Về tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi
của Nguyễn Trãi
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là một
triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Bài viết đã phân tích
tư tưởng nhân nghĩa trên nhiều khía cạnh: nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an
dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng đất
nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân
nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là một trí
thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn.
Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định đường lối, chính sách,
chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế,
Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Ông
đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp dựng
nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam; từ đó, nâng tư
duy của người Việt Nam lên một tầm cao mới. Thông qua các tác phẩm chủ yếu và
tiêu biểu của ông, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai
thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, chúng ta thấy tư tưởng Nguyễn Trãi đã phản
ánh nhiều mặt của đời sống nước ta đương thời: về chính trị, quân sự, ngoại
giao, văn hoá; về vai trò của nhân dân, về lý tưởng xã hội, v.v... Những tư tưởng
ấy của Nguyễn Trãi không chỉ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với xã
hội đương thời, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt
Nam nói chung.
Suốt nhiều trăm năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện chính trị, văn hoá,
văn học, nghệ thuật,… Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Nguyễn
Trãi vẫn còn là khá mới mẻ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến tư tưởng
nhân nghĩa - một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời và hoạt động
cống hiến của nhà tư tưởng kiệt xuất này.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là
một phương pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi
mà chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ
“nghĩa” - 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến 140 lần.
Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng
của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn mạnh rằng tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh,
nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng - Mạnh - nó mang ý
nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn
chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an
dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh,
thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy,
nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn
Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là
phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo
diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận
người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng
hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để
cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ,
làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước
truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh và có sự sáng
tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng
với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục
đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà
tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử… đã từng nêu rõ vai trò
quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt
Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý - Trần. Trong thời kỳ
đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp
phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý - Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi,
quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt
thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành
động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được
một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư
tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân
nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông
chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy
sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn,
một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn
Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc
tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã
giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được
rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc
cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: “thường
nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”(4). Chính xuất
phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc
của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm
mưa, những người lao động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong
suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân
dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao
quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức
mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở
lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể
nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến
lược “tâm công” Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là
sự thể hiện nét độc đáo riêng có ấy. “Tâm công” - đánh vào lòng người - sách lược
đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về
binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc
ở Việt Nam đương thời. “Tâm công” tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào
ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập
tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời
hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hòa giải, rút quân về nước. Tất nhiên,
chiến lược “tâm công” ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ
khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó
là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm về
cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức “hiếu
sinh”, sự “khoan dung” của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách
đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều
kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện.
Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: “Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai
đường thủy lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần”(5). Theo Nguyễn
Trãi: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người
là bản tâm của người nhân”. Để dân yên vui, nước hòa bình, đó là khát vọng cháy
bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: “Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm
trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho
ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa”(6). “Tuyệt mối
chiến tranh”, “bảo toàn cả nước là trên hết” đã thể hiện lập trường chính trị
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một
triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình
muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt
lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn
Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối
kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu,
tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh
cho muôn đời”(7). Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh
bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước
nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền,
bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: “thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn trị
chung tu chí thái bình” (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn, nước
trị bình) (8); “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”(9).
Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất nước có cuộc sống
phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các nước khác. Có
thể nói, lý tưởng chính trị - xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước
mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch
sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm
tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp
nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng
đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những
yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố
nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài.
Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở đời vốn không
ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách như học hành thi
cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi
người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ
hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì… tùy tài trao chức”;
hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ”, “người
hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự mình đề đạt để gánh
vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến
việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an
dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm
tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt
lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học - chính trị của ông. Tư tưởng ấy
có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức
độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ
chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.
Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn
chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
Ghi chú:
(1) Nguyễn Trãi. Toàn tập. “Thư dụ hàng (các tướng
sĩ) thành Bình Than”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 153.
(2) Nguyễn Trãi. Sđd., “Bình Ngô đại cáo”, tr.81.
(3) Nguyễn Trãi. Sđd., tr.79.
(5) Nguyễn Trãi. Sđd., “Quân trung từ mệnh tập”,
tr.135.
(7) Nguyễn Trãi. Sđd., “Phú núi Chí Linh”, tr.87.
(8) Nguyễn Trãi. Sđd., “Quan duyệt thủy trận”,
tr.288.
(9) Nguyễn Trãi. Sđd., “Tự thán”, tr.81.
Lương Minh Cừ
Nguyễn Thị Hương
Nguyễn Thị Hương
Nguồn: Tạp chí Triết học,
số 11 (198), tháng 11 - 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét