Thứ Hai, 15 tháng 4, 2019

Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng 2

Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng 2
Bài họa thơ Tống xuân của Tử Do
Bấy giờ là cuối mùa xuân năm ất mão (1075), Ông 40 tuổi, đã đổi sang làm quan ở Mật chây. Bài trích là một trong bốn bài họa gởi cho Tử Do. Ông với Tử Do, ngoài tình anh em, còn có mối giao tình thi tứ rất đậm đà, nên những bài thơ qua lại mang nỗi ngậm ngùi khôn tả.
Trong thời này, Ông phải ra đi một cách bất đắc dĩ, để tránh tai họa; ẩn tình đó còn thấy rõ ở bài khác: vị ưng hồi thủ yểm lung tù, chưa dám quay đầu, vì còn sợ tù đày giam hãm.
Suốt tám năm đi thông thú các nơi: Hàng châu, Mật châu, rồi Từ châu, thơ Ông phần nhiều bị gò bó, rất ít bài có phong vận tài hoa cố hữu. Những bài thơ làm để thù tạc thì không đáng kể. Chúng vẫn hay về âm vận thanh tao, bút pháp điêu luyện, nhưng vẫn chỉ là thù tạc. Những bài khác, thường vương cái sầu héo, hiu hắt, của một người lữ khách bất đắc dĩ:
Thanh xuân thấp thoáng mộng dài
Muốn đem thi tứ dệt lời tà huy
Tuổi thanh xuân chỉ còn tìm thấy thấp thoáng trong giấc mộng.
Nên chỉ muốn mượn câu thơ kết dệt cái ánh tà huy còn sót lại của một đời người.
Rượu đã tàn, người mệt mỏi, chỉ tưởng đến giấc ngủ cho xong.
Mật đã chín, mà con ong vàng lại biếng bay.
Thược dược và anh đào rải đầy mặt đất.
Mái tóc bạc trắng và chiếc giường thiền, cả hai cùng lỡ cả.
Chi bằng mượn môn Pháp giới quán của nhà Phật,
Để một lần rửa sách hết vạn sự trong nhân gian, tất cả là không cả.
8.
Năm đinh tị (1077), Ông 44 tuổi, từ Mật châu đổi sang Hà trung phủ, rồi đến tháng 4 năm đó lại đổi sang Từ châu. Trước khi đi, ông làm bài thơ lưu biệt này:
LƯU BIỆT THÍCH CA VIỆN
Xuân phong tiểu việc khước lai thì
Bích gian duy kiến sứ quân thi
Ưng vấn sứ quân hà xứ khứ
Bằng hoa thuyết dữ xuân phong tri
Niên niên tuế tuế hà cùng dĩ
Hoa tợ kim niên nhân lão hỉ
Khứ niên Thôi Hộ khước trùng lai
Tiền độ Lưu Lang tại thiên lý
留別釋迦院
      
    使  
  使    
      
      
      
      
      
Nếu ngọn gió mùa xuân đi tới nơi chùa nhỏ,
Hẳn là chỉ thấy bài thơ của sứ quân đề trên vắc.
Có lẽ sẽ hỏi sứ quân đi đâu
Nhờ hoa nói cho ngọn gió biết
Năm này rồi năm khác, bao giờ cùng tận nổi;
Nhưng hoa vẫn còn như là hoa năm nay,
Mà người thì đã cằn cỗi ra rồi.
Nếu chàng Thôi Hộ năm xưa có trở lại lần nữa,
Thì chàng Lưu đã đi ngoài xa diệu vợi 
Từ đầu đến cuối, ông hoàn toàn mượn ý cổ nhân. Nhưng vẫn giữ được bản sắc. So hai câu 5 và 6 của ông với hai câu Lưu Hi Di đời Đường: 
Niên niên tuế tuế hoa tương tợ
Tuế tuế niên niên nhân bất đồng
Trong hai câu của Lưu Hi Di, những điệp ngữ muốn bắt theo cái nhịp vận hành, đi và đến rồi đi của tuế nguyệt, cùng cái đi mất của tuổi người. Nhưng lời còn pha nhiều vẻ tục.
Ông cũng dùng các điệp ngữ đó, nhưng cốt cách của chúng, cứ so lại sẽ thấy. Đem tài hoa mà trộn vào tục, thì cái tục trở thành thanh tao kỳ lạ!
9
ĐỘC MẠNH GIAO THI
(I)
Dạ độc Mạnh Giao thi
Tế tự như ngưu mao
Hàn đăng chiếu hôn hoa
Giai xứ nhất thời tao
Cô phương [17] trạc hoang uế
Khổ ngữ dư thi tao [18]
Thủy thanh thạch tạc tạc
Thoan kích bất thọ cao
Sơ như thực tiểu ngư
Sở đắc bất thường lao
Hựu tợ chử bành việt [19]
Cánh nhật trì không ngao
Yếu đương đấu Tăng thanh
Vị túc đường Hàn hào
Nhân sinh như triêu lộ
Nhật dạ hỏa tiêu cao
Hà khổ tương lưỡng nhĩ
Thính thử hàn trùng hào
Bất như thả trí chi
Ẩm ngã ngọc sắc giao.
(II)
Ngã tắng Mạnh Giao thi
Phục tác Mạnh Giao ngữ
Cơ trường tự minh hoán
Không bích chuyển cơ thử
Thì tùng phế phủ xuất
Xuất triếp sầu phế phủ
Hữu như Hoàng hà ngư
Xuất cao dĩ tự chử
Thượng ái đồng đấu ca [20]
Bỉ lý phả cận cổ
Đào cung xạ áp bãi
Độc tốc [21] đoản thoa vũ
Bất ưu đạp thuyền phiên
Đạp lãng bất đạp thổ [22]
Ngô cơ sương tuyết bạch
Xích cước hoán bạch trữ
Giá dữ đạp lãng nhi
Bất thức li biệt khổ
Ca quân giang hồ khúc
Cảm ngã trường cơ lữ
夜讀   
細字   
寒燈   
佳處一時 
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
(II)
    
    
    
    
    
    
    
    
     
    
    
    
    
    
    
    
    
    
    
     
Mạnh Giao, tự Đông Dã (751-814), người Lạc dương, ẩn cư Tung sơn, gần 50 tuổi mới đến Trường An thi tiến sĩ. Năm Trinh nguyên 12 (795), đậu tiến sĩ; năm sau được tuyển ra làm Phiêu dương úy. Tính cô độc đơn bạc; thơ thì khúc mắc, khắc khổ, bài nào cũng trầm buồn cùng độ; chúng như ẩn khuất một tâm sự nào đó mà lời không nói hết. Hàn Dũ rất thích thơ ông, kết bạn rất thân thiết. Mất năm 64 tuổi.
Hai bài trích ở trên, Đông Pha làm theo lối thơ khúc mắc của Mạnh Giao, gọi là thể thơ Đông dã. Kỷ Hiểu Lam phê rằng, thể đó, dù Hàn Dũ và Phàn Tông Sư đời Đường rất thích, nhưng chưa chắc đã làm nổi. Những Đông Pha cậy cái hùng tài quán triệt của mình nên không ngại.
Lối thơ này không cần giàu âm vận như các bài luật thi. Hai bài của Đông Pha rất giàu hình ảnh, mà hình ảnh nào cũng độc đáo, được gói trong các tiết nhịp khúc mắc, rất trầm buồn. Buồn một cách cô đơn kỳ lạ.
(I)
Đêm đọc thơ Mạnh Giao
Chữ nhỏ như lông trâu
Đèn nhạt rọi hoa tối
Cái hay lại gặp nhau
Khơi vơi giủ cấu bợn
Khúc mắc thơ héo sầu
Nước trong đá vằng vặc
Bọt xoáy không chịu sào
Mới như ăn cá nhỏ
Cái được chẳng thấm đâu
Lại như bắt còng nấu
Trọn ngày ôm cua sao?
Có thể đọ Tăng thanh
Chưa thể đọ Hàn hào
Đời người như sương sớm
Sáng tối lửa cạn dầu
Sao khổ hai tai vễnh
Nghe sâu lạnh lẽo kêu?
Chi bằng bỏ quách đi
Mời uống chén rượu ngầu.
(II)
Ta ghét thơ Mạnh Giao
Lại làm thể Đông dã
Bụng đói sôi sục reo
Chuột đói lần vách đá
Thơ từ phế phủ ra
Lại gây sầu phế phủ
Tựa như cá Hoàng hà
Phun dầu tự nấu nó
Còn ham đồng đấu ca
Quê kệch mường tượng cổ
Cung đào bắn con vịt
Lênh đênh múa áo lá
Không sợ đạp lệch thuyền
Đạp sóng chê đất thó
Vợ tớ sương tuyết trắng
Chân trần giặt vải lụa
Làm vợ gã rong chơi
Không màng li biệt khổ
Hát khúc chàng giang hồ
Rầu ta mãi cô lữ
10
THỨ VẬN TĂNG TIỀM [23] KIẾN TẶNG 
Đạo nhân hung trung thủy kính thanh
Vạn tượng khởi diệt vô đào hình
Độc y cổ tự chủng thu cúc
Yến bạn tao nhân xan lạc anh
Nhân gian để xứ hữu nam bắc
Phân phân hồng nhạn hà tằng minh
Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh
Kim nhật ngẫu xuất vị cầu pháp
Dục dữ tuệ kiếm gia long hình
Vân nam tân ma sơn thủy xuất
Sương tì bất tiển nhi đồng kinh
Công hầu dục thức bất khả đắc
Cố tri ỷ thị vô khuynh thành
Thu phong xuy mộng quá Hoài thủy
Tưởng kiến quật dữu thùy không đình
Cố nhân các tại thiên nhất giác
Tương vọng lạc lạc như thần tinh
Bành thành lão thú hà túc cố
Táo lâm tang dã tương yêu nghinh
Thiên sơn bất đạn hoang điếm viễn
Lưỡng cước dục sấn như nhu khinh
Đa sinh ỷ ngữ ma bất tận
Thượng hữu uyển chuyển thi nhân tình
Viên ngâm hạc lệ bản vô ý
Bất tri hạ hữu hành nhân hành
Không giai dạ vũ tự thanh tuyệt
Thùy sử yểm ức đề cô quỳnh
Ngã dục tiên sơn chuyết dao thảo
Khuynh khuông tọa thán hà thời doanh
Bạc thơ tiên phố tận điền ủy
Chử minh thiêu lật nghi tiêu chinh
Khất thủ ma ni chiếu trược thủy
Cọng khan lạc nguyệt kim bồn doanh 

次韻僧潛見贈

      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
      
 使     
      
      
簿      
      
      
      

Bài này vốn là một bài họa, do thơ của Đào Tiềm tặng Ông. Nói là họa, nhưng bút pháp và chương pháp của thơ rất ung dung. Đó là chỗ điêu luyện của người làm thơ. Cốt cách và đời sống của Đạo TIềm được tả trong những nét rất linh hoạt. Ngay ở hai câu đầu, lời thơ và tứ thơ đã đi ngay vào chỗ độc đáo bằng biết nhịp và hình ảnh sống động. Thỉnh thoảng trong thơ đột nhiên nổi lên với những hình ảnh rất đẹp được gói trong lời và tứ kỳ diệu. Đại để các câu:
Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh
Khép cửa hang sâu một giường thiền
Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh
Năm tháng là tuổi già, là mùa thu và tóc trắng, là những hoài vọng xa xôi của nhà thơ. Hoài vọng đó là hình ảnh hiu hắt khép kín cửa trong hang sâu giữa núi rừng xa vắng, và thầm lặng trôi qua trên đầu nhà sư cô quạnh. Cho nên, tấm lòng của sư như một mặt nước trong ngần, bao nhiêu chìm nổi thiên hình vạn trạng của cõi đời hiện rõ lên trong đó.
Rồi khi sư thả bộ rong chơi, màu áo còn pha màu sương khói của núi rừng. Sư mang cái tình đạo đó kết duyên với tình thơ của khách thơ, như ngọn gió mùa thu thổi những phương trời viễn mộng đến làng thơ, thì tình thơ bỗng ngọt ngào như cam quít đang mùa chín đỏ; một thứ ngọt ngào trầm lặng:
Thu phong xuy mộng quá Hoài thủy
Tưởng kiến quật dữu thùy không đình
Gió thu đưa mộng qua Hoài thủy
Này cam nọ quít rũ sân buồn 
Khách làng thơ lại muốn bỏ qua những ngày bươn bả, để cùng sư, trong những đêm dài xa xôi, đốt củi nấu trà, ngồi xem bóng trăng nghiêng xuống đáy cốc. Tình thơ sống động, nhưng xa xôi và đơn bạc.
Tấm lòng nhà đạo như nước phẳng;
Rọi bóng chìm nổi của cõi đời.
Chùa xưa lẻ bóng trồng thu cúc
Bạn với làng thơ thưởng chút tài
Cõi nhân gian có chia đường nam nẻo bắc
Mà cánh hồng cánh nhạn vẫn đơn độc lẻ loi
Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh
Nay hứng dậy tìm duyên cùng khách tục
Muốn đem kiếm tuệ miệt mài thêm
Áo mây vừa khoác vương màu non nước
Râu sương không cạo trẻ thấy mà kinh
Công hầu muốn quen, quen chẳng được
Mới biết nơi chợ không kẻ khuynh thành
Gió thu thổi mộng qua Hoài Thủy
Tưởng thấy cam quít rũ sân buồn
Bè bạn mỗi người riêng một cõi,
Trông nhau lác đác như sao mai
Người bận việc quan thôi khỏi nói
Rừng táo nương dâu mong đợi nhau
Đường xa quán lẻ không đáng ngại,
Gót vượn nhẹ nhàng bước như bay.
Lời đẹp mấy đời còn dệt mãi,
Tình thơ uyển chuyển còn nhau đây,
Vượn gào hạc réo thế là thế,
Nào biết người đi qua dưới này
Thềm vắng, mưa đêm, buồn da diết,
Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây?
Tôi muốn núi tiên bứt cỏ dao,
Nghiêng giỏ ngồi than, đầy được sao?
Chép sách, đánh roi, đã làm hết,
Nấu trà đốt củi hẹn đêm nào.
Xin hạt ma ni soi nước đục,
Cùng đợi đáy cốc trăng lao xao.
Ghi chú:
[1] TÚ CHÂU, một dãy đất chạy dài từ huyện Gia Hưng tỉnh Triết Giang đến huyện Tùng Giang tỉnh Giang Tô
[2] NGÔ ÂM, hay THANH GIANG, điệu nhạc Thanh thương khúc, thịnh hành tại các vùng Giang Nam, đất Ngô, qua các điệu dân dao. Đến đời Đường, điệu ca biến đổi về sau ít truyền tụng.
Ngô âm cũng chỉ cho giọng nói vùng đất Ngô trung nằm ở đông bộ tỉnh Giang tô và tây bộ tỉnh Triết giang.
Ngô âm ở đây có nghĩa bình thường: giọng nói của TỚ; lối nói thông thường của người đất Thục.
[3] THỤC TẨU, cụ giả đất Thục, chỉ cho Văn trưởng lão, cùng quê với Ông ở đất Thục.
[4] NGA MI, núi Nga Mi, hai ngọn đối nhau như hai nét lông mày. Nhà Phật gọi là núi Quang Minh. Đạo gia gọi là Hư linh động thiên; hoặc Linh Lăng thái điện thiên. Núi ở phía Tây nam huyện Nga mi tỉnh Tứ Xuyên. Tại tây bắc huyện giáp tỉnh Hà Nam cũng thấy một ngọn mà ông cho là giống với Nga Mi ở quê ông nên đặt tên là Tiểu Nga Mi, trên đó có đền thờ Tam Tô (ba cha con Ông)
[5] THIÊN THAI, ngọn núi phía bắc huyện Thiên thai tỉnh Triết Giang. Tương truyền, đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc mà gặp tiên.
[6] TRIẾT ĐÔNG, đông nam bộ trong tỉnh Triết Giang
[7] DẠ VĂN, có chỗ chép SẦU  VĂN
[8] BA TẨU, cũng như Thục tẩu, do chữ Ba thục (xem chú thích bài trước)
[9] HOANG ĐỒN,  có chỗ chép HOANG THÔN
[10] VÃNG SỰ: hai câu 3 và 4, có lẽ ông muốn nhắc đến chuyện năm tân hợi, xích mích đảng Vương An Thạch, suýt  vong mạng. Nay đi tìm lại người cố cựu, thấy lại tình quê hương vẫn đậm đà. Nhưng tình đó không nói thành lời được. Chỉ có “Con Oanh học nói trên cành mỉa mai” thôi ư? 
[11] HƯƠNG TỈNH, giếng làng, chỉ cho tình hương lý
[12] VIÊN TRẠCH, tăng đời Đường; bạn là Lý Thiện Nguyện ba lần chứng kiến sự tái sinh của sư. Lần chót, do hẹn gặp nhau tại chùa Thiên Trúc, vào đêm trăng thu, Thiện Nguyên y hẹn, vừa đến cổng chùa, bỗng thấy một mục đồng ngồi trên lưng trâu ca:
Tam sinh thạch tượng cựu linh hồn
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân
Tàm quĩ tình nhân viễn tương phỏng
Thử thân tuy dị tánh thường tồn
[13] CÁT HỒNG,  người đời Tấn, tự xưng Tiểu Cát tiên ông; thích phép đạo dưỡng của thần tiên; nghe đồn Giao chỉ có nhiều đan sa, dẫn con cháu đến núi La phù luyện đan, khi đan thành thì thi thể đã rã. Ở đây ngụ ý người không sao thoát khỏi cái chết.
[14] THỦY TIÊN VƯƠNG, Ông tựchú: trên hồ có miếu Thủy Tiên vương
[15] TÂY HỒ, có tám nơi tất cả, mà trong bài này chỉ cho Tây hồ thành tây huyện Hàng châu tỉnh Triết giang. Hồ này còn có những tên khác: hồ TIỀN ĐƯỜNG, hồ MINH THÁNH, hồ KIM NGƯU. Nhân câu thơ của Ông: “Dục bả “Tây hồ tỉ Tây Tử”, nên cũng được gọi là hồ Tây Tử. Ba mặt là núi vây quanh; nam và bắc có hai ngọn núi cao đối nhau, trong hồ có các con đê Tô, Bạch, chia nước hồ ra làm HỒ TRONGHỒ NGOÀIHỒ SAU. Bốn mùa phong vật tốt tươi, với 10 cảnh trí nên thơ và nổi danh. 
[16] TÂY TỬ, tức Tây Thi
[17] CÔ PHƯƠNG, cao vọi một mình, tuyệt hẳn thói tục.
Thơ Hàn Dũ:
Dị chất kỵ xử quần
Cô phương nan ký lâm
(chất riêng không cùng bọn. Cao vọi khó ở rừng)
Thơ Chu Hy:
Long đông điêu bách hủy
Giang hải lệ cô phương
(Trời lạnh cây cỏ úa. Sông biển một mình trôi.) 
[18] THI TAO, nỗi sầu héo của thơ. Thơ buồn khổ
[19] BÀNH VIỆT, có lẽ con còng, loại cua nhỏ
[20] ĐỒNG ĐẤU CA. Chữ trong thơ Mạnh Giao
Đồng đấu ẩm giang tửu
Thủ phách đồng đấu ca
(Đấu đồng uống rượu sông, tay vỗ đấu đồng ca)
[21] ĐẠP THUYỀN, ĐỘC TỐC. Thơ Mạnh Giao:
Cước đạp tiểu thuyền đầu
Độc tốc vô quyển sa
(Gót đạp đầu thuyền nhỏ, lênh đênh không bến cỏ.)
[22] ĐẠP LÃNG, ĐẠP THỔ. Chữ trong thơ Mạnh Giao:
Nùng thị đạp lãng nhi
Mỗi đạp thanh lãng du
Tiếu y hương cống lang
Đạp thổ xưng phong lưu.
(Ta là người sóng xanh, cưỡi sóng mà rong chơi. Cười y gã hương cống, dẫm đất gọi phong lưu.)
[23] TĂNG TIỀM: Tăng Đạo Tiềm ở Tiền Đường, hiệu Sam Liêu Tử, trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn, là bạn thơ rất thân với Đông Pha.
III. TRỜI ÓNG Ả BẠC TƯỜNG RÊU LỮ THỨ
(1080-1085)
LỜI DẪN
Trên đoạn đường Lữ Thứ, lịch sử bỗng đổ dồn lên Đất Trích. Đó là vùng đất hoành hành của mưa rừng gió núi, của Thiên Nhiên tàn bạo. Tạo hóa thì hung hăng, mà tạo vật thì bé bỏng. Giữa  những đêm giông bão dị thường, giữa lúc đèn mờ khuya khoắt, con chuột đói mò ra đi kiếm ăn. Hoặc trong đám hoa rừng cỏ dại, chướng khí sơn lam, nhánh hải đường với nụ son bé bỏng cũng mang cốt cách thanh cao ra mà chen chúc.
Cuộc lịch nghiệm nơi vùng đất Trích tàn bạo với nỗ lực phấn đấu kỳ cùng, trước thảm họa của Tử sinh trường mộng, ở đây cũng đã sẵn sàng vạch sẵn lối gai rừng để nghe đồng vọng của Lô sơn chân diện mục. Trong  khi đó, thảm họa lịch sử theo nước lũ Trường Giang đổ vào Xích Bích. Thế thì, tại chỗ này, Lịch sử đã mang tài hoa của nó tụ về trong tinh thể Đông Pha. Và từ đó, Đông Pha cư sĩ bước ngay vào dòng Lịch sử Chung của một dân tộc, làm cha già tóc trắng cho Một dân tộc.
Những bài thơ sau đây, không có những bài về Lô sơn hay đồng Lô sơn, hay mang âm hưởng ẩn hiện nào đó của Lô sơn chân diện mục, cũng không có những bài xuôi giòng Đại giang Đông khứ, trên mặt sông Xích bích. Hai chỗ đó là tinh thể và cách điệu tài hoa của ông. Một đằng là Lô sơn ẩn hiện giữa mây trắng sương mù ôm ấp những khát vọng sâu thẳm nhất của con người. Một đằng là nước lũ của một giang sơn như họa cuộn anh hùng hào kiệt một thời theo thảm hoạc lịch sử đổ dồn vào biển rộng mù khơi. Nhưng đấy là những tinh thể kết tụ trong phương trời viễn mộng. Nếu nơi đây chúng ta nghe được tận cùng những phấn đấu gian khổ của tồn sinh, những phẫn nộ và những ngậm ngùi cay đắng của tồn sinh, thì phương trời viễn mộng kia tức khắc sẽ mở ra.
I
Năm 1078, tháng 7, đổi sang Hồ châu, ông dâng biểu tạ về triều. Bị sàm tấu, phải ngồi tù. Án từ không nhất quyết. Thần tông mến tài, miễn tội tử. Lại nhờ em ông, Tử Do xin đổi chức quan chuộc tội cho ông. Tháng 12 năm đó ông ra khỏi ngục.
Khi ở trong ngục, ông làm 2 bài thơ, nhờ cai ngục gởi cho Tử Do. Thơ tự trách và có vẻ tuyệt vọng, vì ông tưởng là không thoát khỏi án tử hình.
Đại khái:
Thị xứ thanh sơn khả mai cốt
Tha niên dạ vũ độc thương thần
Dữ quan thế thế vi huynh đệ
Hựu kết lai sinh vị liễu nhân
Nơi này non xanh có thể chôn xương được. Sang năm mưa đêm chỉ riêng hồn mình lạnh lẽo. Ước nguyện cùng nhau (ông và Tử Do) đời đời làm anh em; lại kết duyên nợ đời vĩnh viễn của văn chương.
Ông được tha, giáng chức làm đoàn luyện phó sứ, bị đày đi quản thúc ở Hoàng châu.
Tháng giêng năm canh thân 1079, ông lên đường. Tử Do từ Nam đô đến gặp ông tại Trần, ở lại cùng ông ba ngày, rồi chia tau. Ông làm bài thơ chia tay. Đại khái:
Biệt lai vị nhất niên
Lạc tận kiêu khí phù
Mới cách nhau chưa đầy một năm, cái kiêu khí đã tan hết. và ông tự trách;
Chí ngôn tuy cửu phục
Phóng tâm bất tự thâu
Đã học lời của Thánh Hiền từ bao lâu nằm lòng rồi, nhưng vẫn phóng tâm bừa bãi, gây tai vạ.
Ngày 18 tháng giêng năm đó, trên đường đi ngang Thai châu gặp tuyết, ông làm 2 bài thơ cho Tử Do, lại nói:
Vãn tuế ích khả tu
Phạm tuyết phương nam bôn
Càng già lại càng thêm thẹn; đội tuyết mà phải chạy sang nam!
Ngang Tân tức, gặp người đồng hương lập nghiệp ở đó, ông tặng bài thơ thất ngôn cổ thi:
Trần ai ngã diệc thất thâu thân
Thử hành tắng đắng vưu khả bỉ
Ông nói, mình cũng sa chân vào chốn trần ai, lưu lạc tha phương; nhưng cái đi đó gian nan quá tệ.
Các nơi đi ngang qua, ông vẫn làm thơ, vẫn ngoạn cảnh; nhưng lời thơ đượm nỗi buồn phiền u ẩn. Khi chơi chùa Tịnh cư, nơi này trước kia Trí Khải gặp Huệ Tư đại sư mà đắc đạo, rồi về núi Thiên Thai trụ trì, lập ra Phật giáo Thiên Thai tông; ông làm thơ có những câu:
Bất ngộ tục duyên tại
Thất thân đạp nguy cơ
Chưa tỏ ngộ đạo lý, tục duyên còn nặng; để cho sa chân vào bước nguy cơ.
Và những câu khác:
Khể thủ lưỡng túc tôn
Cử đầu song thế huy
Linh sơn hội vị tán
Bát bộ do quang huy
Cúi đầu lạy đức Như Lai; cất đầu dậy lau đôi hàng lệ. Tưởng như trên hội Linh Sơn ngày nào như lai giảng kinh Pháp hoa nói đạo lý thượng thừa, bây giờ vẫn còn đó, tám bộ chúng vẫn rực rỡ
Lời thơ tuy không cao ngạo mà đảm lược hùng tâm vẫn còn. Cõi thơ của ông vì vậy mà mênh mông heo hút; lời thơ của ông là cả giọng chí thành. Sầu khổ thì có, mà sầu hận thô lỗ thì không. Đó là một điểm nhỏ trong cái phong vận tao nhã và cao kỳ và bao la của ông.
Rồi đến Hoàng Châu, ngủ đêm tại chùa Thiền trí. Cảnh chùa hoang lương. Hình ảnh trong thơ hiện ra một màu hiu hắt. Một ngọn đèn tàn leo lét trên bàn Phật; một con chuột đói bò ra kiếm ăn,; mưa đêm đổ xuống hàng tre; và một bài thơ cổ sót lại trong trí nhớ. Khách phong trần lưu lạc gặp cảnh thơ đó có thể rũ sạch được những oan tình u ẩn nghìn đời.
Phật đăng tiệm ám cơ thử xuất
Sơn vũ hốt lai tu trúc minh
Tri thị hà nhân cựu thi cú
Dĩ ưng tri ngã thử thời tình.
Ông tự viết lời dẫn : “: Lúc thiếu niên, có lần tôi đi ngang qua một thôn viện, thấy trên vách  có thơ:
Dạ lương nghi hữu vũ
Viện tĩnh tợ vô tăng
Đêm lạnh chừng mưa gió
Chùa vắng như không sư.
“Không biết thơ của ai. Ban đêm, ngủ lại chùa Thiền Trí, Hoàng Châu. Sư trong chùa đều vắng hết. Nửa đêm trời mưa. Ngẫu nhiên nhớ bài thơ đó, nên làm một bài tuyệt cú.”
Bấy giờ ông vừa ở tù ra, bị đày tới Hoàng Châu. Lời thơ có vẻ mông lung, cay đắng.
Ngày 1, tháng 2, tới Hoàng Châu. Gia đình Ông ở cả tại Nam Đô, chỉ một mình Tử Mại, con trai lớn của Ông, đến với Ông. Khi mới đến Hoàng Châu, ông làm bài thơ dưới đây:
Tự tiếu bình sinh vị khẩu mang
Lão lai sự nghiệp chuyển hoang đường
Trường giang nhiễu quách tri ngư mĩ
Hảo trúc liên sơn giác duẫn hương
Trục khách bất phương viên ngoạI trí
Thi nhân lệ tác thủy tào lang
Chỉ tâm vô bổ ti hào sự
Thượng phi quan gia áp tửu nang
Cười ta bình sinh miệng nói nhăng
Già rồi sự nghiệp càng hoang đường
Trường giang vỗ bến cho cá béo
Tre rậm đầy non thơm mùi măng
Khách lang bạt khỏi phiền viên ngoại
Lệ nhà thơ ghi sổ tang bồng
Chỉ thẹn không nên chuyện gì hết
Uổng thay dốc túi rượu nhà quan
(Ông tự chú cho câu chót: Quan kiểm hiệu có lệ nếu ai làm được nhiều việc thì thưởng một bình rượu khi về. Ở đây, ý muốn nói, Ông tới là  bận rộn người ta phải tốn công ghi danh vào sổ bạ)
2.
HẢI ĐƯỜNG
Giang thành địa chướng phồn thảo mộc
Chỉ hữu danh hoa khổ ưu độc
yển nhiên nhất tiếu trúc ly gian
Đào lý mạn sơn tổng thô tục
Dã tri tạo vật hữu thâm ý
Cố khiển giai nhân tại không cốc
Tự nhiên phú quí xuất thiên tư
Bất đãi kim bàn tiến hoa ốc
Chu thần đắc tửu vựng sinh kiểm
Thúy tụ quyển sa hồng ánh nhục
Lâm thâm vụ án hiểu quang trì
Nhật noãn phong khinh xuân thụy túc
Vũ trung hữu lệ diệc thê thương
Nguyệt hạ vô nhân cánh thanh thục
Tiên sinh bão thực vô nhất sự
Tán bộ tiêu dao tự môn phúc
Bất vấn nhân gia dữ tăng xá
Trụ trượng xao môn khán tu trúc
Hốt phùng tuyệt diễm chiếu suy hủ
Thán tức vô tín khải bịnh mục
lậu bang hà xứ đắc thử hoa
Vô nãi hiếu sự đi Tây Thục
Thốn căn thiến lý bất dị đáo
Hàm tử phi lai định hồng hộc
Thiên nha lưu lạc cu khả niệm
Vị ẩm nhất tôn ca thử khúc
Minh triêu tửu tĩnh quá độc lai
Tuyết lạc phân phân na nhẫn xúc

海棠
江城地瘴蕃草木
只有名花苦幽独
嫣然一笑竹篱间
桃李满山总粗俗
也知造物有深意
故遣佳人在空谷
自然富贵出天姿
不待金盘荐华屋
朱唇得酒晕生脸
翠袖卷纱红映肉
林深雾暗晓光迟
日暖风轻春睡足
雨中有泪亦凄
月下无人更清淑
先生食饱无一事
散步逍遥自扪腹
问人家与僧舍
拄杖敲门看修竹
忽逢绝艳照衰朽
叹息无言揩病目
陋邦何处得此花
无乃好事移西蜀
寸根千里不易到
衔子飞来定鸿鹄
天涯流落俱可念
为饮一樽歌此曲
明朝酒醒还独来
雪落纷纷哪忍触

Ông cư ngụ tại chùa Định Huệ. Phía đông chùa, hoa tạp đầy núi, giữa đó chen một cây hải đường. Thổ nhân không biết là quí. Nhân đó, làm bài thơ vịnh hải đường.
Thơ ngụ ẩn tình. Cốt cách trang nhã của hải đường gây nên nơi ông một cảm hứng tuyệt diệu. Lối thơ này, thường dễ trở thành một đề tài sáo, giả tạo và khoa trương. Kiểu cách của nó là sao cho đạt đến mức nói riêng vật mà tình ẩn, nói tiêng tình mà vật hiện. Nhưng còn phải đợi bàn tay tài hoa phổ vào mới thành tuyệt diệu. Vật trở thành cao quí trong tình ẩn, và người cũng trở thành tao nhã nơi vật hiện.. Cái đó là do phong tư tú lệ của tao nhân; tay phàm tùc khó mà vươn tới mức. Nó hệ ở chỗ tương ứng của thanh khí lẽ hằng. Cho nên, tiết nhịp của bài thơ không cần sôi nổi lãng mạn mà nguồn cảm hứng rung động sâu xa như là bất tận. Chỗ đó, Kỷ Hiểu Lam phê rằng: “Hoàn toàn nói về hải đường, nhưng tự ngụ ý phong tư tú lệ của mình. Bắt đầu hứng khởi thì thâm trầm vi nhiệm. Nửa chừng thì nở rộ tươi sáng. Lối thơ đó nếu không thực sự là Đông Pha thì không ai làm nổi. Đông Pha nếu không hứng khởi trong một lúc, vị tất đã làm nổi” 
Đất giang thành nhiều chướng khí nên nhiều cây cỏ hoang dại.
Chỉ có một loại danh hoa, cây hải đường, mọc chen lấn giữa đó, nằm lẻ loi buồn tẻ.
Một khi nó nhởn nhơ hé nụ nơi hàng dậu,
Thì tất cả đào, lý khắp một vùng núi này thảy là thô tục
Thế nên mới biết tạo vật có thâm ý,
Nên khiến cho loài hoa quý đó lánh mình nơi hang hốc vắng vẻ.
Cái cốt cách cao sang của nó vốn là trời cho tự nhiên vậy,
Không phải đợi có mâm vàng dâng vào cửa nhà sang cả mới thành quí.
Nụ hồng tươi như say men rượu ửng lên đôi má,
Tàn lá như cánh tay áo màu xanh thẳm vén lên giải lụa để lộ thịt da ánh hồng.
Sa mù phủ mờ cả khu rừng dày chằng chịt nên nắng mai lên trễ,
Mặt trời ấm, gió nhẹ, giấc ngủ mùa xuân rất thoải mái.
Lúc mưa, trong cơn mưa những giọt nước đọng long lanh trông cũng khá sầu muộn;
Lúc có trăng, dưới trăng vắng bóng người, trông lại càng yểu điệu cao sang.
Tiên sinh ăn một bữa no, không một việc làm,
Ông thả bước tiêu dao, tự sờ tay vào bụng của mình.
Không cần hỏi đó là nhà của người tục hay của sư tăng.
Chống gậy đến gõ cửa xem hàng tre đứng thẳng
Bỗng gặp một vẻ tuyệt diễm bừng lên giữa hàng giậu đổ nát.
Ông than thở không nói một lời, nhướng con mắt mờ kém lên:
Đất quê này sao lại có thứ hoa này?
Há không phải do người hiếu sự mang nó từ đất Tây thục đến?
Nhưng tấc rễ ngắn của nó không dễ gì mang đi xa xôi như vậy nổi.
Có lẽ chim hồng hay chim hộc ngậm hạt của nó mang đến đây.
Cũng đáng ngậm ngùi cho nó lưu lạc tận ven trời xa xôi này;
Nên vì thay nó mà uống một chén và ca một khúc ca đó.
Sáng hôm sau, tỉnh rượu lại, đến đây một mình,
Thấy tuyết bay phơi phới, tưởng chừng như không nỡ đụng đến nó.
3.
Bấy giờ khoảng cuối tháng 2 hay đầu tháng 3 gì đó. Ông đến Hoàng châu trên dưới đã một tháng. Sau cơn mưa tạnh, ông thả bộ đến dưới đình Tứ vọng, bên trên hồ cá, rồi từ gò đông phía trước chùa càn Minh trở về, làm hai bài thơ luật năm chữ. Mùa hải đường đã qua, đang đợi mùa mai năm tới. Cảnh chiều, tiếng ếch nhái sau cơn mưa, tiếng chim trong nắng ngả về chiều, bóng người vắng vẻ. Cũng là một nỗi niềm tâm sự nào đó của tuổi ông.
(I)
Vũ quá phù bình hợp
Oa thanh mãn tứ lân
Hải đường chân nhất mộng
Mai tử dục thường tân
Trụ tượng nhân khiêu thái
Thu thiên bất kiến nhân
Ân cần mộc thược dược
Độc tự điện dư xuân
(II)
Cao đình cửu dĩ phế
Hạ hữu chủng ngư đường.
Mộ sắc thiên sơn nhập
Xuân phong bách thảo hương
Thị kiều nhân tịch tịch
Cổ tự trúc thương thương
Quán hạc hà lai xứ
Hào minh mãn tịch dương
    
  滿  
    
    
    
    
    
  殿  

高亭久已廢
下有種魚塘
暮色千山入
春風百草香
市橋人寂寂
古寺竹蒼蒼
鸛鶴來何處
號鳴滿夕陽
Mưa qua bèo kết tụ
Ếch kêu dậy xóm làng
Hải đườngqua cơn mộng
Còn đợi mùa mai sang
gậy thọc chơi rau cỏ
Người không, vắng bóng tường
Chăm chỉ cây thược dược
Một mình riêmg một xuân
Đình cao phế mấy độ
Phía dưới có ngư đường
Bóng chiều chen bóng núi
Gió thoảng bay ngàn hương
Cầu chợ người thưa thớt
Chùa xưa tre xanh xanh
Cò vạc từ đâu đến
Kêu réo dậy tà dương
4.
Ngụ tại chùa Định Huệ được 3 tháng; tháng 5, ông dời sang Lâm cao đình (phía nam huyện Hoàng cương tỉnh Hồ bắc, bắc ngạn sông trường giang. Cũng gọi là lâm cao quán)
Tử Do lược ký: Từ đình nhìn ra, nam bắc chừng trăm dặm, ban ngày ghe thuyền lui tới phía trước, ban đêm nghe tiếng như ngư long kêu gào ở phía dưới; phía tây trông thấy các ngọn núi huyện Vũ dương; gò đống nhấp nhô, cây cối hàng hàng, khói bốc cuồn cuộn, rải rác nhà ngư phủ, tiều phu, đếm được đầu ngón tay.
Ông đến Lâm cao đình, dựng nhà ở, đặt tên là nhà Tuyết, vì làm trong mùa đại tuyết; đọc Chiến quốc sách, và làm bài thơ dưới đây:
Ngã sinh thiên địa gian
Nhất nghị ký đại má
Khu khu dục hữu hành
Bất cứu phong luân tả.
Tuy vận tẩu nhân nghĩa
Vị miễn vi hàng ngạ
Kiếm mễ hữu nguy xuy
Châm chiên vô ổn tọa
Khởi vô giai sơn thủy
Tá nhãn phong vũ quá
Qui điền bất đãi lão
Dũng quyết phàm kỷ cá
Hạnh tư phế khí dư
Bì mã giải yên đà
Toàn gia cổ giang dịch
Tuyệt cảnh thiên vi phá
Cơ bần tương thừa trừ
Vị kiến khả điếu hạ
Đạm nhiên vô ưu lạc
Khổ ngữ bất thành ta
我生天地間,
一蟻寄大磨。
區區欲右行,
不救風輪左。 雖云走仁義,
未免違寒餓。
劍米有危炊,
針氈無穩坐。 豈無佳山水,
借眼風雨過。
歸田不待老,
永訣凡幾個。 幸玆廢棄餘,
疲馬解鞍馱。
全家占江驛,
絕境天為破。 飢貧相乘除,
未見可弔賀。
澹然無憂樂,
苦語不成些
Ta sinh trong trời đất
Như kiến bò cối đá
Nhắm hữu khu khu đi
Không kể gió xoay tả
Nói chạy theo nhân nghĩa
Chưa khỏi chuyện cơm áo.
Gạo như gươm, thổi rát mặt
Áo như kim chích ngồi không yên
Há không non nước đẹp
Ghé mắt mưa gió qua
Về ruộng nõ đợi già
Sức lực còn đôi chút
May nhờ đất phế thải
Ngựa cùng thảo yên cương
Lấy bến sông làm nhà
Trời dọn cho tuyệt cảnh
Đói rách thừa trừ nhau
Khỏi chia buồn chia vui
Vừa vừa không cực sướng
Nói chi đến chuyện khổ
5.
Buổi sáng, đến Ba hà khẩu đón Tử Do:
Khứ niên ngự sử phủ
Cử động xúc tứ bích
U u bách xích tỉnh
Ngưỡng thiên vô nhất tịch
Cách tường văn ca hô
Tự hận kế chi thất
Lưu thi bất nhẫn tả
Khổ lệ tí chỉ bút
Dư sinh phục hà hạnh
Vinh sự hữu kim nhật
Giang lưu kính diện tĩnh
Yên vũ khinh mạc mạc
Cô chu như phù ế
Điểm phá thiên khoảnh bích
Văn quân tại Từ hồ
Dục kiến cách chỉ xích
Triêu lai hảo phong sắc
Kỳ vĩ tây bắc trịch
Hành đương trung lưu kiến
Tiếu nhãn thanh quang dật
Thử bang nghi khả lão
Tu trúc đái tuyền thạch
Dục mãi Kha thị lâm
Tư mưu đãi quân tất
去年御史府
举动触四壁。
幽幽百尺井,
仰天無一席。
墙聞歌呼
自恨計之失。
留詩不忍寫,
苦淚渍紙筆。
餘生復何幸,
榮事有今日
江流鏡面淨,
煙雨輕冪冪。
孤舟如鳧黳,
點破千頃碧。
聞君在磁湖,
欲見隔咫尺。
朝來好風色,
腳西北擲。
行當中流見,
笑眼清光溢。
此邦疑可老,
修竹帶泉石。
欲買柯氏林,
玆謀待君必
Mấy câu đầu, ông tả lại cảnh ngồi tù tại phủ ngự sử năm ngoái. Phần giữa nói tâm trạng của ông khi đi đón Tử Do, vào buổi sáng, tại Ba hà khẩu. Cuối cùng, ông nói với Tử Do về tình trạng sinh sống thường nhật, và cùng những dụ tính ngày sau. Ông có cảm giác như vĩnh viễn lưu đày tại đất Hoàng Châu đó.
Năm ngoái phủ ngự sử
Tay chân chạm vách tường
Hun hút trăm thước giếng
Trông trời không chiếu manh
Nghe ca hô cách vách
Hận mình tính hỏng trơn
Thư lưu không nỡ viết
Lệ khổ đẫm giấy bút
Còn sống thế là may
Mới có niềm vui này
Sông trôi mặt nước phẳng
Mưa nhẹ khói mù bay
Thuyền lẻ như cò vạc
Chấm phá biếc trời mây
Nghe chú tại Từ hồ
Muốn gặp trong gang tấc
Buổi sáng phong cảnh tốt
nhắm Tây bắc phất cờ
Rồi gặp ở trung lưu
cười hai mắt sáng chói
Đất này thôi dưỡng già
Hàng tre ôm đá suối
Muốn mua rừng họ Kha
Đợi chú lo mới nổi
6.
ĐÔNG PHA BẤT THỦ               東坡八首
I
Phế lỗi vô nhân cố
Đồi viên mãn bồng cao
Thùy năng quyên trợ lực
Tuế vãn bất thường lao
độc hữu cô lữ nhân
thiên cùng vô sở đào
đoan lai thập ngõa lịch
tuế hạn thổ bất cao
kỳ khu thảo cức trung
Dục quát nhất thốn mao
Vị nhiên thích lỗi thán
Ngã lẫm hà thời cao
II
Hoang điền tuy lãng mãng
Cao tì các hữu thích
Hạ thấp chủng canh thuật
Đông nguyên thì táo lật
Giang nam hữu Thục sĩ
Tang quả dĩ hứa khất
Hảo trúc bất nam tài
Đản khủng tiên hoành dật
Nhưng tu bốc giai xứ
Qui dĩ an ngã thất
Gia đồng thiêu khô thảo
Tẩu báo ám tỉnh xuất
Nhất bão vị cảm kỳ
Biều ẩm dĩ khả tất
III
Tự tích hữu vi tuyền
Lai tùng viễn lĩnh bối
Xuyên thành quá tụ lạc
Lưu ác tráng bồng ngải
Khứ vi Kha thị pha
Thập mẫu ngư hà hội
Tuế hạn tuyền dĩ kiệt
Khô bình niêm phá khối
Tạc dạ nam sơn vân
Vũ đáo nhất lê ngoại
Huyễn nhiên tầm cố độc
Tri ngã lý hoang hội
Nê cần hữu túc căn
Nhất thốn ta độc tại
Tuyết nha hà thời động
Xuân cưu hành khả quái
IV
Chủng đạo thanh minh tiền
Lạc sự ngã năng sổ
Mao khong ám xuân trạch
Châm thủy văn hảo ngữ
Phân ương cập sơ hạ
Tiệm hỉ phong diệp cử
Nguyệt minh khán lộ thượng
Nhất nhất châu thùy lũ
Thu lai sương huệ trọng
Điên đảo tương xanh trụ
Đản văn huề lũng gian
Trách mãnh như phong vũ
Tân xuân tiện nhập tắng
Ngọc diệp chiếu không lữ
Ngã cửu thực quan thương
Hồng hủ đẳng nê thổ
Hành đương tri thử vị
Khẩu phúc ngữ dĩ hứa
V
Lương nông tích địa lực
Hạnh thử thập niên hoang
Tang giá vị cập thành
Nhất mạch thứ khả vọng
Đầu chủng vị dũ nguyệt
Phúc khối dĩ thương thương
Nông phu cáo ngã ngôn
Vật sử miêu diệp xương
Quân dục phú binh nhĩ
Yếu tu túng ngưu dương
Tái bái tạ khổ ngôn
Đắc bảo bất cảm vong
VI
Chủng tảo kỳ khả bác
Chủng tùng kỳ khả đoạn
Sự tại thập niên ngoại
Ngô kế diệc dĩ khác
Thập niên hà thúc đạo
Thiên tải như phong bạc
Cựu văn Lý Hành nô
Thử sách nghi khả học
Ngã hữu đồng xá lang
Quan cư tại Tiềm nhạc
Di ngã tam thốn cam
Chiếu tòa quang trác lạc
Bách tài thảng khả trí
Đương xuân cập băng ác
Tưởng kiến trúc ly gian
Thanh hoàng chiếu ốc giác
VIII
Phan tử cựu bất điệu
Cô tửu Giang Nam thôn
Quách sinh bản tương chủng
Mại dược Tây thị viên
Cổ sinh diệc hiếu sự
Khủng thị áp nha tôn
Gia hữu thập mẫu trúc
Vô thời dung khấu môn
Ngã cùng giao cựu tuyệt
Tam tử độc kiến tồn
Tùng ngã ư Đông Pha
Lao hưởng đồng nhất xan
Khả liên Đỗ Thập di
Sự dữ Chu Nguyễn luân
Ngô Sư Bốc Tử Hạ
Tứ hải giai đệ côn.
VIII
Mã sinh bản cùng sĩ
Tùng ngã nhị thập niên
Nhật dạ vọng ngã quí
Cậu phận mãi sơn tiền
Ngã kim phản lụy quân
Tá canh chuyết tư điền
Quát mao qui bối thượng
Hà thời đắc thành chiên
Khả liên Mã sinh si
Chỉ kim khoa ngã hiền
Chúng tiếu chung bất hối
Thí nhất đương hoạch thiên
廢壘無人顧,
頹垣滿篷篙。
誰能捐筋力,
晚不償勞。
獨有孤旅人
天窮無所逃
端來拾瓦礫
歲旱土不膏
崎嶇草棘中
欲刮一寸毛
喟焉釋耒嘆
我廩何時高


荒田雖浪莽
高庳各有適
下隰種秔稌
東原蒔棗栗
江南有蜀士
桑果已許乞
好竹不難栽
但恐鞭橫逸
仍須卜佳處
規以安我室
家僮燒枯草
走報暗井出
一飽未敢期
瓢飲已可必


自昔有微泉
來從遠嶺背
穿城過聚落
流惡壯蓬艾
去為柯氏陂
十畝魚蝦會
歲旱泉已竭
枯萍粘破塊
昨夜南山雲
雨到一犁外
泫然尋故瀆
知我理荒薈
泥芹有宿根
一寸嗟獨在
雪芽何時動
春鳩行可膾


種稻清明前
樂事我能數
毛空暗春澤
針水間好語
分秧及夏初
漸喜風葉舉
月明看露上
一一珠垂縷
秋來霜穗重
顛倒相撐拄
但聞畦隴間
蜢如風雨
新春便入甑
玉粒照筐筥
我久食官
红腐等泥土
行當知此味
口腹語已許



良農惜地力
幸此十年荒
桑柘未及成
一麦庶可望
投种未逾月
覆塊已苍苍
農父告我言
勿使苗葉昌
君欲富饼饵
须纵牛羊
再拜谢苦言
饱不敢忘



枣期可剥
种松期可斫
事在十年外
吾計亦已
十年何足道
载如風雹
舊聞李衡奴
此策疑可學
我有同舍郎
官居在灊岳
遗我三寸甘
照座光卓
百栽倘可致
當及春冰渥
想見竹篱間
青黄照屋角



潘子久不調
沽酒江南村
郭生本将種
賣葯西市垣
古生亦好事
恐是押牙孫
家有十畝竹
無時客叩門
穷交舊絕
三子獨見存
従我菸東坡
劳饷同一餐
可憐杜拾
事與朱阮掄
吾師卜子夏
四海皆弟昆

馬生本窮士
従我二十年
日夜望我貴
求分買山
我今反累君
借耕輟兹田
刮毛龜背上
何時得成氈
可憐馬生癡
至今夸我賢
眾笑终不悔
施一當獲千

Đông Pha, khoảng đất phía đông Hoàng Châu. Ông về làm ruộng ở đó, tự hiệu Đông Pha cư sĩ. Tám bài thơ làm tại đây, tả cảnh sinh hoạt thường nhật của Ông.
Ông tự viết lời dẫn cho cả tám bài thơ:
“Tôi đến Hoàng Châu được hai năm, càng ngày càng túng quẫn. Người bạn cũ Mã Chính Khanh, cám cảnh tôi thiếu ăn, nên lo hộ trong quân cho tôi được vài mươi mẫu đất trồng trọt, để tôi ở đó cày cuốc. Đất bỏ hoang từ lâu, gai, tranh, gạch ngói, các thứ chen chúc nhau tràn lan. Mà năm lại gặp đại hạn, việc khai khẩn quá mệt nhọc, gân sức rã rời hết, buông cày đứng than thở. Mới làm các bài thơ đó. Tư an ủi sự siêng năng của mình sẽ được đền bù năm sau, do đó quên cả mệt nhọc”
Tám bài thơ thuật sự, nên chương pháp như một bài tản văn. Lời thơ và tình tự, chất phác và nồng nàn. Ở đây có thể thưởng thức tài làm thơ lão luyện của ông. Và cũng có thể nghe được đâu là tâm tình dịu ngọt của một nhà thơ. Ông nói tới những công lao cực nhọc của người làm ruộng, những lo lắng khi trời hạn hán. Rồi tới cái vui và tình làng xóm giao hảo. Tại đó, ông có ba ngườ bạn nông dân thân thiết, bác Phan, bác Quách và bác Cổ. Thú đồng quê cực nhọc mà tựa như nhàn. Hai câu kết trong bài (I) là hứng thơ như mạch ngầm chảy suốt qua cả tám bài:
Vị nhiên thích lỗi thán
Ngã lẫm hà thời cao
Buông cây đứng than thở
Kho lúa bao giờ đầy?
Ông đã ghi lại ý tưởng đó trong lời dẫn. Buông cây đứng than thở, đứng bùi ngùi thở dài…. Thở dài cho kho lúa đầy cao, và cũng thở dài cho trời thơ và cõi mộng xa xôi.
(I)
Ruông đất bỏ hoang, không ai đoái tưởng tới. Vườn tược đổ nát, lau lách mọc đầy. Ai mà ra gân sức cho nổi; rồi vãn một năm không bù lại công khó.
Chỉ có người bị lưu đày cô quạnh, góc bể chân trời không chỗ trốn, mới hăm hở đến dọn gạch, dọn ngói. Năm hạn, đất không dẻo. Giữa  đám gai lởm chởm, chừng như muốn bứt từng sợi lông. Rồi bùi ngùi buông cày đứng than thở, biết bao giờ cho đụn lúa đầy cao?
(II)
Ruộng hoang dù cỏ dại mọc đầy, nhưng cũng cất được căn nhà thấp. Chỗ trũng thấp thì trồng lúa canh, lúa thuật; đất bằng ở mé đông trồng rau thì là, trồng táo, trồng dẻ.
Đất Giang nam bấy giờ có kẻ quê ở đất Thục (tức là ông) đã yên phận trồng dâu trồng trái. Tre tốt trồng không khó, nhưng sợ người ta chặt làm roi (Gieo cái tài sản của mình cho tốt, tâm mình cho thẳng như tre, tránh sao khỏi đời nó bẻ làm roi)
Nay đã chọn được chỗ ở tốt, việc nhà đã thu xếp ngăn nắp rồi. Sắp trẻ đốt cỏ khô, chạy tới báo tin có mạch nước ngầm. Nhưng một bữa no, không mong gì hơn nữa; uống nước trong cũng đã đủ lắm.
(III)
Chỗ này trước kia có con suối nhỏ, từ sau dãy núi xa xôi chảy đến, len lỏi qua thị thành, qua các làng mạc, cuốn đi những thứ hại, làm tươi tốt lau sậy. Rồi chảy qua bờ ruộng nhà họ Kha, cả mười mẫu đầy những tôm và cá. Đến năm nay, trời hạn, suối cũng cạn; bèo khô dính bám vào những mảng đất lở.
Đêm hôm qua, mây kéo trên núi nam, mưa dâng chừng ngập lưỡi cày, mênh mông chảy theo con lạch cũ; mới biết ta đã dọn sạch hết cỏ dại. Rau cần, mọc chen dưới bùn, còn lại chút rễ, vắn chừng một tấc. Chồi trắng như tuyết bao giờ động, để đến mùa xuân, bắt chim cưu mà ăn thịt thái (Ông tự chú: Người đất Thục quí chồi non rau cần, xắt nó trộn với thịt thái chim cưu mà ăn)
(IV)
Trồng lúa trước thanh minh, có thể tính được nỗi vui sướng của mình. Trời mưa bay như lông bay, phủ mờ ao hồ mùa xuân; nghe những tiếng hớn hở nói lúa đã chích nước (ông tự chú: Người Thục gọi mưa bay là mưa lông. Lúa khi vừa trổ, nông phu bảo nhau là lúa sẽ chích nước.)
Rải mạ đợi mùa hè, mừng dấn thấy gió đã lay  ngọn. Trăng sáng rọi trên sương, như từng hạt ngọc kết vạt áo rũ. Mùa thu, sương nặng trên bông lúa; cọng lúa nghiêng ngửa giữ nhau đứng vững. Nghe trên các bờ ruộng, cào cào kêu như mưa như gió (Ông tự chú: tại đất Thục, vào mùa lúa chín, cào cào bay từng đàn giữa ruộng; dáng như sâu lúa, nhưng không làm hại lúa.)
Xuân mới, chợt đi vào trong chậu; hạt ngọc lấp lánh trong thúng mủng. Từ lâu, ta ăn gạo thóc quan, trái hồng thúi coi như đất bùn. Đâu biết được mùi vị  này, đã chịu vừa miệng vừa bụng ta lắm rồi.
(V)
Nhà nông giỏi thì biết tiếc sức của đất. Đất này nhớ mười năm bỏ hoang, dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn, có thể mong được một mùa lúa mạch. Gieo giống chưa đầy tháng, đã thấy xanh mượt trên các gò đất. Nông phu bảo ta rằng, đừng để lá mạ lên hết mức; nếu anh muốn giàu bánh trái, nên thả trâu dê ra. Lại bái tạ lời thiết tha đó. Được no cơm, sẽ không dám quên.
(VI)
Trồng cây táo chờ đến mùa bóc vỏ; trồng cây thông cũng chờ đến mùa đốn được. Đó là việc mười năm sau; nhưng việc tính toán của mình coi như đã tốt đẹp. Mười năm có là bao? Một nghìn năm thì cũng như gió rào, mưa đá. Xưa kia, có nghe chuyện người tớ của Lý Hành. Cái cách đó có lẽ học được.
Tôi có người bà con, làm quan ở Tiềm Nhạc, tặng cho cây cam chừng ba tấc; rọi chỗ ngồi sáng chói. Trồng nó hàng trăm lần mới được. Gặp lúc mùa xuân, tuyết bám đầy, tưởng chừng như nơi hàng dậu, màu xanh màu vàng rũ bên góc nhà.
(VII)
Bác Phan từ lâu không đến rủ đi mua rượu xóm Giang nam. Bác Quách đang sửa soạn gieo giống, bán thuốc ở chợ Tây. Bác Cổ lại khá bày vẽ, chắc là bắt con cháu nhín răng. Nhà có mười  mẫu tre, không hề có người đến đập cửa. Ta còn ở bước đường cùng, bạn ngày xưa không còn ai. Chỉ còn thấy có ba bác đó, theo ta ở Đông pha, cùng làm lụng mệt nhọc rồi cùng chung bữa. Khá thương Đỗ Thập Di (Đỗ Phủ). Việc gì mà bàn với Chu Nguyễn? Thầy ta là Bốc Tử hạ, bốn biển đều là anh em.
(VIII)
Bác Mã vốn một gã nghèo cùng, theo ta hai mươi năm; ngày đêm coi trọng ta, xin góp tiền mua núi! Ta nay làm lụy đến bác. Nhờ bác cho cày ruộng đó. Nhưng nhổ lông trên lưng con rùa, bao giò dệt thành chiếc mũ dạ cho nổI? Đáng thương bác mã dại dột, đến nay cứ tâng bốc ta là hay. Người ta cười cho mà không hối, cứ như cho một lấy lại nghìn!
7.
Mùa đông chí, cháu ông, An Tiết đến thăm. Ông ra Hoàng châu đến bây giờ đã gần hai năm. Tình cố quận, tình tha hương, cả hai đền mặn mà. Tuổi ông lúc đó gần tròn 46, mà đầu đã bạc. Mùa thu, tóc trắng, đâu đâu cũng đồng vọng âm hưởng tịch liêu. Một già một trẻ, nơi đồi núi xa xăm, sự đời như sóng nước Trường Giang; tháng 9 đã bắt đầu mùa nước lũ; cuối đông, sương mù kéo dày trùng điệp. Cái nồng nàn, thắm thiết của hồn thơ, biết đâu là cùng tận? Con chuột đói lần ra trong những đêm vắng. Tạo vật vốn dĩ vô tình, nhưng tuế nguyệt la đà, mây trời chìm nổi; thì trên những triền núi cheo leo, có khi cũng có thể nghe được tiếng đồng vọng mơ hồ của đêm dài heo hút. Đồng vọng đó cũng có thể thấy ở chỗ “năm tháng cheo leo”, hay năm tháng trơ vơ. Nắng buổi chiều trợt dốc dài trên sườn núi, ruỗi dài giữa cô quạnh mông lung. Cái đó như là tâm sự được ký thác bên kia bờ viễn mộng; tâm sự riêng biệt của năm tháng, hay của cánh chim hồng, bay ngang qua dòng thác thời gian đổ xuống ào ạt?
I
Nam lai bất giác tuế tranh vanh
Tọa bát hàn hôi thính vũ thanh
Già nhãn văn thơ nguyên bất độc
Bạn nhân đặng hỏa diệc đa tình
Ta dư lạo đạo vô qui nhật
Linh nhữ ta đà dĩ bán sanh
Miễn sử Hàn công bi thế sự
bạch đầu hoàn đối đoản đăng khanh [1]
II
Tâm suy diện cải sấu tranh vanh
Tương kiến duy ưng thức cựu thanh
Vĩnh dạ tư gia tại hà xư
Tàn niên tri nhữ viễn lai tình
Úy nhân mặc tọa thành si độn
Vấn cựu kinh hô bán tử sanh
Mộng đoạn tửu thinh thu vũ tuyệt
Tiếu khan cơ thử thượng đăng khanh
南来不觉岁峥嵘
拨寒灰听雨聲
遮眼文书元不讀
伴人燈火亦多情
嗟余潦倒無歸日
今汝跎已半生。
免使韩公悲世事
白頭遑對短燈檠

心衰面改瘦峥嵘
相見惟應識舊聲
永夜思家在何處
残年知汝遠来情。
畏人默坐成痴
問舊驚呼半死生
梦断酒醒山雨
笑看饑鼠上橙檠。
(I)
Từ sang nam, bỗng chốc năm đã chầy heo hút,
Giữa đêm dài ngồi khơi tro lạnh nghe mưa rơi
Tay che mắt, thơ văn nguyên chẳng đọc,
Bên bóng đèn ánh lửa ấm tình người
Ta lận đận mấy năm trường lưu lạc,
Cháu bon chen bươn bả nửa đời rồi.
Thế sự đó ông Hàn xưa khỏi khóc,
Đèn vắn chân tóc trắng vẫn chưa thay.
(II)
Tâm suy mặt đổi gầy hốc hác,
Gặp nhau qua giọng cũ mà thôi
Quê hương xa đồng vọng đêm dài
Cháu lặn lội sưởi tình năm tháng lại
Ngồi lặng tiếng bởi sợ người nên ngây dại,
Bạn bè xưa sống chết nghĩ mà kinh
Rượu tỉnh mơ tàn mưa đã dứt
Cười xem chuột đói leo chân đèn
8
I
Cơ nhân hốt mộng phạn tắng dật
Mộng trung nhất bão bách ưu thất
Chỉ tri mộng phạn bản lai không
Vị ngộ chân cơ thị hà vật
Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn
Nhĩ lai nghiển khô ma bất xuất
Khứ niên thái tuế không tại dậu
Bàng xá hồ tương bất dụng khất
Kim niên hạn tuế phục như thử
Tuế vãn hà dĩ kiềm ngô đột
Thanh thiên đãng đãng hô bất văn
Huống dục khê thủ hào nê Phật
Úng trung tích dịch vưu khả tiếu
Kỳ kỳ mạch mạch hà đẳng trật
Âm dương hữu thì vũ hữu số
Dân thị thiên dân thiên tự tuất
Ngã tuy cùng khổ bất như nhân
Yếu diệc tự thị dân chi nhất
Hình dung tuy thị táng gia cẩu
Vị khẳng nhị nhĩ tranh đầu cốt
Đảo quán lạc trách tạ bằng hữu
Độc dữ văn lôi cọng khuê tất.
Cố nhân sân ngã bất khai môn
Quân thị ngã môn thùy khẳng khuất
Khả liên minh nguyệt như bát thủy
Dạ bán thanh quang phiên ngã thất
Phong tùng nam lai phi vũ hầu
Thả vị bì nhân tẩy chưng uất
Khiên thường nhất họa khoái tai dao
Vị hạ cơ hàn niệm minh nhật
         
       
       
       
       
       
       
   漿    
       
       
       
       
       
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       

II
Khứ niên đông pha thập ngỏa lịch
Tự chủng hoàng tang tam bách xích
Kim niên ngải thảo cái tuyết đường
Nhật chích phong xuy diện như mặc
Bình sinh lại đọa kim thủy hối
Lão đại cần nông thiên sở trực
Phái nhiên lệ tứ tam xích vũ
Tạo hóa vô tâm hoảng nan trắc
Tứ phương thượng hạ đồng nhất vân
Cam chú bất vi long sở cách
Bồng cao hạ thấp nghinh hiểu lỗi
Đăng hỏa tân lương thôi dạ chức
Lão phu tác bãi đắc cam tẩm
Ngọa thính tường đông nhân hưởng kịch
Bôn lưu vị dĩ khanh cốc bình
Chiết vi khô hà tứ phiêu nịch
Hủ nho thô lệ chi bách niên
Lực canh bất thọ chúng mục liên
Pha pha lậu thủy bất nại hạn
Nhân lực vị chí cầu thiên toàn
Hội đương tác đường kính thiên bộ
Hoành đoạn tây bắc già sơn tuyền
Tứ lân tương suất trợ cử xử
Nhân nhân tri ngã nang vô tiền
Minh niên cọng khan quyết cừ vũ
Cơ bão tại ngã ninh quan thiên
Thùy năng bạn ngã điền gian ẩm
Túy đảo duy hưu chi đầu chuyên
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
  西     
         
       
         
       
         
       

III
Thiên công hiệu lệnh tái bất xuất
Thập nhật sầu lâm tính vi nhất
Quân gia hữu điền thủy mạo điện
NBgã gia vô điền ưu nhập thất
Bất như Tây châu Dương đạo sĩ
Vạn lý tùy thân duy lưỡng tất
Duyên lưu bất ố tố diệc giai
Nhất diệp biển chu nhiệm phong đột
Sơn khung mạch khúc đô bất dụng
Nê hành lộ túc chung vô tật
Dạ lai cơ trường như chuyển lôi
Lữ sầu phi tửu bất khả khai
Dương sinh tự ngôn thức âm luật
Động tiêu nhập thủ thanh thả ai
Bất tu cánh đãi thu tỉnh sáp
Kiến nhân bạch cốt phương hàm bôi

天公号令再不出,
十日愁霖併為一。
君家有田水冒田,
我家無田憂入室。
不如西州杨道士,
萬里随身惟两膝。
沿流不恶惡斥亦佳,
一葉扁舟任風突。
山芎麦麴都不用,
泥行露宿终無疾。
夜來飢腸如轉雷,
旅愁非酒不可開。
杨生自言識音律,
洞蕭入手清且哀。
须更待秋井塌,
见人白骨方衔杯。
Ba bài họa thơ của Không Nghị Phủ. Thơ họa vần, nhưng cốt cách không phải là họa. Không chỉ tài tình, mà còn tài hoa nữa. Giọng khinh bạc, thì cao vòi vọi. Giọng cay đắng, thì cay cùng cực. Giọng nồng nàn, giọng giận dữ. Trong một cảm tình, Đó há không là những phương trời viễn mộng, trong cùng một lúc, bỗng đột ngột hiện về? Ban đầu ông nói sử tình nắng hạn và cảnh khó của ông. Rồi bất chợt lời thơ như phẫn nộ, có thể thấy những chỗ ông gằn giọng, Cuối cùng là giọng thơ trở nên điềm đạm, và đến lúc chấm dựt thì ngậm ngùi: rượu nồng cho tình người nồng nàn trong một cõi nhân sinh, và xương trắng lạnh lùng với đất cho lịch sử trở thành những lời vĩnh tịch.
Nắng hạn cùng cực, mưa gió cùng cực; mọi cái hiện ra trong sự cùng cực sôi động. Lời thơ có phẫn nộ, có phóng dật, mang tất cả phong vận tài hoa sôi động, nhưng phảng phất một cõi trầm lặng tịch liêu; một viên đá nhỏ nằm giữa ngã ba đường, trong cảnh tượng náo nhiệt. Hồn thơ tỏa ra từ đó, bao trùm cả một cõi thơ bát ngát. Đá cuội say sưa nghiêng ngửa, và xương trắng lạnh lùng không nói: đâu là trời thơ? Đó là dấu lặng trong một bản đại hòa tấu. Không nên nghe một cách khinh suất.
Dịch nghĩa
(Các bài này vạn nhất đừng cố dịch theo vần điệu. Người đọc dù không biết một tí chữ Hán. Trời thơ sẽ đến bất ngờ. Mai sau xương trắng cửa mình nín lặng dưới lòng đất, nhưng đá cuội bên đường sẽ nghe ra hế, và gật đầu trong sự tình giao ứng.)
I
Người đói bỗng nằm mộng thấy bát cơm đầy;
Một bữa no trong cơn mộng mà một trăm nỗi ưu phiền tiêu tất cả
Chỉ biết rằng cái no trong mộng bản lai là không.
Chứ chưa tỏ ngộ được cái đói thực sự là cái gì.
Tôi sinh ra không có ruộng, kiếm ăn bằng nghiên mực mẻ;
Từ lâu nghiên mực đã khô, mài không ra
Năm ngoái sao Thái tuế nằm trơ tại dậu,
Nhà bên cạnh, một lọ tương cũng không chịu xin.
Mà năm nay, cái thế hạn lại như vậy.
Cuối năm, lấy gì nấu cho đen ống khói nhà tôi?
Trời xanh vòi vọi, kêu không thấu.
Còn lại muốn cúi đầu réo Phật đất nữa ư?
Con thằn lằn trong vò lại đáng nực cười
Bò tới bò lui lịch kịch, chẳng ra đầu đuôi gì cả.
Âm dương có thời, mưa gió có số
Dân là dân của trời, trời phải thương;
Tôi tuy cùng khổ, chẳng hơn được ai,
Nhưng cũng là một người trong đám dân đó.
Hình dung tuy như con chó nhà ma,
Nhưng chưa chịu vểnh tai dành cái mẩu xương vứt ra đó.
Bứt giải, lột mũ, tạ bạn bè,
Một mình cùng với lũ ruồi, chúng kêu vo vo như sấm, bu lại trên đám hành.
Bạn bè giận tôi không mở cửa
Nhưng ngài thử coi, ai khứng nghiêng mình trước cửa nhà tôi?
Chỉ thương tình trăng ngây thơ tuôn ánh sáng như nước xối,
Nửa đêm đổ ánh sáng mát lọt vào nhà ta,
Gió từ nam thổi tới, chưa phải là lúc có mưa
Nhưng cũng vì cái người mệt mỏi mà rửa sách những nực nội ấm ức trong lòng
Vén tay áo đáp lại bằng một bài dao: rằng sướng thay!
Nhưng chưa một thoáng, lại nghĩ tới chuyện đói no ngày mai.
II
Năm ngoái, dọn gạch ngói tại đông pha,
Tự trồng dâu trong ba trăm thước đất.
Năm này cắt cỏ lợp nhà tuyết
Nắng rám, gió thổi, mặt đen như mực.
Bình sinh biếng nhác, nay mới hối.
Già nua mà chăm chỉ làm ruộng, nên trời thương,
Chiếu lệ đổ mưa rầm rầm, cao ba thước.
Tạo hóa vô tâm, mù mờ khó lường nổi.
Mây cả một vùng, khắp bốn phía, từ trên đến dưới;
Đổ mưa dầm không ngớt, không cho rồng nghỉ ngơi.
Sớm mai, lau sậy dưới đất trùng đã đón lưỡi cày.
Đèn lửa sáng tươi trở lại, thúc giục người ta dệt vải ban đêm.
Lão phu làm ruộng xong được một giấc ngon;
Nằm nghe bên tường đông có người khua tiếng guốc.
Nước chảy chưa bao lâu, hầm hố đầy cả.
Lau gãy, sen héo, mặc tình chìm nổi.
Hủ nho giã gạo thô tưởng chừng một trăm năm chưa chắc xong;
Ra sức cày, mà cày không nổi, con mắt mọi người trông thấy mà thương.
Bờ ruộng vỡ, nước chảy tràn vào, bất kể trời hạn.
Sức người chưa ra hết sực, lại phải cầu trời làm trọn cho, mới mong!
Lại phải đào ao, dài một nghìn bộ,
Nằm ngang cắt đôi tây bắc, cản suối trên đổ xuống.
Hàng xóm kéo nhau đến giúp tay, nhắc hộ cái chày!
Ai ai cũng biết túi tôi không mống tiền.
Sang năm rồi coi, mưa sẽ làm vỡ con kênh đó!
Đói no tại ta, mắc chi đến trời?
Ai có thể ngồi uống rượu với ta giữa ruộng?
Đó là viên sỏi đầu ngã ba, nó đã say nghiêng ngửa.
IV
Ông trời không ban hiệu lệnh mưa nữa.
Mưa một lần suốt luôn mười hôm, dầm dề ủ dột.
Nhà bác có ruộng, nước tuôn ngập ruộng
Nhà tôi không ruộng lại lo nước tràn lên thềm.
Chẳng bằng như Tây Châu Dương đạo sĩ,
Đi hàng vạn dăm, chỉ theo mình hai cái đầu gối.
Xuôi dòng không ghét, ngược dòng cũng tốt
Một mảng thuyền, mặc tình trôi.
Cỏ thuốc rừng, rượu bếp tẻ, đều không cần.
Lội bùn, ngủ sương, không vội vã;
Nhưng đêm đến, bụng đói, kêu như sấm
Thì cái sầu cô lữ, không rượu, làm sao nguôi?
Lão Dương tự cho giỏi âm luật,
Đưa sáo vào tay, tiếng nghe trong mà buồn.
Khỏi đợi giếng mùa thu vỡ nước
Thấy người xương trắng mới ngậm chén.
Ghi chú:
[1] Đoản đăng khanh, chân đèn vắng, trong m ột b ài th ơ c ủa H àn Dũ . Đại khái: chân đèn dài, tám thước, chỉ để mà dài; chân đèn vắn, hai thước, vừa tiện lại vừa sáng, Anh học trò lúc 20 tuổi, giã nhà đi lập danh phận. Đêm đêm chong đèn ngồi đọc sách trước cây đèn chân vắn. Rồi sau giàu sang, chong đèn chân dài cho đẹp nhà đẹp cửa. Cây đèn chân vắn bị bỏ rơi, nằm buồn câm nín tại một góc tường
Bóng đèn khuya, con chuột đói, và  nỗi buồn lữ thứ.
IV. TRỜI TRĂNG SAO IN MỘNG TRIỆU SÔNG HỒ (1086-1093)
LỜI DẪN
Trăng thanh cấm trên kia vùng sa mạc
Trời Vũ lâm in mộng triệu sông hồ 
Đó là bầu trời đồng vọng, trong tương ứng. Thơ chen chúc giữa những gió và nhưng bụi của kinh thành, của ngọc đường kim mã, nên cái đồng vọng nghe ra những tiếng nghẹn ngào. Thăng hay trầm trong cuộc sống, cái đó không làm ra Thơ, không tạo dựng nổi cõi thơ. Không phải đi từ cực đỉnh công hầu xuống đến tận chỗ đọa đày cùng quẫn áo cơm mà trời Thơ có thể mở rộng. Thơ là cánh nạn lạc bầy đi tìm kiếm quê hương khắp suốt sơn cùng thủy tận, mà quê hương vẫn đồng vọng trong cách điệu không lời, không chốn. Thì người lịch nghiệm tồn sinh trên đôi cánh mỏng của Thơ, đến đâu chẳng là đất Trích. Gió bấc lạnh kinh hồn thổi vèo sương tuyết lên cùng sa mạc của đất Trích, cho nên trời trăng sao kia vẫn in mộng triệu sông hồ. Nhưng, trăng sao trên đó, và sông hồ dưới này, hai cõi miền xa xôi hoằng viễn. Mộng triệu đó mới thành ra là Viễn mộng. Bầu trời đó mới trở nên Trời Viễn mộng đọa đày cuộc Lữ. Rồi kỳ cùng của cuộc Lữ sẽ là đâu?
I
(I)
Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi
Xuân giang thủy noãn áp tiên tri
Lâu cao mãn địa lô nha đoản
Chính thị hà đồn dục thượng thì
竹外桃花三两枝,
春江水暖鸭先
萎蒿满地芦芽
正是河豚欲上
(II)
Lưỡng lưỡng qui hồng dục phá quần
Y y hoàn tợ bắc qui nhân
Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết
Cánh đãi Giang nam bán nguyệt xuân 

兩兩歸鴻欲破群,
依依還似北歸人。
遙知朔漠多風雪,
更待江南半月春
Mùa xuân, ở Huệ sùng, buổi chiều trên sông. Bấy giờ là vào năm bính dần (1086), ông đã trở về kinh, sau năm năm bị biếm trích. Tâm sự vẫn như cánh nhạn lạc bầy, giữa đất kinh kỳ của sa mạc bắc phương, đầy sương tuyết.
I
Ngoài khóm trúc đào hoa mấy nhánh
Nước mùa xuân nắng ấm vịt hay rồi
Lau lách um tùm, chồi vi lô vừa lú
Cá lòng sông lên đớp bóng ăn mồi
II
Đường lên bắc mấy cánh hồng lẻ bọn
Bay dật dờ như người trở gót lưu li
Trời sa mạc tưởng chừng sương tuyết nặng
Đợi con trăng nửa mảnh ở nam về.
2.
Bấy giờ là năm bính dần (1086), năm đầu của triều vua Triết tông, nguyên hựu thứ nhất. Ông 51 tuổi, được vận thất phẩm phục, vào hầu triều, giữ chắc Trung thư xá nhân, rồi được dời sang Hàn lâm viện phụ trách soạn Chế Cáo cho vua
Ngày 29 tháng 11 năm đó, bàn chuyện cũ với Đặng Thánh Cầu. Cầu là Hàn lâm viện thừa chỉ, trước kia làm Vũ xương lệnh, thường chơi Hà khê, Tây sơn. Lúc Đông Pha bị biếm trích ở Hoàng châu, đối ngạn với Vũ Xương, cũng từng chơi mấy chỗ đó. Thánh Cầu có làm bài mình khắc tại vách đá ở Vũ Xương; nhân đó, Ông làm bài thơ để cho  người khắc cạnh bài minh của Cầu. Ông nói những ngày tháng ngao du ở Vũ Xương, trng thời kỳ bị biếm trích. Đây là những câu cuối của bài thơ đó:
Sơn nhân trướng không viên hạc oán
Giang hồ thủy sinh hồng nhạn lai
Thỉnh công tác thi ký phụ lão
Vãng hoà vạn hác tùng phong ai 
Người thợ săn bủa lưới giăng trời làm cho vượn, hạc sinh oán. Sông hồ đầy nước, cánh hồng cánh nhạn bay đến. Bài thơ làm khắc bên vách đá để ngày tháng cùng kêu với gió thông và các hốc núi.
Làm xong bài thơ đo, mà tình tự còn dài, cảm hứng tưởng còn đồng vọng xa xôi. Ông làm thêm một bài nữa, lấy vận của bài trước. Đó là bài được trích ở đây. 
Chu nhan phát quá như xuân phôi
Hung trung lê táo sơ vị tài
Đan sa vị dị tảo bạch phát
Xích tùng khước dục tham Hoàng mai
Hàn khê bản tự Viễn công xã
bạch liên thúy trúc y thôi ngôi
Đương thời thạch tuyền chiếu kim tượng
Thần quang dạ phát như Ngũ đài
Ẩm tuyền giám diện chân đắc ý
Tọa khan vạn vật giai phù ai
Dục thâu mộ cảnh phản điền lý
Viễn tố giang thủy cùng ly đôi
Hoàn triều khởi độc tu lão bịnh
Tự thán tài tận khuynh không lôi
Chư công cừ cừ nhược hạ ốc
Thôn thổ phong nguyệt thanh ngung ôi
Ngã như phế tỉnh cửu bất thực
Cổ trứu khuyết lạc sinh âm đài
Số thi vãng phục tương cảm phát
Cấp tân trừ cựu hàn quang khai
Diêu tri nhị nguyệt xuân giang khoát
Vân lãng đảo quyển vân phong tồi
Thạch trung vô thanh thủy diệc tĩnh
Vân hà giải chuyển không sơn lôi
Dục tựu chư công bình thử ngữ
Yếu thức ưu hỉ hà tùng lai
Nguyện cầu Nam tông nhất điếu thủy
Vãng dữ Khuất Giả tiên dư ai
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
       
         
        
Xích Tùng Tử là lão tiên ông đã dạy đạo cho Trương Lương, cái đạo công thành thân thoái của Lão Tử. Hoàng Mai là Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trao diệu lý Thiền tông cho Huệ Năng. Tuệ Viễn, từ đời Tấn, đã ẩn mình thế ngoại trên Lô Sơn, trọn đời không bước qua khỏi Hổ khê; cùng với 18 người bạn, Đông lâm thập bát hiền, lập Bạch Liên xã tu Phật ở đó. Ngũ đài sơn là ngọn núi mà Bồ tát Văn Thù thường lai vãng, có khi hiện thân làm mục đồng hát nghêu ngao. Đó cũng là nhưng phương trời viễn mộng vang dội mãi trong thơ của ông.
Nét thanh xuân nở rộ như rượu nồng trinh nguyên chưa lọc,
Mà rừng táo ẩn dật đã chưa gieo trồng trong bụng
Đan sa cũng chưa dễ gì quét sạch tóc bạc.
Kiếm xích tùng rồi lại muốn hỏi đạo với Hoàng Mai
Dòng suối lạnh vẫn chỉ riêng nơi bạn bè của Tuệ Viễn
Sen trắng, tre xanh, vẫn còn cao xa diệu vợi.
Lúc bấy giờ suối đá chiếu tượng vàng,
Ban đêm thần quang rực rỡ trên Ngũ đài
Uống nước suối, soi mặt, mà thấy được chân ý,
Ngồi coi vạn vật đều như bụi mờ
Những dọn cảnh trời chiều trở về ruộng rẫy
Rong xa cùng sông nước, đi suốt cùng rặng núi Ly đôi (ở bên dòng Trường giang tại tỉnh Tứ xuyên)
Nay trở về triều, đâu chỉ thẹn vì tuổi già và yếu kém,
Mà sầu khô vì tài đã hết, đã dốc cạn chén không;
Các bạn phơi phới như căn nhà rộng
Còn tôi như giếng bỏ lâu không dùng
Thành giếng gãy đổ, rêu mờ phủ kín.
Vài câu thơ qua lại gợi nhớ mà thôi.
Uống cái mới, trừ cái cũ, ánh sáng lạnh lẽo mở ra vắng vẻ.
Trời tháng hai, ngoài kia con nước mùa xuân lai láng,
Sóng cuồn cuộn đổ rầm như gió tuôn ào ạt
Đá im hơi dòng nước lặng như tờ,
Làm sao nghe được tiếng sấm dậy trên rừng hoang?
Muốn gặp các bác bình việc đó,
Để biết cái vui buồn từ đâu mà lại,
Chỉ mong một giọt nước đạo Thiền đốn ngộ,
Cùng Khuất Nguyên, Giả Nghị, rửa sạch mọi u sầu.
Ông tự chú: Thơ Vị Ứng Vật:
Thủy tánh bản vân tĩnh
Thạch trung cố vô thinh
Như hà lưỡng tương kích
Lôi chuyển không sơn kinh.
Tánh nước nói là tĩnh
Trong đá vốn không tiếng
Sao khi chúng chạm nhau
Sấm dậy vang núi vắng? 
3
Vân hải tương vọng ký thử thân
Na nhân viễn thích cánh thiêm cân
Bất từ dịch kỵ lăng phong tuyết
Yếu sử thiên kiêu thức phụng lân
Sa mạc hồi khan Thanh cấm nguyệt
Hồ sơn ứng mộng Vũ lâm xuân
Thiên vu nhược vấn quân gia thế
Mạc đạo trung triều đệ nhất nhân.
云海相望寄此身,
那因远适更沾巾。
不辞驿骑凌风雪
要使天骄识凤麟。
沙漠回看清禁月,
湖山应梦武林春。
单于若问君家世
莫道中朝第一人
Từ Tống Triết tông, nguyên hựu thứ 4, năm kỷ ty. (1089), ông xin ra ngoại nhiệm; cốt ý tránh tai vạ. Bấy giờ ông lĩnh chức Long đồ các học sĩ ra coi Hàng châu. Vì ông trực  ngôn, gây nhiều oán hận nơi các quan lại đương triều, càng ngày càng nhiều.
Kể từ lúc ông trở về triều, năm nguyên hựu thứ nhất, cho đến năm đó, trải qua bốn năm; ông giữ chức Trung thư xá nhân, rồi Hàn lâm viện học sĩ, Hàn lâm viện thị độc. Trong những  năm này, thơ ông phần lớn là những bài thù tạc, đối ứng. Chúng chen chúc với khói bụi kinh thành. Cho nên khi trở lại Hoàng châu, ông dâng biểu về triều, có nói: “Giang sơn cố quốc, đến cũng như đi; phụ lão, di dân, cùng với thần chăm hỏi nhau…”. Đấy là lúc sau 15 năm trở lại Hàng châu. Rối lúc viếng lại Tây hồ, ông tưởng chừng như gặp lại cái gì đó thao thiết nhất của mình trong quá khứ:
Hoàn tùng cựu xã đắc tâm ấn
Tợ tỉnh tiền sinh mịch thủ thơ.
Khi ông lãnh chức Long đồ các học sĩ ra coi Hàng châu, Tử Do thay ông giữ chức Hàn lâm viện Thị độc tại triều. Năm đó, kỷ tỵ (1089). Tử Do đi sứ Khiết đan. Năm trước, ông được cử đi, nhưng xin từ.
Bấy giờ ông đang ở tại Hàng châu, nên thơ nói: “Vũ lâm…”, đó là ngọn núi ở Hàng châu. Và Tử Do cũng đang làm Hàn lâm viện thị độc tại triều, nên thơ nói: “… Thanh cấm…” Thanh cấm, tức câm cung ở nội triều, nơi làm việc của các quan Hàn. Thoạt tiên, thơ go85i hứng tự tình giữa ông và Tử Do, nên lời htơ bộc trực và đậm đà. Nhưng rồi trời thơ đó bỗng mở ra cánh cửa hoằng viễn. Trăng trên miền sa mạc bắc phương cùng hiện về trong cõi mộng trên các sông hồ của nam hoa. Đó là cách điệu thanh thiết, và tráng lệ của thơ. Hai câu 5 và 6 thật tuyệt diệu. 
Người từ biển đông trông sang;
Người từ mây bắc ngó lại.
Đường xa xôi và tình đẫm mấy lần khăn.
Vượt gió tuyết qua mấy trùng quán trọ,
Cho giặc trời trông rõ mặt phượng lân.
Trăng Thanh cấm trên kia vùng sa mạc,
Trời Vũ lâm in mộng triệu sông hồ.
Thiền vu nếu hỏi gia thế chú,
Đừng nói trong triều Đệ nhất nhân
LỊCH NGHIỆM KỲ CÙNG CUỘC LỮ
(…)
Đài Thành một thuở Thi Thơ
Xe Vàng còn mộng quanh tà áo Thu
Tóc Mai về, sương Ngô điểm mái
Thân tàn như cỏ dại bờ đê
Đăm đăm từ giã Kinh Kỳ
Lao đao thần tử miền quê lạc loài
(thơ của Lý Hạ) 
1.
Tống Huy Tông, Thiệu thánh nguyên niên, giáp tuất (1094), Ông 59 tuổi, bị đày xuống Huệ Châu
Năm trước, Ông đang giữ chức Đoan minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm viện thị độc. Huy Tông vừa lên ngôi mà mầm họa lớn đã chớm nở tại triều đình. Lại thêm một lần muốn tránh tai vạ không lường, Ông xin ra làm thái thú Định Châu. Nhưng đến năm sau, bị giáng chức, phải đổi đi Anh châu; đi chưa đến nơi, bị cách chức tuốt luốt, đày xuống Huệ châu.
Bước ra đi, với người tiễn khách, thơ ông gửi Sâm Liêu Tử:
Mạc Ngôn Tây Thục vạn lý
Thả đáo Nam hoa nhất du
Phù bịnh giang biên tống khách
Trượng noa phố khẩu hồi đầu
Đường Tây Thục đã là hiểm trở
Miền Nam hoa một chuyến càng ghê
Người gượng bịnh bên dòng tiễn khách
Gậy cầm tay phố khẩu ngóng về. 
Ai đã từng đọc bài thơ “Đường vào đất Thục” của Lý Bạch, phải biết cái hiểm trở kinh người nó mang những sắc diện hãi hùng như thế nào. Thì đường đi Nam hoa của ông, thử một lần mới biết; với đường vào đất thục, mối kinh tâm động phách cũng ra ngoài tưởng tượng. Cuộc tiễn chân, ẩn chứa bi hùng trong nỗi trầm tư lữ thứ.
Tháng 6 năm đó, thuyền ông đỗ bến Kim lăng, gặp giông tố, lời thơ ông vọng về mấy người bạn xa xôi:
Kim nhật giang đầu thiên sắc ác
Pháo xa vân khởi phong dục tác
Độc vọng Chung sơn hoán Bảo công
Lam gian bạch tháp như cô hạc
Bảo công cốt lãnh hoán bất văn….
Sắc trời như sụp xuống đầu sông. Xe bay mây trổi gió đùng đùng. Chỉ còn nước vọng về Chung sơn mà réo gọi Bảo công. Giữa rừng, nơi tháp trắng lẻ loi như cánh hạc; Bảo công xương lạnh, réo không nghe.
Rồi ngang qua Lô sơn, trời mây bỗng cuộn cuộn, như long lở núi. Ông kêu gọi thần linh yểm trợ:
Ngũ lão sỗ tùng tuyết
Song khê lạc thiên đàm
Tuy vân mặc đảo ứng
Cố hữu di văn tàm
Ngọn Ngũ lão, đã có lần chào đón ông trong phong vận tài tử, và những con suối từ cao đổ xuống trước kia chúng kiêu hùng cho tài hoa thưởng ngoạn. Bây giờ, trông xa xa, Lô sơn bỗng là những biến tượng đọa đày. Chân diện mục đã một lần như vén mở, nhưng vén mở rồi khép lại từ nào, mà trong bước đường Lữ thứ bây giờ, trời Lô sơn trở thành khổ luỵ nhân sinh đổ ào ào xuống.
Lại cái màu xanh biếc kia nữa. Màu xanh biếc của ngọn Nga mi, màu xanh trong phương trời đồng vọng quê hương thuở xưa. Trong những ngày đó, ngọn Nga Mi xanh biếc giữa bầu trời là tình tự đầm ấm của quê hương. Nhưng bây giờ, màu đó chợt một lần thoáng qua giấc mộng cũng đủ gây ra vô số đoạn trường:
Thanh khê điện chuyển thất vân tung
Mộng lý do kinh thúy tảo không
Suối trong sấm sét dậy, sụp đỉnh mây ngàn. Trong giấc mộng, mà còn kinh màu biếc giữa trời.
Cho đến tháng tám, ngày mồng 7, ông vào Cống châu, ngang qua thác Hoàng khủng. Thì nơi đây, thơ đột ngột hiện lên những lời của viễn mộng:
Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân
Thập bát than đầu nhất diệp thân
Sơn ức Hỉ hoan lao viễn mộng
Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần
2.
Trên đường đi tới Huệ châu, ông gặp chùa Thiên trúc, ghé lại thăm, gặp bút tích của Lão Tô, ông làm thơ và tự viết lời dẫn:
“Tôi năm 12 tuổi, tiên quân từ Kiềng châu về nói với tôi rằng: Gần thành, trong  núi có chùa Thiên trúc, có bài thơ Bạch lạc Thiên tự tay viết:
Nhất sơn môn tác lưỡng sơn môn
Lưỡng tử nguyên tùng nhất tự phân
Đông giạn thủy lưu tây giạn thủy
Nam sơn vân khởi bắc sơn vân
Tiền đài hoa phát hậu đài kiến
thượng giới chung thanh hạ giới văn
Diêu tưởng ngô sư hành đạo xứ
Thiên hương quế tử lạc phân phân
“Bút thế kỳ dật, dấu vết như mới, nay đã 47 năm rồi.
“Tôi đến hỏi thăm, thì thơ đã mất, chỉ còn tấm đá khắc mà thôi. Ngậm ngùi nước mắt chảy, nên làm bài thơ đó”
Bài thơ ông như thế này:
Hương Sơn cư sĩ lưu di tích
Thiên trúc thiền tăng hữu cố gia
Không vịnh liên châu ngâm điệp bích
Dĩ vong phi điểu thất kinh xà
Lâm thâm dã quế hàn vô tử
Vũ ấp sơn khương bịnh hữu hoa
Tứ thập niên tiền chân nhất mộng
Thiên nhai lưu lạc thế hoành tà
香山居士留遺跡
天竺禪師有故家
空詠連珠吟疊璧,
已亡飛鳥失驚蛇。
林深野桂寒無子,
雨浥山薑病有花。
四十七年真一夢,
天涯流落淚橫斜

Hương sơn cư sĩ lưu di tích
Thiên trúc thiền sư có của nhà
Chuỗi hạt lần không, mòn vách đá
Chim ngàn biền biệt rắn chuồn xa
Mùa lạnh rừng sâu còn quế dại
Người đau mưa núi đượm gừng tra
Bốn bảy năm rồi như mộng ảo
Ven trời đổ lệ đọa đày xa 
Thơ như thế là đồng vọng của cõi đời trầm mặc. Nhưng tình thơ nồng đượm khôn cùng, cho nên những tiếng thì thầm của lịch sử tồn sinh ngân vang khúc đoạn trường khổ lụy. Rừng núi thâm u, tiếng lần chuỗi của thiền sư trong nỗi đời trầm lặng cô liêu mà cũng trở thành những tiếng vang dậy, thì cánh chim đang ngơ ngác cũng giật mình sửng sốt bay đi, và con rắn đang cuộn tròn trong hốc đá cũng hoảng sợ chuồn mất. Tiếng đó là tiếng gì mà nghe nó kì dị như thế, nếu không là âm hưởng trầm trọng của thảm họa hoành sinh tràn đầy trong cuộc Lữ, cuộc Lữ của tồn sinh mộng ảo?
3.
Từ Quảng Châu ra đi, còn cách Huệ Châu đất trích khoảng một trăm cây số nữa. Trên đường đi ngang qua La phù sơn. Trước thời nhà Đường, đất này trực thuộc Giao chỉ. Đời Đông Tấn, có Cát Hồng, tự xưng là Tiểu Cát Tiên ông, và tự hiệu là Bảo Phác Tử, nghe đồn Giao Chỉ có nhiều đan sa, nên dẫn gia đình đến đây để luyện đan. Ông ấy ngụ và chết luôn tại La Phù Sơn này, chưa nếm được tiên đan trường sanh bất tử. Theo lời chú của ông, thơ Lưu Mộng Đắc có kể, tại La phù, nửa đêm có thể thấy mặt trời, và ông cho là chuyện lạ. Núi có hai lầu đá, chùa Diên Tường ở lầu nam, động Chu Minh ở phía sau Xung hư quán, được coi là động trời thứ bảy của cõi Bồng lai. Sau quán Xung hư có đàn Triều đẩu, tức đàn ngắm sao, của Chu Minh chân nhân. Gần đàn, ông lượm được 6 con rồng bằng đồng và một con cá cũng bằng đồng. Trong núi có thiết kiều, tức cầu sắt, và thạch trụ; ông nói, ít ai đi tới những chỗ đó. Tuốt trong núi sâu, có khe suối, có con cọp câm đi tuần sơn thường lai vãng đó.
Tại đây, ông làm thơ:
Nhân gian hữu thử bạch ngọc kinh
La phù kiến nhật kê nhất minh
Nam lâu vị tất Tề nhật quán
Uất nghi tự dục triều Chu minh
Đông Pha chi sư Bảo Phác lão
Châu Khế tảo dĩ giao tiền sinh
Ngọc đường kim mã cửu lưu lạc
Thốn điền xích trạch kim qui canh
Đạo Hoa diệc thường đạm nhất tảo
Khế Hư chính dục cưu tam bành
Thiết Kiều thạch trụ liên không hoành
Trượng lê dục sấn phi nhu khinh
Vân khê dạ phùng ám hổ phục
Đẩu đàn trú xuất đồng long nanh
Tiểu nhi thiếu niên kỳ hữu chi
Trung tiêu khởi tọa tồn Huỳnh đình
Cận giả hí tác Lăng vân phú
Bút thế phảng phất Ly tao kinh
Phụ thơ tùng ngã cái qui khứ
Quần tiên chánh thảo tận cung minh
Nhữ ưng nô lệ Thái Thiếu Hà
Ngã diệc quí mạnh Sơn Huyền Khanh
Hoàn tu lược báo Lão Đồng Thúc
Doanh lương vạn lý tầm Sơ Bình
间有此白玉京
羅浮見日雞一
南楼未必齎日觀,
鬱儀自欲朝朱明。
東坡之師抱朴老,
真契蚤已交前生
玉堂金馬久流落,
寸田尺宅今歸耕。
道華亦嘗啖一棗,
契虚正欲仇三彭。 铁橋石柱連空横
杖藜欲趁飛猱輕。
雲溪夜逢暗虎伏,
斗壇晝出铜龍獰
小兒少年有奇志,
中宵起坐存黄庭。 近者戏作凌蕓賦
筆勢髣艴籬騷經。 負蓍從我盍歸去,
群仙正草新宫铭。 汝應奴隸蔡少霞,
我亦季孟山玄卿。 還須略報老同叔,
赢糧萬里尋初
Bài thơ kèm theo một số chú thích của chính ông. Ở đây, hãy ghi lại một ít chú thích đó:
Đạo Hoa: Đời Đường, đạo sĩ ở Vĩnh Lạc, tên Hầu Đạo Hoa, uống vụng thuốc tiên của Đặng Thiên Sư rồi trốn đi. Ở Vĩnh Lạc có thứ táo không hạc; chỉ một mình Đạo Hoa có chứ không ai có. Tôi (lời ông) ở Kỳ Hạ có lần ăn được một quả
Khế Hư: Tăng đời Đường. Khế Hư, gặp người dẫn chơi phủ tiên ở Trí Sơn; Chân nhân hỏi: “Ông tuyệt hết tam bành trong lòng chưa?”. Khế Hư không đáp được.
Tân cung minh: (lời chú này của riêng người soạn sách): Quần tiên mỗi khi dụng xong cung điện, cần phải có một bài minh, để ghi khắc. Chuyện nhà thơ Lý Hạ: Lý Hạ chết yểu (26 tuổi); nửa đêm về báo mộng cho mẹ, nói thượng giới vừa dựng xong một cung điện, thiếu người viết bài minh, nên Ngọc đế sai người xuống trần triệu Lý Hạ lên
Thái Thiếu Hà (lời chú của ông): Đời Đường, có người nằm mộng thấy viết bài thấy viết bài Tân cung minh, nói: Tử Dương Chân nhân Sơ Huyền Khanh, đại lược:
Lương thường Tây lộc
Nguyên trạch Đông tiết
Tân cung hoằng hoằng
Sùng hiên nghiệt nghiệt
Lại có Thái Thiếu Hà mộng người sai viết bia, đại lược: “Công tích thừa ngư xa, kim lý thụy vân, xúc không ngưỡng đồ, ỷ lạc luân khôn”. Dưới hết đề: ngũ vân thư các Thái Thiếu Hà thư.
Đồng Thúc: ông tự chú: Tử Do còn có tự là Đồng Thúc. 
Nhân gian sao có kinh bạch ngọc
Phù sơn canh ba thấy mặt trời
lầu nam chưa chắc quán Tề nhật (cao bằng mặt trời)
Khúm núm như muốn chầy Chu minh
Thầy Đông Pha là lão Bảo Phác
Chân Khế là bạn giao du đời trước
Nhà vàng của ngọc lưu lạc từ xưa
Tấc vườn Đạo Hoa đã từng thưởng thức
Tam bành Khế Hư ruột vẫn đeo mang
Cầu sắt trụ đá kéo bắc ngang không
Lê cao nghều nghệu muốn leo như khỉ
Đêm gặp cọp rình nơi suối Vân Khê
Ngày bắt nanh rồng trước đàn Triều đẩu
Trẻ con nhỏ tuổi có chi lạ
Nửa đêm dậy đọc kinh Huỳnh đình
Vừa rồi làm chơi bài Lăng vân phú
Bút thế từa tựa Ly tao kinh
Cắp sách theo ta về nhà gấp
Quần tiên đang thảo Tân cung minh
Mi làm đày tớ Thái Thiếu Hà
Ta cũng xấp xỉ Sơn Huyền Khanh
Lại đến tin sơ chú  Đồng Thúc
Chứa lương vạn dặm tìm Sơ Bình
4.
Ngày 2 tháng 10 năm đó, Giáp Tuất (1094) ông đến Huệ Châu. Cảnh vật trông quen thuộc như từng đã thấy một lần đâu đó, trong mộng. Đến đây thì Tô Vũ cũng sẽ nguyện suốt đời chăn dê, không mong trở về Bắc mạc nữa. Và Quảng Ninh cũng sẽ vĩnh viễn ẩn thân nơi cõi Liêu đông, không bao giờ trở vào lục địa chen chân với đời.
Phảng phất tằng du khởi mộng trung
Hân nhiên kê khuyển thức tân phong
Lại dân kinh quái tọa hà sự
Phụ lão tương huể nghinh thử ông
Tô Vũ khởi tri hoàn Mạc bắc
Quản Ninh tự dục lão Liêu đông
Lĩnh nam vân hộ giai xuân sắc
Hội hữu u nhân khách ngụ công
Phảng phất từng quen há mộng ư?
Chó gào ríu rít đến chào ta
Lại dân lạ hỏi chuyện gì thế?
Phụ lão dìu nhau đón lão già
Tô Vũ nào mong về Bắc mạc
Quản Ninh từ nguyện cõi Liêu xa
Lĩnh nam đây rượu vui ngày tháng
Đất trích nhà quan đợi tuổi già.
Cuộc Lữ từ đây cứ cho đi vào cõi mộng không lời. Khách Lữ thứ chọn đất trích làm quê hương. Những gì còn đồng vọng, là những tiếng đồng vọng ngoài kia, của mây phương trời viễn mộng.
5.
Bây giờ đã thấy lại cảnh trăng non, và cây ngô đồng thưa lá. Cõi thơ không nằm nguyên ở đó nữa. Chúng vẫn phơi trần ra đó, chịu đựng tuyết sương băng giá của ngày tháng phiêu du, nhưng âm vang của chúng đồng vọng ở ngoài kia, ngoài những ven trời vạn dặm; ngoài đó là những cánh chim hồng, lẻ loi, và bay bổng giữa mấy triệu phương trời lồng lộng. Từ cõi mộng đơn sơ, đến cái cõi của đọa đày viễn mộng, có hố thẳm tuyệt mù, chơi vơi không đáy. Bên này và bên kia, được nối liền bằng một chiếc cầu độc mộc cheo leo. Làm sao để đi qua, và đi lại, bằng hai chân nặng trĩu của hạng phàm phu tực tử? Một cuộc lữ hành như thế, phải trải qua biết bao là gian khổ, dù nơi đi và chỗ đến chỉ cách nhau trong một móng tâm. Đọa đày viễn mộng là ở chỗ đó ư? Nhưng so lại là đọa đày viễn mộng? Phải chăng tiếng đó chỉ mới vang dội, từ khi một lão đại thần, lôi thôi thê tử, khúm núm dắt nhau chịu đày ải đi về những vùng cùng cực của Nam hoa, hay đi vào tận chốn sơn cùng lộ tuyệt của một đời sống chết? Bơ vơ nơi khách địa, thì tình cố quận và tình tha hương, cả hai đều thắm thiết. Nhưng cố quận thì đâu không là cố quận, và tha hương thì nơi nào lại chẳng phải là tha hương. Đứng bên này mà vọng đến bên kia, con mắt cứ mỏi mòn trông đợi. Thế là lao tâm khổ tứ, là quằn quại hình hài. Nơi ngọc đường kim mã, mộng bình sinh đã cực đỉnh tang bồng. Nói năng thì như gươm Tần xẻ tóc, và rũ hai tay xuống thì lịch sử trào ra. Đẩy một vạn người bước tới, kéo một vạn người bước lui. Lên núi thì núi rừng cũng biến thành biển lửa. Đưa con mắt hùng thị bốn phương trời, bỗng thấy nước lũ Trường Giang đổ xuống:
Giang sơn như họa
Một thời hào kiệt anh hùng
Ngọc đường kim mã bỗng vang lên những tiếng gào thét đoạn trường. Chim hồng giật mình tung cách bay cao. Biết nơi nào là cố quận, nơi nào là tha hương, để chim hồng đậu lại:
Trạch tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu lãnh
Đường ra đi, qua trăng ngàn, qua gió bãi, mây vần vũ, núi non sụp xuống, nắng chiều đỏ như máu. Đau khổ, kinh hoàng, nên kêu réo, nên ngậm ngùi, và uất hận.
Sơn ức Hỉ hoan lao viễn mộng
Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần.
Đất khách là mười tám cái ghềnh thác kinh hoàng đổ xuống. Nhưng đất đó đọa đày thân xác mà không đọa đày viễn mộng. Quê hương với ân tình thắm thiết kia mới thực là đọa đày viễn mộng:
Núi nhớ Hỉ hoan đọa đày viễn mộng
Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần
Trên đường vào Nam, ngang qua chùa Nam hoa, ông ghé lại chùa và làm thơ:
Ngã bản tu hành nhân
Tam thế tích tinh luyện
Trung gian nhất niệm thất
Thọ thử bách niên khiển
Khu y lễ Chân Tướng
Cảm động lệ vũ tản
Tá sư tích đoan tuyền
Tẩy ngã ỷ ngữ nghiễn
Ta vốn người tu hành
Ba đời dày tu luyện
Nửa chừng một niệm hư
Trăm năm đày đọa khiến
Xốc áo lễ Chân Tướng
Cảm động lệ mưa tuôn
Ngọn suối đầu gậy sư
Xin rửa nghiên ỷ ngữ
Ông nói mượn dòng suối trên đầu gậy Thiền của sư, để rửa sạch cái nghiên mực ỷ ngữ, nói láo hay nói thêu dệt, của ông. Nhưng, ông ỷ ngữ như thế nào? Ông làm thơ, lời thơ ông thanh cao thần thánh. Ông làm quan thì lời quan của ông bộc trực thanh liêm. Đó là những lời nói đẹp đẽ; vì đẹp nên là ỷ ngữ ư? Có thể như thế, và chắc chắn không là như thế. Nhưng, ông làm quan thì lời quan nó đày đọa đời quan của ông. Ông làm thơ thì lời thơ nó đày đọa trời thơ của ông. Lời thơ của ông thì những là… Hỷ hoan lao viễn mộng. Lời quan của ông thì những là… Hoàng khủng khấp cô thần. Cả hai cùng đày đọa thân và tâm của ông. Nếu rửa sạch những thứ đó đi, chắc gì đã không là một cõi đọa đày khác nữa:
Dĩ hỷ thiền tâm vô biệt ngữ
Thượng hiềm thế phát hữu thi ban
Tâm thiền không lời, cái đó ông hâm mộ rồi. Nó cũng trong phương trời viễn mộng của ông. Nhưng Đạo Thơ có lời, cũng là phương trời viễn mộng của ông. Không phải ông bị đày đọa vì bị ray rứt giữa hai đường. Cái đó dành cho tục tử, chứ không hề có nơi cốt cách cao kỳ tuyệt diệu như ông. Nhưng cả hai cái đó, thắt chặt rồi buông lơi, như một cuộc giao tình đến để rồi đi; cả hai đưa nhau, đẩy nhau, đưa đẩy mãi lên mấy từng trời cao diệu, trên những phương trời viễn mộng; đưa đẩy nhau cho đến cùng tuyệt càn khôn, trong bất động, trong vô ngôn; trong phương trời đọa đày viễn mộng. Thế thì, cái chỗ đọa đày viễn mộng đó cũng đơn sơ như cõi mộng ban đầu; ban đầu từ một gương mặt trong ngọc trắng ngà không son phấn, rã cánh hồng mà nụ vẫn còn tươi, cho tình lên cao vút với mây trời trong nắng sớm:
Tố diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng
Cao tình dĩ trục hiểu vân không
Bất dữ lê hoa đồng mộng
Sau hết, và như là bắt đầu, thấy lại nó đơn sơ như mảnh trăng non và như cây ngô đồng thưa lá.
Cõi thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim nhạn, một cánh chim hồng ngoài ven trời vạn dặm.
Tuệ Sỹ
Theo http://www.tuvienquangduc.com.au/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thời gian

Thời gian...! Có ai níu được thời gian! Níu lại những khoảnh khắc ấm áp, hạnh phúc, hay níu lấy thời gian mang lại cho ta sự vinh quang tr...