Trần Quý Cáp - Nhà tư tưởng
theo khuynh hướng Duy tân
Trần Quý Cáp (1870 - 1908) tự Dã Hàng và Thích Phu, hiệu Thai
Xuyên, người thôn Thai La, xã Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sinh ra
trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng với bản tính thông minh, chịu khó học
tập, ông đã trở thành một trong sáu học trò giỏi ở trường tỉnh lúc bấy giờ
(cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan
Quang). Kỳ thi năm 1904, ông đỗ Nhất giáp Tiến sĩ, trên Đặng Văn Thụy và Huỳnh
Thúc Kháng. Ông từ chối làm quan triều đình. Với lòng yêu nước, ông đã tham gia
phong trào Duy tân cùng với Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và cùng các vị này
vào Nam Trung bộ để vận động duy tân, lập các hội tân học, hội nông, hội buôn.
Năm 1905, trên đường vào Nam, tại Bình Định, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng
và Trần Quý Cáp đã lấy tên Đào Mộng Giác làm các bài thơ Chí thành thông
thánh và Lương ngọc danh sơn để bài xích khoa cử, cổ động tân học,
gây tiếng vang lớn, lay động tư tưởng các trí thức Nho học.
Năm 1906, chiều theo ý mẹ già, Trần Quý Cáp nhận chức Giáo thụ
Thăng Bình, dù bản thân ông không muốn nhận. Ông mời thầy dạy chữ quốc ngữ và
tiếng Pháp ở trường, tạo không khí mới cho việc học, đồng thời tuyên truyền cho
phong trào Đông du. Năm 1908, ông làm Giáo thụ ở phủ Ninh Hòa (Khánh Hòa ngày
nay). Khi người dân ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung nổi lên đấu tranh chống
thuế, nhà chức trách Khánh Hòa đã chú ý đến ông với tư cách lãnh tụ của phái
tân học. Sau khi phong trào bị đàn áp, nhà chức trách Khánh Hòa đã lục soát tài
liệu, thư từ của ông, họ tìm thấy thư ông gửi cho bạn có viết “ngô dân thử cử,
khoái, khoái!” (dân ta làm như vậy, thích, thích quá!) nên đã kết án ông “mạc
tu hữu” (tức là không theo khuôn phép, đại phản nghịch, không cần có) và xử tử
ông tại bãi sông Cạn, cầu Phước Thạnh, phủ Diên Khánh vào ngày 17 tháng 5 năm
Duy Tân Mậu Thân (tức ngày 15 - 6 - 1908), khi đó ông mới 38 tuổi.
Trần Quý Cáp là một chí sĩ nhiệt tâm yêu nước, thiết tha với
sự nghiệp cứu nước. Có thể nói, tư tưởng và hoạt động cứu nước của ông đại diện
cho tư tưởng và hành động của lớp trí thức Nho học Việt Nam trưởng thành đầu thế
kỷ XX. Trước tác của Trần Quý Cáp để lại tuy không nhiều, nhưng cũng đã thể hiện
quá trình chuyển biến tư tưởng của ông, thể hiện tư tưởng yêu nước, hy sinh vì
dân, vì nước của ông, như Phú Hoàn bích quy Triệu, Tặng Phan Bội Châu, Vãn
quá Hải Vân sơn, Đà Nẵng cảm hoài, Sĩ phu tự trị luận, Tôn chỉ Duy tân, Đánh đổ
quan tham lại nhũng, Bài hát khuyến học chữ quốc ngữ, Phản đối cái học từ
chương, Nhắn các nhà vọng tộc, Khuyến nông ca, Bài ca hô hào hùn vốn buôn
chung, Trúc thất hoành sơn phú, Bài ca trù, Bài thơ cái trống, Bài thơ nước lụt…
Trần Quý Cáp trước hết là một Nho sĩ, theo con đường khoa cử
Nho học. Kinh sách Thánh hiền đã trang bị cho ông những kiến thức cơ bản và sâu
sắc về nhiều lĩnh vực như bao Nho sĩ Việt Nam trong lịch sử và ở thời đó. Ông
trưởng thành trong thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là khi chủ quyền dân tộc không
còn, vua quan nhà Nguyễn không còn thực quyền, nhân dân khốn khổ trong vòng kìm
kẹp, bóc lột của thực dân, phong kiến. Trần Quý Cáp thấu hiểu tình cảnh đó của
nước, của dân. Khi tiếp thu tư tưởng yêu nước của cha ông trong truyền thống,
cùng với vốn kiến thức uyên thâm, ông đã thể hiện tư tưởng yêu nước theo
khuynh hướng duy tân.
Trước hết là về tư tưởng “trung”. Tư tưởng trung -
hiếu là tư tưởng cơ bản của đạo đức Nho giáo, là nền tảng của đạo cương - thường
trong tư tưởng chính trị của Nho giáo. Trần Quý Cáp đã tiếp thu sâu sắc tư tưởng
đó. Trong các trước tác của mình, ông đã nhiều lần ca ngợi những tấm gương trung
hiếu của các nhân vật lịch sử được ghi trong sử sách Nho giáo, như Thân Bao Tư,
Hàn Trương Tử (Trương Tử Phòng), Tống Thiên Trường (Văn Thiên Trường). Nhưng, từ
thực tiễn đất nước, ông đã chứng kiến sự phản động, thất bại của triều đình
phong kiến trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Ông đã phát triển tư tưởng
“trung” của các Nho sĩ yêu nước Việt Nam, đó là trung với nước, đặt vị trí, vận
mệnh của đất nước, quốc gia, dân tộc lên tối cao, từ đó thể hiện tư tưởng và
hành động “trung” của mình.
Ông phê phán tư tưởng chính trị, mô hình chính trị mà chính
trị quan Nho giáo đã trang bị cho những Nho sĩ như ông. Ông phản đối chế độ
phong kiến quý tộc, tạo ra đội ngũ các nhà vọng tộc, chỉ biết ăn lộc của vua,
bóc lột dân, nhưng lại cam chịu nhục khi bị người ngoại quốc trói buộc trong chế
độ bảo hộ. Ông cay đắng khi thấy nước mất, dân bị làm nô lệ mà quan lại triều
đình vẫn vì cái lợi của mình mà làm ngơ.
“Dân ta nay cực đà như chó,
Sao quan còn võng đỏ ngáng ngà…
Dám hỏi may người công khanh, hầu bá
Ăn cơm vua, cầm quyền nước, ngồi mà lo những chuyện chi chi!…
Trần Quý Cáp cho rằng, lỗi quan lại đớn hèn như vậy chủ yếu
thuộc về lối giáo dục, bổ nhiệm quan lại của chế độ phong kiến phương Đông. Ông
đả kích lối học khoa cử, tầm chương, trích cú, phi thực tiễn mà nền giáo dục
Nho học đã rèn luyện cho Nho sĩ Việt Nam. Ông cho rằng, giới trí thức Nho sĩ Việt
Nam chỉ giỏi văn sách theo lối cổ học, “ngũ ngôn bát cổ đôi câu”, “những nghĩa,
những văn, những thi, những phú, những trường thiên, đoản cú, những tán, tự bi,
minh”, chìm đắm trong việc khen chê những sự kiện trong lịch sử nước Tàu “bia dội
đường Nghiêu Chích khen chê, lời văn rặt giọng Tàu bè”.
Bản thân ông cũng đã từng học theo lối đó nên ông thấu hiểu sự
lạc hậu, thiếu toàn diện của nó. Ông hài hước mà đắng cay nhận ra rằng, Nho sĩ
được coi là người học rộng, kẻ sĩ, người tài trong thiên hạ mà “Đông Kinh, Tây
Cống hỏi ngài ở đâu? Ngẩn ngơ ngài chỉ lắc đầu”(2). “Tò mò hỏi năm châu lớn nhỏ,
ủa, việc ngoại dương, tao có biết mô na”(3).
Ông còn mạnh dạn đả kích cả lối sống tiêu cực của trí thức,
người thì đắm chìm vào hư danh, kẻ thì trở thành những tên “cướp của ăn không”,
cúi lạy thực dân. Ông cho rằng, sống như thế là vô ích, không xứng với lý tưởng,
chí khí của nhà Nho, thật đáng hổ thẹn với núi sông, đất nước.
Bên cạnh đó, Trần Quý Cáp có tư tưởng rất đáng chú ý về
quốc gia, dân tộc. Cùng với lòng tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc, ông
luôn muốn khơi dậy tinh thần yêu nước truyền thống, chấn hưng non sông, đất nước,
thức tỉnh Nho sĩ Việt Nam ra khỏi nghiệp khoa cử, hư danh, cứu dân, cứu nước.
Ông viết:
“Ai ôi đứng dậy mà trông
Nước ta một góc Á Đông kém gì!
Trên Hồng Lạc dưới thì Trần Lý
Kẻ nhơn tâm sĩ khí ai bì”(4).
Ông khích lệ ý chí, tinh thần học hỏi cái mới của sĩ phu, hy
vọng tự cường, cứu giống nòi. Từ niềm tự hào dân tộc, từ thực tiễn của đất nước,
từ sự thất bại của triều đình, thất bại của các phong trào yêu nước theo đường
lối đấu tranh truyền thống, ông cùng với các Nho sĩ tiến bộ chủ xướng duy tân.
Khi đó, các Nho sĩ đầu thế kỷ XX đã được đọc những tác phẩm không hề có trong
chương trình của khoa cử Nho giáo, đó là các tân thư, tân văn từ Trung Quốc du
nhập vào nước ta. Tân thư, tân văn được coi như một trong những tiền đề tư tưởng
quan trọng dẫn đến sự chuyển biến, duy tân tư tưởng và hành động của các Nho sĩ
yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tân thư, tân văn vào Việt Nam bằng nhiều con
đường khác nhau, nhưng đều gặp khó khăn trong việc tuyên truyền sách vở cũng
như tư tưởng vì vấp phải sự kiểm duyệt của nhà nước phong kiến và thực dân
Pháp.
Trần Quý Cáp là Nho sĩ duy tân cùng thời với Phan Chu Trinh
và Huỳnh Thúc Kháng. Ông đã thể hiện tư tưởng duy tân của mình bằng những hoạt
động khá sôi nổi và mạnh mẽ. Trần Quý Cáp cho rằng, nước muốn độc lập, dân được
tự do, thì một mặt, cần đấu tranh chống lại chế độ phong kiến quan
liêu, chống thực dân, đế quốc; mặt khác, phải chú trọng đến phát triển
dân trí. Như vậy, trong tư tưởng Trần Quý Cáp, quốc gia dân tộc độc lập, cường
thịnh luôn gắn liền với tự do, văn minh, phú cường của đời sống nhân dân.
Cuối cùng là tư tưởng về dân của Trần Quý Cáp. Ông
tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa, trọng dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Đồng thời,
ông đã tổ chức, cổ động, tham gia cả ba mặt của phong trào duy tân là giáo dân,
dưỡng dân và tân dân.
Về giáo dân, ông khuyên dân ta nên học chữ quốc ngữ, học các
sách mới của nước ta, nước ngoài, đúc kết tư tưởng, đường lối Á, Âu thành tư tưởng,
đường lối của ta. Khi dân ta đã nâng cao dân trí, hiểu biết mọi việc diễn ra
trong nước và trên thế giới, hiểu được quyền lợi, văn minh thì sẽ giành được độc
lập. Ông là một trong số ít những nhà duy tân vừa tham gia chính quyền, vừa chủ
động đi diễn thuyết cho dân chúng. Nội dung các bài diễn thuyết của ông chủ yếu
vạch rõ các tập tục hủ lậu của nước ta, ngu hèn của dân ta, khơi dậy liêm sỉ,
tinh thần tự hào dân tộc, yêu nước của dân ta. Ông là một người học rộng, tài
cao, có đức, lại có danh vọng nên các cuộc diễn thuyết của ông luôn đông người
nghe, tin và làm theo lời khuyến khích của ông. Ông mở trường dạy học theo mô
hình nghĩa thục. Nhà trường bồi dưỡng và nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
chí tiến thủ cho quần chúng; truyền bá một nền tư tưởng mới và nếp sống văn
minh tiến bộ; phối hợp hành động với các sĩ phu xuất dương và hỗ trợ cho phong
trào Đông du, Duy tân đang phát triển trong cả nước.
Trần Quý Cáp và những người khởi xướng, phát động phong trào
duy tân bài xích khoa cử, chống đối Hán học, cổ động tân học, nhưng không phải
là bài xích tất cả, chống đối tất cả, không quá cuồng nhiệt vứt bỏ toàn bộ cái
cũ, mà chủ trương tiếp thu cái mới, cái hay, chấn hưng, phát huy những tinh túy
của truyền thống. Chủ trương khuyến học của Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng
coi đối tượng chính là lớp người thiếu học ở nông thôn, là số đông nhân dân lao
động. Bởi, họ cần học để tiếp thu những kiến thức mới, để thoát khỏi cái tối
tăm của cường quyền, để tham gia hội nông, hội thương…
Về dưỡng dân, Trần Quý Cáp mong muốn cuộc sống của nhân dân
được cải thiện, thoát khỏi cảnh bần, hàn. Hơn ai hết, ông thấu hiểu cách làm ăn
của một đất nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế què quặt do thực dân khai thác,
bóc lột, còn người khốn khổ nhất là nhân dân lao động. Ông viết Khuyến
nông ca, Bài ca hô hào hùn vốn buôn chung,… những mong phổ biến tư tưởng kinh tế
mới, phương thức sản xuất mới. Điểm xuất phát trong tư tưởng mới về kinh tế của
Trần Quý Cáp là quan điểm tương thân, tương ái, tương trợ của dân trong một nước,
“đem tâm huyết nhiễm chan dòng máu đỏ”, “người có của, kẻ có công, xúm nhau lại
cùng đem lòng thân ái”. Theo ông, khi người dân biết đoàn kết, cùng nhau làm
kinh tế, dân sinh được cải thiện thì sẽ có điều kiện để đấu tranh giành độc lập.
Mặc dù tính hiện thực trong tư tưởng và chủ trương của Trần Quý Cáp chưa cao,
nhưng xét dưới góc độ phát triển của tư duy, có thể nói, tư tưởng của Trần Quý
Cáp và các nhà duy tân là một bước tiến bộ về chất so với trí thức Nho học Việt
Nam lúc bấy giờ.
Việc làm của ông đã nâng cao dân trí, cải thiện rõ rệt dân
sinh trong các vùng ông đã đi qua, đồng thời với đó, ông trở thành cái gai càng
ngày càng sắc nhọn trong con mắt của các nhà cầm quyền, cả phong kiến lẫn thực
dân. Đối với thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, khi phong trào cải
cách xã hội thâm nhập và lan rộng trong quần chúng, kết hợp với yêu cầu kinh tế
của họ thì nó sẽ biến thành phong trào có tính chất bạo lực cách mạng. Trên thực
tế, các sự kiện hội thương, hội nông, các cuộc diễn thuyết, mở trường dạy quốc
ngữ,… chỉ là những phần nhỏ của phong trào chung để đi đến cuộc biểu tình đòi
giảm bớt sưu thuế của nhân dân miền Trung năm 1908. Đó có lẽ là cuộc biểu tình
vĩ đại đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, với quy mô và tính chất nằm ngoài dự kiến
của các sĩ phu duy tân, trong đó có Trần Quý Cáp. Tuy tỉnh Khánh Hòa, nơi Trần
Quý Cáp làm chức Giáo thụ, không nổ ra biểu tình, nhưng bọn quan lại tay sai
tìm cách hạ ngục và thảm sát ông. Chúng quy tội ông đề xướng dân chủ, dân quyền,
đại phản nghịch, xử tử ông bằng hình thức dã man và hèn hạ nhất, đó là chém giữa
bãi sông chợ Cạn. Trước khi qua đời, Trần Quý Cáp vẫn thể hiện khí tiết của một
vị anh hùng, vì nước, vì dân, không sợ gian nguy, sẵn sàng hy sinh. Ông đã khẳng
khái nhắn lại người đời rằng, “thà chết! chết trong hơn sống đục”.
Như vậy, từ một người được đào tạo nơi cửa Khổng sân Trình, đỗ
đạt cao, nhưng với tinh thần yêu nước cao độ, Trần Quý Cáp đã từ bỏ hẳn văn
chương cử nghiệp, chuyên tâm đọc tân thư, theo tân học. Từ đó, trong tư tưởng của
ông đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ tư tưởng Nho giáo sang tư tưởng dân chủ
mang khuynh hướng phương Tây. Tư tưởng mới này ngay lập tức được ông chuyển
thành hoạt động thực tiễn, từng bước thực hiện khát vọng đưa xã hội Việt Nam
thoát khỏi cảnh đô hộ, nước Việt Nam trở thành nước cường thịnh. Song, cũng cần
phải thấy rằng, tư tưởng Trần Quý Cáp trước hết tiếp thu từ tư tưởng, tinh thần
yêu nước truyền thống Việt Nam. Ông đã tiếp thu phong cách tư duy linh hoạt, tiếp
biến, dung thông tư tưởng sáng tạo vốn là đặc sắc của lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Ông là Nho sĩ, quan lại, nhưng yêu nước, căm thù giặc, căm ghét chế độ
phong kiến. Ông làm quan nhưng thân dân, gần dân, thấu hiểu nỗi thống khổ của
dân, thấy được sức mạnh của dân. Ông và các nhà duy tân đều lấy cơ sở là dân, đấu
tranh cho quyền dân chủ, quyền lợi thiết thực của dân, với các hoạt động như mở
trường học, lập hội nông, hội thương, cải cách phong tục… Tư tưởng và hành động
vì dân, vì nước của Trần Quý Cáp tiêu biểu cho tư tưởng và hành động yêu nước của
trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX tự chuyển biến để đáp ứng nhu cầu dân tộc.
Trần Quý Cáp và các nhà Nho yêu nước đầu thế kỷ XX là những
người khởi đầu giai đoạn tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, nên trong
tư tưởng và hành động cứu nước của ông còn có những hạn chế. Đó là, ông chưa nhận
thức và đánh giá đầy đủ bản chất của thực dân cùng chính sách thuộc địa. Ông
không nhận thấy rằng, không thể thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh khi còn tồn tại cùng một lúc hai thể chế chính trị phong kiến và thực dân.
Hơn nữa, ông và các trí thức Nho học thời kỳ đó tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản
phương Tây chủ yếu qua tân thư, tân văn từ Trung Quốc, nên kiến thức của các
ông về văn minh phương Tây, về nền dân chủ, nền kinh tế phương Tây và Nhật Bản
không đầy đủ, không bản chất, không đặc trưng, thiếu thực tiễn. Ông cũng đã tự
thay đổi thế giới quan, nhưng thế giới quan mới của ông chưa có điều kiện để
hoàn thiện và do vậy, hạn chế trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Thực ra, hạn
chế này trong tư tưởng của Trần Quý Cáp có nguyên nhân khách quan, thuộc về thời
đại là chủ yếu. Bản thân ông là tấm gương nỗ lực phi thường, tấm gương hy sinh
vì độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc, của nhân dân. Lịch sử tư tưởng Việt
Nam mãi mãi ghi nhận công cuộc duy tân tư tưởng của ông và thế hệ ông. Công cuộc
duy tân của các ông là điều kiện, tiền đề cho lịch sử tư tưởng Việt Nam tiếp tục
tiếp biến, đạt thành quả. Các ông chính là những người giữ vai trò gạch nối thế
hệ trí thức Nho sĩ yêu nước và thế hệ trí thức yêu nước cách mạng sau này.
Ghi chú:
(2) Nguyễn Q. Thắng. Phong trào duy tân - các
khuôn mặt tiêu biểu. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.282.
(3) Tổng tập văn học Việt Nam, t.21 (Phản đối cái học từ
chương). Sđd., tr.738.
(4) Nguyễn Q. Thắng. Phong trào duy tân - các khuôn mặt
tiêu biểu. Sđd., tr.267.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét