Có những bước lỡ chân quá đà vì cao hứng, hay những lúc làm
ra vẻ lịch lãm về một điều mà thực ra, mình chưa bao giờ nếm thử... để rồi, ba
bốn chục năm sau, nằm vắt tay lên trán, hồi tưởng lại còn cảm thấy “ốt dột”
đến cong người. Cái “ốt dột chưa tề” của Huế không nặng nề như cảm giác “xấu hổ”
của miền Bắc; cũng không nhẹ nhàng như nỗi “mắc cỡ” của miền Nam, nhưng nó lại
tê tê, buồn buồn, nhồn nhột, ray rức với một cảm giác mất mát mơ hồ vào cả
trong giấc ngủ.
Một cảm giác “ốt dột” nhẹ nhàng nhưng lại đeo đẳng lâu nhất
trong đời tôi đã bắt nguồn từ lần đầu tiên đi ăn cơm âm phủ. Đó cũng là lần đầu
tiên tôi cầm được món tiền học bổng ba tháng đầu năm của đời sinh viên sư phạm
Huế với cảm giác lên hương, xu hào rủng rỉnh. Đã có chút “phú quý” rồi thì cứ
thế mà sinh ra lễ nghĩa. Xin tạm giã từ quán cơm Xã Hội và quán cơm Sinh Viên
năm ba đồng một bữa để tận hưởng phong vị cao sang “vào ttrong phong nhã ra
ngoài hào hoa”. Tôi hạ quyết tâm đi ăn cơm âm phủ và không quên mời giai nhân
cùng chia xẻ “vinh hoa”. Tôi cẩn trọng đạt lời mời tới cô em ban C Đồng
Khánh ở cửa Đông Ba trước cả tuần lễ. Dĩ nhiên là cô em cũng ra chiều cảm động,
chớp chớp đôi mắt ướt và ửng hồng đôi má nhỏ nhẻ nhận lời.
Đến hẹn, tôi hiên ngang tiến về phía sân vận động Tự Do, loay
hoay mãi mới tìm ra quán cơm Âm Phủ không biển, không hiệu, nằm khiêm tốn ở góc
đường. ở Huế trên mười năm, tôi chỉ nghe qua và đinh ninh rằng, có một loại cơm
đặc biệt nào đó gọi là cơm Âm Phủ giống như bún bò Huế, mì Quảng, hủ tiếu Mỹ
Tho, phở bò Hà Nội... nơi cái đất Cố Đô “đá mòn reu nhạt” nầy. Cơm âm phủ
tuởng tượng trong mớ kiến thức văn minh miệt vườn của tôi nó rất ly kỳ như kiểu
“Thịt oan cừu nướng đuốc ma trơi...”
Khi vào quán, ngồi xuống bàn ăn, tôi còn thò tay vào túi quần
sờ lại xấp giấy bạc cho chắc ăn và mĩm cười, ngó quanh một cách đầy lịch lãm.
Có tiếng em bé gái hầu bàn hỏi:
- Dạ thưa o chú muốn ăn chi?
Tôi đã chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng nên gọi hàng một cách đầy
khí thế tự tin:
- Cho hai “cái” cơm âm phủ.
Tôi cảm thấy mình rất thông minh và khôn khéo khi dùng tiếng
“cái” để khỏi xác định một loại cơm nổi tiếng mà mình chưa hề biết nó chứa
trong mâm hay trên thớt, đựng trong chén hay trong tô, và nó tròn hay méo như
thế nào.
Em bé hầu bàn có vẻ hơi lúng túng:
- Dạ, cơm chi ạ?
Tôi cao giọng:
- Thì cơm Âm Phủ chớ còn cơm chi nữa!
Em bé lại tỏ ra càng lúng túng hơn:
- Ơ...! Mà cơm Âm Phủ nớ là cơm chi rứa?
- Quán bán cơm Âm Phủ mà hỏi chi loạng quạng rứa hè?!
Cô bé có vẻ lo lắng chạy biến vào trong. Lát sau ông chủ quán
ra một mình hỏi lại là chúng tôi muốn ăn món cơm gì. Cơm dĩa, cơm bữa, cơm
chiên thập cẩm... hay cơm gì nữa. Tôi nhắc lại mấy lần là tôi muốn ăn cơm Âm Phủ,
nhưng ông ta lại cũng đớ người ra vì không hiểu. Nghe có tiếng to hơi bất thường,
thằng Vĩnh Trung, dân sư phạm sử địa, cũng vừa lãnh học bổng như tôi, đang ăn
đâu đó trong quán bước tới, kéo tay tôi ra ngoài, lên tiếng:
- Mi là thằng ngố quê một cục. Làm quái chi có cơm âm
phủ trên trần gian nầy. Âm Phủ là tên quán ăn thôi. Họ bán đủ thứ cơm, nào là
cơm dĩa, cơm bữa, cơm sườn, cơm gà, cơm chiên... Ưa cơm chi thì cứ gọi.
Tôi thất thểu trở vào quán. Giai nhân nhìn tôi ngờ ngợ. Khí
thế mười thành công lực lúc đầu giờ ỉu xìu như đã bị cao thủ phế hết nội công.
Biết ăn nói làm sao bây giờ. Nguội điện. Tôi bỗng trở thành ngoan ngoãn như thằng
Bờm vớ được nắm xôi, nói nho nhỏ với em bé hầu bàn còn đang chờ ở đó:
- Cơm chi cũng được.
Em bé chào khách món cơm “âm phủ” mà có lẽ từ sáng đến
giờ chưa có ai kêu:
- Cơm chiên thập cẩm chú hỉ?!
Cái “ốt dột” nhỏ xuống từng giọt làm cho tôi trí óc tôi bốc
hơi. Tôi ngồi khêu từng hột cơm chiên, những hột cơm lặng lẽ buồn thiu như lời
an ủi bâng quơ mà thâm trầm đáo để của cô em Đông Ba đang cười nụ, không biết để
làm duyên hay để “nói khơm” người anh hùng lỡ vận như tôi:
-Ăn rành chưa chắc đã rành ăn!
Tôi bỗng thấy giận đời mờ mịt mà không biết giận ai.
Việt Nam là quê hương của cổ tích nên dường như con người,
món ăn, tình cảm và tình yêu cũng đượm màu cổ tích. Trong khu rừng thần thoại
đó, Huế nhỏ nhoi nhưng lại lại xinh xinh như chiếc hài của cô Tấm ngày xưa.
Tôi nhớ thuở đi học, lớn tồng ngồng rồi mà vẫn còn thương lịch
sử hưng vong của quê hương một cách mơ mơ, màng màng như thương như trái thị
vàng còn thơm trong chiếc bị. Tôi làm sao quên được thầy Lê Khắc Phò khi dạy về
lịch sử Pháp xâm lăng. Dáng thầy đăm chiêu, mắt thầy xa vắng và tiếng thầy trầm
trầm, đứt đoạn: “...đến năm 1884, giang sơn Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay
quân Pháp, tổ quốc Việt Nam chỉ còn trong lòng người dân Việt!”. Giọng Thầy bỗng
nghẹn ngào. Thầy rút chiếc khăn mù-xoa trong túi áo ra chặm nước mắt cùng lúc với
tiếng chuông báo hiệu hết giờ. Giọt nước mắt muộn màng của người thầy xứ Huế, sẽ
hòa vào biển nước mắt của ngưòi dân Huế gần một trăm năm về trước đã đổ xuống
trong cảnh nước mất nhà tan.
Năm 1884, Pháp đã chiếm trọn hai miền Nam Bắc. Huế như một
trái tim của đất nước trong cơn nguy biến mà mọi người dân Nam đang lâm vòng nô
lệ nhìn về. Tổng tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ,
Roussel De Courcy, là một phần tử đang điên cuồng theo chủ nghĩa thôn tính đã
tuyên bố: “Cái gút thắt của vấn đề Việt Nam là ở Huế”. Nguyên nhân sự xâm lăng
của Pháp đã có sẵn, việc còn lại là tìm cho ra nguyên cớ để đánh bạt hy vọng cuối
cùng của người dân Việt. Nguyên cớ phải xẩy ra ở Huế, với triều đình Huế.
Ngày 2 tháng 7 năm 1885 De Courcy đã đưa quân vào cửa Thuận
An, rồi sau đó hống hách đòi hỏi triều đình Huế: “Nếu muốn được yên ổn thì phải
nộp cho chúng tôi hai vạn thoi vàng, hai vạn thoi bạc và hai vạn quan tiền...”
De Courcy tiến vào Hoàng Thành và đòi hỏi vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai
vàng, đích thân ra đón. Roussel còn đòi hỏi tất cả phái đoàn của Pháp từ quan đến
lính quèn phải được đi vào Đại Nội bằng cửa chính Ngọ Môn, trong khi cửa này chỉ
để dành riêng cho Đại Nam Hoàng Đế. Sự ngạo mạn và lăng nhục của quân xâm lăng
thiêu đốt hết mọi thiện chí ngoại giao. Sự bức xúc của vua quan và dân dã Việt
Nam đã ngùn ngụt cháy thành lửa đỏ.
Tối 22 qua rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu tức là đêm mồng
4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885, Thượng Thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết và Đề Đốc
Trần Xuân Soạn đã chỉ huy 20.000 binh lính mở cuộc tổng tấn công vào thành lũy
của quân Pháp ở Toà Khâm và Mang Cá. Giữa đêm khuya, bên này sông Hương, Đồn
Mang Cá bỗng nghe tiếng hô thúc quân vang dậy, súng nổ rền trời. Bên kia sông
Hương, khu lính lệ Toà Khâm lửa khói bốc cao ngùn ngụt. Rạng sáng, quân Pháp bắt
đầu phản công dưới sự chỉ huy của Pernot.
Pháp đã chia quân làm ba ngã để tiến vào kinh thành. Từng đợt
xung phong chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt để tràn vào các cửa Đông
Ba, Thuợng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa. Toán từ Cửa Trài, phá cầu Thanh
Long, vượt sông Ngự Hà, tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường
vào Hoàng Cung. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho tấn công quân triều đình đang tử
thủ vườn Ngự Uyển để tiếp ứng toán quân đang cố phá đổ một cách vô hiệu quả cửa
Hiển Nhơn vẫn đứng trơ gan trong khói lửa. Quân triều đình không giữ nổi thành
phải tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba đã bị toán quân Pháp từ
phía Cửa Trài tiến lên chiếm ngự. Cuộc chém giết trời sầu đất thảm đã xảy ra
nơi mà trăm năm sau vẫn còn ghi dấu: Miễu Âm Hồn.
Cuộc chiến đấu không ngang tầm vũ khí, nhưng quân ta đã đứng
trên quá tầm cao của mặt trận lương tri, liều thân vì danh dự của giống nòi và
tổ quốc.
Trong niềm đau chung của toàn đất nước, Huế đã quặn mình gánh
chịu những tang thương trực tiếp trên tấm thân gầy “mùa Đông thiếu áo, Hè thời
thiếu ăn”. Kinh đô thất thủ, De Courcy ra lệnh cho lính Pháp tự do hành động
trong vòng 48 tiếng đồng hồ: Mặc sức cướp phá tài sản trong Hoàng Cung,
vơ vét của cải nhà quan. Giặc Pháp cứ gặp ai tha hồ giết nấy, đốt cái gì có thể
đốt được, cướp cái gì có thể cướp được, hiếp ai có thể hiếp được... (Theo Trần
Văn Giàu; Tôn Thất Hứa, Wuerzburg, 1997.)
Sau ngày thất thủ kinh đô, cơn ác mộng kéo dài trên đất Huế.
Bao kẻ hiền tài, người lương thiện chỉ qua một đêm là có thể thành tên tử tội,
cơ nghiệp tan tành, chỉ vì bị bắn tiếng là theo Cần Vương mà không cần chứng cớ. Sông Hương biến thành “nhất giang lưỡng quốc”. Bên kia sông là giang sơn
của Pháp với tòa Khâm Sứ, phố Mô-Ranh, nhà hàng Sạc-Măng-Rông, sàn nhảy, hồ bơi
“Xẹc-Xì-Bo”... thế giới nhỡn nhơ hưởng thụ của Tây Đầm. Bên nầy sông vẫn
là Hòang Thành rêu phong sương phủ... là thế giới u trầm, cúi mặt của vua quan.
Tám cửa thành không che được mưu toan cứu nước Trần Cao Vân, Tăng Bạt Hổ. Cung đình thì cũng là cá chậu chim lồng nhốt vua Thành Thái, vua Khải Định, vua
Bảo Đại trong chiếc ngai vàng lấp lánh kiếm quang của toàn quyền và mật thám.
Giấc mơ “xênh xang áo gấm về làng, ngựa anh đi trước võng
nàng theo sau” chỉ còn là vang bóng của ngày qua. Đã lác đác có những nhóm dân
nghèo từ làng quê lên Dinh làm thuê, ở mướn cho các ông Tây, bà Đầm, mong
thoát khỏi cảnh bùn lầy nước đọng. Phải chăng “Chén Cơm Âm Phủ” bắt đầu từ
đó:
Kể từ ngày thất thủ Kinh Đô,
Tây qua giăng giây thép, Họa địa đồ nước Nam.
Lên Dinh ở tớ Toà Khâm,
Chén cơm âm phủ, áo đầm mồ hôi...!
(Vè Thất Thủ Kinh Đô)
Trong tâm thức của người bình dân xứ Huế, “Cơm Âm Phủ” là miếng
cơm kiếm được bằng nỗi nhục nhằn, lao khổ; miếng cơm đổ mồ hôi, sôi nước mắt của
kiếp người gian nan bất hạnh.
Thế rồi... mười, hai mươi, ba mươi năm sau, sông Hương vẫn âm
thầm cưu mang “hai nước”. Nếu chỉ nhìn trên bề mặt thì trong mối giao
tình, giữa thiên nhiên và ngoài xã hội, Tây vẫn là Tây; Ta vẫn là Ta; Huế vẫn
là Huế xưa dịu dàng, thanh bạch như những giòng sông Xuân sau mùa lũ lụt.
Nhưng trong thâm sâu, Huế mang chung thân phận trôi nổi của một đất nước mất chủ
quyền. Đó là khi tuổi già mất dần lòng tự hào quá khứ và tuổi trẻ không
màng đến tương lai.
Hoàn cảnh mới đã tạo nên vùng đất mới. Vùng đất lau
lách phía Đông tiếp giáp với đồng An Cựu trở thành vùng Đất Mới. Trên từng rẻo
đất của quê hương, nếu phải có những bờ lau ruộng đước để hút bớt phèn chua, nước
độc của vùng châu thổ sông Hồng; phải có những rừng mắm để làm thuần những vùng
đất mới Cà Mâu, thì phải có những tâm hồn trôi nổi quen chịu cay đắng giữa đời
để làm thuần những vùng đất mới của Huế. Nơi vùng đất mới chưa thuần đó, mọc
lên những đồn lính Tây Khố Xanh, Săng Đá; nổi lên những khu nhà mới chứa gái
giang hồ; chỗ trọ qua đêm của những con buôn tứ xứ. Trên một gò đất cao tiếp
giáp với con đường mòn có hai dãy hàng me dẫn ra bến sông Hương là cái chòi
tranh mới mọc, xung quanh là ruộng nước mênh mông. Đó là cái quán cơm bên
đường lộng gió mùa Hè và khép nép gió mùa Đông. Quán cơm bình dân không
tên không tuổi mọc lên cùng thời với sự khởi công xây dựng sân vận động Huế
(Stade Olympique). Đây là sân vận động độc nhất tại Đông Dương có vòng chảo
đua xe đạp (stade vélodrome) đã được khánh thành năm 1936 với sự hãnh diện của
người Pháp bày tỏ công khai trên báo chí đương thời. Quán cơm bình dân nầy
là tiền thân của quán Cơm Âm Phủ, nằm ngay trước mặt Stade Olympique Huế.
Quán hoạt động từ 11giờ đêm đến 5 giờ sáng, khi có 3 phát
súng lệnh của thành phố nổ rền báo hiệu sinh hoạt của một ngày mới bắt đầu. Đương lúc cả thành phố ngủ say là lúc quán và khách bắt đầu sinh hoạt. Giữa
vùng đồng hoang hiu quạnh tối đen, ánh đèn dầu leo lét và bếp lửa lập lòe nhảy
múa theo gió khuya, soi bóng nhạt nhòa của những khuôn mặt mệt mỏi, xanh xao vì
mất ngủ; hay những dáng dấp còm cõi, mắt sâu, má hóp của những người lao động
no sương nắng, mà đói áo cơm. Trong cái chòi tranh không bàn, không ghế,
chỉ có những cái đòn thô sơ trên nền đất. Cái đòn tre vừa đủ giúp cho
khách tựa mông ngồi chò hõ mỗi tụm năm ba người; chia nhau chút ánh sáng vàng vọt
và mảnh không gian trong quán xào xạc mái lá với bốn bề gió lộng. Trong
cái vắng lặng hoang sơ của vùng đất mới, có một thế giới nhỏ bé đang sống về
đêm với một nếp sống âm u, ẩn hiện trong ánh sáng mờ mờ gần như tan loãng vào
bóng tối mông lung. Thế giới kia vụt biến mất giữa ánh sáng ban ngày như
những hồn ma đã tìm về cổ mộ trước bình minh: Đó là thế giới lạ lùng, cô
quạnh và kỳ bí của Âm Phủ. Cho nên cái quán cơm nhỏ bé vô danh sống về
đêm đó, đã được người đời đặt tên là quán Cơm Âm Phủ.
Chủ nhân đời thứ ba của quán Cơm Âm Phủ là ông Tống Phước
Thôi, một cầu thủ đá banh xuất sắc của đội bóng tròn Công An Huế thuộc thế hệ
“Tây Tiến” hơn năm mươi năm về trước. Kiện tướng sân cỏ vang bóng một thời,
nay là ông già tuổi ngoại lục tuần nho nhã, ngồi nhớ lại chuyện ngày qua để giở
lần từng trang quá khứ...
Thực khách là loài chim ăn đêm: Những người kéo xe, những
cô gái ăn sương mà tụ điểm là những quán tranh lụp xụp quanh khu Xóm Mới. Đội ngủ gái ăn sương thuở đó có gần cả trăm nàng, được nhà nước Tây “bảo hộ” cấp
giấy môn bài, thu thuế du dương và khám “lục xì” (Luxir) định kỳ để tránh bệnh
phong tình cho đám con cháu Gaulois. Khách khuya khoắt nhất là các chú
lính tuần canh; những nghệ nhân lang thang đờn ca xướng hát, phục dịch những
trò vui suốt sáng, trận cười thâu đêm cho người mua vui. Khách nửa đêm về sáng
là những con bạc đò đêm xuôi ngược lên về sòng bạc lớn ở Kim Long mà chủ sòng
là một bà chúa. Khách ăn đêm phần lớn là sản phẩm của một xã hội thời Tây
đô hộ: Cơ cực, lang bạt, chẳng buồn nghĩ đến ngày mai.
Thực khách thì từng chặng, từng nhóm trong đêm mà quán thì phải
phục vụ thâu đêm.
Mỗi người khách đều có một cảnh đời khác biệt, nhưng lại gặp
gỡ nhau qua hai món ăn “âm phủ” vừa hợp với cái khẩu vị cao lương cũng tốt, muối
hột cũng xong; vừa hợp túi tiền khi xu hào rủng rỉnh, khi không còn dính một trự
ăn ba; vừa no lâu, vừa đằm bụng: Đó là thịt heo dưa giá và cá sông “7
món”, ăn với cơm nóng thơm phưng phức suốt bốn mùa. Thức uống thì có rượu đế từng
ly hay nước chè xanh có vài miếng gừng đập dí. Khí hậu về đêm, cho dẫu là
đêm mùa Hè, cũng rất cần đôi miếng gừng cay. Quán Cơm Âm Phủ đã trở thành
điểm hẹn cho những “con ma sống” dọc đường gió bụi rủ nhau về dừng chân ăn đêm.
Món đưa cơm chủ lực, dưa giá Huế, là một tổng hợp cây trái thổ
sản địa phương đầy màu sắc: Màu xanh của cây kiệu, màu vàng của
măng tre xắt thành sợi, màu đỏ của ớt trái chín xắt dài, màu trắng của giá đậu
xanh. Tất cả dầm với muối thành dưa, ngã vị hơi chua chua và mùi nồng nồng
đậm đà hương vị. Thịt heo lý tưởng là thịt ba chỉ đủ da, đủ nạc, đủ chút viền mở
thanh thanh. “Heo Huế nhỏ con mà thịt săn mềm, thớ mịn, luộc phay chấm nước mắm
Hòn thì ngon không chỗ nói“ (Vương Hồng Sển; Tôi Nhớ Huế, 1968). Dưa giá
kẹp với thịt heo ba chỉ, chấm với nước mắm có pha chút đường, ớt, tỏi, ngọt
thơm dìu dịu ăn một lần nhớ tới... chín tháng mười ngày. Làm dưa giá phải
“có tay”. Gặp người có tay “lục bại”, làm dưa giá sẽ không “chín”
mà sẽ biến thành một mớ eo xèo, ma đói cũng lơ ăn!
Người Huế thường mang tiếng là hay “làm đày” và “xét nét” vì
cái bản chất nhạy cảm và nhiều mặc cảm không tên tuổi, chỉ có thể “cảm” mà
không giải thích đuợc. Vì vậy, chiếc nón bài thơ nghe đâu để che nắng,
che mưa là việc phụ, mà công dụng chính là để ra đường ngăn tia nhìn phóng xạ của
người đời “Răng em biết anh nhìn mà em nghiêng nón, trời mùa Thu mây che có nắng
mô em...” Ra đường thì vậy mà ngược lại, cái triết lý về nhà mẹ hỏi của
Huế thật là gần gũi: “Chi cũng không bằng cơm với cá, chi cũng không bằng mạ với
con”. Cá sông “bảy món” của quán Cơm Âm Phủ được ưa chuộng trong bao
nhiêu năm dài cũng là một phần hình ảnh về nguồn đơn giản mà thân thương đó.
Trong một bài khảo cứu về Huế, khi nói về cá tôm, (Thạch
Nhân, St. Louis 1998) đã viết: “Nếu có đi nhiều nơi, ăn nhiều chốn mới thấy được
cá Huế ngon là dường nào. Cá bất cứ ở đâu, nếu tươi, thì cũng chỉ béo và ngọt.
Riêng con cá Huế đến mùa (!) còn có chất thơm nữa. Đến mùa cá, chỉ cần một
khúc cá kho ớt bột (khô hoặc nước), một dĩa nước mắm cay, nếu có thêm môt ít mắm
ruốc nữa càng tốt, và một nồi cơm nóng là đã có được một bữa ăn ngon hơn nem
công chả phụng.” Đọc xong đoạn văn “ngon nhức răng” trên, có người sẽ chảy
nước bọt và hoang mang tự hỏi, không biết ông Thạch Nhân đã ăn nem công chả phụng
lần nào chưa mà lại “làm hoanh” so sánh với cá Huế một cách rất chi là hào sảng
như vậy.
Cá sông ở Huế có khá nhiều loại, nhưng chỉ có một số loại cá
ngon như: Cá phác lác, cá kình, cá rô, cá diếc, cá tràu, cá trê, cá gáy,
cá đối, cá ngạnh, cá cấn, cá mại, cá hỏn... Nhưng đặc biệt và ngon nhất vẫn là
cá bống. Cá bống chia làm nhiều loại: Cá bống cát, cá bống thệ, cá
bống mủ (hay còn gọi là cá bống trứng). Món cá bống Huế trứ danh là cá bống thệ
nấu canh thơm, hoặc canh rau răm cho nhiều tiêu. Cá bống thệ kho riêng
hay kho chung với thịt ba chỉ xắt mỏng. Một lớp cá, một lớp rau răm, ớt bột,
đường, nước mắm, nước màu, tiêu sọ. Đun lửa riu riu cho đến khi thịt cá
săn lại, dẽo quẹo mà dòn tan, ăn với cháo gạo buổi sáng hay với cơm nóng sẽ làm
cho khách bỗng sinh ra chút yêu đời đầy ngũ uẩn, hít hà mà phát hiện ra rằng,
thì ra đời cũng có lúc đáng “sống để mà ăn!”. Cá bống mủ kho tiêu cũng là
một lọai cá kho cao cấp vì mắc và hiếm nên thường dành đặc biệt cho các bà
trong thời gian sinh đẻ còn ở cữ. Bởi vậy mà có bà đã khoe là nhờ ăn cá bống
mủ kho tiêu thời son trẻ, nên lúc về già, gõ lên cái bụng còn chắc nịch nghe
“bong, bong” như chén sành Thượng Hải (?!)
Thử nghe Vương Hồng Sển, nhà khảo cổ học Việt Nam được thế giới
bên ngoài biết tiếng, diễn tả lần đầu ra Huế ăn cá bống ở quán ăn ở cửa Thượng
Tứ: “Con cá bống... ngon quá thế, ăn giòn đến xương cũng giòn; kỳ vĩ đều giòn,
nhứt là cái đuôi vàng cháy, thật là giòn khớu, giòn rụm, hằm bà lằng giòn. Ăn
mút từ miếng xương đầu, gặm từ khớp xương đuôi, ăn rồi bữa cơm xương rãi đầy mặt
đất, giựt mình nhớ lại thấy thú quá!” (Bách Khoa 272; tháng 5-1968)
Chỉ cần một loại cá phác lác thôi nhưng qua tay các bà nội trợ,
đã được chế biến thành lắm món: Cá phác lác vằm nhuyễn để ram vàng hươm, có vị
thơm và ngọt thanh hơn cả món chả chiên truyền thống bằng thịt heo, thịt
bò. Cá phác lác lóc thịt vằm mịn để nấu canh; nước canh trong, thịt cá trắng,
bát canh ngọt tự nhiên và đầy hương vị. Cá phác lác kho nước, cá phác lác
kho khô, cá phác lác nguyên con chiên vàng rộm, ăn dòn tan cả xương lẫn thịt.
Chủ nhân đầu tiên của quán Cơm Âm Phủ tuy chỉ dựng cái chòi
tranh sơ sài nơi Xóm Mới, nhưng đã biết dựa trên nền móng vững vàng của thủy thổ
và sản vật phong phú địa phương. Thêm vào đó, là sự khai thác khéo léo
nhu cầu sinh sống của một tầng lớp khách hàng có nếp sinh hoạt “bềnh bồng” độc
đáo về đêm: Làm về đêm, ăn về đêm, chơi về đêm, bán mình về đêm... và đêm về mới
sống thật.
Lịch sử Huế, trong suốt thời Pháp thuộc đến hôm nay, là một
giòng lịch sử đầy biến cố nổi trôi theo số phận chung của toàn đất nước.
Nhưng quán Cơm Âm Phủ trong lịch sử lâu dài đó vẫn không có gì thay đổi. Cũng
theo Đoàn Tuyền Châu, nhà dịch lý đất Lương Y, thì cái tên Âm Phủ vốn đã mang sẵn
tính “tiền định”. Âm Phủ là cõi siêu hình, tồn tại như một “linh thể”;
cái biến dịch chỉ dành cho dương thế.
Ngày nay, quán Cơm Âm Phủ không còn dừng lại trên hai món chủ
lực đầu nguồn là dưa giá thịt heo và cá sông kho “7 món” nữa, mà đang chế biến
các đặc sản thực phẩm của Huế theo sát với khẩu vị và nhịp sống của con người
“dương gian” trước mắt. Từ dĩa cơm thập cẩm đến khúc cá chình, dĩa lươn
um hay món dôi trường và môi mép bò chấm mắm nêm... vẫn còn mang một hương vị
hay hay, trong một khung cảnh là lạ riêng, rất chi là... âm phủ.
Thì cũng chỉ là một buổi hẹn hò trong quán nhỏ, nhưng mấy ai
khỏi giật mình thảng thốt khi chợt nghe lời tình tự của đôi tình nhân Thành Nội
xứ Huế: “Chiều tối gặp nhau ở ngã tư Âm Hồn rồi đi ăn cơm Âm Phủ!”
- Lời hẹn hò nghe mà dễ sợ chi lạ, giống như ma, như quỷ dưới
âm ty!
Một Dì Huế răng đen tóc bối, ngày xưa cha mẹ đặt đâu ngồi đó,
cứ nghĩ chuỵện tình yêu là sản phẩm của Tây Đầm, nên “ưng” nhau ba năm chưa dám
cầm cái tay, nói chi tới chuyện dễ sợ là hôn lên cái má, dù chỉ là chút trao gởi
âm thầm riêng lẻ. Dì kỷ đáo để. Dì đợi cho đến ngày cưới mới chịu cầm...
luôn cả cuộc đời người “nớ”. Lửa thời gian đốt tóc dì cháy bạc, nhưng dì
chưa hề được sưởi ấm bằng những cơn sốt của tình yêu, nên dì mới dại miệng dại
mồm, vừa móm mém nhai trầu, vừa đỏng đảnh bình luận như vậy.
Trong khung cảnh phong ba đã thành rêu phong của Huế
thì lời hẹn hò trên đây có sức lôi cuốn mạnh hơn muôn lần những đợt sóng tình
lao xao tới bạc đầu mà chưa gối được lên bờ. Thôi thì cứ tưởng tượng cô
bé có vầng tóc mây dài gần che kín mặt, thập thò đợi “người nớ” dưới gốc đa già
có rễ lạnh lùng như những chùm râu mọc ra từ tượng đá. Trong bóng chiều của
Huế, hoàng hôn chưa tím mà nhà Thành Nội đã lên đèn vì rợp bóng cây xanh. Ngọn đèn lắt lay từ trong Miễu Âm Hồn như đôi mắt của linh hồn mở ra trừng trừng,
chờ đợi. Một ngọn lá rơi trên tóc cũng làm cho cho cô bé giật mình, lạnh
cóng, huống chi là bàn tay ấm áp của người tình. Cho nên, cái bản lĩnh của
những chàng trai Thành Nội là biết chọn địa điểm hẹn hò. Một lần hẹn gặp ở miễu
Âm Hồn sẽ thu ngắn bớt còn đường ba năm viết thư tình, cùn bao nhiêu là bút sắt,
cạn mấy hồ mực mà sương khói vẫn cứ bay hoài trong mơ mộng. Có phải chăng
vì ở Nội Thành đi đâu cũng có cảm giác chập chờn “sợ ma dễ sợ!” kể từ thời thất
thủ kinh đô, đi về cần có chung hai bóng, mà người Huế Thành Nội thường “có
đũa, có đôi” sớm hơn là nguời Huế Bến Ngự, Nam Giao. Nữ sĩ Phan Mộng Hoàn đã ví
von những cô gái Huế Nội Thành như những con “ốc bung”. Một khi đã “bung”
ra khỏi vỏ, những con ốc ngỡ như chỉ biết cuộn mình thầm lặng muôn năm trong vỏ
sẽ vươn vai như thần đèn A La Đanh vừa thoát ra ngoài rún biển.
Khi chuyện ngày qua đã thành chuyện kể; khi vận nước thăng trầm
đã thành lịch sử; khi sự cố đã thành cố sự và con đường Âm Hồn một thuở đã
phôi pha dấu tích được thay tên thì Huế xưa vẫn còn đó: Nhỏ nhắn, trầm tư trong
nắng vàng hổ phách mùa Hạ và nhuộm tím trong những chiều đầu Thu có mây làm dịu
nắng.
Có người tự hỏi, nếu quân Tây đừng xâm lăng nước mình, thì Huế
có Miễu Âm Hồn, có quán Cơm Âm Phủ hay không?
Hình như đã có một thi sĩ tài hoa ở phố Đạm Tiên của Huế, đã
trả lời tỉnh tỉnh mà không trả lời chi cả:
Nếu không có ai sinh ra trên mặt đất,
Ai biết màu trời của buổi Nguyên Sơ.
Rồi tới cái tỉnh khô tuyệt vời hơn nữa là từ một người học
trò trong Quảng ra học trường Quốc Học Huế, “quậy sĩ tài danh” của nền thi ca
Việt Nam, Bùi Giáng:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ,
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.
Rứa, nhưng mà cái tỉnh nào rồi cũng chào thua cái tỉnh rót
đáo để của mấy o Huế rặt:
Có nhiều lúc hỏi răng mà như rứa?
Đành trả lời như rứa chứ mằng răng (!)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét