Hồi âm của "Chuyện khảo về Huế"
Lại thêm một người viết “về Huế”.
Người đó là Trần Kiêm Đoàn!
Kể trong vòng trên dưới một trăm năm, đất nước Viêt Nam đã trải
qua nhiều cơn bão lịch sử lớn. Lần bão tố nào... đất Huế cũng lãnh hậu quả thiệt
hại nhất, đau thương nhất, máu và nước mắt nhiều nhất! Tâm tình của người
dân xứ Huế, vì vậy, mang nhiều u uẩn lắm, nếu không nói là mâu thuẫn, tương phản
lạ kỳ! Cảnh trí Huế “Đẹp và Thơ” với cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn,
với nước xanh ngắt của giòng Hương Giang, với thông reo trên các đỉnh núi Thiên
Thai, Kim Phụng... Dân Huế đâm ra lãng mạn, thâm trầm, nói ít mà cảm nhiều.
Trần Kiêm Đoàn có lẽ là người đầu tiên nói rõ trên giấy
trắng mực đen điều “mâu thuẫn rất Huế” này! Nhân nói về tô Bún Bò Huế, chàng ta
lạm bàn: “... sống kiểu Huế là nghèo mà vẫn muốn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác
buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong
gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.”...
“Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ
như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây
dài chấm gót...” Chỉ có chàng họ Trần xứ Huế mới gói ghém cái mâu thuẫn “Huế” Bằng
một câu đáng để đời: “Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những
tâm hồn bão nổi sông hồ...”
Dưới ngòi bút linh động, hoạt bát, khi rỉ rả tâm tình,
khi vui đùa bỡn cợt, khi lãng mạn, lúc khắc khoải, Đoàn đưa đẩy người đọc đến
biết bao nhiêu điều “về Huế”. Lối viết của Đoàn có một sắc thái khác biệt
những cây bút trước Đoàn về Huế! Trước Đoàn, con số những người viết về Huế,
nói theo tiếng Huế, là “bắt loạn”, nghĩa là bắt người ta loạn cả trí óc! Xin kể
sơ vài tên tuổi lớn:
Người Pháp thì có Cadière là chủ bút biên tập Tạp Chí
Bulletin des Amis du Vieux Hue (B.A.V.H.) là một tài liệu rất quý giá hiện nay
“nghìn vàng dễ kiếm, sách kia khôn tìm!” Có những tâm hồn thi sĩ như Henri
Guibier (tác giả bài thơ nổi tiếng: Nocturne Sur Le Fleuve Des Parfums),
Henri Cosserat với nhiều bài thơ ca tụng Huế với tâm tình của một người
Pháp lai, có người mẹ Huế! Có những triết gia như Foulon với lời nhận xét
để đời về Huế là nói: “tóc tang cười nụ, vui mừng thở than” (Le deuil sourit,
la joie soupire)! Lại có sử gia như Charles Patris nhận định về nét hiền
triết của các vị đế vương triều Nguyễn trong kiến trúc về lăng tẩm:
... ces rois d’Annam très sages,
qui font sourire la mort
Au décor
De familiers paysages
(Hiền triết thay! Bao Đế vương xứ Huế
Khiến Tử Thần bỗng mỉm môi cười nhoẻn
Giữa tẩm lăng, chốn yên ngủ ngàn thu
Được trang hoàng bằng cảnh trí thân quen)
Còn phía người Việt viết về Huế, cũng có thể nói là “bắt loạn”
và người ta có thể lập hẳn một thư mục. Huế đã trở thành một đề tài chuyên biệt:
Lịch sử Huế, Cố đô Huế, Mỹ thuật Huế, Ngôn ngữ Huế, Vua chúa Huế, Chùa chiền Huế,
Ca nhạc Huế, Thổ âm Huế, Chuyện tiếu lâm “hoang” xứ Huế, Chửi giọng Huế, Ngâm
thơ Huế, Đồ cổ Huế v.v... Kể về tên tuổi của những tác giả viết về Huế thì chỉ
đan cử vài người nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Tản Đà, Thái Văn Kiểm, Bửu
Kế, Phan Văn Dật, Phạm Đăng Trí, Vương Hồng Sển, Lê Văn Hảo, Nguyễn Hữu Ba
v.v... và v.v...
Kể từ sau 75, tâm tình “Nhớ Huế” cũng dài lê thê đối với những
tâm hồn tha hương với các tập san như Tuyển Tập Nhớ Huế của Võ Văn Tùng
(California), Tiếng Sông Hương (ở Washington D.C. của Lê Chí Thảo, ở Dallas
Texas của Nguyễn Cúc), Tuyển Tập Phượng Vỹ (ở Houston của Tôn Nữ Quế Hương, ở
Toronto Canada của Y La L.K. Ngọc Quỳnh) v.v...
Đương nhiên, Trần Kiêm Đoàn “ăn sau chạy dọi” khi viết về Huế,
tội chi mà phải leo lên những ngọn núi Thái sơn về mức độ thông thái, bác học,
biên khảo; dại chi mà lội lại trong những giòng sông tình cảm thương nhớ của những
tâm hồn ướt át!
Bí quyết viết về Huế của Trần Kiêm Đoàn để tạo ra cho
mình một hướng đi riêng biệt ở đâu?
“Mỗi lần nghĩ đến Huế, tôi không biết mình đang về với Huế
hay Huế đang về trong tôi... Nếu không có năm 1975, có lẽ tôi sẽ không biết rõ
Huế đã về trong tôi tự bao giờ, một cách âm thầm nhưng tự nhiên và mãnh liệt...”.
Chìa khoá mấu chốt là ở đây! Chất liệu về Huế đã sẵn có đồi
dào rồi, chúng nằm ẩn trong tiềm thức từ thuở nằm nôi... rồi được tài bồi qua
thời gian tuế nguyệt, chả kiếm đâu xa. Chàng Trần Kiêm Đoàn tinh khôn lắm. Viết
văn chương, dù là viết cách nào, nhưng với một tinh thần “nhập thể” với đối tượng,
thì đương nhiên sẽ đi thẳng vào lòng người đọc. Cũng giống như vừa rồi một bà
lão Mỹ 92 tuổi viết hồi ký về cuộc đời trầm lặng của mình - đương nhiên là
không được gọt dũa ly kỳ như cây bút chuyên nghiệp - nhưng Warner Bros đã mua với
giá bạc triệu!
Trần Kiêm Đoàn đã viết về Huế một cách “nhập thể” qua những kỷ
niệm về Bún Bò Huế, Cơm Hến, Chè Bắp Cồn, Chè Sen Tĩnh Tâm, Mắm Ruốc... Chàng
viết một cách say sưa chân thành như là một tín đồ Hồi Giáo đọc kinh Coran!
Chàng ta đã chinh phục tôi ngay từ ngọn chưởng đầu tiên đăng trên Tuyển Tập Nhớ
Huế với câu mở đầu dí dỏm:
... “Cái thuở ban đầu… cơm hến nớ!... Cơm Hến Huế cũng giống
như tình cảm của người con gái Huế: Chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thâm trầm.”
Trước đây Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân ca tụng Món
Ngon xứ Bắc một cách thậm xưng mà anh bạn Hồ Trường An người Nam cho rằng “đía
dàng trời”, thì nay Trần Kiêm Đoàn lại mở hẳn một lối nói thậm xưng khác!
“... ví dù ở bất cứ phương trời nào, cơm hến cũng là một
tấm giấy thông hành tình cảm để những người có chút duyên nợ với Huế tìm về
nhau mà chan, mà húp, mà nghẹn ngào và rơm rớm nước mắt vì... cay!” (Cơm Hến Huế)
“Tô bún Huế cũng là một biểu hiện của văn hoá Huế vì
đây cũng là một sự ‘dấy nghĩa’ trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo
chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẫn ‘bò nấu thì teo, heo
nấu thì nở’ thành một thể hài hòa...” (Bún Bò Huế)
Nói “đía” như Đoàn thì các ôn mệ xứ Huế gọi là “nói trạng”.
Nhưng đây là một thứ “Nói trạng trên trời dưới đất nghe!” Ta hãy nghe Đoàn nói
về sự tích của Bà Bún ở làng Vân Cù mà mê! Chàng Đoàn lại ví von nhiều điều về
sợi bún: bún con, bún vắt, bún lá, bún mớ, bún ngảo, bún kim... Toàn là những
chuyện mà ngay cả dân Huế cũng ít người biết... Đoàn viết văn đôi lúc lại nhắc
đến những chuyện bất ngờ như chuyện người yêu ăn bún bò bị chút ớt đỏ dính
vào... kẻ răng, trông rất dị, nên “... cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau
gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại
thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không
đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe. Hoàng vùng vằng sợ
tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
- Ngó dữ chưa tề, dị chết!
Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!” (Bún Bò Huế)
Cái duyên kể chuyện của Đoàn là ở cái điểm ăn nói ngây
thơ “tửng tửng”!
Cái lối viết của chàng gốc Huế ni nhiều lúc cứ kéo dài
lòng thòng, lê thê, muốn nói về “chè sen Hồ Tịnh”, chàng ta lung khởi đã đời
trên chén chè bắp Cồn! Ta hãy nghe chàng thanh minh về cái lối viết nầy: “Huế
nhỏ lắm mà có khi đi loanh quanh một đời chưa thấu vì giang sơn Huế và tâm hồn
Huế có quá nhiều ngõ ngách, khi thì dễ thấy sừng sững như sông Hương núi Ngự,
khi lại khó hiểu như miễu Âm Hồn. Vì vậy, muốn kể chuyện Hồ Tịnh, tôi phải đi
loanh quanh theo kiểu Huế từ Vỹ Dạ qua Cồn, trước khi vô cửa Thượng Tứ coi sen
Hồ Tịnh,” (Chè Huế).
Đọc văn của Trần Kiêm Đoàn, tôi thấy phảng phất hơi hướm
của nhiều cây bút sở trường về lối kể chuyện dí dỏm với cái lối lòng thòng đáng
yêu, đại khái như Anatole France, Nguyễn Tuân, Vương Hồng Sển v.v...
Đọc Trần Kiêm Đoàn, nếu đọc qua loa để biết cốt truyện
thì hỏng. Lý do là người ta không tìm thấy nhiều cái “sừng sững”, mà bỏ sót cơ
man là những điều “ngõ ngách”. Đoàn dắt ta đi vào cái nét “ăn” của người
Huế qua các bài về Bún Bò, Cơm Hến, Chè Huế, Mắm Ruốc... rồi Đoàn lại đưa ta đi
vô cái “dzụ” Ngủ Đò cấm kỵ!
Thế nào là “ngủ chay”, thế nào là “ngủ mặn” trên sông
Hương được ngày xưa mệnh danh là giòng “Tiêu Kim Thủy”!
Một trong những chuyện kể của Đoàn được mang một sắc
thái riêng biệt, nghiêm trang hơn, thầm lặng hơn, nhuốm mùi triết lý hơn là
chuyện Tâm Huế. Có lẽ đất Thừa Thiên từ cái thuở mới thành lập đã thấm
nhuần truyền thống Phật Giáo, nên con người xứ Huế đã có một cái “Tâm” riêng biệt
chăng? Câu chuyện của Đoàn xây dựng trên vấn đề “chấp” hay “phá chấp”! Tôi có cảm
giác như được uống một chén trà pha điệu nghệ sau khi đọc chuyện về “Tâm Huế”!
Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm Đoàn đại khái được xây
dựng trên những chất liệu đơn sơ mộc mạc như vậy nhưng viết một cách “nhập thể”
và linh động, dí dỏm.
Sau khi đọc xong, tôi không biết phân loại nó vào thể
loại sáng tác nào! Nhưng có một điều mà tôi xin đoan chắc với những người
sắp đọc Trần Kiêm Đoàn là các bạn sẽ thấy thời gian mà các bạn bỏ ra để đọc là
một thời gian lý thú trộn lẫn với nhiều bất ngờ!
Bạn không tin ư?. Hãy tìm đọc văn của chàng xứ Huế
này đi!.
LÊ VĂN LÂN
Đọc "Chuyện khảo về Huế" của Trần Kiêm Đoàn
Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm Đoàn đến với tôi trong
lúc tôi đang chuẩn bị về thăm Huế lần thứ mười mươi. Hai chữ “Chuyện Khảo”
thoạt tiên làm cho tôi ngần ngại. Có nên “khảo” Huế trước khi về Huế ở Huế
bằng da bằng thịt không. Có nên khảo cổ Huế một cách lý thuyết như người
ta đọc sách hướng dẫn du lịch trước khi về Huế không? Tôi bắt đầu đọc
Chuyện Khảo Về Huế với một tâm trạng phân vân giữa sự ngần ngại nói trên và sự
tò mò muốn biết Trần Kiêm Đoàn khảo về Huế như thế nào, bởi vì chủ quan tôi
cũng tự cho mình là Huế “chay” và “sành” Huế hơn ai.
Chuyến về Huế lần này của tôi sau khi đã đọc “bản văn” Chuyện
Khảo Về Huế hốt nhiên mang những dấu nhấn khác hơn những lần trước. Lần nầy
về Huế cũng đi ăn cơm hến, đi ăn bún bò, đi ăn chè bắp, chè hột sen, ăn cơm Âm
Phủ, đi qua cầu Trường Tiền, vào Thượng Tứ, vô Đại Nội, đi thuyền trên sông
Hương, ngắm trăng thượng tuần lơ lững trên dãy núi Kim Phụng v.v… Nhưng tư thế
và “cách nhìn” của tôi có hơi khác. Tôi đã không vội vàng làm vừa lòng
cái dạ dày trống rỗng vốn háu ăn của mình như trước, mà khởi sự cuộc ăn bằng một
cái nhìn sành điệu của tác giả Chuyện Khảo Về Huế.
Tô cơm hến vừa được dọn lên bàn ở một quán nhỏ bây giờ đang nổi
tiếng là ngon đặc biệt nơi Đò Cồn, quê hương của những con hến quý giá trong
Chuyện Khảo Về Huế, nữ sĩ Tôn nữ Hỷ Khương (đã rời Huế khá lâu) và tôi nhìn vào
tô cơm hến và cùng kêu lên một lượt “Chi lạ rứa! Răng tóp mỡ mà to cỡ
ni?” Quả thật món ăn dọn lên với mấy miếng giả tóp mỡ cắt thô bạo đã vùi
lấp phũ phàng những con hến mềm mại, ngọt nước làm cho Tô Cơm Hến không còn là
tô cơm hến đặc trưng của Huế nữa. Và cũng như thế, ở quán bún bò, khi hỏi
mấy o lấy bún ở mô, có biết nàng Bún hay không, thì nghe “ai biết mô tê!”. Tô bún bò dọn lên là một hỗn hợp bò heo cua, còn đâu là bún bò mụ Rớt một
thời vang tiếng ở góc đường Chi Lăng, và cũng như thế ở nơi chè bắp Ngự Viên, ở
nơi cơm Âm Phủ…
Chính trong lần về Huế nầy tôi mới nhận chân được rằng, ngay
trong chốn Cố Đô đang có một hiện tượng “hững hờ” trong cách ăn, cách ở của Huế
như sự thể hiện Đạo Tâm của con người Huế từ khi thành đô nầy được dựng
lên. Một sự thờ ơ về cả hai phía, của người doanh nhân bán hàng và kẻ thưởng
thức món hàng.
Trở lại Âu châu, tôi hiểu Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm
Đoàn hơn trong sự mãi mê của tác giả đi “khảo” từng chi tiết nơi mỗi đặc trưng
của Huế. Tác giả đi đến tận nguồn của mỗi vị thức ăn trên đầu lưỡi, tìm đến
nơi đến chốn xuất xứ của mỗi món ăn. Và lên đường bằng tất cả nhạy bén và
thức tỉnh của “mười giác quan” (sáu giác quan + khảo + khào + khao và giác quan
thứ mười là năng khiếu dí dỏm tự trào của tác giả) để sục sạo tìm lại thời xưa
đã mất như một M. Proust nào đó.
Ở giữa lối hành văn bóng bẩy, súc tích với nhiều dẫn chứng
văn chương - cho thấy tác giả đã là một ông giáo sư văn chương tài năng một thời
của trường Đồng Khánh (lắm lúc theo thị hiếu của tôi hơi nhiều một chút) - và
cách kê khai khoa học tỉ mỉ từng lọai món ăn cách nấu - một thể loại mới của
Chuyện Khảo Về Huế làm cho người đọc thú vị thâu nhận thêm kiến thức về nghệ
thuật nấu ăn của Huế - tác giả đã phân tích và tổng hợp các điều kiện khả thể của
mỗi đặc sản xứ Huế một cách vừa nên thơ, vừa thực tiễn và nhất là: Một
cách chí tình với Huế!
CHÍ TÌNH VỚI HUẾ, đó là đặc trưng của Chuyện Khảo Về Huế.
(Hình như) tác giả đã viết về Huế với nước mắt của mình, mãi mê với Huế bằng một
tấm lòng trân trọng. Nghiêm túc, cẩn mật, tôn kính gần như là sùng bái - nhưng rồi chợt pha một nụ cười “trần thế” vì… ”quá thương” - một cử chỉ đặc thù
của người Huế - tác giả đã cho thấy rõ tính cách Huế trong mỗi điều nhỏ nhặt của
cuộc sống hàng ngày ở Huế, một tô cơm hến bình dị, mấy vòng con bún uốn lượn
trên tấm lá chuối xanh, một chén nước chấm, một chén chè hột sen, tiếng rao
hàng khi não nùng khi thánh thót trong đêm khuya ở Huế… cái đẹp đơn sơ duyên
dáng đi liền với cái ngon mặn mà.
Đi đến tận cùng của sự vật và sự việc, dù cho nó có nhỏ bé đến
đâu, nâng nó lên thành một thể cách “Đạo của cuộc đời” trong ý nghĩa đi cho
tròn cái đẹp cái tốt, đã là lối sống Đạo Tâm của Huế. Ai nói chỉ có Nhật
bản mới có “Trà đạo”?. Huế một thời đã tận tình với cách thể hiện tâm thức
của mình, ngay trong tô cơm hến trên các nẽo đường, ngay trong sự chọn lựa màu
sắc hài hoà của mỗi thức ăn bình dị hàng ngày.
“Tìm lại Huế xưa” trong Chuyện Khảo Về Huế chính là nói lên
trọn vẹn từ kẻ tóc chân tơ nếp sống của Huế trong hiện sinh thường nhật đơn sơ
của thành phố “cười trong nước mắt” này, nói bằng cả chân tình của một người
thương Huế. Bởi thế Chuyện Khảo Về Huế đã gặp được Huế một thời trong mãi
mãi.
Không cần trở về Huế, đọc Chuyện Khảo Về Huế, chúng ta cũng cảm
thấy hơn một lần trở về với Huế bằng một tâm trạng kỳ lạ khó hiểu là “phải” trở
về với Huế để… đi… tìm lại Huế.
Mùa Xuân 2002
Thái Kim Lan
"Chỉ khi có một tâm hồn nhuần nhuyễn, gắn bó sâu sắc với cỏ
cây nơi sinh thành, tác giả mới diễn tả ký ức một cách tinh tế, tài hoa mà chân
thật đến vậy. Tập “Chuyện Khảo Về Huế” là tiếng lòng của người con sông
Hương núi Ngự, là tâm tình của tri kỷ và nỗi niềm của kẻ tha hương. Lời
văn có cái thâm trầm sâu lắng mà lãng tử, đài các, thấp thoáng bóng dáng kinh
kỳ và phảng phất mùi vị xứ sở..."
NGUYỄN HÙNG
Nguồn: Báo Phụ Nữ, Sài gòn 5/1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét