Thứ Hai, 15 tháng 4, 2019

Hồi âm của "Chuyện khảo về Huế"

Hồi âm của "Chuyện khảo về Huế"
Chuyện Khảo Về Huế
Lại thêm một người viết “về Huế”.
Người đó là Trần Kiêm Đoàn!
Kể trong vòng trên dưới một trăm năm, đất nước Viêt Nam đã trải qua nhiều cơn bão lịch sử lớn. Lần bão tố nào... đất Huế cũng lãnh hậu quả thiệt hại nhất, đau thương nhất, máu và nước mắt nhiều nhất!  Tâm tình của người dân xứ Huế, vì vậy, mang nhiều u uẩn lắm, nếu không nói là mâu thuẫn, tương phản lạ kỳ!  Cảnh trí Huế “Đẹp và Thơ” với cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn, với nước xanh ngắt của giòng Hương Giang, với thông reo trên các đỉnh núi Thiên Thai, Kim Phụng... Dân Huế đâm ra lãng mạn, thâm trầm, nói ít mà cảm nhiều.
Trần Kiêm Đoàn có lẽ là người đầu tiên nói rõ trên giấy trắng mực đen điều “mâu thuẫn rất Huế” này! Nhân nói về tô Bún Bò Huế, chàng ta lạm bàn: “... sống kiểu Huế là nghèo mà vẫn muốn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.”... “Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót...” Chỉ có chàng họ Trần xứ Huế mới gói ghém cái mâu thuẫn “Huế” Bằng một câu đáng để đời: “Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ...”
Dưới ngòi bút linh động, hoạt bát, khi rỉ rả tâm tình, khi vui đùa bỡn cợt, khi lãng mạn, lúc khắc khoải, Đoàn đưa đẩy người đọc đến biết bao nhiêu điều “về Huế”.  Lối viết của Đoàn có một sắc thái khác biệt những cây bút trước Đoàn về Huế! Trước Đoàn, con số những người viết về Huế, nói theo tiếng Huế, là “bắt loạn”, nghĩa là bắt người ta loạn cả trí óc! Xin kể sơ vài tên tuổi lớn:
Người Pháp thì có Cadière là chủ bút biên tập Tạp Chí Bulletin des Amis du Vieux Hue (B.A.V.H.) là một tài liệu rất quý giá hiện nay “nghìn vàng dễ kiếm, sách kia khôn tìm!” Có những tâm hồn thi sĩ như Henri Guibier (tác giả bài thơ nổi tiếng: Nocturne Sur Le Fleuve Des Parfums), Henri Cosserat với nhiều bài thơ ca tụng Huế với tâm tình của một người Pháp lai, có người mẹ Huế! Có những triết gia như Foulon với lời nhận xét để đời về Huế là nói: “tóc tang cười nụ, vui mừng thở than” (Le deuil sourit, la joie soupire)!  Lại có sử gia như Charles Patris nhận định về nét hiền triết của các vị đế vương triều Nguyễn trong kiến trúc về lăng tẩm:
... ces rois d’Annam très sages,
qui font sourire la mort
Au décor
De familiers paysages
(Hiền triết thay!  Bao Đế vương xứ Huế
Khiến Tử Thần bỗng mỉm môi cười nhoẻn
Giữa tẩm lăng, chốn yên ngủ ngàn thu
Được trang hoàng bằng cảnh trí thân quen)
Còn phía người Việt viết về Huế, cũng có thể nói là “bắt loạn” và người ta có thể lập hẳn một thư mục. Huế đã trở thành một đề tài chuyên biệt: Lịch sử Huế, Cố đô Huế, Mỹ thuật Huế, Ngôn ngữ Huế, Vua chúa Huế, Chùa chiền Huế, Ca nhạc Huế, Thổ âm Huế, Chuyện tiếu lâm “hoang” xứ Huế, Chửi giọng Huế, Ngâm thơ Huế, Đồ cổ Huế v.v... Kể về tên tuổi của những tác giả viết về Huế thì chỉ đan cử vài người nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Tản Đà, Thái Văn Kiểm, Bửu Kế, Phan Văn Dật, Phạm Đăng Trí, Vương Hồng Sển, Lê Văn Hảo, Nguyễn Hữu Ba v.v... và  v.v...
Kể từ sau 75, tâm tình “Nhớ Huế” cũng dài lê thê đối với những tâm hồn tha hương với các tập san như Tuyển Tập Nhớ Huế của Võ Văn Tùng (California), Tiếng Sông Hương (ở Washington D.C. của Lê Chí Thảo, ở Dallas Texas của Nguyễn Cúc), Tuyển Tập Phượng Vỹ (ở Houston của Tôn Nữ Quế Hương, ở Toronto Canada của Y La L.K. Ngọc Quỳnh) v.v...
Đương nhiên, Trần Kiêm Đoàn “ăn sau chạy dọi” khi viết về Huế, tội chi mà phải leo lên những ngọn núi Thái sơn về mức độ thông thái, bác học, biên khảo; dại chi mà lội lại trong những giòng sông tình cảm thương nhớ của những tâm hồn ướt át!
 Bí quyết viết về Huế của Trần Kiêm Đoàn để tạo ra cho mình một hướng đi riêng biệt ở đâu?
“Mỗi lần nghĩ đến Huế, tôi không biết mình đang về với Huế hay Huế đang về trong tôi... Nếu không có năm 1975, có lẽ tôi sẽ không biết rõ Huế đã về trong tôi tự bao giờ, một cách âm thầm nhưng tự nhiên và mãnh liệt...”.
Chìa khoá mấu chốt là ở đây! Chất liệu về Huế đã sẵn có đồi dào rồi, chúng nằm ẩn trong tiềm thức từ thuở nằm nôi... rồi được tài bồi qua thời gian tuế nguyệt, chả kiếm đâu xa. Chàng Trần Kiêm Đoàn tinh khôn lắm. Viết văn chương, dù là viết cách nào, nhưng với một tinh thần “nhập thể” với đối tượng, thì đương nhiên sẽ đi thẳng vào lòng người đọc. Cũng giống như vừa rồi một bà lão Mỹ 92 tuổi viết hồi ký về cuộc đời trầm lặng của mình - đương nhiên là không được gọt dũa ly kỳ như cây bút chuyên nghiệp - nhưng Warner Bros đã mua với giá bạc triệu!
Trần Kiêm Đoàn đã viết về Huế một cách “nhập thể” qua những kỷ niệm về Bún Bò Huế, Cơm Hến, Chè Bắp Cồn, Chè Sen Tĩnh Tâm, Mắm Ruốc... Chàng viết một cách say sưa chân thành như là một tín đồ Hồi Giáo đọc kinh Coran! Chàng ta đã chinh phục tôi ngay từ ngọn chưởng đầu tiên đăng trên Tuyển Tập Nhớ Huế với câu mở đầu dí dỏm:
... “Cái thuở ban đầu… cơm hến nớ!... Cơm Hến Huế cũng giống như tình cảm của người con gái Huế: Chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thâm trầm.”
 Trước đây Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân ca tụng Món Ngon xứ Bắc một cách thậm xưng mà anh bạn Hồ Trường An người Nam cho rằng “đía dàng trời”, thì nay Trần Kiêm Đoàn lại mở hẳn một lối nói thậm xưng khác!
 “... ví dù ở bất cứ phương trời nào, cơm hến cũng là một tấm giấy thông hành tình cảm để những người có chút duyên nợ với Huế tìm về nhau mà chan, mà húp, mà nghẹn ngào và rơm rớm nước mắt vì... cay!” (Cơm Hến Huế)
“Tô bún Huế cũng là một biểu hiện của văn hoá Huế vì đây cũng là một sự ‘dấy nghĩa’ trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẫn ‘bò nấu thì teo, heo nấu thì nở’ thành một thể hài hòa...” (Bún Bò Huế)
 Nói “đía” như Đoàn thì các ôn mệ xứ Huế gọi là “nói trạng”. Nhưng đây là một thứ “Nói trạng trên trời dưới đất nghe!” Ta hãy nghe Đoàn nói về sự tích của Bà Bún ở làng Vân Cù mà mê! Chàng Đoàn lại ví von nhiều điều về sợi bún: bún con, bún vắt, bún lá, bún mớ, bún ngảo, bún kim... Toàn là những chuyện mà ngay cả dân Huế cũng ít người biết... Đoàn viết văn đôi lúc lại nhắc đến những chuyện bất ngờ như chuyện người yêu ăn bún bò bị chút ớt đỏ dính vào... kẻ răng, trông rất dị, nên “... cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
- Ngó dữ chưa tề, dị chết!
Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!” (Bún Bò Huế)
Cái duyên kể chuyện của Đoàn là ở cái điểm ăn nói ngây thơ “tửng tửng”!
Cái lối viết của chàng gốc Huế ni nhiều lúc cứ kéo dài lòng thòng, lê thê, muốn nói về “chè sen Hồ Tịnh”, chàng ta lung khởi đã đời trên chén chè bắp Cồn! Ta hãy nghe chàng thanh minh về cái lối viết nầy: “Huế nhỏ lắm mà có khi đi loanh quanh một đời chưa thấu vì giang sơn Huế và tâm hồn Huế có quá nhiều ngõ ngách, khi thì dễ thấy sừng sững như sông Hương núi Ngự, khi lại khó hiểu như miễu Âm Hồn. Vì vậy, muốn kể chuyện Hồ Tịnh, tôi phải đi loanh quanh theo kiểu Huế từ Vỹ Dạ qua Cồn, trước khi vô cửa Thượng Tứ coi sen Hồ Tịnh,” (Chè Huế).
Đọc văn của Trần Kiêm Đoàn, tôi thấy phảng phất hơi hướm của nhiều cây bút sở trường về lối kể chuyện dí dỏm với cái lối lòng thòng đáng yêu, đại khái như Anatole France, Nguyễn Tuân, Vương Hồng Sển v.v...
Đọc Trần Kiêm Đoàn, nếu đọc qua loa để biết cốt truyện thì hỏng. Lý do là người ta không tìm thấy nhiều cái “sừng sững”, mà bỏ sót cơ man là những điều “ngõ ngách”.  Đoàn dắt ta đi vào cái nét “ăn” của người Huế qua các bài về Bún Bò, Cơm Hến, Chè Huế, Mắm Ruốc... rồi Đoàn lại đưa ta đi vô cái “dzụ” Ngủ Đò cấm kỵ!
Thế nào là “ngủ chay”, thế nào là “ngủ mặn” trên sông Hương được ngày xưa mệnh danh là giòng “Tiêu Kim Thủy”!
Một trong những chuyện kể của Đoàn được mang một sắc thái riêng biệt, nghiêm trang hơn, thầm lặng hơn, nhuốm mùi triết lý hơn là chuyện Tâm Huế.  Có lẽ đất Thừa Thiên từ cái thuở mới thành lập đã thấm nhuần truyền thống Phật Giáo, nên con người xứ Huế đã có một cái “Tâm” riêng biệt chăng? Câu chuyện của Đoàn xây dựng trên vấn đề “chấp” hay “phá chấp”! Tôi có cảm giác như được uống một chén trà pha điệu nghệ sau khi đọc chuyện về “Tâm Huế”!
Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm Đoàn đại khái được xây dựng trên những chất liệu đơn sơ mộc mạc như vậy nhưng viết một cách “nhập thể” và linh động, dí dỏm.
Sau khi đọc xong, tôi không biết phân loại nó vào thể loại sáng tác nào! Nhưng có một điều mà tôi xin đoan chắc với những người sắp đọc Trần Kiêm Đoàn là các bạn sẽ thấy thời gian mà các bạn bỏ ra để đọc là một thời gian lý thú trộn lẫn với nhiều bất ngờ!
Bạn không tin ư?. Hãy tìm đọc văn của chàng xứ Huế này đi!.
LÊ VĂN LÂN
Đọc "Chuyện khảo về Huế" của Trần Kiêm Đoàn
Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm Đoàn đến với tôi  trong lúc tôi đang chuẩn bị về thăm Huế lần thứ mười mươi. Hai chữ “Chuyện Khảo” thoạt tiên làm cho tôi ngần ngại. Có nên “khảo” Huế trước khi về Huế ở Huế bằng da bằng thịt không. Có nên khảo cổ Huế một cách lý thuyết như người ta đọc sách hướng dẫn du lịch trước khi về Huế không? Tôi bắt đầu đọc Chuyện Khảo Về Huế với một tâm trạng phân vân giữa sự ngần ngại nói trên và sự tò mò muốn biết Trần Kiêm Đoàn khảo về Huế như thế nào, bởi vì chủ quan tôi cũng tự cho mình là Huế “chay” và “sành” Huế hơn ai.
Chuyến về Huế lần này của tôi sau khi đã đọc “bản văn” Chuyện Khảo Về Huế hốt nhiên mang những dấu nhấn khác hơn những lần trước. Lần nầy về Huế cũng đi ăn cơm hến, đi ăn bún bò, đi ăn chè bắp, chè hột sen, ăn cơm Âm Phủ, đi qua cầu Trường Tiền, vào Thượng Tứ, vô Đại Nội, đi thuyền trên sông Hương, ngắm trăng thượng tuần lơ lững trên dãy núi Kim Phụng v.v… Nhưng tư thế và “cách nhìn” của tôi có hơi khác.  Tôi đã không vội vàng làm vừa lòng cái dạ dày trống rỗng vốn háu ăn của mình như trước, mà khởi sự cuộc ăn bằng một cái nhìn sành điệu của tác giả Chuyện Khảo Về Huế.
Tô cơm hến vừa được dọn lên bàn ở một quán nhỏ bây giờ đang nổi tiếng là ngon đặc biệt nơi Đò Cồn, quê hương của những con hến quý giá trong Chuyện Khảo Về Huế, nữ sĩ Tôn nữ Hỷ Khương (đã rời Huế khá lâu) và tôi nhìn vào tô cơm hến và cùng kêu lên một lượt “Chi lạ rứa! Răng tóp mỡ mà to cỡ ni?” Quả thật món ăn dọn lên với mấy miếng giả tóp mỡ cắt thô bạo đã vùi lấp phũ phàng những con hến mềm mại, ngọt nước làm cho Tô Cơm Hến không còn là tô cơm hến đặc trưng của Huế nữa. Và cũng như thế, ở quán bún bò, khi hỏi mấy o lấy bún ở mô, có biết nàng Bún hay không, thì nghe “ai biết mô tê!”. Tô bún bò dọn lên là một hỗn hợp bò heo cua, còn đâu là bún bò mụ Rớt một thời vang tiếng ở góc đường Chi Lăng, và cũng như thế ở nơi chè bắp Ngự Viên, ở nơi cơm Âm Phủ…
Chính trong lần về Huế nầy tôi mới nhận chân được rằng, ngay trong chốn Cố Đô đang có một hiện tượng “hững hờ” trong cách ăn, cách ở của Huế như sự thể hiện Đạo Tâm của con người Huế từ khi thành đô nầy được dựng lên. Một sự thờ ơ về cả hai phía, của người doanh nhân bán hàng và kẻ thưởng thức món hàng.
Trở lại Âu châu, tôi hiểu Chuyện Khảo Về Huế của Trần Kiêm Đoàn hơn trong sự mãi mê của tác giả đi “khảo” từng chi tiết nơi mỗi đặc trưng của Huế. Tác giả đi đến tận nguồn của mỗi vị thức ăn trên đầu lưỡi, tìm đến nơi đến chốn xuất xứ của mỗi món ăn. Và lên đường bằng tất cả nhạy bén và thức tỉnh của “mười giác quan” (sáu giác quan + khảo + khào + khao và giác quan thứ mười là năng khiếu dí dỏm tự trào của tác giả) để sục sạo tìm lại thời xưa đã mất như một M. Proust nào đó.
Ở giữa lối hành văn bóng bẩy, súc tích với nhiều dẫn chứng văn chương - cho thấy tác giả đã là một ông giáo sư văn chương tài năng một thời của trường Đồng Khánh (lắm lúc theo thị hiếu của tôi hơi nhiều một chút) - và cách kê khai khoa học tỉ mỉ từng lọai món ăn cách nấu - một thể loại mới của Chuyện Khảo Về Huế làm cho người đọc thú vị thâu nhận thêm kiến thức về nghệ thuật nấu ăn của Huế - tác giả đã phân tích và tổng hợp các điều kiện khả thể của mỗi đặc sản xứ Huế một cách vừa nên thơ, vừa thực tiễn và nhất là: Một cách chí tình với Huế!
CHÍ TÌNH VỚI HUẾ, đó là đặc trưng của Chuyện Khảo Về Huế.  (Hình như) tác giả đã viết về Huế với nước mắt của mình, mãi mê với Huế bằng một tấm lòng trân trọng. Nghiêm túc, cẩn mật, tôn kính gần như là sùng bái - nhưng rồi chợt pha một nụ cười “trần thế” vì… ”quá thương” - một cử chỉ đặc thù của người Huế - tác giả đã cho thấy rõ tính cách Huế trong mỗi điều nhỏ nhặt của cuộc sống hàng ngày ở Huế, một tô cơm hến bình dị, mấy vòng con bún uốn lượn trên tấm lá chuối xanh, một chén nước chấm, một chén chè hột sen, tiếng rao hàng khi não nùng khi thánh thót trong đêm khuya ở Huế… cái đẹp đơn sơ duyên dáng đi liền với cái ngon mặn mà.
Đi đến tận cùng của sự vật và sự việc, dù cho nó có nhỏ bé đến đâu, nâng nó lên thành một thể cách “Đạo của cuộc đời” trong ý nghĩa đi cho tròn cái đẹp cái tốt, đã là lối sống Đạo Tâm của Huế.  Ai nói chỉ có Nhật bản mới có “Trà đạo”?. Huế một thời đã tận tình với cách thể hiện tâm thức của mình, ngay trong tô cơm hến trên các nẽo đường, ngay trong sự chọn lựa màu sắc hài hoà của mỗi thức ăn bình dị hàng ngày.
“Tìm lại Huế xưa” trong Chuyện Khảo Về Huế chính là nói lên trọn vẹn từ kẻ tóc chân tơ nếp sống của Huế trong hiện sinh thường nhật đơn sơ của thành phố “cười trong nước mắt” này, nói bằng cả chân tình của một người thương Huế. Bởi thế Chuyện Khảo Về Huế đã gặp được Huế một thời trong mãi mãi.
Không cần trở về Huế, đọc Chuyện Khảo Về Huế, chúng ta cũng cảm thấy hơn một lần trở về với Huế bằng một tâm trạng kỳ lạ khó hiểu là “phải” trở về với Huế để… đi… tìm lại Huế.
Mùa Xuân 2002
Thái Kim Lan
"Chỉ khi có một tâm hồn nhuần nhuyễn, gắn bó sâu sắc với cỏ cây nơi sinh thành, tác giả mới diễn tả ký ức một cách tinh tế, tài hoa mà chân thật đến vậy. Tập “Chuyện Khảo Về Huế” là tiếng lòng của người con sông Hương núi Ngự, là tâm tình của tri kỷ và nỗi niềm của kẻ tha hương. Lời văn có cái thâm trầm sâu lắng mà lãng tử, đài các, thấp thoáng bóng dáng kinh kỳ và phảng phất mùi vị xứ sở..."
NGUYỄN HÙNG 
Nguồn: Báo Phụ Nữ, Sài gòn 5/1998
Trần Kiêm Đoàn
Theo http://www.trankiemdoan.net/





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Khải - Vui buồn một đời văn

Nguyễn Khải - Vui buồn một đời văn Xuất phát điểm từ một nhà báo cơ sở ở địa phương đã in đậm dấu ấn trong văn nghiệp của Nguyễn Khải: Mọi...