Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng 1
Tựa
Kinh Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở
định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn
Đông. Dịch trải rộng con đường cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn
sinh; Thi là tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm của tình
người và lòng người, được mang ra để lịch nghiệm cuộc Lữ mà Dịch đã phơi bày ra
đó. Âm hưởng của Thi là tiếng vang của nhịp bước trong cuộc Lữ.
Nhưng thảm họa lịch sử, vì những tham vọng cuồng dại si ngốc
của con người, càng lúc càng đổ dồn lên cuộc Lữ. Thi đã đổi cách điệu trở thành
những âm vang thống thiết của Ly tao kinh. Cuộc Lữ trở thành cuộc đày ải; Thi
cũng trở thành ẩn tình hoài vọng Quê Hương; hoài vọng những phương trời viễn mộng
của Quê Hương. Một lúc nào đó, Cuộc Lữ bị vây phủ trong trận đồ mù mịt của tư
tưởng, Thi là chứng tích sa đọa của một thời. Buổi thịnh triều rầm một nhà Đường,
Thi như một con thuyền biểu diễn tất cả tài hoa của nó trên ba đào lịch sử, giữa
một đại dương rập rình hiểm họa. Nó vẫn đủ khả năng đưa người vào lục địa, hay
lướt sóng đi về vô tận khơi vơi hoằng viễn. Nhưng cũng có thể âm thầm xô ngã vô
số người say sóng. Lý Bạch là một trong những tay lái cự phách, và có thể là nhất.
lãng đãng với tài hoa vừa lãng mạn vừa kiêu hùng, nên quyến rũ và tạo ra một
trường say sóng. Say trong một buổi tiệc, lượm lặt những vật phế khí của trời đất,
để thống ẩm cuồng ngôn. Gậy lục ngọc của Lý Bạch được mượn để gõ lên đầu lịch sử,
đẩy lịch sử đi vào mê cung bát trận đồ. Chỗ hay không bù lại chỗ dở; cái được
không thấm vào đâu với cái mật. Thi ca khai diễn một trường hưởng thu cho những
tay đầu cơ lịch sử có hạng.
Cái đó chỉ là dự tưởng về những chuyện có thể có cho Thơ mà
thôi, nên khỏi phải nói dài dòng.
Thơ vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời đại
và Lịch sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo đôi cánh Thi và Dịch để đi về nơi Hoằng
viễn, dẫn Lịch sử Uyên nguyên tụ hội với Thời đại. Hình như những sự này tôi
nghe được từ nơi thơ của Đông Pha, có nghe lộn hay không, thì không biết. Nhưng
cứ xin lấy chỗ nghe được đó ra để bố trí cho quyển sách này.
Tuệ Sỹ
NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG
I/ KHUYẾT NGUYỆT QUẢI SƠ ĐỒNG
缺
月 掛
疏 桐
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi
(THÂN PHẬN)
1. Khuyết nguyệt; đó là mảnh trăng non, là con trăng sơ huyền.
Trăng của thời kỳ vừa chớm, và thơ cũng sẽ bắt đầu từ một cõi mộng đơn sơ. Những
cái u sầu hay hoan lạc trong mỗi cuộc giao tình, phảng phất một ẩn ngữ cao kỳ.
Ân tình cùng giao thoa trong tương ứng, nó đơn giản như hai với hai là một. Rồi
từ đó sẽ mở ra một phương trời đọa đày viễn mộng. Cuộc tình tan rã, thì cuộc
chơi đột ngột phơi bày trong tuế nguyệt. Bấy giờ là mùa thu; và tóc trắng tung
bay trong cõi mộng kiêu hùng. Mùa đó, nước lũ ào ạt đổ xuống Trường giang; rầm
rộ tràn qua những đống loạn thạch, lũ lượt trôi phăng như mây ngàn bạt đỉnh,
sóng kinh hoàng xẻ đôi hai bờ bến, dâng cao như đống tuyết bay: Giang sơn
như họa, Anh hùng hào kiệt một thời!
Thế thì, trong cõi thơ, trăng cũng kiêu hùng như gió ngàn bạt
đỉnh. Từ đó, nhìn lại con trăng như sợi lông mày vắt ngang trên con mắt sầu mộng
đăm chiêu; mảnh trăng non trơ vơ trên ngọn ngô đồng thưa lá: thơ là ẩn ngữ hay
không là ẩn ngữ? Vừa ẩn ngữ, vừa không là ẩn ngữ: Trời viễn mộng đọa đày
đi mấy thuở; Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa mù khơi?
Thơ không là ẩn ngữ. Trong cuộc giao tình vừa khởi sự, cuộc
thơ cũng phơi bày lồ lộ những nét thanh kỳ tú lệ; cũng lãng đãng như màn trăng
trong những giọt sương lóng lánh; cũng tươi như nụ hồng vừa chớm nở; cũng trong
ngọc trắng ngà như băng tuyết; và cũng trơ vơ như chiếc sao Hôm trong buổi
hoàng hôn, tư lự như sao Mai giữa trời khuya ngất tạnh. Vậy, những cái đó không
là ẩn ước hay ẩn mật; mà chính là những tâm tình được thổ lộ phơi trần, hoặc bằng
lân la nay khóm trúc mai chồi lan; hoặc đột ngột như gió dục mây Tần. Tâm tình
đã thổ lộ, thì cuộc giao tình thắm thiết mở ra. Bấy giờ mới là lúc:
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
Trăng nằm xuống ruỗi dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã động chân trời
Từ tâm tình đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc chơi, rồi từ
cuộc chơi đến cuộc hẹn; thế là, đang lân la, bỗng đột ngột phát hiện một phương
trời viễn mộng, xa xôi. Trong cõi đó, lữ khách bao giờ cũng thấy mình đang bươn
bả ra đi, đi biền biệt, đi triền miên, tưởng như không bao giờ có bến bờ để đổ
lại; nhưng, đi và đi mất, trong từng khoảnh khắc, cái đến và nơi đến, đã đến tự
bao giờ. Cuộc tình chia phôi từ độc đó. Bên này là những dòng tuế nguyệt cứ mãi
trôi đi, và bên kia là một chân trời đồng vọng không có đến. Bóng chiều rủ lên
tàng đá bên đường, đọng trong mắt của người một mối sầu cô lữ. Không vì ẩn ngữ,
nhưng vì đã phơi bày tất cả ra đó, nên cuộc tình và cuộc chơi hay cuộc lữ cuộn
tròn trong ẩn ngữ thiên thu. Đó là một tình tự hoang đường? Hoặc giả:
Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi...?
2. Đó là tình thơ trong cuộc thơ và cõi thơ; không quyết là của
Đông Pha hay không là của Đông Pha. Nhưng người chơi thơ, mở cuộc giao tình với
cuộc thơ, ban đầu chỉ như đi tìm một cõi mộng đơn sơ; rồi đột ngột, và sững sờ,
cảm khái như một mối sầu cô lữ, thấy mình lưu lạc ở một phương trời đọa đày viễn
mộng
Bây giờ bắt đầu bằng con trăng sơ huyền, mảnh trăng non treo
trên ngọn ngô đồng thưa lá. Trăng trên đồi xuân cỏ mượt, hay trăng trong mùa
thu tóc trắng. Nói chung, là trăng trong cõi mộng đơn sơ. Trong đó, tình thơ đồng
vọng từ mùa xuân, từ lúc hoa bắt đầu rã những cánh hồng xơ xác:
Hoa thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu
Yến tử phi thời
Lục thủy nhân gia nhiễu
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
|
花 褪 殘 紅 青 杏 小
燕 子 飛 時
綠 水 人 家 遶
枝 上 柳 綿 吹 又 少
天 涯 何 處 無 芳 草
|
Hoa đang rã những cánh hồng xơ xác, và cây hạnh xanh gầy. Khi
con én liệng, dòng nước biếc lượn quanh. Lớp bụi phấn bông liễu trên cành, gió
thổi rồi vơi dần. Ven trời hàng vạn nẻo, nơi nào không là cỏ non?
Đồng vọng xuân mà cũng là đồng vọng thu; đồi cỏ non và tóc trắng.
Ân tình một nỗi mà chia hai. Tình thơ là tình xuân, nhưng tình người đã quá xế
muộn, của tuổi già, cái tuổi gần 60, trong những ngày bị đày ải, lưu lạc nơi cảnh
man dại Nam hoa.
Lúc đó, và năm đó, Giáp tuất (1094), ông 59 tuổi, đang từ chức
Đoan minh điện kiêm Thị độc học sĩ, ngoại nhiệm ở Định Châu, bị giáng chức, đày
đi Hải Nam. Đó là đoạn đường gian nan hiểm trở. Trên đoạn đường đó, thơ ông
vang lên những tiếng dội lạ lùng. Khổ đau cùng cực, trộn lẫn với hào khí ngất
trời; nhưng lại đượm những chân tình hoài vọng xa xôi.
Đường đi xuống Hải Nam, ngang qua Cống châu; sông Cống chảy
qua 18 ghềnh thác đổ. Ngày mồng 7 tháng 8 (âm lịch) năm đó, bắt đầu vào Cống
châu, và ngang qua một thác nước ào ạt, được mệnh danh là thác Hoàng khủng. Cái
tên đó cũng đủ thấy các thế tuôn trào của nó. Trong cái kinh hoàng nơi khách địa
đó, thơ ông vọng về cố quận khơi vơi. Nơi quê ông, có phố chợ, được gọi là phố
Hỉ hoan. Hỉ hoan và Hoàng khủng, tình trong một mà cảnh tượng đôi bờ. Bên này
là những nét kiêu hùng man dại của đất khác; bên kia là tình nồng đượm của quê
hương. Chỗ đó, ông gọi là "lao viễn mộng", là đọa đày viễn mộng.
Bốn chữ ấy, vừa kiêu sa vừa cô quạnh, mùa thu và tóc trắng hiện ra những nét vừa
khốc liệt vừa man mác. Bài thơ của ông làm lúc đó
Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân
Thập bát than đầu nhất diệp thân
Sơn ức Hỉ hoan lao viễn mộng
Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần
Trường phong tống khách thiêm phàm phúc
Tích vũ phù chu giảm thạch lân
Tiện hiệp dữ quan sung thủy thủ
Thử sinh hà chỉ lược tri tân
|
七 千 里 外 二 毛 人
十 八 灘 頭 一 葉 身
山 憶 喜 歡 勞 遠 夢
地 名 惶 恐 泣 孤 臣
長 風 送 客 添 帆 腹
積 水 浮 舟 減 石 鱗
便 恰 與 官 充 水 手
此 生 何 止 略 知 津
|
Hai thứ tóc, người đi ngoài bảy nghìn dặm;
Một thân côi, thác đổ xuống mười tám ghềnh.
Núi nhớ Hỉ hoan đọa đày viễn mộng;
Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần.
Gió ruỗi khách cánh buồm mở rộng,
Mưa đầy sông thuyền nhẹ lênh đênh.
Góp sức quan thử làm thủy thủ,
Đời trôi xuôi bờ bến là đâu?
Con đường đó còn mở rộng bát ngát những hùng ca và bi ca. Thơ
ông bấy giờ như cánh chim hồng lẻ loi bạt gió.
Ngày 3 tháng 10 năm đó, đến Huệ châu, thuộc tỉnh Quảng đông
ngày nay. Ông ở đây gần 4 năm, rồi bị đày xa xuống nữa.
Tháng 11 năm đó (giáp tuất), ông làm bài thơ đùa Triêu Vân.
Ông tự viết lời dẫn cho bài thơ, nói:
"Đời bảo Lạc Thiên (bạch Cư Dị) có bài từ Chúc lạc mã
phóng theo điệu Dương liễu chi, khen con ngựa lúc chủ già bịnh không
nỡ bỏ. Nhưng tôi nằm mộng có làm mấy câu thơ:
Xuân tận nhứ phi lưu bất đắc
Tùy phong hảo khứ lạc thùy gia
|
春 盡 絮 飛 留 不 得
隨 風 好 去 落 誰 家
|
"Thơ lạc Thiên cũng nói:
Bịnh dữ lạc Thiên tương bạn trụ
Xuân tùy Phàn tử nhất thời quy
|
病 與 樂 天 相 伴 住
春 隨 樊 子 一 時 歸
|
"Nhà tôi có vài thị thiếp; bốn, năm năm đã nối nhau bỏ
đi; chỉ một mình Triêu Vân theo tôi đày sang Nam. Nhân đọc thơ Lạc Thiên, làm
bài thơ đùa đó. Triêu Vân họ Vương, người Tiền đường, có con tên Cán, chưa đầy
năm đã yểu"
Bài thơ đó:
Bất tợ dương chi biệt Lạc Thiên
Hiệp như Thông Đức bạn Linh Huyền
Ả nô Lạc Tú bất đồng lão
Thiên nữ Duy Ma tổng giải Thiền
Kinh quyển dược lô tân hoạt kế
Vũ xam ca phiến cựu nhân duyên
Bất tác Vu dương vân vũ tiên
|
不 似 楊 枝 別 樂 天
恰 如 通 德 伴 伶 玄
阿 奴 絡 秀 不 同 老
天 女 維 摩 總 解 禪
經 卷 藥 爐 新 活 計
舞 衫 歌 扇 舊 因 緣
丹 成 逐 我 三 山 去
不 作 巫 陽 雲 雨 仙
|
Gọi là đùa, mà kỳ thực là để tạ cái chân tình thắm thiết của
Triêu Vân hầu ông. Nàng cốt cách như thiên nữ, dù không là sắc nước hương trời,
nhưng cũng trang nhã thanh cao. Trước kia, nàng chỉ biết ca hát và múa. Từ khi
theo ông đi đày, nàng làm bếp; tợ như ngọc nữ quạt lò thuốc luyện đan. Khi nào
tiên đan luyện thành rồi, sẽ đuổi ông chơi xa ngoài năm non bảy núi, không làm
tiên nữ mây mưa trên đỉnh Vu dương nữa.
Một ngày nhàn hạ, ông ngồi với Triêu Vân. Lá ngô đồng vừa bắt
rơi vài ngọn, gió heo may vừa trổi, và sương thu lạnh. Ông bảo Triêu Vân cầm cốc
rượu làm phách đánh nhịp, hát bài từ của ông, theo điệu Điệp luyến
hoa:
Hoa thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu.
Yến tử phi thời,
Lục thủy nhân gia nhiễu.
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu.
Thiên nha hà xứ vô phương thảo
Tường lý thiên thu tường ngoại đạo,
Tướng ngoại hành nhân,
Tường lý giai nhân tiếu.
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu,
Đà tình khước bị vô tình não.
Ca và Triêu Vân sụt sùi khóc, nước mắt đẫm áo. Ông hỏi tại
sao khóc. Nàng chỉ vào bài từ, chính là ở chỗ
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu.
Thiên nha hà xứ vô phương thảo
Trên cành liễu, bông liễu đã kết trái, trên hạt của nó có những
sợi lông như lông tơ của cái kén, gọi là liễu miên, hay bụi bông liễu.
Ngọn gió muộn của mùa thu thổi qua, bông liễu bay đi; ngoài kia bông liễu tản mạn
triền miên, tản mạn bay đi, ngoài kia ven trời vạn nẻo, đâu không là cỏ non!
Nàng khóc là ở chỗ đó. Ông cười lớn: Chính là chố ta ngậm
ngùi mùa thu, mà nàng khóc với mùa xuân.
Mùa xuân và mùa thu, cùng trong một tình thơ đó. Tình đạm bạc
như bông liễu; và cũng tình đó, triền miên như bụi bông liễu. Mịn như tơ trời
và lây lất triền miên theo gió thổi; trên cành liễu và ngoài kia mấy vạn ven trời
diệu vợi. Càng đơn bạc, càng nồng nàn.
Tình vương vấn như sợi tơ trời, triền miên và thắm thiết. Triền
miên và triền miên, một thứ triền miên kỳ lạ. Triền miên đó là cái bịn rịn, cái
dây dưa, cái vương vấn, cái quyến luyến, của bụi bông liễu như tơ trời. Lồ lộ
trong cơn gió thanh xuân, mà e ấp trong một tình thơ sầu vạn đại.
Cuộc giao tình dồn lại rồi chia phôi:
Tường lý thu thiên tường ngoại đạo
Tường ngoại hành nhân,
Tường lý giai nhân tiếu.
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu
Đa tình khước bị vô tình não
|
牆 裏 鞦 韆 牆 外 道
牆 外 行 人
牆 裏 佳 人 笑
笑 漸 不 聞 聲 漸 小
多 情 卻 被 無 情 惱
|
Bên trong tường là cái xích đu và bên ngoài tường là con đường
cái. Bên ngoài tường là lữ khác đi và bên trong tường là người đẹp đang cười.
Cười càng lúc càng nhỏ và tiếng cười càng lúc càng ngậm ngùi. Cái đa tình đã
thường bị cái vô tình làm ray rứt.
Tình thơ, và cuộc tình trong thơ, thắt chạt rồi buông lơi;
gió thổi cuộc tình ra ngoài một vạn phương trời viễn mộng. Hùng ca hay bi
ca? Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ:
Bụi thu mờ ai phủ với hai tay
(Bùi Giáng)
Bụi thu mờ và bụi thu bay. Trời thu cao ngất tạnh trong bụi
thu mờ. Rừng thu rỗ biếc ố hồng vì bụi thu mờ. Chiều mùa thu đổ xuống trong bụi
thu mờ. Mờ và xa,
Em về rủ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
(Bùi Giáng)
Chẳng bao lâu, Triêu Vân bịnh và mất. Nàng mất lúc tuổi mới
34, và ông đã 61 tuổi. Rồi từ đó, sầu cô quạnh tung trời lên Bắc đẩu, dải
Ngân hà tan tác bụi thu bay.
Từ đó trở đi, ông không bao giờ còn nghe lại:
Hoa thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu...
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
Ông viết "Mộ chí minh":
"Thị thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu Vân, tự Tử
Hà, họ Vương thị; người Tiền đường. Thông minh và thích việc nghĩa, thờ tiên
sinh 23 năm, một mực trung và kỉnh. Năm Thiệu thánh thứ 3 (1096), tháng 7, ngày
nhâm thìn, mất ở Huệ châu, 34 tuổi. Tháng 8, ngày canh thân, táng trên Phong hồ,
phía đông nam chùa Thê hiều. Sinh con tên Độn, chưa đầy năm đã yểu. Nàng thường
theo tì khưu ni Nghĩa xung học Phật pháp, cũng hiểu biết sơ qua đại ý. Lúc chết,
tụng 4 câu kệ trong kinh Kim cương rồi tuyệt. Bài minh rằng:
Phù đồ thị chiêm
Già lam thị y
Như nhữ túc tâm
Duy Phật chi quy
|
浮 屠 是 瞻
伽 藍 是 依
如 汝 宿 心
唯 佛 之 歸
|
(Hướng về đức Phật. Nương về cửa chùa. Theo tâm nguyện đó.
Nay Phật đón đi).
Ông làm bài thơ truy điệu, và tự viết lời dẫn:
"Thiệu thánh nguyên tiêu (1094), tháng 11, làm bài thơ
đùa Triêu Vân. Năm Thiệu thánh thứ 3, tháng 7, ngày 5, Triêu Vân mất vì bịnh ở
Huệ Châu, táng phía đông nam trong rừng thông chùa Thê hiền, kề tháp Đại thánh.
Tôi làm bài Minh khắc lên mộ nàng; nay làm bài thơ học vận bài trước.
"Ban đầu, Triêu Vân không biết chữ. Lớn tuổi, bỗng học
viết; viết hơi có ngay ngắn. Lại thường theo bà tì khưu ni Nghĩa Xung ở Tứ thượng
học Phật pháp, cũng có biết sơ qua đại nghĩa. Lúc chết, tụng 4 câu kệ trong
kinh Kim cương rồi tuyệt"
Bài thơ:
Miên nhi bất tú khởi kỳ thiên
Bất sử Đồng Ô dữ ngã huyền
Chú cảnh hận vô thiên tuế dược
Tặng hành duy hữu Tiểu thừa thiền
Thương tâm nhất niệm thường tiền trái
Đàn chỉ tam sinh đoạn hậu chuyên
Qui ngọa trúc căn vô viễn cận
Dạ đăng cần lễ tháp trung niên
|
苗而不秀豈其天
不使童烏與我玄
景恨無千歲藥駐
贈行唯有小乘禪
傷心一念償前債
彈指三生斷後緣
歸臥竹根無遠近
夜燈勤禮塔中仙
|
Nàng như đám mạ đã xanh chưa kịp trổ đòng đòng. Đó là mệnh trời
ư? Miêu nhi bất tú, hữu hỉ phù? Tú nhi bất thật, hữu hỉ phù: mạ đã
xanh chưa kịp trổ đòng đòng, có điều đó sao? Lúa đã trổ đòng đòng nhưng lại
chưa kịp kết hạt, có vậy sao? Đó là những lời Đức Không Tử khóc Nha Hồi, một
người đệ tử tài hoa nhưng yểu mệnh.
Hoặc giả, sao nàng không như cậu Đồng Ô, chồi non chưa kịp trổ
thành mạ xanh? Dục nhi bất miêu giả ngô gia chi Đồng Ô hồ? Cửu linh nhi dữ
ngã huyền văn hồ?
Triêu Vân mất tháng 7. Tháng 10 năm đó, hoa mai nở rộ nơi đất
Huệ châu, ông làm bài từ theo điệu Tây giang nguyệt , như âm thầm hoài vọng
Triêu Vân. Nàng tiên nữ từ cõi Bồng lai đến.
Bài từ đó vịnh hoa mai như sau:
Tây giang nguyệt
Ngọc cốt na sầu chương vụ
Băng cơ tự hữu tiên phong
Hải tiên thời khiển thám phương tòng
Đảo quải lục y yêu phượng
Tố diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng
Cao tình dĩ trục hiểu vân không
Bất dữ lê hoa đồng mộng
|
西江月
玉骨那愁瘴霧
冰肌自有仙風
海仙時遣芳叢
倒掛綠依幺鳳
素面常嫌粉
洗妝不褪殘紅
高情已逐曉雲空
不與梨花同夢
|
Trong đó có cả hoa và chim. Hoa mai và chim lục y yêu phượng;
loại chim mỏ đỏ, lông xanh, mỗi khi đậu thì treo ngược trên cành. Chúng là sứ
giả của thần tiên trên đảo Bồng lai, ngoài khơi Đông hải.
Huệ châu ở mãi vùng cực nam Trung hoa; đất Lĩnh nam nhiều chướng
khi. Hơi núi và sa mù nườm nượp trong những tháng lạnh. Mùa đó, từ tháng 10,
hoa mai đã nở. Nhưng cốt cách của mai là tuyết ngọc nên không ngại ngùng sa mù
và chướng khí ở đó; và da trắng như bằng giá, hoa mai đã sẵn cái phong vận thần
tiên. Là hoa mai, và cũng có thể là Triêu Vân, cái đó chưa cần vội vã. Thơ
không ngụ ý, người đọc thơ khỏi cần đi tìm ngụ ý của thơ.
Hoa mai đất Lĩnh nam nở nụ màu hồng. Nụ hồng và lá xanh, có
giống như những con lục y yêu phượng? Hoa và chim, có thể là một, có thể là hai;
tùy cảm hứng của người đọc.
Nhưng bấy giờ là mùa mà các thần tiên ngoài hải đảo sai sứ giả
đi tìm các cụm cây non trong đất liền; cho nên trên cành thấy treo ngược những
con lục y yêu phượng:
Ngọc cốt na sầu chương vụ
Băng cơ tự hữu tiên phong
Hải tiên thời khiển thám phương tòng
Cả bốn câu của bài từ tuyệt không một lời nào để ngụ một ẩn
tình nào đó. Cái đó tạm thời hãy cứ cho nằm đó. Bây giờ nên đọc chơi những bài
thơ vịnh hoa mai của ông. ba bài thơ làm dưới đình Tùng phong, mùa mai nở rộ, đề
ngày 26 tháng 11 năm giáp tuất, ông 59 tuổi. trước Triêu Vân mất ba năm.
Bài thứ nhất.
Xuân phong lĩnh thượng Hoài nam thôn
Tích niên mai hoa tằng đoạn hồn
Khởi tri lưu lạc phục tương kiến
Man phong Đản vũ sầu hoàng hôn
Trường điều bán lạc lệ chi phố
Ngọa thọ độc tú quang lang viên
Khởi duy u quang lưu dạ sắc
Trực khủng lãnh diễm bài đông ôn
Tùng phong đình hạ kinh cức lý
Lưỡng chu ngọc nhụy minh triêu thôn
Hải nam tiên vân kiều đọa thế
Nguyệt hạ cảo y lai khấu môn
Tửu tỉnh mộng giác khởi nhiễu thọ
Diệu ý hữu tại chung vô ngôn
Tiên sinh độc ẩm vật thán tức
Hạnh hữu lạc nguyệt khuy thanh tôn
|
春風嶺上懷南村
昔年梅花曾斷魂
豈知流落復相見
蠻風雨愁黃黃昏
長條半落荔枝浦
臥樹獨 秀光榔園
豈惟幽光留夜色
直恐冷豔排冬溫
松風亭下荊棘裏
兩株玉蕊明朝暾
海南仙雲嬌墮砌
月下縞衣來扣門
酒醒夢覺起繞樹
妙意有在終無言
先生獨飲勿嘆息
幸有落月窺清樽
|
Thôn Hoài nam gió ngàn bạt đỉnh
Từng năm xưa hồn rụng mai vàng
Rồi lưu lạc ai ngờ là ước hẹn
Gió Mường mưa Mọi phủ chiều hoang
Phố lệ chi cành dài nghiêng đổ nửa
Vườn quang lang cây tú lệ nằm không
Còn ngại lắm bởi màu đêm ủ rũ
Và lạnh lùng xua chút ấm tàn đông
Đình Tùng phong với rừng gai dưới đó
Hai nàng mai ngà ngọc đón hừng đông
Tiên mấy Hải nam yêu kiều xuống độ
Choàng áo the gõ cửa dưới màn trăng
Rượu tỉnh mơ tàn vòng cây tản bộ
Ý tình tuyệt diệu lời ẩn toàn không
Tiên sinh độ ẩm đừng than thở
Một mảnh trăng rơi đáy rượu nồng
Bài thứ hai
La phù sơn hạ mai hoa thôn
Ngọc tuyết vi cốt băng vi hồn
Phân phân sơ nghi nguyệt quải thọ
Cạnh cạnh độc dữ Sâm hoàng hôn
Tiên sinh sách cư giang hải thượng
Tiễu như bịnh hạc thê hoang viên
Thiên hương quốc diễm khẳng tương cố
Tri ngã tửu thục thi thanh ôn
Bồng lai cung trung hoa điểu sứ
Lục y đảo quải phù tang thôn
Bảo tòng khuy ngã phương túy ngọa
Cố khiển trác mộc tiên xao môn
Ma cô quá quân cấp sái tảo
Điểu năng ca vũ hoa năng ngôn
Tửu tỉnh nhân tán sơn tịch tịch
Duy hữu lạc nguyệt khuy không tôn
|
羅浮山下梅花村
玉雪為骨冰為魂
紛紛初疑月掛樹
耿 耿 獨 與 參 黃 昏
先 生 索 居 江 海 上
悄 如 病 鶴 栖 荒 園
千 香 國 豔 肯 相 顧
蓬 萊 宮 中 花 鳥 使
綠 衣 倒 掛 扶 桑 暾
抱 叢 窺 我 方 醉 臥
故 遣 啄 木 先 敲 門
麻 姑 過 君 及 洒 掃
鳥 能 歌 舞 花 能 言
酒 醒 人 散 山 寂 寂
惟 有 落 月 窺 空 樽
|
Dưới núi La phù mai hoa thôn
Tuyết ngọc là xương băng là hồn
Phơi phới ngỡ chừng trăng gác ngọn
Trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn
Tiên sinh lênh đênh đời sông biển
Rầu như hạc ốm đậu vườn hoang
Hương trời sắc nước không buồn ngó
Biết ta rượu mùi thơ ấm trong
Trong cung Bồng lai hoa chim làm sứ
Áo xanh treo ngược cây dâu hừng đông
Ôm cây liếc ta đang say nằm đó
Mổ cây gõ cửa nhắn đợi sẵn sàng
Tiên bà qua đây hãy lo quét tước
Chim hay ca múa hoa biết nói năng
Rượu tỉnh người tan non vắng vẻ
Hững hờ nhị rụng đáy ly không
Bài ba, không trích ở đây.
Trong các bài thơ đó, hoa mai khi lộ liễu, khi e dè; khi bát
ngát, khi đìu hiu. Kỳ thực, ở đây là cả một cuộc đời, xa và rộng; một trời thơ
mở rộng vô ngần. Nhưng hoa mai đã lên nguồn cảm hứng; vì cốt cách tuyết ngọc,
vì phong vận thần tiên. Gương mai không cần tô điểm phấn son; cánh rã mà nụ hồng
còn thắm. Tình nơi hoa mai bốc lên cao vút tận trời, đẹp như những đám mây
trong nắng sớm:
Tố diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng
Cao tình dĩ trục hiểu vân không
Bất dữ lê hoa đồng mộng
Tình hoa mai tráng lệ và huy hoàng là như thế. Mà chân tình một
thuở của Triêu Vân cũng là như thế. Tình không là cõi mộng; không là những cánh
hoa lê nườm nượp như mây trời trong mộng. Cuộc tình chưa rã, thì cuộc tình như
giấc mộng đăm chiêu. Khi cuộc tình bỏ đi, mộng sẽ bốc thành mây trời trong nắng
sớm. Tình và mộng; đến và đi như chưa từng có. Duyên và nợ; có như chưa từng đến
và đi. Nợ ân tình trong một thuở, đem cái tấm lòng đày đọa truân chuyên ra để đền
bù. Duyên tình mộng của nghìn năm, trong thoáng chốc, trong một cái búng tay,
đã trở thành không không trong vĩnh cửu:
Thương tâm nhất niệm thường tiền trái
Đàn chỉ tam sinh đoạn hậu duyên
Duyên nàng là duyên của Phật. Nàng đến, để làm thiên nữ tán
hoa, rải hoa trời lên cõi thơ lồng lộng. Trước Triêu Vân mất một năm, lúc đó
ông đã 60 tuổi, làm tặng nàng bài Từ theo điệu “Nê nhân kiều”:
Bạch phát thương nhan
Chính thị Duy Ma cảnh giới
Không phương trượng tán hoa hà ngại
Chu thần trợ điểm
Cánh kế hoàn sinh thái
|
白 髮 蒼 顏
正 是 維 摩 境 界
空 方 丈 散 花 何 礙
朱 唇 箸 點
更 髻 還 生 彩
|
Da mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới đó
là cõi đối biện thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật.
Và cũng là cõi tịch mặc nhưng tráng lệ của thi ca. Căn nhà của Duy Ma Cật là
khoảng rộng vuông vức một trượng; và là một phương trượng trống trải, nhưng đã
chứa cả ba nghìn tòa sư tử; khách từ ba nghìn thế giới tụ lại để nghe một lời
không nói của Duy Ma.
Và thiên nữ tại đó đã rải hoa trời tán thưởng một lời không
nói; cũng tán thưởng luôn những lời có nói. Thiên nữ đó là Triêu Vân? và cõi của
một lời không nói đó là cõi thơ của ông?
Chu thần trợ điểm...
Một nụ son, nụ của hoa mai bé bỏng
Kết trên quấn tóc trở thành diễm lệ…
Tình nợ và tình thơ, giao nhau trong cõi tình mộng của những
lời, hay của một lời, không nói.
Rồi tình nợ theo xác người trở về với cát bụi; tình thơ theo
cõi mộng bốc cao:
Cao tình dĩ trục hiểu vân không.
Nàng gửi thân cát bụi nghìn đời dưới gốc thông; ban đêm, hồn
sẽ theo ánh đèn lên diện kiến với tiên trong cõi Phật:
Qui ngọa trúc căn vô viễn cận.
Dạ đăng cần lễ tháp trung tiên
Nghìn năm sau, mùa xuân, rồi mùa thu, và một cánh én liệng
mùa xuân ngang qua con nước mùi thu, và
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nha hà xứ vô phương thảo
Bông liễu cứ triền miên vương vấn như tơ trời, lại bắt đầu từ
một cõi mộng đơn sơ; rồi lân la nay khóm trúc mai chồi lan, nửa chiều tà nửa nắng
quái, lần hồi từ phố chợ đến đồng quê, từ ân tình đầm ấm của quê hương đến
phương trời đọa đày viễn mộng, để đến một cõi có hoa trời, có thiên nữ, và “dạ
đăng cần lễ tháp trung tiên” để xin nghe một lời trong tịch mặc vô ngôn. Sơn
cùng lộ tuyệt, thơ của ông ở đây ư? Có thể ở đó, hoặc ở chỗ
“Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn”
(Bùi Giáng)
3.
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lương,
Tự nan vong.
Thiên lý cô phần
Vô xứ ngoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức,
Trần mãn diện
Mãn như sương.
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương
Tiểu hiên song
Chánh sơ trang.
Tương cố vô ngôn
Duy hữu lệ thiên hàng.
Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ,
Minh nguyệt dạ
Đoản tùng cương.
|
十 年 生 死 兩 茫 茫
不 思 量
似 難 忘
千 里 孤 墳
無 處 話 悽 涼
縱 使 相 逢 應 不 識
塵 滿 面
鬢 如 霜
夜 來 幽 夢 忽 還 鄉
小 軒 雙
正 梳 妝
相 顧 無 言
唯 有 淚 千 行
料 得 年 年 腸 斷 處
明 月 夜
短 松 岡
|
Mười năm trôi đi, hai ngã sống và chết chia đôi biền biệt.
Dù không nghĩ tới,
Mà cũng không sao quên được.
Nấm mồ đơn chiếc xa xôi,
Lạnh lẽo nói làm sao cho xiết;
Dù có gặp nhau rồi cũng chẳng nhận ra nhau:
Gương mặt đầy cát bụi,
Tóc mai đã bạt trắng như sương.
Đêm qua trong giấc mộng triền miên, chợ thấy trở về quê cũ.
Đứng tựa cánh cửa sổ.
Lúc đó bà đang gỡ tóc
Nhìn nhau không nói,
Chỉ có nước mắt tuôn trào.
Tưởng chừng năm năm đứt ruột,
Mỗi lúc đêm trăng sáng,
Trên đồi thông bóng ngả
Trên đây là bài Từ làm theo điệu "Giang thành tử".
Ông có ghi chú nhỏ: "Năm ất mão (1074), tháng giêng, ngày 20, ban đêm, ghi
lại giấc mộng" Năm đó ông 40 tuổi, làm quan ở Mật châu; vợ chánh thất của
ông, Vương thị, Thông Nghĩa Quận quân, mất đã đúng 10 năm:
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bà đối với ông, tình duyên và tình nợ thì có; mà tình thơ thì
không. Nhưng, bà mất 10 năm, mà tình nhớ nhung của ông vẫn còn cay đắng. Rồi
tình đó phát hiện thành lời thơ, thì cũng là tình thơ vậy.
Bảy năm sau đó, khi xuôi dòng Trường giang, dạo chơi Xích
bích, vẫn thấy còn phảng phất một mối ngậm ngùi hoài vọng:
Cố quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát
|
故 國神遊
多情應笑我
早生花髮
|
Hồn thả về chơi cố quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta
Chưa chi đầu đã bạc
Bạn tình chung, hay khách đa tình nơi cố quận là vong hồn bà
Vương thị.
Nước Trường giang ào ạt đổ xuống: "Đại giang đông khứ",
bài Từ đó là cả một phong độ kiêu hùng nơi ông
Đại giang đông khứ
Lãng đào tận
Thiên cổ phong lưu nhân vật
...
Loạn thạch băng vân
Kinh đào liệt ngạn
Quyển khởi thiên đôi tuyết
Giang sơn như họa
Nhất thời đa thiểu anh hùng
|
大 江 東 去
浪 濤 盡
千 古 風 流 人 物
...........
亂 石 崩 雲
驚 濤 洌 岸
捲 起 千 堆 雪
江 山 如 畫
一 時 多 少 英 雄
|
Giữa cái kiêu hùng đó còn có vấn vương một sợi tơ trời. Thì
đó cũng là một cõi mộng đơn sơ, trong con mắt hùng thị tất cả anh hùng vạn đại.
4. Những tháng cuối năm canh thân (1080), ông ngồi tù trong ngục
Ngự sử. Miệng ông nó đày đọa thân ông. Ngồi tù trên ba tháng, được thả ra; bị
cách chức, cho làm Hoàng châu Đoàn luyện phó sứ; đời Tống, đó là một chức hờ. Rồi
bị an trí, tức là bị đày, ở Hoàng châu. Vừa đến Hoàng châu, ông làm bài thơ tự
trách:
自
笑 平
生 為
口 忙
老
來 事
業 轉
荒 唐
Tự tiêu bình sinh vị khẩu mang
Lão lai sự nghiệp chuyển hoang đường
Bình sinh vì cái miệng mà mang họa; càng về già, sự nghiệp
càng trở nên hoang đường.
Ông bị đày ở Hoàng châu từ đầu năm ông vừa 45 tuổi cho đến hết
năm 49 tuổi. Trong 5 năm trời đó, Hoàng châu không khổ đày đọa như ở Huệ châu
và Đam nhĩ (tức Hải nam) sau này. Nhưng cái cảnh làm ruộng của ông cũng qua nhiều
khổ nhọc. Ông tự bảo, bình sinh đi kiếm ăn bằng cái nghiên mẻ; hận là đã không
học nghề làm ruộng. Cũng trong thời gian đó, thơ ông lại phiêu bồng bát ngát.
Khi vừa đến Hoàng châu, ông ngụ cư tại chùa Định huệ trong một
thời gian ngắn, chưa đầy một năm, thì dời sang Lâm cao đình. Lúc ngụ tại chùa Định
huệ, ông có bài thơ vịnh Hải đường, giữa các thứ hoa rừng dại thô tục. Bài thơ
đó quả tình là một cảm hứng trác việt (đọc ở phần Những phương
trời lữ thứ). Cũng trong thời gian đó, ông làm bài Từ được trích ở dưới
đây, mà người ta đã bàn bạc phân vân về ngụ ý của ông. Bài Từ làm theo điệu
"Bốc toán tử". Đầu bài Từ, có ghi chú nhỏ của ông: "Làm khi ngụ
cư tại chùa Định huệ ở Hoàng châu". Bài Từ đó như sau:
Khuyết nguyệt quải sơ đồng,
Lậu đoạn nhân sơ tỉnh
Thùy kiến u nhân độc vãng lai,
Phiêu diễn cô hồng ảnh
Kinh khởi khước hồi đầu
Hữu hận vô nhân tĩnh
Giản tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu lãnh
|
缺 月 掛 疏 桐
漏 斷 人 初 靜
誰 見 幽 人 獨 往 來
飄 渺 孤 鴻 影
驚 起 卻 回 頭
有 恨 無 人 省
簡 盡 寒 枝 不 肯 栖
寂 寞 沙 洲 冷
|
Trăng sơ huyền treo trên ngọn ngô đồng thưa lá.
Trời khuya, người bắt đầu thưa vắng, chỉ nghe tiếng tí tách của
đồng hồ
canh chừng giờ đêm
Chỉ thấy ẩn sĩ một mình đi lui đi tới
Thấp thoáng như bóng chim hồng lẻ loi
Giật mình quay đầu nhìn lại
Ngậm ngùi giữa lúc mọi người đang say ngủ
Lần lựa hết những cành cây trơ trọi, mà không chịu đậu,
Một mình bơ vơ trên cồn cát.
Dịch dài dòng luộm thuộm như thế, để tìm thử có ngụ ý hay
thác ý gì không. Bài Từ hoàn toàn vịnh con chim hồng. Cánh chim hồng lẻ loi,
lang bạt. Từ cành này đến cành cây khác, mà không bao giờ chịu đậu lại. Xưa
nay, chim hồng có lúc nào lại chịu đậu trên cành cây? Nó đứng trơ vơ trên cồn
cát:
Giản tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu tĩnh
Nhưng câu chuyện xung quanh bài Từ đã kể khác.
Tại Hoàng châu, có người con gái của bà Vương thị. Nàng tên
là Siêu Siêu, cũng khá có nhan sắc, 16 tuổi mà không chịu lấy chồng. Đông Pha bị
biếm trích ra ở Hoàng châu. Biết tin ông đến, nàng mừng lắm. Ông ngụ tại chùa Định
huệ. Đêm đêm nàng lén đến núp ngoài cửa sổ, bồi hồi nghe ông ngâm thơ. Ông thường
chong đèn đêm, đi qua đi lại ngâm thơ một mình. Khi ông hay có người rình nghe
ngoài cửa sổ, ông đẩy cửa sổ ra, nàng trèo tường bỏ chạy. Ông đuổi theo, bảo: Sẽ
gọi Vương lang đến làm sui gia.
Thế thì, lời trong thơ là thác ý cho nàng Siêu Siêu. Nhưng
bóng con chim hồng trong đó vẫn là bóng của ông:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
Đó thực là cõi phiêu bồng của phương trời viễn mộng. tình thơ
nồng đượm, nhưng tình duyên hay tình nợ thì không không.
LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Tuệ Sỹ
1. Lô sơn là một danh thắng kỳ tuyệt. Núi non hùng vĩ, cảnh trí
u trầm, mây trắng và sương mù quanh năm bao phủ, từ bao nhiêu đời, nơi đó ẩn
tích những cao nhân đắc đạo. Tìm đến đó, để nhìn thẳng vào chân diện mục của Lô
sơn, là đã quyết tâm đoạn tuyệt với những vương vấn, buông lơi và thắt chặt, từ
mấy vạn đời trước. Thấy chỗ đó, là thấy Tâm Thiền. Nhưng Tâm Thiền thì tịch mặc
không nói. Một khi đưa lưỡi dao lên cắt đứt mớ tóc, đoạn tuyệt hồng trần, thì
cõi thơ sẽ mất một ngọn sao trời rọi sáng, cho khách tục tử đang còn cặm cụi
làm thơ. Nhà thơ phát tâm đại nguyện thượng thừa vác lên vai vô số khổ lụy đoạn
trường. Đại nguyện đó sẽ làm sáng lên cái chân lý Dị và Đồng. Dị biệt và Đồng
nhất là những con đường chia rẽ phân đôi; nhưng đạt tới công án hiểm hóc của tử
sinh, thì đã xóa tan chân lý Dị Đồng. Đó là chỗ ta và người, tình và cảnh, đều
trở thành tịch mặc Không Không. Từ đó, nhà Thơ hẹn với nhà Thiền, mở ra cánh cửa
bắc, cất đầu nhìn lên 36 ngọn núi xanh kia.
Những lời dài dòng lôi thôi trên đây quảng diễn từ những câu
thơ này của ông:
Vị văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan Dĩ hỉ thiền tâm vô biệt ngữ Thương hiềm thế phát hữu thi ban Dị đồng mạc vấn nghi Tam ngữ Vật ngã chung đương phó Bát hoàn Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ. Cử đầu tam thập lục thanh sơn |
為聞盧嶽多真隱
故 就 高人 斷 宿 攀
已喜禪無別語心
尚嫌沏髮有詩班
異同莫問疑三語
物我終當赴八還
到後與君開北戶
櫸頭三十六青山
|
(Nghe nói trên Lô sơn có nhiều bậc chân ẩn. Vì vậy, tôi tìm đến
cao nhân để xin cắt đứt những vấn nhiều đời nhiều kiếp. Tôi đã vui với cái lẽ rằng
Tâm Thiền thì không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng
còn ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi ca
là đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi. Hãy quên đi những sự
phân biệt Ta và Người. Cuối cùng, tôi với anh mở cánh cửa bắc, ngẩng đầu nhìn
lên ba mươi sáu ngọn núi xanh.)
Nói như vậy, bằng lời lẽ như vậy; người ta gọi là bộc bạch,
là thổ lộ tâm tình. Ở đây cứ tạm nói chắc là tình thơ và tình đạo, một cuộc
giao tình để xẻ chiếc chiếu làm hai. Còn ẩn tình nào sau đó, nó đã ẩn thì vĩnh
viễn là nó ẩn, không thể cưỡng bức để kéo nó ra.
Chỉ thẳng không quanh co, gãy gọn và khúc chiết, bài thơ có
chương pháp như một bản tường trình. Những người đang ruổi ngựa chạy như bay,
đang đi giữa phố chợ ồn ào, vừa nghe một lần là hiểu; và có thể diễn lại tràng
giang đại hải, như một bài thuyết trình của một nhà thạc học đúc kết mười năm
trời nghiên cứu sách vở. Nhà thơ bất chợt đến nghe, ôm bụng cười. Ông sẽ về Hàn
lâm viện thảo chiếu đề nghị và quyết định bổ nhiệm, rồi sau đó, trở lại Lô sơn,
đẩy cánh cửa bắc, nhìn ra 36 ngọn thanh sơn. Nhưng khi trở lại Hàn lâm viện,
ông sẽ chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng: tên người được bổ nhiệm là Ông. Thì
người bộc bạch là nhà thơ, người đi quảng diễn là nhà thơ; nhà thơ và nhà thơ,
bóng dáng nhà thơ trùng trùng điệp điệp, ẩn hiện giữa mây trắng và sương mù như
đỉnh núi Lô sơn. Vậy, đâu là chân diện mục của Lô sơn?
Cái đó có thể là đề tài cho Trang Tử và Huệ Thi bàn cãi về lẽ
Đồng và Dị: "anh và con cá lội dưới ao là Đồng hay Dị?" Họ bàn cãi
nhau, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ông lại đứng ra làm trọng tài; làm một đại
quan của triều đình chứ không là một nhà thơ, vì lời lẽ khúc chiết:
Mạc tương đồng dị giảo tri thù...
Nhược tín vạn thù qui nhất bản
Ngã kim tri nhữ nhữ tri ngư
Ông bảo họ đừng cãi nhau, chớ so đo về lẽ Dị Đồng nữa. Vạn
thù qui nhất bản, muôn vàn sai biệt cùng quy về một gốc, cho nên, ông này biết
ông kia, ông kia biết cá. Nếu Huệ Thi mà có thể hiểu được Trang Tử, thì Trang Tử
cũng có thể hiểu được rằng đàn cá đang lội nhởn nhơ kia là đang vui đấy.
Nhưng kỳ cùng, ai dám bảo đó không là thơ? Đó cũng là một
công án hiểm hóc (của thiền sư Vô Trước trên Ngũ đài sơn): Tiền tam tam hậu
diệc tam tam, trước ba ba sau cũng ba ba, là gì?
Nói trắng ra, người ta muốn hỏi, chỗ sơn cùng lộ tuyệt nơi
thơ của Ông là gì? Hay nói gọn lại, thơ Đông Pha nói gì trong đó? Ông nói những
tình cố quận, sầu tha hương, những mùa thu tóc trắng, những thanh xuân và mộng
tưởng; Ông nói những thứ vân vân đó ư? Thì quả nhiên, thơ Ông chỉ nói vân vân
như vậy. Nhưng khi nghe ra những khổ lụy kỳ cùng trong đó, người ta tự hỏi, đồng
vọng của một phương trời đọa đày viễn mộng nào đây? Đọa đày tức viễn mộng; viễn
mộng tức đọa đày. Cái đó nó phơi trần lộ liễu, nên một người thô lỗ vội vàng
cũng có thể nhận ra. Sau lớp mây trắng và sương mù, là Lô sơn, ai lại không biết.
Đã biết là như vậy; còn chân diện mục của Lô sơn thì sao?
2. Trong những ngày tháng bị đày ải ở Hoàng châu; ngày thiếu
cơm, chiều thiếu gạo; (ông làm ruộng), trời nắng ruộng khô, lúa mọc không nổi;
(ông kêu trời), trời mưa thì xối xả, nhà dột như mảng bè trôi. Ông làm một bài
thơ dài gởi cho bạn. Mấy câu đầu như sau:
Đông Pha tiên sinh vô nhất tiền
Thập niên gia hỏa thiêu phàm duyên Hoàng kim khả thành hà khả tắc Chỉ hữu sương bính vô do huyền Long Khâu cư sĩ diệc khả liên Đàm Không thuyết Hữu dạ bất miên Hốt văn sư tử Hà đông hống Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên... |
東坡先生無一錢
十年家火燒凡緣
黃金可成河可塞
龍丘居士亦可憐
談空說有夜不眠
忽聞 獅子河東吼
拄杖落手心忙然
|
Đông Pha tiên sinh không một tiền
Mười năm đèn lửa xin hai bên.
Hoàng kim làm được, sông lấp được;
Chỉ có tóc sương không chịu đen.
Long Khâu cư sĩ cũng vô duyên.
Bàn Không bàn Hữu thức suốt đêm.
Bỗng nghe sư tử Hà đông rống;
Hốt hoảng tâm thần rơi gậy thiền.
Mười năm đèn lửa xin hai bên.
Hoàng kim làm được, sông lấp được;
Chỉ có tóc sương không chịu đen.
Long Khâu cư sĩ cũng vô duyên.
Bàn Không bàn Hữu thức suốt đêm.
Bỗng nghe sư tử Hà đông rống;
Hốt hoảng tâm thần rơi gậy thiền.
Bài thơ làm gởi tặng Trần Quí Thường. Có lẽ trong số những
người bạn, Thường là người được ông mến chuộng và kính phục nhất, về cốt cách
cũng như về đời sống.
Trần Tháo tự Quí Thường, hiệu Long Khâu cư sĩ; cũng được gọi
là Phương Sơn Tử. Đọc bản tiểu sử của Quí Thường do ông viết cũng có thể thấy sự
mến phục của ông như thế nào. Bản tiểu sử được viết:
"Phương Sơn Tử, người ẩn cư trong khoảng Quang Hoàng.
Thiếu thời, hâm mộ Chu Gia và Quách Giải. Bọn hào hiệp trong làng xóm đều qui
phụ theo. Hơi lớn, biết chiều lụy người, và đọc sách; muốn lấy việc đó mà chen
chân với đời. Nhưng rồi không gặp thời. Đến tuổi xế, về ẩn lánh trong khoảng
Quang Hoàng, nơi chỗ gọi là Kỳ đình. Ở nhà tranh, ăn rau trái, không giao thiệp
với người đời. Bỏ xe ngựa, vứt áo mão, đi bộ. (.....)
"Tôi bị biếm trích ở Hoàng châu, qua Kỳ đình, thì thấy.
Mới kêu: ‘Hỡi ôi! Đó là cố nhân của tôi, Trần Tháo Quí Thường đó. Sao lại ở
đây?’ Phương Sơn Tử cũng kinh ngạc, hỏi tôi tại sao đến đây. Tôi nói duyên cớ.
Ông cúi đầu không đáp; rồi ngửa lên trời mà cười. Gọi tôi ngủ lại nhà. Tường
vách xơ xác, nhưng vợ con trông chừng có vẻ thỏa ý. Tôi giật mình lấy làm kinh
ngạc.
"Tự nghĩ, Phương Sơn Tử khi thiếu thời, ưa rượu và thích
kiếm, xài tiền như đất cát (....)
"Tôi nghe nói trong khoảng Quang Hoàng có nhiều dị nhân,
thường thường giả bộ ngây dại, dơ bẩn, khó gặp được. Phương Sơn Tử cũng trong hạng
đó ư?"
Trong cái được mến phục đã ẩn hiện một phần cốt cách và cuộc
đời của mình. Phần đó nằm ngoài ven trời viễn mộng.
Đông Pha tiên sinh và Long Khâu cư sĩ, mỗi người ở mỗi ven trời,
cùng nhìn nhau qua một cõi mộng, và cũng mang những khổ lụy hình hài như nhau.
Khổ lụy của hình hài, mà lại khôi hài. Đông Pha tiên sinh có tài làm ra vàng,
có thể lấp được sông, nhưng không thể làm cho tóc của mình đừng bạc trắng. Long
Khâu cư sĩ say sưa đạo lý thượng thừa, nhưng không giữ nổi cây gậy của đạo đó
trong tay, khi nghe tiếng sư tử Hà Đông rống:
Hốt văn sư tử Hà Đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Tâm mang nhiên, tâm sững sờ ngơ ngác, là lúc sắp tỏ ngộ, sắp
hoát nhiên đại ngộ. Thế thì, là chuyện đùa hay chuyện thật, mà chân tướng của
nó, của cõi mộng đó, ra sao? Chân diện mục của Lô Sơn không dễ gì khám phá.
Bất thức Lô sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
(Không biết được chân diện mục của Lô sơn, tại vì mình đang ở
trong đó, hay tại vì mình không ở trong đó?)
3. Từ thượng cổ, Lô sơn đã quyến rũ những người tiêu dao thế ngoại.
Tương truyền, trong buổi giao thời giữa nhà Thương và nhà Chu, trên một nghìn
năm trước Tây lịch, có người tên Khuông Tục, trốn đời, hay lánh đời, đến ẩn dưới
núi, lập nhà tranh (lô) ở đó, và sau đắc đạo tiên. Vì vậy, núi được gọi là Lô
sơn, hoặc Khuông sơn.
Đời Tam quốc, có đạo gia Đổng Phụng chân nhân đến tu tiên và luyện đan tại đây. Bấy giờ Thái thú Giao chỉ là Sĩ Nhiếp mất đã ba ngày; tiên ông cho một hoàn thuốc, cạy răng đổ vào miệng, đổ nước vào, rồi nâng đầu lên cho thuốc chạy xuống cổ. Trong khoảng bữa cơm, nhan sắc tươi lại như thường. Một nửa ngày, đứng dậy, đi lại được. Bốn ngày sau, nói năng như bình thường. Đến đời Đường, có Từ Tri Chương làm bài ký cho miếu thờ của Chân nhân. Đến thời Đông Pha, người ta vẫn còn đọc được bài ký đó.
Đời Tam quốc, có đạo gia Đổng Phụng chân nhân đến tu tiên và luyện đan tại đây. Bấy giờ Thái thú Giao chỉ là Sĩ Nhiếp mất đã ba ngày; tiên ông cho một hoàn thuốc, cạy răng đổ vào miệng, đổ nước vào, rồi nâng đầu lên cho thuốc chạy xuống cổ. Trong khoảng bữa cơm, nhan sắc tươi lại như thường. Một nửa ngày, đứng dậy, đi lại được. Bốn ngày sau, nói năng như bình thường. Đến đời Đường, có Từ Tri Chương làm bài ký cho miếu thờ của Chân nhân. Đến thời Đông Pha, người ta vẫn còn đọc được bài ký đó.
Thời Đông Tấn, tăng Tuệ Viễn cất am tu ở đó, nơi sườn núi bắc;
phía dưới có khe Hổ khê, nơi Tuệ Viễn dừng chân mỗi khi tiễn khách; và trọn đời
thề không bước qua khe đó. Sư cùng mười tám người bạn cùng ẩn cư tại chùa Đông
lâm, đời sau kính trọng, gọi họ là "Đông lâm thập bát hiền".
Trải qua nhiều đời, Lô sơn càng quyến rũ, từ đạo gia, tăng lữ,
công khanh, văn sĩ, thi sĩ, vân vân. Từ Tấn cho đến Đường, Tống, đã có rất nhiều
bài thơ lưu đề rất nổi tiếng, từ Tạ Linh Vận, Bảo Chiêu cho đến Mạnh Hạo Nhiên,
Lý Bạch, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, vân vân….
Ơû đây, xin trích một ít bài để thưởng thức cảnh trí Lô sơn.
Thơ của Mạnh Hạo Nhiên, buổi chiều thuyền đổ bến Tầm dương, vọng
về Lô sơn:
Quải tịch kỷ thiên lý
Danh sơn đô vị phùng Bạc châu Tầm dương quách Thủy kiến Hương lô phong Thường độc Viễn Công truyện Vĩnh hoài trần ngoại tung Đông lâm tinh xá cận Nhật mộ đản văn chung |
挂席幾千里
名山都未逢
泊舟尋暘郭
始見香盧夆
嘗讀遠公傳
永懷塵外蹤
東林精舍近
日暮但聞鐘
|
Lang thang mấy vạn dặm;
Lô sơn vẫn tít mù.
Bến Tầm dương thuyền đỗ,
Chợt thấy đỉnh Hương lô.
Từng đọc truyện Tuệ Viễn;
Hoài mộ gót phiêu du.
Chùa Đông lâm gần đó;
Sớm tối nghe chuông đưa.
Lô sơn vẫn tít mù.
Bến Tầm dương thuyền đỗ,
Chợt thấy đỉnh Hương lô.
Từng đọc truyện Tuệ Viễn;
Hoài mộ gót phiêu du.
Chùa Đông lâm gần đó;
Sớm tối nghe chuông đưa.
Từ bến Tầm dương, nhìn lên thấy một ngọn trong dãy Lô sơn,
mây vần vũ như khói bốc từ lò hương, ngọn núi đó gọi là Hương lô phong.
Lý Bạch có đến sáu bài thơ về Lô sơn. Bài được truyền tụng rất
nhiều là "Lô sơn dao", bài ca từ Lô sơn: "Ta vốn là người cuồng
nước Sở, cuồng ca cười Không Khâu. Tay cầm gậy lục ngọc, sớm từ Hoàng hạc lâu…
đi tìm khắp các núi non, vân vân…" Bài thơ đó dài quá, không tiện trích ra
ở đây.
Dãy Lô sơn núi non trùng trùng, mây bay điệp điệp. Sông hồ in
bóng Lô sơn như từng chấm nốt ruồi xanh xanh trên mặt nước trong xanh kiều diễm.
Những thác nước từ chóp đỉnh cao tuyệt mù đổ xuống, như giải Ngân hà treo chênh
vênh bên cầu Tam thạch. Từ giã sư tăng chùa Đông lâm, Lý Bạch lưu đề bài thơ:
Đông lâm tống khách xứ
Nguyệt xuất bạch viên đề Tiếu biệt Lô sơn Viễn Hà phiền quá Hổ khê |
東林送客處
月出白猿啼
笑別 盧山遠
何煩過虎溪
|
Đường Đông lâm tiễn khách
Vượn trắng gọi trăng ngàn
Chào Lô sơn ở lại
Khe Cọp cách hồng trần
Lô sơn ba mặt là nước, một mặt đất liền. Trước mặt, phía nam,
là sông Trường giang đổ vào khúc Cửu giang. Phía tây là bến Tầm dương, phía
đông là bến Bành lãi. Núi có bảy ngọn lớn chập chùng, chân núi chiếm một khoảng
rộng chừng năm trăm dặm. Cảnh trí hùng vĩ được ông ghi lại trong hai bài thơ, vịnh
hai nơi: đình Thấu ngọc chùa Khai tiên và cầu Tam giáp chùa Thê hiền. Đại khái
như sau:
Đình Thấu ngọc, nói theo nghĩa đen của nó là đình "đánh
răng". Thác nước từ đỉnh cao chót vót đổ xuống, mà Lý Bạch nói là trông giống
như giải Ngân hà đổ xuống; thác đổ đến phía đông chùa Khai tiên, chảy thành
dòng suối; hai bên đá nhấp nhô như những hàng răng ngọc, có lẽ vì thế mà gọi là
Thấu ngọc đình:
Cao nham hạ xích nhật
Thâm cốc lai bi phong Phách khai thanh ngọc giáp Phi xuất lưỡng thanh long Loạn mạt tán như sương Tuyệt đàm dao thanh không Dư lưu hoạt vô thanh Khoái tả song thạch hồng vân vân… |
高嵒下赤日
深谷來悲風
擘開青玉峽
飛出兩白龍
亂沫散如霜
餘流滑無聲
快瀉雙石洪
|
Sườn cao tuôn nắng đỏ
Hang sâu động gió rầu
Chẻ đôi mõm thanh ngọc
Hai rồng bạc đổ ào
Bọt nước bay sương trắng
Đầm tuyết rung trời cao
Dòng suối tuôn lặng lẽ
Chảy xiết qua hang sâu…
Hang sâu động gió rầu
Chẻ đôi mõm thanh ngọc
Hai rồng bạc đổ ào
Bọt nước bay sương trắng
Đầm tuyết rung trời cao
Dòng suối tuôn lặng lẽ
Chảy xiết qua hang sâu…
Rồi đến cầu Tam giáp, phía đông chùa Thê hiền. Những tảng đá
qua hàng vạn năm thi đua kêu gào với những dòng nước vỗ ầm như sấm sét. Cầu bắc
ngang qua một khe nước sâu hun hút không thấy đáy. Sóng cuốn những con cá trôi
nổi bập bềnh; tiếng sóng kinh hoàng cho đến vượn khỉ leo lên cây cũng rụng rời
rớt xuống đất. Hơi lạnh thấm vào sương tủy của núi. Cỏ và cây cứng, và gầy. Giữa
lớp mây mù kéo qua các hốc trống, khua lên những âm thanh như tiếng nhạc tấu
lên từ những tiếng kim tiếng thạch. Chiếc cầu uốn cong treo lơ lửng trên suối
như mảnh trăng vòng cung…
Núi non bên trong rầm rộ với những tiếng reo hò, gào thét như
thác nước, của gió ào ạt và mây vần vũ. Nhưng ở ngoài xa, chỉ thấy chập chùng một
dãy núi, ẩn hiện mơ hồ giữa đám mây trắng và sương mù. Thế thì, đâu là chân diện
mục của Lô sơn?
4. Trong thời kỳ bị biếm trích ở Hoàng châu, ông mới có dịp lên
dạo Lô sơn. Ông nói, khi mới đến Lô sơn, thấy cảnh núi non thanh kỳ tú lệ, quả
là điều mơ ước được thấy từ trước. Tăng và tục trong núi thấy ông, ai cũng nói:
"Tô Tử Chiêm đến rồi đó".
Ông tự cho là mình có duyên rất đậm đà với Lô sơn. Trước ngày
ông đến, ngài viện chủ Viên thông thiền viện đã được báo mộng; cho đến chiều
hôm sau thì ông lên. Sư nói: "Hôm qua nằm mộng thấy bửu cái bay xuống, chỗ
đó liền có lửa cháy sáng lên. Há không là điềm báo tốt đẹp cho ngày hôm nay
sao? " Ông cảm động, làm tặng ngài viện chủ một bài thơ thất luật, có hai
câu 5 và 6 như sau:
Tụ lý bửu thơ do vị xuất
Mộng trung phi cái dĩ tiên truyền |
袖裡蓍寶由未出
夢中飛蓋已先傳
|
Bửu thơ trong tay áo chưa lôi ra, mà bửu cái từ trời đã bay
xuống báo mộng trước.
Ông ghé lại đề thơ nơi sơn phòng của Lý Thường, tại Bạch thạch
tăng xá. Lý Thường, tự Công Trạch, vốn là bạn của ông. Thường trước khi ra làm
quan, đọc sách tại đây. sách vở chất chứa hàng vạn quyển. Sau khi Thường ra làm
quan, chỗ đó được dọn thành thư viện, lấy tên là "Lý thị sơn phòng".
Ông có viết bài ký cho sơn phòng này. Ông lưu đề tại đây một bài thơ tứ tuyệt:
Ngẫu tầm lưu thủy thượng thôi ngôi
Ngũ lão thương nhan nhất tiếu khai Nhược kiến Trích tiên phiền ký ngữ Khuông sơn đầu bạch tảo qui lai |
偶尋流水上崔嵬
五老蒼顏一笑開
若見謫仙煩記語
匡山頭白早歸來
|
Ông nói, ngẫu hứng lần theo dòng suối mà lên đến chỗ cao chót
vót đó. Ngọn Ngũ lão, như năm ông lão da mồi, cùng nở nụ cười chào đón. Nếu có
gặp Trích tiên Lý Bạch, nhớ nhắn hộ là bao giờ đầu tóc bạc trắng hãy trở về
Khuông sơn, tức Lô sơn. Ông nhắc đến Lý Bạch, có lẽ gợi hứng từ bài thơ
"Trông về ngọn Ngũ lão trên Lô sơn" của Lý Bạch với lời hẹn trong hai
câu thơ:
Cửu giang tú sắc khả lãm kết
Ngô tương thử địa tỏa vân tùng |
九江秀色可攬結
吾將此地鎖篔松
|
Lô sơn với dòng Cửu giang thanh kỳ tú lệ, sẽ chọn nơi này để
khóa cửa tùng cao vút tận mây.
Đến chùa Đông lâm, ông đề một bài tứ tuyệt lên vách, và kể từ
đó, Lô sơn trở thành một ẩn ngữ kỳ lạ cho thi ca:
Hoành khan thành lãnh trắc thành phong
Viễn cận cao đê các bất đồng Bất thức Lô sơn chân diện mục Chỉ duyên thân tại thử sơn trung |
橫看成嶺惻成峰
遠近膏低各不同
不識盧山真面目
只緣身在此山中
|
Lô sơn, được nhìn ngang, nó như một dải núi dài; nhìn
nghiêng, lại thấy nó là một ngọn núi cao. Nhìn thấy gần, hay xa, thấy núi cao
hay núi thấp. Lô sơn ẩn hiện thiên hình vạn trạng. Vậy thì, chân diện mục của
Lô sơn làm sao mà biết cho nổi? Cứ vào trong núi thì biết.
Một bài thơ khác, được truyền tụng thịnh hành trong giới Thiền
tông, nói là của ông. Nhưng không rõ ông làm lúc nào. Trong các tập thi văn của
ông, không thấy có. Bài thơ nói khá tinh tế về đạo Thiền, cũng khó biết rõ chân
diện mục như Lô sơn.
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự Lô sơn yên tỏa Triết giang triều |
盧山湮鎖浙江潮
未到生平 恨不逍
到得還來無別事
盧山湮鎖浙江潮
|
Bài dịch thơ bằng tiếng Việt hay nhất (không nhớ dịch giả):
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn.
Đến rồi về lại không gì lạ.
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn.
Đến rồi về lại không gì lạ.
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Sách Tục Truyền đăng lục chép:
"Dòng thiền Huệ Năng, đời thứ 14, pháp tự của Đông Lâm
Chiếu Giác Thường Tổng thiền sư: Nội hàn Tô Thức cư sĩ.
"Nội hàn, Đông Pha cư sĩ, Tô Thức, tự Tử Chiêm. Nhân ngủ
đêm tại chùa Đông lâm (trên Lô sơn), cùng với Chiếu Giác luận về đề tài
"vô tình", rồi tỉnh ngộ. Sáng ra, làm bài kệ trình sư:
Khe thanh tiện thị quảng trường thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ Tha nhật như hà cử tợ nhân |
溪聲便是廣長舌
山色豈非清淨身
夜來八萬四千偈
他日如何舉似人
|
Suối reo vẫn Pháp âm bất tuyệt
Màu non kia Chân thể Như lai
Đêm đó tám vạn bốn nghìn kệ
Ngày sau nói lại làm sao đây?
Màu non kia Chân thể Như lai
Đêm đó tám vạn bốn nghìn kệ
Ngày sau nói lại làm sao đây?
"Ít lâu sau, đến Kinh nam. Nghe đồn thiền sư Ngọc Tuyền
Thừa Hạo, biện luận sắc bén đụng không nổi. Ông mới thay đổi y phục, trá hình
tìm đến xin ra mắt. Hạo hỏi:
" - Tánh danh của tôn quan?
"Ông đáp:
" - Tôi tên Cân; tức là Cân hết thảy các cái Cân trưởng
lão trong thiên hạ.
"Hạo hét lên một tiếng, rồi hỏi:
" - Nặng bao nhiêu?
"Ông không đáp được. Rồi từ đó khâm phục.
Về sau, qua Kim sơn; ở đó có bức chân dung của ông. Ông đề giỡn
vào đó:
Tâm tợ dĩ hôi chi mộc
Thân như bất hệ chi châu Vấn nhữ bình sinh hà nghiệp Hoàng châu Quỳnh châu Huệ châu |
心似已灰之木
身如不繫之舟
問汝平生何業
黃州惠州瓊州
|
Tâm như thanh củi tro tàn
Thân như thuyền lỏng theo ngàn nước trôi
Hỏi ông công nghiệp một đời
Hoàng châu, Quỳnh, Huệ, những ngày những năm.…"
Hoàng châu, Quỳnh châu, Huệ châu, vân vân châu; những đoạn đường
đày ải; những ngày tháng đoạn trường. Cuộc đời ông như một con thuyền buông lỏng,
thả trôi cho nước cuốn. Nhưng cuộc thơ của ông thì sao: khổ lụy? Phiêu bồng? Đọa
đày? Viễn mộng? Đâu là chân tướng, chân thể, chân tâm? Chân diện mục của Lô
sơn, không phải là dễ thấy.
Ông bị biếm trích ở Hoàng châu, rồi sau qua Thường châu; 51
tuổi, được ân xá, chiếu hồi về triều. Cuộc đời ông bây giờ sẽ bắt đầu một đoạn
đường danh vọng gần mức tột cùng. Sau năm năm trường đày ải, trên đường trở về
triều, ngang qua Tiền đường, ông gặp Dương Kiệt. Dương Kiệt, tự Thứ Công, hiệu
Vô Vi cư sĩ, bấy giờ đang làm quan ở bộ Lễ, Kiệt vâng mạng triều đình hộ tống
vương tử Triều tiên, đạo hiệu Nghĩa Thiên tăng thống, đi du lãm các danh thắng
vùng đất Giang nam. Ông làm bài tiễn Dương Kiệt và tự viết lời dẫn cho bài thơ:
"Vô Vi cư sĩ đã có lần phụng sứ lên Thái sơn tuyệt đỉnh,
được thấy mặt trời lúc gà bắt gáy nửa đêm. Lại đã có lần hữu sự ngang qua Hoa
sơn, ngày trùng cửu (ngày lễ hoa cúc, mồng 9-9), uống rượu trên ngọn Liên hoa
phong. Nay ông lại phụng chiếu cùng Tăng thống Cao ly sang chơi Tiền đường. Tất
cả đều là do vương sự mà lại được cái vui thế ngoại. Quả là kỳ diệu, chưa từng
có."
Lời dẫn hé cho thấy một góc trời trong cõi thi ca của ông; một
góc cạnh nào đó của Lô sơn chân diện mục. Cuộc chơi trong cõi mộng của thi ca
còn có phong độ phiêu bồng của những cuộc giao tình phương ngoại; cuộc giao
tình với ngoài kia những phương trời diệu vợi. Lô sơn hùng vĩ, phiêu bồng, nhưng
u ẩn. Lòng núi dấu kín những tâm sự nghìn năm không nói; lòng núi ủ kín những
cuộc đời trầm mặc; những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội
lạnh như tro tàn mùa đông. Núi âm thầm, cho gió ngàn gào thét, cho mây trời vần
vũ, và những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô sơn đồng vọng
một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ diệu.
Khách phàm trần bươn bả, thuyền đỗ bến Bành lãi hay Tầm Dương, chỉ thấy đó là một
cõi đẹp của khói mờ sương phủ; chỉ thấy đó là một bầu trời trong chiều tà rồi nắng
quái, trong nắng quái rồi chiều tà. Làm sao thấy và nghe những tình tự u trầm
trong đó? Hoặc u trầm, hoặc cuồng nộ, Lô sơn có thiên hình vạn trạng. Những chiếc
nón hoàng quan của đạo sĩ, những chiếc áo phá nạp của thiền tăng; đầu này vẳng
tiếng Huỳnh đình, đầu kia dội tiếng chuông triêu mộ. Những hình bóng và những
âm hưởng đó, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, bên dòng lịch sử trường mộng của
nhân sinh đổ ầm xuống; có những cuộc thi gan tuế nguyệt diễn ra trong lạnh
lùng, cô tịch. Ngày và đêm, đày đọa hình hài và tâm trí, đứng trơ vơ, kinh đảm
hãi hùng, trên chiếc cầu độc mộc, bắc ngang qua ghềnh sinh tử. Phương ngoại là
cõi của ngày tháng phiêu bồng, có trăng thanh gió mát, có nắng quái tà dương,
có xuân lan thu cúc, có đủ tất cả mọi thứ thanh nhàn, tiêu sái, phóng dật… mà
người đời mong ước. Nhưng đó chỉ là Lô sơn từ bến Tầm dương nhìn lại, hay từ bến
Bành lãi trông sang. Xa hay gần, cao hay thấp, Lô sơn đẹp trong thiên hình vạn
trạng. Giữa lòng Lô sơn, ngày tháng u trầm trôi qua trong một phương trời đọa
đày viễn mộng. Phải chăng đây đã là nơi sơn cùng thủy tận của một cõi thi ca
bát ngát?
Từ khi bước ngang qua:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
(Kiều)
Và từ đó đã bước ngay vào một trường thiên lịch sử đọa đày,
khổ lụy:
Mối tình đòi đoạn vò tơ
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
(Kiều)
Tình cố quận, tình tha hương, trong những ngày lưu lạc, và
chân trời phương ngoại cho những ngày tháng tiêu dao, hồn thơ bay cao vút đến mấy
vạn trời mây, vẫn còn đồng vọng Lô sơn; một chiếc cầu độc mộc cheo leo, bắc
ngang qua bên này và bên kia, hai bên bờ của một cõi sống và chết, mà bên dưới
là vực thẳm tuyệt mù, dội lên những ẩn ngữ kỳ lạ của dòng lịch sử kinh hoàng,
trôi ào ạt trong cái lặng lẽo vô thanh vô tức. Ẩnn ngữ cùng tuyệt của thi ca đồng
vọng từ đó, hay từ đâu? Lô sơn đẹp trong thiên hình vạn trạng, và chân diện mục
của Lô sơn ra sao?
Ông viết về Sâm Liêu Tử, một người bạn trong mối giao tình
thi ca, và trong cuộc giao tình phương ngoại:
"Đông Pha cư sĩ nói: Thưa! Sâm Liêu Tử, có cái thân lạnh
mà đạo giàu. Văn thì rành rõi mà nói năng chậm chạp. Bên ngoài mềm nhũn mà bên
trong cứng cỏi. Đối với người thì không ganh đua mà đối với cái quấy của bạn bè
thì hay châm chọc. Hình khô tâm tro lạnh mà thích nói lời cảm khái với thời,
thưởng ngoạn với vật, và không thể vong tình. Đó là chỗ mà tôi gọi là Sâm Liêu
Tử có năm điều không thể hiểu."
Xưa kia, Lý Bạch cũng có một người bạn tên Sâm Liêu Tử. Đông
Pha cũng có một ngưòi bạn như vậy. Sâm Liêu Tử của Đông Pha là biệt hiệu của
tăng Đạo Tiềm, một sư tăng tu ở Tiền đường. Đạo Tiềm rất thích thơ. Trước khi
Đông pha đáo nhiệm Tiền đường hai người đã biết nhau, qua giấc mộng. Nên khi tới
Tiền đường, Đông Pha liền đi tìm gặp ngay Đạo Tiềm, rồi viết Ứng mộng ký (?).
Hai người qua lại và làm thơ với nhau. Thơ của họ được khắc nhiều nơi các vách
đá trong vùng Giang Triết.
Năm Nguyên hựu thứ 6 (1091), từ Tiền đường, ông được lịnh gọi
trở về triều, ông để lại bài từ, theo điệu "Bát thanh cam châu", tặng
Sâm Liêu Tử:
Hữu tình phong vạn lý quyển triều lai,
Vô tình tống triều qui.
Vấn Tiền đường giang thượng,
Tây hưng phố khẩu
Kỷ độ tà huy.
Bất dụng tư lương kim cổ,
Phủ ngưỡng tích nhân phi,
Thùy tợ Đông Pha lão,
Bạch thủ vong ky.
Ký thủ Tây hồ tây bạn,
Chánh xuân sơn hảo xứ
Không thúy yên phi
Toán thi nhân tương đắc,
Như ngã dữ quân hi.
Ước tha niên đông hoàn hải đạo,
Nguyện Tạ công nhã ý mạc tương vi.
Tây châu lộ,
Bất ưng hồi thủ,
Vị ngã triêm y.
|
有情風萬里卷潮來,
無情送潮歸。 問錢塘江上, 西興浦口, 幾度斜暉? 不用思量今古, 俯仰昔人非。 誰似東坡老: 白首忘機。
記取西湖西畔,
正春山好處, 空翠煙霏。 算詩人相得, 如我與君稀。 約它年東還海道, 願謝公雅志莫相違。 西州路, 不應回首, 為我沾衣 |
Hữu tình thì ngọn gió từ một vạn dặm cuộn sóng tới. Vô tình
thì đưa con sóng trở về. Thử hỏi, trên sông Tiền đường, và phố khẩu Tây hưng,
qua mấy độ tà huy? Không kể gì kim hay cổ; cúi và ngước, thấy người xưa đã
khác. Xem chừng lão Đông Pha, đầu bạc dửng dưng đời.
Nhớ lấy cảnh bờ tây của Tây hồ, sắc xuân lồng lộng, trời xanh
thăm thẳm, khói mưa mù. Người thơ tương đắc, như tôi với Ngài, phỏng được bao
nhiêu? Hẹn sang năm, vượt bỏ dặm ngàn trở lại đây, giữ mãi tấm lòng hoài vọng
không bao giờ thôi. Đường Tây châu, đừng có quay đầu, vì tôi mà đẫm áo.
Đó là cuộc giao tình tương đắc của những người bạn thơ. Ngoài
cuộc đó, còn là cuộc giao tình phương ngoại. Phương ngoại du, là cuộc chơi của
những mặt công hầu rám nắng, trong một thuở tạm thời rửa mặt đi bàn chuyện
Không hư, bàn cái Không và cái Hữu của tử sinh trường mộng. Thì ở đó, một tấm
lòng thơ đã mở ra bao trùm cả hai cõi. Lời thơ sẽ lai láng cho tình thơ nồng
nàn. Lời thơ sẽ điềm đạm cho trời thơ nghiêm nghị. Lời thơ sẽ phiêu bồng cho trời
thơ lãng đãng. Lời thơ sẽ ngậm ngùi cho trời thơ cô tịch. Lời thơ sẽ cay đắng
cho trời thơ đày đọa. Lời thơ vần vũ, và trời thơ trùng trùng điệp điệp bao la.
Làm sao để mở rộng tấm lòng của mình cho thành tấm lòng của trời thơ lồng lộng,
nhìn thẳng vào chân diện mục của Lô sơn, ba mươi sáu ngọn núi xanh cao ngất?
Thơ ông tiễn Đạo Tiềm nói:
Thượng nhân học Khổ Không
Bách niệm dĩ hôi lãnh Kiếm đầu duy nhất quyết Tiều cốc vô tân dĩnh Hồ vi trục ngã bối Văn tự tranh ủy bính Tân thi như ngọc tiết Xuất ngữ tiện thanh kỉnh Thối Chi luận thảo thơ Vạn sự vị tường bính Ưu sầu bất bình khí Nhất ngụ bút sở sính Phả quái Phù đồ nhân Thị thân như khâu tỉnh Đồi nhiên ký đạm bạc Thùy dữ phát hào mãnh Tế tư nãi bất nhiên Chân xảo phi ảo ảnh Dục linh thi ngữ diệu Vô áp Không thả Tĩnh Tĩnh cố liễu quần động Không cố nạp vạn cảnh Duyệt thế tẩu nhân gian Quán thân ngọa vân lĩnh Hàm toan tạp chúng hảo Trung hữu chí vị vĩnh Thi Pháp bất tương phương Thử ngữ đương cánh thỉnh |
上人学苦空,
百念已灰冷。
剑头唯一吷,
焦谷无新颖。
胡为逐吾辈,
文字争蔚炳?
新诗如玉屑,
出语便清警。
退之论草书,
万事未尝屏。
忧愁不平气,
一寓笔所骋。
颇怪浮屠人,
视身如丘井。
颓然寄淡泊,
谁与发豪猛?
细思乃不然,
真巧非幻影。
欲令诗语妙,
无厌空且静。
静故了群动,
空故纳万境。
阅世走人间,
观身卧云岭。
成酸杂众好,
中有至味永。
诗法不相妨,
此语当更请。
|
Đó là một bài thơ, hay một bài văn luận về phép làm thơ, gọi
nó là thế nào cũng được. Lô sơn có thiên hình vạn trạng, nhìn ngang hay nhìn dọc,
tùy. Ông nói, đại khái như thế này:
Thượng nhân học về cái lẽ Khổ Không; một trăm thứ niệm tưởng
đã thành tro lạnh hết. Cũng tợ thể vung lưỡi kiếm một cái là y như gió thổi chẻ
hạt thóc lép, không còn chút bụi cám. Tại sao ngài lại phải chạy theo bọn tôi,
tranh đua cái vẻ rực rỡ của văn tự? Bài thơ bọn tôi mới làm, nó đẹp như tán vụn
viên ngọc lóng lánh; lời thơ vừa ra là đã trong veo kỳ lạ. Hàn Thối Chi (Hàn
Dũ), luận cách viết chữ thảo, mà chưa hề bỏ bê mọi việc. Cái u sầu, cái khí bất
bình, nội một nét bút là hàm tất cả.
Lạ thay, những người đi tu Phật, coi thân này như là gò, như
là giếng, chật hẹp và tù túng, nên chịu cảnh đạm bạc trơ vơ, thì đi bộc bạch
cái hào, cái mãnh với ai?
Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì không phải thế. Cái ảo diệu không
phải là cái ảo ảnh. Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa
Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao
hàm vạn cảnh. Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp
đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt
vời.
Thơ và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. Cái đó
lại nhờ Thượng nhân hạ quyết.
Nhờ hạ quyết? Không nhờ, cũng đã quyết. Người học Thiền, học
từ cái khổ đau, hư ảo; học cho thân tâm ra là thứ tro tàn nguội lạnh. Học như
thế là học để mà đoạ đày. Sở đạt của sở học đó, là buông thả, hóa thành cái
Không và trở thành cái Tĩnh. Buông thả, thì không câu chấp, không còn bị ràng
buộc. Cũng tiêu dao như hồn thơ thoát sái và lãng mạn. Tâm Tĩnh, thì trầm lặng
như mặt nước không gợn sóng, phản chiếu trọn vẹn ngoại cảnh. Tâm Không, thì Tâm
rộng như mặt biển bao la, dung nạp tất cả ngân hà tinh đẩu. Người học Thiền chịu
đọa đày cho thân mình gầy, cho tâm mình nguội, trong đó có cái diệu dụng phi
thường của nó. Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải truân chuyên, trong đó cũng có
cái ảo diệu của vị chua, vị mặn. Suốt đời học Thiền; suốt đời vẫn đày đọa thân
tâm; đày đọa trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đoạ đó, mà kỳ thực không là đày đọa.
Cũng vậy, suốt đời làm thơ, thì suốt đời khổ lụy lao đao; nhưng không là khổ lụy
lao đao. Chỗ ảo diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa của thi ca, làm sao hiểu
nổi?
Nhưng, ai nói người học Thiền phải chịu đày đọa thân tâm? Họ
nhàn hạ, họ thong dong, họ tiêu sái; họ lãng đãng như Lô sơn thấp thoáng giữa
mây trắng và sương mù. Tuy nhiên như thế, nhưng ai quyết rằng tâm hồn đó trầm mặc
như nước hồ không dao động? Giữa lòng Lô sơn, giải Ngân hà trên bầu trời cô tịch
không ngừng đổ xuống ầm ầm như sấm sét.
Thi sĩ và Thiền sư cùng lao đao, và cùng tiêu sái, trong cùng
một cõi trầm mặc phiêu bồng, vừa Không vừa Tĩnh. Ngọc đường kim mã hay Giang bắc
Giang nam; hay lão thần cô quạnh nơi Hoàng châu, Huệ châu... , đày ải hay không
đày ải, hồn thơ vẫn điềm đạm bao la trong thơ huy hoàng bát ngát.
Thế thì, cái chỗ đọa đày viễn mộng nghe chừng như là phải
kinh hoàng táng đảm, nó làm cho đất liền cũng trở thành sa mạc, với nóng cháy
và với gió rét kinh hồn. Thế mà lại khác hẳn. Đó là cái Không Không và Tĩnh
Tĩnh, cõi của mây trời trên đỉnh núi. Khách phàm trần chưa bước tới nổi, nên cứ
tưởng là nơi khổ lụy tột cùng, hoặc huy hoàng tráng lệ. Cả hai, vừa phải vừa
không phải. Lô sơn có thiên hình vạn trạng. Cõi thơ có trùng trùng ẩn ngữ.
Đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ
Không tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm
đày đọa thân tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa
rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng
cho thông. Cho nên, không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là
chân diện mục của nó. Nói được một cách dễ dãi, hay không dễ dãi, như thế chẳng
khác nào đàn bà con nít cũng biết giảng chỗ ảo diệu của Ngộ Thiền. Ông viết
trong bài bạt của khắc kinh Lăng già như thế này:
"… Chỉ lấy theo chỗ giản tiện; được một câu kinh, một
bài kệ, tự cho là liễu chứng. Cho đến cả bọn đàn bà, con nít, dong tay cười giỡn,
đua nhau bàn bạc hương vị Thiền. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư
ba mạt lưu đó không đâu không chảy tới. mà cái vi diệu của Phật Pháp đã mất rồi.
Chẳng khác nào thầy lang quê mùa… (may mà chữa lành bịnh nhẹ)…"
Đại khái, nơi cõi Thiền cũng có cái khó phân biệt Chân và Ngụy.
Cõi thơ há lại không? Nhưng chỉ thẳng vào chỗ đó, không thể được. Nó không phải
là chỗ dị đồng giữa con chó và con cọp, hay giữa cọp thực và cọp giấy.
Quả nhiên, điều thấy rõ là ông đã giảng giải thế nào là Thơ,
và thế nào là Thiền. Và cũng thấy rõ là trong đó có chỗ đồng và chỗ dị. Nhưng
chỉ thẳng vào những chỗ đó, thiên nan vạn nan.
Có thể đọc lại bài thơ ông tặng Đạo Tiềm, đã dẫn ở trên kia.
Bài thơ:
Vị văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan
Dĩ hỉ Thiền Tâm vô biệt ngữ
Thượng hiềm thế phát hữu thi ban
Dị đồng mạc vấn nghi tam ngữ
Vật ngã chung đương phó bát hoàn
Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ
Cử đầu tam thập lục thanh sơn.
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan
Dĩ hỉ Thiền Tâm vô biệt ngữ
Thượng hiềm thế phát hữu thi ban
Dị đồng mạc vấn nghi tam ngữ
Vật ngã chung đương phó bát hoàn
Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ
Cử đầu tam thập lục thanh sơn.
Tống Triết tông, năm đầu niên hiệu nguyên hựu (1086), vương tử
Cao li, Tăng thống Nghĩa Thiên, sang thăm Trung Hoa, tìm hiểu Phật giáo Hoa
Nghiêm tông. Vua sắc chỉ Đông kinh Giác nghiêm Thành thiền sư ứng đối. Thành đề
cử sư Tịnh Nguyên ở Tiền Đường, thay thế mình. Vua mới lịnh cho Dương Kiệt hộ tống
Nghĩa Thiên tăng thống đến Tiền đường. Các tự viện làm lễ đón và đưa rất rầm rộ.
Khi Nghĩa Thiên mới đến Kinh sư, vua sắc Lễ bộ Tô Thức tiếp
đón. Rồi đến yết Viên chiếu. Bản thiền sư, thảo luận về tông chỉ Phật Pháp. Sau
đó, đến Kim Sơn. Ở đó, Phật Ấn ngồi mà đón và nhận lễ cúng nạp. Dương Kiệt kinh
ngạc hỏi. Phật Ấn đáp: Nghĩa Thiên là tăng nước ngoài, nhưng luật của người xuất
gia không phân biệt biên vức quốc gia, do đó, không vì Nghĩa Thiên đến với tư
cách một vương tử ngoại quốc, được triều đình đãi như một thượng khách, mà sư
phải theo cách tiếp đãi của triều đình. Triết tông biết việc đó, rất khâm phục
thái độ của Phật Ấn. Về sau, vua mang chiếc áo nạp do Cao ly tiến cống tặng cho
Phật Ấn. Đông Pha viết bài nạp tán:
"TỰA:
"Trưởng lão Phật Ấn đại sư Liễu Nguyên, dạo chơi Kinh
sư. Thiên tử nghe danh sư, đem chiếc áo Ma nạp do nước Cao lệ cống hiến ban cho
sư.
"Khách có người thấy, khen rằng: Hỡi ôi! Đẹp thay! Chưa
từng thấy vậy. tôi và con tôi đã thử nắm vạt nó trải ra, theo cái chéo nó
trương lên mà tung ra; từ phía đông tận đất Ngung di, phía tây tới Muội cốc,
phía Nam Giao chỉ, phía bắc U đô, tất cả đều nằm trong lỗ kim khe chỉ của tôi cả.
"Phật Ấn cười hô hố, nói: Ăn thua gì! Cái ông nói còn
quê mùa lắm. Tôi lấy con mắt Pháp mà nhìn nó, thấy trong mỗi lỗ kim có vô lượng
thế giới. Rồi trong mỗi thế giới đó, có bao nhiêu chúng sinh, mà mỗi lỗ kim khe
chỉ của mỗi chiếc áo chúng mặc đều là thế giới. Cứ lần lượt như thế cho đến tám
mươi lần, mà quang minh của Phật tôi đều rọi tới, cùng với Thánh đức của Quân
thượng tôi bao trùm như đem biển cả mà đổ vào một lỗ chân lông, như để cõi đất
mà lấp một lỗ kim. Thì những Ngung di, Muội cốc, Giao chỉ, U đô, có gì đáng
nói. Nên biết rằng, chiếc áo nạp đó không phải lớn, không phải nhỏ, không phải
vắn, không phải dài, không phải nặng không phải nhẹ, không phải mỏng, không phải
dày, không phải Sắc không phải Không. Hết thảy thế gian chịu lạnh đến nứt da, rụng
ngón mà áo nạp đó không lạnh; nóng đến độ đá tan, vàng chảy mà áo nạp đó không
nóng; năm thứ dơ bẩn lai láng của thế gian không làm nó bợn; lửa kiếp tận hừng
hực đốt rụi thế gian mà áo nạp đó không hoại. Sao lại có tâm tư duy sinh ra
nghĩa tưởng hèn kém?
"Nhân đó, người đất Thục là Tô Thức nghe vậy mới làm bài
tán rằng:
Xếp lại mà cất
Thấy nạp không thấy sư
Mặc mà không xếp
Thấy sư không thấy nạp
Chỉ sư với nạp
Phi một phi hai
Chột mắt mà nhìn
Rận rệp rồng voi.…"
Thấy nạp không thấy sư
Mặc mà không xếp
Thấy sư không thấy nạp
Chỉ sư với nạp
Phi một phi hai
Chột mắt mà nhìn
Rận rệp rồng voi.…"
Phật Ấn Liễu Nguyên, hiệu Giác Lão. Lúc Đông Pha bị biếm
trích ở Hoàng châu, thì sư trụ ở chùa Qui tông, Lô sơn. Hoàng châu và Qui tông
đối ngạn, nên ông và sư thường hay qua lại giao thiệp, trao đổi làm thơ, đi ngoạn
cảnh.
Sau sư dời sang ở chùa Kim sơn. Một hôm, ông đến thăm vào lúc
sư đang giảng kinh cho tăng trong chùa. Họ đứng hai hàng để nghe. Ông đến, sư
nói: "Nơi đây không có giường ghế. Cư sĩ đến, biết ngồi đâu bây giờ?"
Ông bảo: "Vậy thì muợn đỡ tứ đại của Phật Ấn làm giường ngồi." Nghĩa
là, ông mượn cái thân tứ đại của Phật Ấn làm giường ngồi. Phật Ấn nói:
"Sơn tăng này có một câu hỏi, nếu thí chủ đáp được, sẽ theo lời cho mượn
thân tứ đại này làm giường ngồi. Nếu không, xin để lại sợi ngọc đái làm vật trấn
sơn môn." Ngọc đái là giải dây buộc ngang lưng của bậc thượng lưu thời đó,
được đem ra đánh cuộc, để làm bửu vật trấn giữ cửa chùa. Ông liền cởi ngay giải
dây đặt lên bàn. Sư hỏi: "Tứ đại giai không, ngũ uẩn phi hữu. Cư sĩ muốn
ngồi vào đâu? "Ông ngẫm nghĩ, chưa kịp trả lời, thì sư đã gọi gấp thị giả
mang sợi đái đi cất, để làm vật trấn sơn môn. Ông làm ngay hai bài thơ tặng sư
(trích một bài đọc chơi):
Bịnh cốt nan kham ngọc đái vi
Độn căn nhưng lạc tiễn phong ki Dục giao khất thực ca cơ viện Cố dữ sơn vân cựu nạp y. |
病骨難堪玉帶圍,
鈍根仍落箭鋒機。
欲教乞食歌姬院,
故與雲山舊衲衣
|
Xương gầy giải ngọc buộc sao vô?
Hồ đồ thấp trí chịu thua cơ.
Những mong kiếm chác trò con hát;
Nay để làm duyên với cửa chùa.
Hồ đồ thấp trí chịu thua cơ.
Những mong kiếm chác trò con hát;
Nay để làm duyên với cửa chùa.
Chuyện đó trở thành cái giai thoại mà người ta truyền tụng là
"Ngọc đái trấn sơn môn" rất thịnh hành.
Năm ông 49 tuổi. Kể từ khi bị biếm trích ra Hoàng châu đến
bây giờ, là đã hơn bốn năm. Tháng 4 năm đó, Giáp tý (1084), ông được lệnh phải
dời sang ở Nhữ châu. Trên đường đi Nhữ châu, ông gặp Tử Do ở Quân châu. Lúc
này, Tử Do ở Quân châu; sư Vân Am ở chùa Động sơn; Thông thiền sư, người đất Thục,
ngụ tại chùa Thọ thánh. Tối đó, cả ba người cùng thấy một giấc mộng giống nhau.
Họ thấy đi đón Ngũ Tổ Sư Giới hòa thượng. Sư Giới là một thiền sư đời thứ 9 của
dòng thiền Huệ Năng. Cả ba cùng vỗ tay cười lớn: "Thế gian quả có chuyện đồng
mộng, lạ thay!" Ít lâu, thư của ông đến báo tin là ông đã tới Phụng tân, sẽ
gặp nhau trong sớm tối. Ba người cùng ra ngoài 20 dặm chùa Kiến sơ thì gặp ông.
Mỗi người lần lượt kể giấc mộng của mình. Oâng mới nói: "Tôi hồi 7, 8 tuổi,
có lần nằm mộng thấy mình làm tăng, qua lại bên Thiểm hữu." Sư Vân Am cả
kinh, nói: "Sư Giới là người ở Thiểm hữu. Tuổi về già, bỏ chùa Ngũ tổ đến
dạo ở Cao an, sau mất tại chùa Đại ngu. Tính ngược lại, đã đúng 50 năm." Bấy
giờ ông 49 tuổi. Vậy, đại khái, đời trước ông là thiền sư Ngữ tổ Sư Giới. Nhưng
nghe nói Sư Giới đã tỏ ngộ đạo thiền, đã đắc đạo, sao thác sinh ra ông lại phải
trải qua một kiếp lao đao đày ải như thế?
Ông bị đày xuống Quảng đông, rồi Hải nam, từ năm 59 tuổi
, cho đến 66 tuổi thì được tha về.
Trong thời gian này, ông quen thân với sư Trùng Biện. Ông viết
dật sự của sư Trùng Biện, tức Nam Hoa trưởng lão.
"Thiền sư Khế Tung thường sân; người ta chưa từng thấy
sư cười. Sư Hải Nguyệt Biện thường vui, người ta chưa từng thấy sư giận. Tôi ở
Tiền đường, chính mắt thấy hai vị đó đều ngồi kiết già mà hóa (chết). Khế Tung
đã trà tì (thiêu xác), mà lửa không hủy hoại. Thêm củi cho lửa đỏ đến năm lần mới
thôi. Hải Nguyệt đến khi táng mà gương mặt vẫn tươi như còn sống, lại còn cười
nụ.
"Thế mới biết, hai người lấy cái sân và cái hỉ mà làm Phật
sự vậy.
"Người đời coi thân hình như vàng ngọc, không để cho gót
chân dính bụi. Bậc Chí nhân thì ngược lại. Tôi lấy đó mà biết rằng, hết thảy
các Pháp đều do ái mà hoại; do xả mà thường. Há không phải vậy sao?
‘Tôi từ Hải nam trở về, thì Trùng Biện tịch đã lâu. Qua Nam
hoa điếu. Hỏi chúng tăng ở đó về chỗ mộ tháp của Sư. Họ bảo: "Thầy tôi xưa
đã có làm thọ tháp, về phía đông Nam hoa vài dặm. Có người không ưa thầy, nên
táng ở mộ khác. Đã hơn bảy trăm ngày rồi. Nay Trưởng lão Minh Công ra sức một
mình, dời về thọ tháp. Thay quan, đổi áo, thấy trọn cả thân thể vẫn như đang
còn sống; áo vẫn tươi và thơm. Mọi người hỗ thẹn và kỉnh phục."
"Đông Pha cư sĩ nói: Trùng Biện coi thân là vật gì? Vứt
nó vào rừng Thi đà để nuôi chim, nuôi quạ, đâu có sự để ở thọ tháp cho an ổn.
Vì là, Minh công là người biết rõ Trùng Biện, nên đặc biệt muốn lấy sự họa phúc
đồng dị mà thôi.
"Tôi mới đem trà, quả đến cúng ở tháp sư, rồi viết lại sự
việc đó để gởi cho thượng túc đệ tử của sư là sư Khả Hưng. Nam hoa tháp chủ.
"Bấy giờ, niên hiệu Nguyên phù thứ 3 (1100), tháng 12,
ngày 19."
Độ nửa tháng sau, ông viết bài "Nam hoa trưởng lão đề
danh ký"
"Học giả lấy sự thành Phật làm khó ư? Con nít vọc đất, vẽ
cát mà giỡn thôi, cũng đủ thành Phật; lấy đó mà cho là dễ ư?
"Những bậc đã được thọ ký, đã đắc đạo, như các vị Bồ tát
và các Đại đệ tử (của Phật Thích Ca) mà còn không dám đi thăm bịnh (cư sĩ
Duy-ma-cật); cái nghĩa đó là thế nào?
"Lúc đang mê loạn điên đảo, trôi lăn trong biển khổ, mà
vừa có một niệm Chân thành, thì vạn pháp đều có đủ cả. Còn như, cần khổ dụng
công, như đắp núi đã cao đến chín bậc, sau chỉ vì một chút sai sẩy cỏn con mà một
nghìn đời không phục lại nổi.
"Hỡi ôi, Đạo vốn là như vậy đó!
"Nhưng riêng gì Phật thôi ư? Thầy Tử Tư có nói: "Hạng
phàm phu phụ không ra gì cũng có thể hành (đạo) được; còn như chỗ tột cùng, thì
dù là Thánh nhân cũng có chỗ chưa đủ sức." Mạnh Tử thì cho rằng Đạo của
Thánh nhân bắt đầu ở chỗ không làm việc trèo tường khoét vách mà cái ác của việc
trèo tường khoét vách đã hiện ở lời nói. Không nói người chưa có ý muốn làm việc
trèo tường khoét vách, thì dù có việc trèo tường khoét vách cũng không muốn. Từ
cái tâm mình không muốn làm mà đi cầu nó (đạo), thì việc trèo tường khoét vách
đã đủ để làm Thánh nhân rồi.
"Đáng nói mà không nói. Không đáng nói mà lại nói: những
điều như vậy, dù là Hiền nhân, Quân tử cũng không thể tránh khỏi. Nhân từ cái lỗi
không thể tránh mà tiến tới, dù là Hiền nhân Quân tử cũng có lúc phải đi ăn trộm.
"Đó là hai Pháp ngược nhau, nhưng lạm dụng lẫn nhau. Nho
và Thích cũng như nhau ở chỗ đó.
"Nam Hoa trưởng lão Minh Công, trước kia theo cái học của
Tử Tư, Mạnh tử. Sau bỏ nhà theo Phật. Người không biết, cho là trốn Nho theo Phật,
chứ không biết Sư vẫn còn Nho.
"Chùa Nam hoa này, từ Ngài Lục tổ Đại Giám (Huệ Năng) thị
diệt, những người truyền Pháp đắc đạo đều phân tán tứ phương, cho nên Nam hoa
lâu nay là chùa Luật (tông).
"Đến đời Tống ta, trong niên hiệu Thiên hi thứ 3 (1019)
mới bắt đầu có chiếu cử Tri Độ thiền sư Phổ Toại làm trụ trì. Cho đến sư Minh
Công bây giờ, đã được 11 đời.
"Minh Công nói với Đông Pha cư sĩ: "Tể quan hành
pháp thế gian. Sa môn hành pháp xuất thế gian. Thế gian tức xuất thế gian, như
nhau không khác. Nay các tể quan truyền nhau đều có đề danh ghi lên vách; chỉ
riêng sa môn là không có. Vả lại, đạo tràng tôi ở đây, sửa sang chỗ Phật Tổ thì
được, nhưng sự truyền không nghiêm. Nhờ thầy viết hộ tôi bài ký.
"Cư sĩ thưa: Vâng.
"Rồi luận Nho và Thích không gặp nhau nhưng đồng nhau, lấy
đó làm bài ký này.
"Năm đầu niên hiệu Kiến trung tĩnh quốc (1101), tháng
giêng, ngày mồng 1."
Trên đường về Kinh, Ông nằm mộng thấy làm một bài thơ gởi cho
Chu Hành Trung. Hôm sau thức dậy, còn nhớ rõ cả. Và ông chép lại:
Thuấn bất tác lục khí
Thùy tri quí Dư Phiên Ai tai Sở cuồng sĩ Bảo Phác hào không sơn Tương Như khởi nghễ trụ Đầu bích tương dữ hoàn Hà như Trịnh Tử Sản Hữu lễ quốc tự nhàn Tuy vi Hàn Tuyên Tử Bỉ phu diệc hoài Hoàn. Chí kim bất tham bửu Lẫm nhiên siêu trần hoàn. |
舜 不 作 六 器
誰 知 貴 璵 蹯
哀 哉 楚 狂 士
抱 撲 號 空 山
相 如 起 睨 柱
頭 壁 相 與 還
何 如 鄭 子 產
有 澧 國 自 閑
雖 微 韓 宣 子
鄙 夫 亦 懷 還
至 今 不 貪 寶
凜 然 超 塵 寰
|
Ít hôm sau, ngày 28 tháng 7, ông mất. Bài thơ làm trong mộng
trên đây được người dời truyền tụng là tuyệt bút của ông.
Nếu vua Thuấn không chế ra sáu thứ dụng cụ, ai biết ngọc
Phiên, ngọc Dư của bậc quân vương là quí?
Cuồng sĩ nước Sở có viên ngọc phác, nhưng trong đời không ai
cho đó là ngọc, mà coi nó là đá cuội, nên thương thay! ôm ngọc mà kêu gào với
núi hoang.
Khi người ta nhận được ngọc Bích là quí, thì Lạn Tương Như cầm
nó trong tay, liếc nhìn cái trụ, quyết ý đầu và ngọc sẽ cùng nát cả, thế mà hăm
dọa được vua Tần, mang được trọn vẹn cả đầu cổ và ngọc Bích trở về Triệu.
Trịnh Tử Sản hộ tống Trịnh bá sang Tấn. Tấn hầu vì cớ có
tang, không chịu tương kiến. Tử Sản cho phá sập nhà cửa, tường vách của Tấn,
cho là chỗ chật hẹp, không phải lễ đãi khách đối với chư hầu như vậy. Làm dữ,
thế mà quốc gia nhờ đó lại được yên ổn, vì là có lễ. Nhưng có cần làm vậy ư?
Có gia bảo ngọc Hoàn như Hàn Tuyên Tử, dù đến khi nghèo kiệt,
bọn đầy tớ trong nhà cũng có ngọc mà đeo.
Cho đên bây giờ, ta vẫn chưa hề tham đến những món quí, món
báu. Cho nên, hiên ngang lẫm liệt đứng cao vọi bên trên tất cả cõi đời.
Đó là những lời tuyệt bút? Được truyền tụng là như thế. Và
tuyệt bút của một người trong mộng. Trong cõi mộng, tâm sự của khách tài hoa nó
kiêu hùng trong phong độ lẫm liệt hiên ngang. Tài hoa lãng mạn bát ngát như Lô
sơn ẩn hiện giữa mây trắng và sương mù. Lẫm liệt siêu trần hoàn cũng y thể như
ngọn Lô sơn sừng sững giữa một cõi trời cô tịch.
Học thơ, và làm thơ, đạt đến cõi thượng thừa lẫm liệt của trời
thơ, đến chỗ tài hoa tuyệt đỉnh của trời thơ; như viên ngọc quí giá vô tận. Đời
không biết tới, người có nó cũng khổ lụy kêu gào với ngọn núi hoang vắng cô
liêu. Mà đời biết đến nó, thì cũng khổ lụy kỳ cùng cho người có nó. Có, hay
không có cái tài hoa tuyệt thế, cái lẫm liệt siêu trần, của một viên ngọc quí,
vẫn là những cái làm khổ lụy cuộc đời. Khổ lụy, và triền miên khổ lụy, nó là thứ
gì? Và tại sao lại có nó? chân diện mục của Lô sơn được gói trọn vào trong một
câu hỏi này ư? Nếu thế thì, Lô sơn trùng trùng điệp điệp, không làm sao bước tới,
cho thấy tường tận chân diện mục nó. Nhưng người dù đã bước tới, tận vào chỗ
sơn cùng lộ tuyệt của nó, cũng không làm sao nói lại được một góc cạnh của cái
thấy đó. Rồi từ đó, đột nhiên, trời Thơ trở nên là một, hay là những phương trời
đọa đày viễn mộng. Đọa đày cho đến kỳ cùng, đọa đày cho thành kỳ diệu tuyệt mức.
"Lao viễn mộng", đọa đày viễn mộng, của nhà thơ đó,
một chân diện mục của Lô sơn mà khách trần tục lụy, nghìn đời không sao hé thấy.
Cõi thơ mở ra, và khép lại trong một cõi mộng không lời.
Từ bến Tầm dương, hay bến Bành lãi nhìn lên, Lô sơn khói tỏa
sương mù.
Chân diện mục của Lô sơn?
Chân diện mục của Lô sơn?
NHỮNG PHƯƠNG TRỜI LỮ THỨ
Thơ từ phế phủ ra
Lại làm sầu phế phủ
Nào chỉ có thế thôi ư? Thơ phát ra từ những khổ lụy và những
nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh; từ độ đó, Thơ đi vào giữa những thảm họa
hoành sinh của Lịch sử. Từ buổi bình mình, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết
tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát, đến những đêm dài trăn trọc, trong nguyện
ước lứa đôi. Cho tới lúc, Thơ là Ly tao, là nỗi buồn cô quạnh của một lão thần
nơi đất Trích, bên dòng sông Mịch la. Lịch sử đã gây nên những trường khốc liệt,
cuộn sòng Thơ trôi mãi, trôi không bao giờ thấy lại được nguồn suối ban sơ; đừng
nói chi đến việc trở về. Thơ bị đẩy trôi theo tuế nguyệt. Mà Tuế nguyệt đã đi
là đi mất. Thế là, từ những phương trời viễn mộng ban sơ, Thơ dấn bước đi vào
Cuộc Lữ, kỳ cùng trong những phương trời của Cuộc Lữ. Nhưng Cuộc Lữ không bao
giờ cùng tận. Vì tượng của cuộc Lữ là những ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi,
cháy liên miên không hề gián đoạn. Núi vẫn đứng trơ ra đó, mà lửa thì cứ mãi bốc
thẳng và mất hút trong bầu trời cô tịch. Tại sao lại phải từ cái có, muôn đời
có đó, để đi vào cái không? Kiệt tận bình sinh, hay sống trọn đời với tuổi đời,
hay sống cho tận cùng cuộc sống, thì tất cả đời sống đó đã không ngừng mang trọn
tài hoa phong nhụy đổ vào khơi vơi, vào cõi miền hư tịch, không hư, không hình
tích, không bóng dáng và không lời. Cuộc Lữ nếu được đi trong mực Trung Dung,
thì cũng đi như mũi tên bắn thẳng tới phía trước, dù có bắn được một con chim
Trĩ, chim của biểu tưởng văn minh, của lịch sử hiền hòa; nhưng mũi tên bắn đi
không còn cách nào quay đầu trở lại. Nếu Cuộc Lữ được dẫn tới chỗ kỳ cùng của
Cuộc Lữ, đấy là lúc con chim trên rừng đã đốt tổ bay đi. Có muốn về, cũng không
còn tổ ấm bao dung của Quê Hương nguyên thủy nữa.
Thơ phát ra từ cuộc Lữ đọa đày, rồi trở lại đọa đày cuộc Lữ.
Cuộc Lữ là trường thể nghiệm Lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ. Và Thơ mở rộng
những phương trời Lữ Thứ. Quê Hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của Lịch sử,
vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên, Đất của Thơ đất
Trích, là những vùng đày ải; Đường của Thơ là Quán Trọ, là những bước đường ngược
gió. Mặn nồng nơi Đất Trích, lân la nơi Quán Trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa hằng
triệu vấn vương, và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối. Cho nên lời
Thơ càng lúc càng trầm trọng, như viên sỏi rơi vào lòng biển bao giờ cho tới
đáy thì thôi. Biết bao giờ cho tới đáy, để lấy đó làm Quê Hương hằng cửu? Bởi
cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm
mây trời trong nắng sớm.
Từ đây trở xuống, Thơ của ông sẽ được công bố cho thành một
Cuộc Đi, đi trong những đoạn đường Lữ Thứ, đi trong những phương trời Lữ Thứ. Bố
trí cho Thơ lịch nghiệm trong cuộc Riêng, để thể nghiệm trong cuộc Chung của Lịch
sử. Trong cuộc Riêng, Tình Thơ sẽ cũng chỉ là Tình Riêng. Một vài lời phụ chú,
một ít chuyện bàn bạc của người soạn sách, từ cuộc Riêng đó, nỗ lực giới hạn,
trên những trang lịch sử của phong trần cổ lục, để xem có thể dẫn tới được một
cuộc Chung đồng vọng nào đó chăng?
I. TRỜI QUÊ HƯƠNG KHÓI MÙ BAY VIỄN MỘNG
(1061 -1071)
LỜI DẪN
1061-1071, trong khoảng 10 năm này, ông làm quan tại các chỗ:
Kiểm phán tại Phượng tường, rồi Giám quan cáo viện tại Sử quán ở Kinh đô, và
sau đó xin ngoại nhiệm, được đổi ra Hàng châu vào năm 1071. Những chi tiết về sự
vụ làm quan của ông, ở đây chỉ lược đại khái.
Bắt đầu với bài thơ Hoài Cựu. Rồi chúng ta sẽ thấy,
Đất Khách luôn luôn phảng phất bóng dáng Quê Hương; trời của quê hương là vang
vọng của lịch sử. Sầu cố quận hay tình tha phương là những tiếng ngân dài của lịch
sử. Đó là đoạn đầu của một cuộc lịch nghiệm. Thơ được trích do bố trí dự định sẵn,
thì những cách điệu khác nhau của chúng chỉ là những sai dị trong bước đi mà
thôi. Cái Tình ẩn và cái Tình hiện trong mỗi bài thơ chỉ cùng chung một nỗi. Nỗi
đó, tạm thời gói lại trong Trời quê hương khói mù bay viễn mộng ở
đây. Gọi là trời quê hương, là muốn nói tới hoài vọng của người khách vừa bước
ra đi, từ giã quê hương, cho đoạn đầu của Lữ Thứ. Quê hương qua lớp khói mù, là
muốn nói tới hoài vọng trẻ trung, vì quê hương là nơi ngụ ẩn tình của lịch sử.
Bay viễn mộng, là đoạn đường Lữ Thứ đã mở ra rồi, nên cuộc lịch nghiệm thoáng hệin
những nét đăm chiêu. Cũng có thể lưu ý rằng, những chữ này chỉ dùng theo nghĩa
Riêng của đoạn này, để tương xứng với một cuộc Tình Riêng của Thơ
I.
Đồi mai ngơ ngác nụ cười
Cánh hồng là mộng của đời lưu ly
Tồn sinh thấp thoáng nẻo về
Dấu trơ bãi tuyết ngoài tê cánh đồng
Sư già tháp mới hồn không
Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ
Gập ghềnh năm tháng hay chưa
Đường dài người mỏi gót lừa kêu đau
Năm canh tý (1060), Ông làm chủ bạc tại huyện Phước xương, tỉnh
Hà nam. Năm trước, sau khi mãn tang mẹ, Ông và Tử Do theo cha, Lão Tô, dong
thuyền Nam du. Thơ văn của hai anh em được gói thành "Nam hành tập".
Đó là những bài thơ của tuổi trẻ; người ta nói như vậy. Hồn thơ bộc phát tự
nhiên, như cánh chim hồng đang ước hẹn với trời cao. Trong con mắt của người đời,
cái cảnh giang sơn thanh kỳ tú lệ đã tô điểm cho phong cách tự phụ của thời
niên thiếu:
Giang sơn dưỡng hào tuấn
Lễ số khốn anh hùng
Chấp bản nghinh quan trưởng
Xu trần bái hạ phong
Cốt cách đó chưa hiện rõ những nét cuồng ngạo. Sóng Trường
giang vẫn ào ạt mùa nước lũ trong từng năm một; nhưng lịch sử vẫn mãi triền
miên bất động trải dài thành hai bờ bến. Hồn thơ sẽ đến để mở cánh cửa trời, và
rồi sẽ khép lại thành một cõi của từ sinh trường mộng. Lúc nào mở, và lúc nào
đóng? Con chim trên rừng đốt tổ bay đi, cuộc Lữ không tính được khoảng đầu và
khoảng cuối.
Trên con đường của những ngày tháng đầu tiên từ giã quê
hương, thơ Ông đồng vọng tiếng hát này:
Đài thượng hữu khách ngâm thu phong
Bi thanh tiêu tán phiêu nhập cung
Đài biên du nữ lai thiết thính
Dục học thanh đồng ý bất đồng
Trên gò cao, khách đứng hát với ngọn gió mùa thu. Âm hưởng trầm
buồn hững hờ bay vào khung cửa kín. Bên gò có nàng du nữ đến nghe lén. Muốn học
tiếng hát đó, nhưng chỉ có thể cùng âm vang mà không thể cùng đồng vọng. Thế
thì, ngài buồn chuyện gì nhỉ?
Gió thu rồi cũng sẽ tới lúc thổi lên tóc trắng. Và cánh chim
hồng rồi cũng sẽ để lại dấu vết trên bãi tuyết trắng... Ngẫu nhiên:
HOÀI CỪU
Nhân sinh đáo xứ tri hà tợ
Ưng tợ phi hồng đạp tuyết nê
Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo
Hồng phi na phục kế đông tây
Lão tăng dĩ tử thành thân tháp
Hoại bích vô do kiến cựu đề
Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ
Lộ trường nhân khốn kiển lô tê
|
懷舊
人生到處知何似
應似 飛 鴻踏雪泥
泥上偶然留指爪
鴻飛那計東西
老僧已死成新塔
壞壁無由見舊題
往日崎嶇還記否
路長人困蹇驢嘶
|
Bài thơ của Ông được trích ở đây, nó là một tình tự trẻ
trung; cái tình hoài cựu chưa đượm mùi sương gió. Mãi về sau, thơ và từ của Ông
vẫn còn âm hưởng đồng vọng của một cánh chim hồng, lẻ loi và cao vút. Dù là
tung cánh trong bình minh hay giữa nắng quái, nguồn thơ đó càng lúc càng ngời
sáng phong vận cuồng ngạo và phóng dật. Bắt được tiết điệu của bài thơ, và thấy
ra phong vận của nó, thì cái dòng thơ triền miên bất tuyệt của Ông cũng được thấy
ra từ đó.
Cuộc nhân sinh, rồi đây biết nó sẽ như thế nào? Có lẽ, nên
coi như một cánh chim hồng dẫm chân lên bãi tuyết. Ngẫu nhiên mà trên bãi tuyết
đó còn in nguyên vẹn những vết chân của cánh hồng. Cánh hồng sẽ bay bổng mù
khơi, còn kể gì đến những dấu chân kia.
Sư già vừa chết, ngôi tháp mới cũng vừa được dựng lên. Tường
rêu đã đổ xuống, không tìm đâu ra những bài thơ đề trên đó nữa. Một ngày qua,
đường đời gập ghềnh, có biết chưa? Đường thì dài, người thì mỏi, con lừa khấp
khiểng kêu đau.
2.
THẠCH TỊ THÀNH
Bình thời chiến quốc kim hà tại
Mạch thượng chinh nhân tự bất nhàn
Bắc khách sơ lai thí tân hiểm
Thục nhân tùng thử tống tàn sơn
Độc xuyên ám nguyệt mông lung lý
Sầu độ bôn hà thương mang gian
Tiệm nhập tây nam phong cảnh biến
Đạo biên tu trúc thuỷ sàn sàn
|
石鼻城
平时战国今无在,
陌上征夫自不闲。
北客初来试新险,
蜀人从此送残山。
独 穿暗月朦胧里,
愁渡奔河苍茫间。
渐入西南风景变,
道边修竹水潺潺
|
Thạch tị thành, không rõ địa danh này. Hoặc giả là núi Thạch
thành; phía đông nam, huyện Tín dương, tỉnh Hà nam có một ngọn; phía tây huyện
Nghi tân, tỉnh Tứ Xuyên, thấy một ngọn; đông bắc huyện Thiệu hưng, tỉnh Triết
giang, một ngọn. Trong thơ có nói Thục nhân, tức người đất Thục, tỉnh
Tứ xuyên ngày nay. Quê Ông, huyện My Sơn, cũng ở trong vùng này. Thơ cũng
nói Bắc khách, người khách từ phương bắc đến; tất nhiên chỉ cho Ông. Có lẽ
bấy giờ Ông từ Kinh đô về tại vùng này.
Năm tân sửu (1061), từ Hà nam, Ông được triệu về Kinh, rồi được
bổ làm Kiểm phán phủ Phượng tường, trong hạt Tứ xuyên. Đến năm bính ngọ (1066),
5 năm sau đó, Lão Tô mất. Ông về quê chôn cha. Vậy, bài thơ được làm trong khoảng
thời gian này, từ 26 đến 31 tuổi.
Bấy giờ Ông còn trẻ, lời thơ sảng hoạt mà thanh thiết. Đó
cũng là bản sắc độc đáo trong tiết điệu thơ của Ông. Hai câu 3-4, ngụ những ẩn
tình nồng hậu, thắm thiết.
Thi tân hiểm, thưởng thức cảnh lạ giữa những ngọn đá cheo
leo; ứng với 4 chữ "Bắc khách sơ lai" ở trước, và đối với
3 chữ "tống tàn sơn" ở câu dưới. Ứng và đối trong
một bút pháp tuyệt vời, nói được cái tình tự đậm đà của khách phương xa đến và
đi, cùng tấm lòng đón và đưa của những gì ở đó.
Tống tàn sơn, đưa tiễn ngọn núi tàn, ngọn núi trơ vơ. Thơ Đỗ
Phủ có những câu:
Thặng thủy thương giang phá
Tân sơn kiệt thạch khai
Nước lũ sông đầy vỡ
Non trơ đá chởm lên
Thặng thủy tàn sơn tả cảnh núi non không tề chỉnh; núi
thì thấp xuống, nước thì tràn ra, chẳng hạn
Dấu vết của một thời chiến quốc không thấy đâu đây nữa; nhưng
người rong ruổi trên con đường qua đó vẫn còn phải bươn bả.
Khách phương bắc mới tới, đã tìm đến thưởng thức các lạ giữa
những ngọn đá cheo leo;
Và từ đó, người đất Thục ở đó sẽ hằng ngày đưa tiễn những ngọn
núi trơ vơ kia.
Khi thì một mình len lỏi qua con trăng mờ trong cảnh mông
lung. Khi thì ngậm ngùi vượt qua dòng sông chảy xiết giữa nước xanh mênh mang.
Càng về phía tây nam, phong cảnh càng thay đổi dần.
Ở đó, hai bên đường có những hàng tre thẳng tắp và những con
nước dật dờ.
3.
Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng Cuộc Chơi
Nghìn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc Lữ lên lời Viễn phương
Đan sa rã mộng Phi thường
Đào tiên trụi lá bên đường Từ Sinh
Đồng hoang Mục tử Chung tình
Đăm chiêu dư ảnh nóc đình Hạc khô
Tâm tình Hoài vọng của Lữ khách y nhiên là tâm nguyện chí
thành được khơi dậy từ những bước đường ngược gió. Con đường của Lịch sử, của
dòng sông trôi xuôi, và trôi ào ạt như nước lũ, cuốn trôi tất cả những giấc mộng
bình sinh. Đó là lịch sử của tử sinh trường mộng. Trong cõi mộng đó, trên bước
đường ngược gió của Lữ khách đó, nắng hiu hắt trổi màu trầm tư tịch mặc giữa những
tàn lụi, hoang phế, và băng hoại; là sự chung cục của tất cả trong sự hủy diệt
nồng nàn. Hơi thở mòn mỏi tiêu pha; Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của Người,
để cho Thiên nhiên bày tỏ ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên đường lây lất với
nắng và với gió. Nắng lên cùng với dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng
với những ước nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng viễn và Tịch
nhiên. Mộng Phi thuờng được ký thác trong đan sa, trong dấu hiệu của trường
sinh bất tử; nhưng đường Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà
không bao giờ dừng bước cho Lữ khách một lần ngụ cư ở đó. Sống và chết vẫn như
một nỗi đời hư huyễn, vẫn rầm rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng
trống, đồng không mông quạnh, Mục tử đăm chiêu tư lự những chuyện đường đời và
Lịch sử qua bóng dáng con Hạc gầy; rồi tự hỏi: đâu là cõi Mộng Thiên Thu?
Năm đó, tân sửu (1061), ông 26 tuổi, làm kiểm phán tại phủ
Phượng tường. Trong bài ký viết cho "Phượng tường bát quan thi", những
bài thơ về tám chỗ Ông đến thăm viếng tại phủ Phượng tường, Ông, viết: "Phượng
tường nằm nơi chỗ giao tiếp của đất Tần và Yhục; các bậc sĩ đại phu, sớm
chiều thường qua lại đó". Và đoạn trước của bài ký, Ông viết: "Đấy là
buồn cho đời, cảm khái cho tục, và tự thương mình đã không thấy được người xưa
mà lại muốn một lần xem thấy những di tích của họ." Cái ý đó, được thấy hiện
rõ nơi bài thơ dưới đây:
LÂU QUÁN
Môn tiền cổ kiệt ngọa tà dương
Duyệt thế như lưu sự khả thương
Bạch truật thùy triêu trù táo hương
Văn đạo thần tiên diệc tương quá
|
摟 觀
門 前 古 碣 臥 斜 陽
閲 世如流事可傷
長有幽人悲晉惠
強修遺廟學秦皇
丹砂久窖井水赤
白朮 誰 燒 廚 灶香
聞道神仙亦相過
只疑田叟是庚 桑
|
Lâu quán, gác của đạo sĩ, tại phủ Phượng tường. Ông tự
viết lời dẫn: "Tần Thủy Hàng lập miếu Lão tử phía nam của quán. Tấn Huệ đế
mới sửa lại quán này"
Ngọa tà dương; "Môn tiền cổ kiệt ngọa tà dương",
trước cửa quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều. Có thể cùng bắt gặp một cảm
hứng như vậy trong một bàitừ của Ông, làm theo điệu từ "Hoán
khê sa" (Toàn mạt hồng trang khán sứ quân), câu kết như vầy:
Đạo phùng túy tẩu ngọa tà dương
Giữa đường, người ta gặp ông cụ say năm trơ giữa nắng chiều.
Có lẽ đó là cảnh khi ông bị đày ra ở Hải Nam. Lúc đó đã già lắm rồi. Một già, một
trẻ, cùng một quãng đời chìm nổi, cách xa nhau, mà vẫn cùng một tiết điệu, một
cảm hứng, một phong vận tài hoa kỳ lạ, giữa những mòn mỏi tiêu dao của tuế nguyệt:
Đá mòn phơi nẻo tà dương.
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Trước cửa quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều.
Ngắm sự đời, như nước chảy, trôi đi và đi mất, thấy mà đau.
Cho đến nay vẫn còn có người không thiết sự đời - tức Ông - ngậm ngùi cho Tấn Huệ đế - mộng trường sinh hóa thành bất đắc kỳ tử. Cũng có
người vẫn còn bắt chước Tần Thủy Hoàng, gượng sửa lại cái miếu hoang.
Đan sa ngày đó luyện thuật trường sinh, nay không dùng nữa,
chìm dưới giếng, làm đỏ cả nước giếng.
Bạch truật ngày đó, nay thấy có người lấy làm nhang đốt trong
bếp.
Nghe đâu thần tiên cũng thường có giao thiệp với người đời. Vậy
có lẽ cụ già cày ruộng kia chắc là lão tiên Canh Tang Sở.
4.
VI TUYẾT HOÀI TỬ DO
(I)
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm
Đoản nhật tống hàn châm xử cấp
Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu
Bạch phát thu lai dĩ thượng trâm
Hốt tứ thặng truyền vấn tây sâm
(2)
Vị thành báo quốc tàm thơ kiếm
Khởi bất hoài qui úy hữu bằng
Quan xá độ thu kinh tuế vãn
Tự lậu kiến tuyết dữ thùy đăng
Xa mã xao môn định bất ưng
|
微雪怀子由
(1)
岐阳九月天微雪,
已作萧条岁暮心。
短日送寒砧杵急,
冷官无事屋庐深。
愁肠别后能消酒,
白发秋来已上簪。
近买貂裘堪出塞,
忽思乘传问西琛。
(2)
江上同舟诗满箧,
郑西分马涕垂膺。
未成报国惭书剑,
岂不怀归畏友朋。
官舍度秋惊岁晚,
寺楼见雪与谁登。
遥知读《易》东窗下,
车马敲门定不应。
|
Bây giờ là năm nhâm dần (1060), Ông 27 tuổi, làm một chức
quan nhỏ tại phủ Phượng Tường. Chức quan Ông nhỏ, mà tài Ông cao, chí Ông lớn.
Cho nên, người đời nói, trong hai bài thơ này, tình tự Ông ẩn hiện những uẩn
khúc, cũng khá kỳ lạ. Đó là tâm sự của tuổi già với cái tuổi 27, thấy trong bài
1, các câu: từ 2-5; nhưng vẫn là phong vận trẻ trung, thấy được nơi bài 1 trong
câu 6. Bài 2 mới thật sự tỏ rõ cái cao ngao và thị tài của tuổi trẻ.
Tháng 11 năm trước, Ông chia tay Tử Do ở Trịnh Châu (thuộc tỉnh
Hà Nam) để đi Phượng Tường; lúc chia tai ngoài cửa Tây, ngồi trên ngựa, Ông làm
thơ gởi lại Tử Do, với 4 câu cuối:
Hàn đặng tương đối ký trù tích
Dạ vũ hà thời thinh tiêu sắt
Quân tri thử ý bất khả vong
Thận vật khổ ái cao quan chức.
Đại khái, hai anh em cùng đang ngồi dưới ngọn đèn mờ nhạt mà
tính nhẩm, biết bao giờ cùng ngồi nghe mưa đêm tiêu sắt? và Ông dặn em đừng bao
giờ quen ý đó, nên đừng bươn bả đuổi theo chức quan cao.
Tháng 9, tại huyện Kỳ Dương, trời đổ tuyết nhẹ;
Cũng đủ làm cho tâm tình trong cảnh năm già trở nên vẻ xơ
xác.
Ngày vắng, tiếng chày xua đuổi cái lạnh nghe như vội vã.
Viên quan nhỏ, không việc gì, ngồi trong nhà tranh hun hút
Gan ruột sầu héo có thể làm tiêu tan được rượu,
Tóc trắng, mùa thu tới, đã thấy như cài trâm.
Vừa mới bán chiếc áo lạnh lông điêu, nên không dám đi chơi
xa.
Bỗng nghĩ đến việc ruỗi xe đi tìm cái lạnh.
Năm xưa, hai anh em cùng dong thuyền, xách theo những túi thơ
đầy
Năm ngoái, chia tay nhau rẽ ngựa ngoài cửa tây Trịnh Châu, nước
mắt ướt đẫm ngực.
Chưa làm nên sự nghiệp với đời nên thẹn cùng sách và kiếm.
Há không mong trở về; nhưng về lúc này hẳn là ngại với bạn
bè.
Nhà quan qua mùa thu, kinh sợ cho năm đã quá xế
Trên nóc chùa đã đầy tuyết, nhưng không biết rủ ai cùng lên
đó.
Tưởng chừng em hẳn ngồi đọc kinh Dịch bên cửa sổ mái tây.
Lúc đó, dù xe ngựa có đến gõ cửa, hẳn là không đáp lại.
Cuối năm Nhâm Dần, bấy giờ Ông đang công tác tại Kỳ Dương;
lúc mọi người đang sửa soạn ngày tết, nhớ nhà, Ông làm ba bài thơ gửi Tử Do: Quĩ
tuế, Biệt tuế và Thủ tuế. Đây trích một bài. Phong tuc ở đất Tây Thục,
quê của ông, cuối năm người ta tặng đồ ăn cho nhau gọi là “quĩ tuế”; mang rượu
và thức ăn tặng nhau thì gọi là “biệt tuế”; kể từ đêm trừ tịch cho đến rạng
ngày nguyên đán mà không ngủ, gọi là “thủ tuế”, thức đêm để canh chừng một năm
cũ rắp qua và một năm mới sắp đến.
Thủ pháp già dặn và lời thơ điềm đạm, tạo cho thành một khí vị
rất cổ kính. Cái đó không những phản ảnh một nỗi nhớ, hoài vọng quê hương, mà
còn phản ảnh cái ray rứt kỳ lạ của ngày tháng trôi đi biền biệt. Cảnh đưa đón
cuối năm, coi cũng có vẻ tấp nập, nhưng không che dấu nổi cái lạnh nhạt: nhà
quan thì vắng bóng những người bạn cũ, mà làng xóm thì nhộn nhịp chờ đón những
ngày mới sẽ đến. Tình dù có, cũng bằng không. mấy câu thơ cuối trong bài “Quĩ
tuế”
Quan cư cố nhân thiểu
Lý hạng giai tiết quá
Diệc dục cử hương phong
Độc xướng vô nhân họa
Nhà quan người thưa bóng
Thôn ấp rộn ngày vui
Quê cũ tình dẫu đượm
Tình riêng nói với ai
Năm cũ sắp qua đi qua, như một con rắn đang chui vào lỗ, làm
sao bắt nó lại? Nắm lấy đuôi, cũng bằng vô dụng. ngày tháng trôi đi như con rắn
trườn đi; cái hoài vọng ở đó quả khắc nghiệt và độc hại.
BIỆT TUẾ
Cố nhân thích thiên lý
Lâm biệt phượng trì trì
Nhân hành do khả phục
Tuế hành na khả truy
Văn tuế an sở chi
Viễn tại thiên nhất nha
Dĩ trục đông lưu thủy
Phó hải qui vô thì
Đông lân tửu sơ thục
Tây xá trệ diệc phì
Thả vị nhất nhật hoan
Ủy thử cùng niên bi
Vật sai cựu tuế biệt
Hành dữ tân niên từ
Khứ khứ vật hồi cố
Hoàn quân lão dữ suy
|
别岁
故人适千里,
临别尚迟迟。
人行犹可复,
岁行那可追。
问岁安所之,
远在天一涯。
已逐东流水,
赴海归无时。
东邻酒初熟,
西舍彘亦肥。
且为一日欢,
慰此穷年悲。
勿嗟旧岁别,
行与新岁辞。
去去勿回顾,
还君老与衰。
|
Cố nhân lên đường đi xa
Lúc chia tay vẫn còn bịn rịn
Người đi còn mong có ngày trở lại;
Năm tháng ra đi, làm sao đuổi theo kịp?
Hỏi thử, “năm” đi đâu?
Đi xa đến một ven trời nào?
Hay đã theo dòng nước chảy xuôi về đông,
Đổ vào biển và không bao giờ trở lại?
Xóm đông, rượu vừa chín;
Nhà mé tây, lợn nái cũng vừa mập thêm ra
Hãy cứ vui cho hết trọn một ngày
Để bù lại trọn một năm đầy sầu héo.
Đừng quên giã từ một năm cũ,
Và hãy để cho năm cũ giã từ năm mới.
Bảo nó hãy đi đi,
Đừng có quay đầu lại.
Gởi trả lại nó tuổi già và sức yếu kém.
6.
Điểu thảo viên hô trú bế môn
Bạch hạc lai thời phỏng tử tôn
Sơn cận sóc phong xuy tích tuyết
Thiên hàn lạc nhật đạm cô thôn
Đạo nhân ưng quái du nhân chúng
Cấp tận giai tiền tỉnh thủy hồn
|
摟 觀
鳥 噪 猿 呼 晝 閉 門 ,
寂 寥 誰 識 古 皇 尊 。
青 牛 久 已 辭 轅 軛 ,
白 鶴 時 來 訪 子 孫 。
山 近 朔 風 吹 積 雪 ,
天 寒 落 日 淡 孤 村 。
道 人 應 怪 遊 人 眾 ,
汲 盡 階 前 井 水 渾 。
|
Ông tự dẫn: “Từ Thanh Bình trấn, chơi tại các nơi: Lâu quán,
Ngũ quận, Đại tần, Diên sinh, Tiên du. Vừa đi vừa về hết 4 ngày, làm được 11
bài thơ gửi xá đệ Tử Do”
Khí vị của thơ là hoài cổ, phảng phất âm hưởng thời Đường; đặc
biệt là nơi hai câu 5-6.
Chim gào vượn hú; ban ngày vẫn đóng cửa.
Đìu hiu vắng vẻ, ai biết ngài Cổ hoàng tôn đi đâu?
Con trâu xanh của ngài, từ lâu đã cởi bỏ cái ách, cái gọng;
Và bây giờ, con hạc trắng bay đến hỏi thăm con cháu.
Núi gần đó, gió bấc thổi tung những đống tuyết.
Trời lạnh, mặt trời ngã bóng nhạt trên xóm vắng.
Có lẽ đạo nhân lấy làm lạ, sao du khách đông thế!
Họ uống sạch hết cả một giếng nước phía trước sân.
7.
Hải sơn vô sự tác cầm công
Bất đãi truyền kinh ý dĩ không
|
授 經臺
剑舞有神通草聖,
海山無事化琴工
此台一览秦川小
不待傳 經 意已空
|
Những ngọn cỏ với dáng dấp cao kỳ như Thánh, khi đong đưa,
trông như những ngọn thần kiếm đang vũ lộng.
Núi và sông, nhàn rỗi vô sự, tự nhiên trở thành những tay thợ
đàn.
Chỉ một lần nhìn thấy đài này rồi, cả một dãy Tần xuyên thành
ra nhỏ bé.
Không phải đợi nghe được lời kinh, mà ý đã là không.
8.
THIỀN THƯỢNG TIỂU THI
Oa minh thanh thảo bạc
Thiền tháo thùy dương phố
Ngô hành diệc ngẫu nhiên
Cập thử tân quá vũ
|
船 上小 詩
蛙 鳴 青 草 泊 ,
蟬 噪 垂 楊 浦 。
吾 行 亦 偶 然 ,
及 此 新 過 雨 。
|
Ếch kêu bên thanh thảo
Ve khóc bãi thùy dương
Ta đi cùng ngẫu nhĩ
Đến đó mưa qua đường.
Ghi chú:
Ghi chú:
[1] TẤN HUỆ Tấn Huệ đế, làm vua từ 290 -300, bị đầu độc mà chết.
Sửa miếu lão Tử, là cốt ý muốn tìm học phép trường sinh. Rồi trường sinh và bất
đắc kỳ tử: nghìn năm vẫn một nỗi đời.
[2] TẦN HOÀNG Tần Thủy Hoàng, mộ phép trường sinh của Đạo gia. Nghe đồi
ngoài khơi Đông hải có đảo Bồng Lai của tiên, có thuốc trường sinh; cho đóng
thuyền và sai bọn An Kỳ Sinh đi kiếm. Nhưng họ đi không về. Và cơ nghiệp đế
vương của Tần Thủy hoàng cũng không lâu.
[4] CANH TANG. Canh Tang Sở, được nói đến trong thiên “Canh Tang Sở”.
Nam hoa kinh của Trang Tử; ông là đệ tử đắc đạo của Lão Tử
[5] KỲ DƯƠNG, tên huyện ở phía đông huyện Phượng Tường. Ngày 20 tháng 9
năm Nhâm Dần, trời đổ tuyết nhẹ. Ông nhớ Tử Do, làm thơ
[6] ỐC LÔ THÂM, nhà tranh hun hút. Kỷ Hiểu Lam phê: ba chữ đó (tuyền thần).
Ở đây bóng dáng Ông ẩn hiện trong cái không khí u trầm, phảng phất tâm trạng
mùa thu tóc trắng. trời lạnh, tiếng chày nghe như rộn rã, gấp rút, xua đuổi cái
lạnh đi xa.
[7] ĐIÊU CỪU, Áo lạnh làm bằng lông con điêu. Tử điểu Thiều Chữu: Điêu
là một loài chuột to như con rái cá, đuôi to lông rậm dài hơn một tấc, sắc
vàng và đen, sinh ở xứ rét, da nó làm áo mặc rất ấm, nên rất quí báu.
[10] ĐÔNG SONG ĐỘC DỊCH: ngồi đọc kinh Dịch ở cánh cửa sổ dưới mái đông.
Chỗ đó tỏ ý chờ đợi, và đọc Dịch tỏ chí lớn. Ở đây chỉ việc đang hoài bão chí lớn
(Quản Ninh và Hoa Hâm cùng ngồi đọc sách. Xe ngựa đi ngang trước cửa, Hoa Hâm bỏ
sách chạy ra xem. Từ đó Quản Ninh xẻ chiếu, dứt tình bạn vĩnh viễn)
[12] Cổ hoàng tôn, chỉ Lão Tử (của Đạo gia). Ba chữ này làm cho cả bài
thơ có tiết điệu và phong vận tiêu sái riêng của Ông.
[13] Thanh ngưu, con trâu xanh. Tương truyền Lão Tử cưỡi con trâu xanh
ra quan ngoại, sau khi viết để lại bộ “Đạo đức kinh” rồi đi mất.
[14] THỌ KINH ĐÀI, đài trao kinh. Ông tự chú: “Đó là một ngọn núi trong
dãy Nam sơn chứ không phải là một cái đài được dựng lên”
[15] Thảo thánh, Thánh cỏ hay cỏ thánh; mô tả những ngọn cỏ đong đưa
theo gió một cách tuyệt diệu. Nhưng cũng chính từ cái Thảo thánh này làm
cho bài thơ trầm trọng ra.
II. Trời thu cao cây lá ngủ mơ hồ (1072-1079)
LỜI DẪN
Trời mùa Thu, là trời cho nỗi sầu Riêng Biệt của Thơ. Trời
Thu thuờng quạnh ráo, nen cao vọi không cùng. Càng cao, càng trong, càng tĩnh lặng
trong điệu buồn thiên cổ. Cũng ở chỗ đó mà trời Thu đẹp với cốt các diễm lệ
kiêu kỳ. Diễm lệ kiêu kỳ như Nàng Tây Tử.
Tuy nhiên, trời Thu cũng thường có mưa gió, cũng có mùa nước
lũ. Vậy thì, buồn tĩnh lặng của vòm trời nhưng cũng là nỗi buồn xôn xao của mặt
đất. Tây Hồ và Tây Tử, hoặc xôn xao với mưa gió và xiêm y; hay tư lự khi quạnh
ráo hay lột hết trang phục , nét thanh tân tú lệ vẫn là cốt cách tài hoa:
Dục bả Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm trang nùng diễm tổng tương nghi
Trong ngọn gió thu, bàng bạc có những cuộc giao tình. Tình của
Thiên nhiên bủa rộng bao la và tình của những tao nhân tri ngộ. Ở đây Lịch sử
hóa thân nơi mùa thu và tóc trắng. Cuộc lịch nghiệm nghe ra những thống thiết
nguyên sơ.
I. Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
(HOÀI KHANH)
Năm Hi ninh thứ 5, nhâm tý (1072), Ông 37 tuổi, bấy giờ ra giữ
chức thông phán tại Hàng châu. Trước đó, năm ất tỵ (1065), Ông được triệu về
kinh sư, làm việc tại sử quán. Cho đến năm 36 tuổi, tân hợi (1071), lúc đang giữ
chức Giám quan cáo viện; nhân việc Vương An Thạch muốn sửa đổi thể lệ thi cử,
Thần tông đưa ra cho Lưỡng chế và Tam quán nghị sự. ông dâng lên Thần tông ba
điểm, khiến đảng Vương An Thạch bất mãn, nên tìm cớ vu tấu những lỗi lầm của
Ông. Ông không một lời biện hộ, xin đi ngoại nhiệm để tránh. Do đó được cử đi
làm thông phán tại Hàng châu. Lúc mới đến được hàng châu, Ông làm hai bài thơ
tuyệt cú gửi Tử Do, lời co 1 đôi chút than trách pha lẫn vẻ tràolộng. Đại để
như 2 câu:
Thánh triều khoan đại hứa toàn thân
Suy bịnh tồi đồi tự ý nhân
Ông nói đến bịnh hoạn của mình và làm như có vẻ sợ thiên hạ
Những bài thơ Ông làm kể từ năm 36 tuổi về sau, phong vận
không thay đổi, nhưng tình tự hình như đã biến cách rất nhiều. Rồi ta sẽ thấy,
càng già dặn phong trần, tình quê hương của Ông càng thắm thiết. Thơ Ông như là
những đồng vọng từ phương trời diệu vợi vủa quê hương. Đó là một thứ tình cảm
hoài vọng thoạt trông có vẻ dung dị, bình thường, nhưng cảng đọc thơ Ông, càng
thấy cái tình đó mở ra một trời thơ bát ngát.
Văn Trưởng lão, một nhà sư đồng hương với Ông, hình như là hiện
thân cụ thể của một cõi nào đó trong thơ Ông. Cho nên, những bài thơ Ông làm tặng
nhà sư này đều từ một cảm hứng tự nhiên và rất bình thường, nhưng cũng từ đó,
thơ bỗng chuyển thành âm hưởng kỳ lạ, vọng tới một khát vọng u trầm nào đó. Cõi
thơ có thể là nơi trường mộng của đêm dài sinh tử, mà cũng chính ở đó là cõi Hư
Không tịch mặc, với một màu xanh thẳm nhưng xa xôi không cùng tận.
Ba bài thơ trích ở dưới đây, Ông làm rải rác trong các thời
gian khác nhau. Đọc chung một lần, sẽ thấy cốt cách của Ông, và đó là cốt cách
cho suốt cả thời gian Ông làm thông phán tại Hàng châu.
Bài thứ nhất, sau khi đến Hàng châu một năm, trên đường đi
Nhuận châu, Ông ghé thăm. Sáu năm sau, Ông đến thăm lần nữa, bấy giờ Văn trưởng
lão bịnh. Mười năm sau, từ Hàn lâm học sĩ, Ông ra làm thái thú Hàng
Châu, bấy giờ Văn đã tịch.
BÀI THỨ NHẤT
秀州報本禪院
鄉僧文長老方丈
TÚ CHÂU [1] BÁO
BẢN THIỀN VIỆN
HƯƠNG TĂNG VĂN TRƯỞNG LÃO PHƯƠNG TRƯỢNG
Vạn lý gia sơn nhất mộng trung
Ngô âm [2] tiệm dĩ bến nhi đồng
Mỗi phùng Thục tẩu [3] đàm chung nhật
Tiện giác Nga mi [4] thúy tảo không
Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo
Ngã trừ sưu cú bách vô công
Minh niên thái dược Thiên thai [5] khứ
Cánh dục đề thi mãn Triết đông [6]
|
萬里家山一夢中,
吳音漸已變兒童。
每逢蜀叟談終日,
便覺峨眉翠掃空。
師已忘言真有道,
我除搜句百無功。
明年採藥天台去,
更欲題詩滿浙東。
|
Quê hương diệu vợi tưởng chừng như trong một giấc mộng.
Bấy giờ, giọng của ta đã dần dần bập bẹ như giọng trẻ nít
Nhưng mỗi lần gặp cụ Thục thì vẫn còn bàn bạc suốc cả một
ngày.
Sư đã quên lời, quả tình là sư đã có Đạo
Tôi thì ngoài việc tìm câu nối chữ, hoàn toàn vô công.
Sang năm sẽ vào núi Thiên thai hái thuốc để cầu Đạo
Những vẫn còn muốn đề thơ đầy cả Triết đông
BÀI HAI: DẠ CHÍ VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO VIỆN
Dạ văn [7] Ba tẩu [8] ngọa hoang đồn [9]
Lai đả tam canh nguyệt hạ môn
Vãng sự [10] quá niên như tạc nhật
Thử thân vị tử đắc trùng luân
Lão phi hoài thổ tình tương đắc
Bịnh bất khai đường đạo ích tôn
Duy hữu cô thê cựu thời hạc
Cử đầu kiến khách tợ trường ngôn
|
愁聞巴叟臥荒村,
來打三更月下門。
往事過年如昨日,
此身未死得重論。
老非懷土情相得,
病不開堂道益尊。
惟有孤棲舊時鶴,
舉頭見客似長言。
|
Ban đêm, Ông đến Vĩnh Lạc, thăm Văn trưởng lão. Bấy giờ
trưởng lão ngọa bịnh không tiếp khách. Ông làm thơ tặng. Từ và ý của bài thơ
cũng bình thường. Nhưng nếu đã đọc lại bài thơ Ông tặng Văn trưởng lão ở trên,
và sẽ đọc một bài khác sau này nữa, ta sẽ thấy nơi Ông, tình thơ và tình quê
hương là hai mối tình khắng khít. Tình quê hương thì thấp thoáng như những bóng
hình trong mộng. Tình thơ thì hiu hắt như đồng vọng không lời của hư không.
Chừng đêm, hay cụ Ba thục ngọa bịnh nơi xóm vắng;
Canh ba đến gõ cửa dưới trăng
Chuyện qua năm trước, trông như vừa hôm qua;
May nhờ cái thân này chưa chết nên được cùng ngài chuyện trò
nữa.
Cụ tuổi già mà không phải là hạng bo bo (khép kín miệnt) cho
nên tình lại càng tương đắc;
Nhưng lúc này cụ bịnh, không khai đường, không tiếp khách hay
giảng đạo, thì cái đạo của cụ lại càng thêm cao. (Ông muốn nói, đến thăm, dù
không được tiếp chuyện mà vẫn không có ý trách).
Chỉ có con hạc tự năm nào vẫn đứng lẻ loi ở đó.
Ngẩng đầu nhìn khách vẻ như đã nói rất nhiều.
BÀI BA:
過
永 樂
文 長
老 已
卒
QUÁ VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO DĨ TỐT
Sơ kinh hạc sấu bất khả thức
Tuyền giác vân qui vô xứ tầm
Tam quá môn gian lão bịnh tử
Nhất đàn chỉ khoảnh khứ lai kim
Tồn vong quân kiến hồn vô lệ
Hương tỉnh [11] nan vong thượng hữu tâm
Dục hướng Tiền đường phỏng Viên Trạch [12]
Cát Hồng [13] xuyên bạn đãi thu thâm
|
初 驚 鶴 瘦 不 可 識
旋 覺 雲 歸 無 處 尋
三 過 門 間 老 病 死 一 彈 指 頃 去 來 今
存 亡 慣 見 渾 無 淚
鄉 井 難 忘 尚 有 心
欲 向 錢 塘 訪 圓 澤
葛 洪 川 畔 待 秋 深
|
Ban đầu, sửng sốt vì cánh hạc đã hao gầy mà không hay.
Nhưng vừa tỉnh cơn sửng sốt, thì cụm mây trời đã bay về nơi
không vết tích.
Người đời có ba cửa ải: già, bịnh và chế (mà ngài đã đi qua hết
cả ba).
Cuộc đời thoảng trong một cái búng tay là đủ cả cái đã qua,
cái đang đó và cái sẽ đến (bây giờ ngài trong một thoáng đó mà đã là thiên thu)
Chuyện mất còn nhìn đã quen, nên nước mắt ráo quạnh;
Nhưng cái tình hương lý khó nguôi được trong lòng.
Tôi muốn đến Tiền đường hỏi thăm Viên Trạch.
Tiên Cát Hồng đứng bên bờ suối đợi cái thu già.
2.
湖上飲
HỒ THƯỢNG ẨM
(I)
Triêu hi nghinh khách diễm trùng cương
Vãn vũ lưu nhân nhập túy hương
Thử ú tự giai quân bất hội
Nhất bôi đương chúc thủy tiên vương [14]
|
朝曦迎客艷重岡
晚 雨留人入醉鄉
此意自佳君不會
一杯當屬水仙王
|
(II)
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bả Tây hồ [15] tỉ Tây Tử [16]
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
|
水光瀲灩晴方好
山色空濛雨亦奇
欲把西湖比西子
淡妝濃抹總相宜
|
Nguyên đề: “Ẩm Hồ thượng sơ tình hậu vũ nhị thủ”. Uống
rượu trên tây hồ, vừa tạnh sau cơn mưa, 2 bài.
Bút pháp trong bài vô cùng độc đáo, nên thường được truyền tụng.
Khi trời mưa, hồ được bao phủ trong lớp bụi mờ như nàng Tây Thi khoác lên mình
lớp áo lụa mỏng. Lúc trời tạnh ráo, cảnh hồ lộ liễu như nàng Tây Thi đẹp với vẻ
trong ngọc trăng ngà. Có thể thấy cái tài hoa lãng mạn của Ông trong lối thơ
ngoạn cảnh như bài này.
(Bài I)
Nắng mai đón khách rải vẻ tươi thắm trên những sườn núi chập
chùng
Buổi chiều, cơn mưa cầm chân khách, rồi đưa khách vào làng
say
Tình ý đó bộc lộ một cách nồng nàn mà tự nhiên cho những người
ngoạn cảnh.
Vậy hãy nâng một chén mời ngài Thủy tiên vương.
(Bài II)
Mặt nước sáng lóng lánh, mưa vừa tạnh trông càng đẹp
Sắc núi quạnh ráo, mưa lại càng làm cho trông lạ ra.
Có thể đem Tây hồ mà sánh với nàng Tây Tử
Dù trang điểm sơ sài, hay rửa sạch hết phấn son, cả hai đều
diễm lệ
3
DU TÂY BỒ ĐỀ TỰ
Lộ chuyển sơn yêu vị túc di
Thủy thanh thạch sấu tiện năng ký
Bạch vân tự chiếm đông tây lãnh
Minh nguyệt thùy phân thượng hạ trì
Hắc tất hoàng lương sơ thục hậu
Chu cam lục quất bán kiềm thì
Nhân sinh thử lạc tu thiên phó
Mạc khiến nhi lang thủ thứ tri
|
遊西菩寺
路转山腰足未移
水清石瘦便能奇
白雲自占东西嶺
明月谁分上下池
黑黍黄粟初熟候
朱柑绿橘半甜時
人生此樂须天付
莫遣兒曹取次知
|
Kỷ Hiểu Lam, nhà bình thơ Đông Pha khá nổi tiếng, nói, nội một
bài này đã đủ mở ra thì phái Kiếm nam.
Kiếm nam là đất Tứ xuyên, phong thổ đó đã lôi cuốn được tay
thi bá một thời: Tống Lục Du. Rồi tên đó trở thành tập sách bất hủ của Lục Du.
Niên hiệu Hi ninh thứ 7 (1074), theo lời chú của ông, ngày 27
tháng 8, ông cùng Mao Quan Bảo và Úy Phương Quân Vũ đi chơi ở Minh Trí viện
trên núi Tây bồ; tương truyền thơ đề khắc vào đá nay vẫn còn (?). Chùa Tây bồ
(đề) cách huyện Tiềm (?) 25 dặm.
Bài thơ tả những phong thổ và nhân tình. Cảnh trí thơ mộng với
những con đường uốn lượn quanh co qua eo núi, với những dòng nước trong, những
tảng đá gầy ngộ nghĩnh, những cánh đồng nức mùi lúa chín, những khu vườn đầy
cam quít. Không cần ngụ tình mà tình vẫn đẹp, đó cũng là chỗ độc đáo trong lối
thơ ngoạn cảnh của Ông.
Dịch nghĩa. - Đường đã chuyển quanh eo núi mà chân chưa dời
bước.
Nước trong, đá gầy, càng trông lạ.
Mây trắng chiếm trọn một giải từ ngọn núi đông sang tây.
Trăng sáng, như chia ao ra làm trên và dưới.
Lúa hắc thử, thóc hoàng lương vừa đến độ chín
Cam đỏ quít xanh đang nửa mùa ngọt
Cái vui đó của cuộc nhân sinh phải nói là của trời cho.
Đừng để lại cho con cháu coi thường điều ấy. (Có lẽ ông ngụ ý
chê tân pháp của Vương An Thạch; cái thanh bình giả tạo của người không sao hơn
nổi cái vui có sẵn của trời cho)
4.
Những bài thơ cảm hứng từ nhạc, ít khi được phô diễn trực tiếp.
Âm thanh phát ra từ cung bậc của nhạc, vượt ra ngoài sự rung động bình thường;
nó rung từ một chiều sâu bất tận. Do đó, tiếng nhạc khi kích động dòng cảm hứng
của thơ, không còn là những tiếng có thể nghe bằng lỗ tai. Các thi sĩ Trung Hoa
cũng thường làm các bài thơ gợi hứng từ nhạc, mà được truyền tụng nhiều nhất có
lẽ là bài “Cầm sắt” của Lý Thương Ẩn, với các câu độc đáo:
Trang Chu hiểu mộng mê hồ điệp
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ quyên
Trong sao châu dọ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Một bài khác của Lý Hạ với những âm hưởng kỳ dị: Nghe Lý Bằng
đàn Không hầu. Đàn này là một loại nhạc khí được chế từ đời Hán, có gốc ở rợ Hồ;
hình gãy và dài, có 23 dây. Lý Bằng là tay đàn trong đám nhạc công của Đường
Huyền Tôn. Những câu tiêu biểu trong bài thơ này của Lý Hạ:
Côn sơn ngọc toái, phượng hoàng khiếu
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu
Thập nhị môn tiền dung lãnh quang
Nhị thập tam ty động Tử hoàng
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ
Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ
(…)
Lộ cước tà phi thấp hàn thố
Tiếng đàn như tiếng ngọc rạn vỡ trên Côn sơn, quê hương của
các loại ngọc. Tiếng đàn như tiếng phượng hoàng réo rắt. Long lanh như phù dung
khóc sương sớm. Như hương lan vừa hé nụ. Mười hai cổng thành Trường an như đẫm
ánh sáng mờ lạnh lẽo. Hai mươi ba sợi tơ đàn ngân tiếng vang dội đến chín cung
trời. Chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, tiếng đàn nghe đá vỡ, trời rung, tuôn mưa thu
xuống…. Tiếng đàn như sương mù lảng vảng dưới chân; như sương mù đẫm ướt vầng
trăng lạnh.
Nhạc mà nghe đến chỗ đó là đã đến mức thượng thừa. Nhưng vì lời
thơ không nói thẳng vào lời nhạc được, mà luôn luôn phải thác lời vào những cái
không phải là nhạc, cho nên, dễ trở thành sáo.
Một bài thơ khác của ông, gợi hứng từ cuộc nghe đàn tranh tại
chùa Cam lộ, cũng chỉ phô diễn gián tiếp cảm hứng về nhạc:
Giang phi xuất thính vụ vũ sầu
Bạch lãng phiên không động phù ngọc
Hoán thủ ngô gia song phượng tào
Khiển tác Tam giáp cô viên hào
Ở đây, tiếng nhạc lên khơi vơi cho bầu trời như thu mình
trong lớp bụi mưa mù. Từng tiếng nhạc bềnh bồng như từng hạt ngọc lóng lánh
trên lớp sóng. Đôi cánh phượng múa, và con vượn lẻ loi kêu gào giữa sườn núi vắng.
Chỗ tận cùng của nhạc là những đồng vọng không lời, mà lời
thơ lại cảm hứng từ đồng vọng đó; nghe đã khó mà nghe qua lời thơ lại càng khó.
Bài thơ của ông được trích dưới đây cũng nằm trong chỗ khó
này. Nó chỉ nói cái cảnh chung quanh chỗ tấu nhạc, mà không nói thẳng tiếng nhạc.
Nhưng nghe được từ chỗ đó, thì thấy tình tự tài hoa của ông. Dĩ nhiên, không thể
bàn cho thấu đáo nổi. Trừ phi muốn nói lai rai mà chơi.
THÍNH HIỀN SƯ CẦM
Đại huyền xuân ôn hòa thả bình
Tiểu huyền liêm chiết lượng dĩ thanh
Bình sinh vị thức cung dữ giốc
Đản văn ngưu minh ảnh trung
Trĩ đang mộc môn tiền bác trác
Thùy khấu môn sơn tăng vị nhàn
Quân vật sân
Qui gia thả mịch thiên hộc thủy
Tịnh tẩy tùng lai tranh địch nhĩ
|
聽賢師琴
大 絃 春 溫 和 且 平
小 絃 廉 折 亮 以 清
平 生 未 識 宮 與 角
但 聞 牛 鳴 盎 中
雉 登 木 門 前 剝啄
誰 叩 門 山 僧 未 閑
君 勿 嗔
歸 家 且 覓 千 斛 水
淨 洗 從 前 箏 笛 耳
|
Sư Hiền là ai thì không rõ, nhưng tài chơi đàn của sư có lẽ
khá tuyệt vời. Nghe sư đàn, ông có cảm tưởng những tiếng nhạc được nghe trước
đây chỉ như tiếng trâu rống trong ảng sành hay tiếng chim sẻ mổ cánh cửa gỗ; rửa
sach cái lỗ tai đó, cũng phải mất hết hằng nghìn thùng nước.
Tiết điệu thơ bắt nhịp với cảm hứng thơ, tạo cho bài thơ có
phong vận tiêu sái đặc biệt.
Giây lớn tỏa hơi ấm mùa xuân, vừa thong thả vừa nhịp nhàng.
Giây nhỏ nghe thanh thót, gãy gọn, mà trong sáng
Bình sinh, tôi chưa biết cung và giốc là gì
Chỉ nghe tiếng trâu rống trong ảng sành
Hoặc con chim sẻ đậu trước cửa gỗ, mổ và rỉa
Rồi có ai đến gõ cửa, thầy không còn rảnh nữa
Ngài đừng giận!
Về nhà, hãy kiếm một nghìn thùng nước,
Rửa sạch cái lỗ tai vướng những tiếng tranh tiếng sáo trước
kia.
5.
HỌA TỬ DO TỐNG XUÂN
子由送椿
Mộng lý thanh xuân khả đắc truy
Dục tương thi cú bạn dư huy
Tửu lan bịnh khách duy tư thụy
Mật thục hoàng phong diệc lại phi
Thược dược anh đào cu tảo địa
Bính ti thiền sắp tưỡng vong ki
Bằng quân tá thủ pháp giới quán
Nhất tẩy nhân gian vạn sự phi
|
夢裏青春可得追
欲將詩句絆餘暉
酒闌病客惟思睡
蜜熟黃蜂亦懶飛
芍葯櫻桃俱掃地
鬢絲禪榻兩忘機
憑君借取 法界觀
一洗人間萬事非
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét