cung
bước chân
lời
chữ
tháp tùng như lai
Bài thơ Lời kết thúc tập thơ Rằm nhưng mở
ra một thi lộ khi khu. Chốn sạn đạo cho thi nhân đối diện với nguyên thủy tịch
nhiên. Thớt sương lóng lánh mọng nắng triêu dương kia sẽ tan đi trong chốc lát.
Hiện hữu và hủy diệt thị hiện trong cùng một thực thể, một thời điểm, đồng thời
cũng là duyên khởi cho lời cất tiếng về một cái đẹp vang vọng mãi cùng mây. Như
ánh trăng rằm. Cho dù mây sẽ bay đi…
LỜI
con đường
về ngủ trong non
thớt sương
mọng nắng
mọng nắng
lời còn
vang mây.
vang mây.
Mùa Tết Kỷ Hợi, 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét