Một quan điểm về sống đẹp 1
Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo
nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo.
Vài lời thưa trước
Trong Hồi ký (Nxb Văn học-1993), cụ Nguyễn Hiến
Lê nói về cuốn Một quan niệm về Sống Đẹp như sau:
“Lâm Ngữ Đường viết cuốn Sống đẹp bằng tiếng Anh,
nhan đề là The Importance of living từ 1937. Khoảng 1957 tôi được đọc
bản dịch ra tiếng Pháp L’Importance de vivre của nhà Corrêa, thấy tác
phẩm rất hay mà bản dịch kém. Mấy năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản
Việt dịch hình như của Vũ Bằng [1] cũng tầm thường mà lại cắt bỏ nhiều
quá, chỉ còn độ một phần ba, như vậy ý nghĩa của tác phẩm không còn gì cả. Từ
đó tôi có ý dịch lại, muốn vậy phải có nguyên bản tiếng Anh và phải tra được những
nhân danh, địa danh bằng chữ Hán.
Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở Mỹ. Ông hồi âm liền
từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch, và cho biết nguyên
bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh hoạt đích
nghệ thuật. May sao ông Giản Chi có bản này (do Việt Duệ dịch - nhà Thế giới
Văn hoá xuất bản - 1940) và cho tôi mượn. Bản đó đầy đủ, chép hết những cổ văn,
cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi chép thêm bản
dịch những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản của Hoa và Pháp. Tôi
so sánh rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi dịch, luôn ba
hay bốn tháng, tôi thấy vui gần như hồi trước dịch cuốn Quẳng gánh lo đi,
vì nhân sinh quan nhà tản của Lâm - mà chính là của Trung Hoa - vì tinh thần
nghệ sĩ và hài hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi như cười cợt,
đùa bỡn nữa, không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình rượu hay một ấm
trà giữa những người bạn đồng điệu.
Nhờ có những văn thơ bằng chữ Hán, khỏi phải dịch theo bản tiếng
Anh hay Pháp, nên tôi biết chắc rằng bản dịch của tôi sẽ được hoan nghênh, độc
giả sẽ thích hơn là đọc nguyên tác của Lâm. Cuốn Sống đẹp bán chạy.
Nhà Tao Đàn in hai ba lần mỗi lần ít nhất 3.000 bản, lần đầu vào tháng 3 năm
1965.
Nhiều độc giả khen là dịch khéo, trong số đó có Đông Hồ. Một
độc giả tôi chưa hề quen, bác sĩ Trần Văn Bảng (học trường Bưởi trước tôi vài
năm) thích quá, làm một bài thơ nhan đề là Sống đẹp gởi tặng tôi. Bài
gồm 5 đoạn, tôi chép lại đây đoạn giữa:
Đây tư tưởng chín tầng mây siêu việt
Sang sảng nghe tiếng nói của thánh hiền
Ngọc chuốt, châu gieo, lời vàng, ý thép
Khiến tâm linh hoan lạc cõi vô biên
Từ đó chúng tôi thành bạn thân”. (Hồi ký, trang
466-467).
Ngô Văn Long, trong bài giới thiệu cuốn Sống đẹpđăng
trên trang http://www.sachhay.com/,
viết như sau:
“Đọc quyển này rồi thì có thể sau đó các bạn sẽ nghĩ khác
đi, thậm chí sẽ sống hơi khác đi một chút.
Lâm Ngữ Đường là học giả Trung Hoa từng học ở Harvard,
Leipzig, sống cùng thời với những tên tuổi như Hồ Thích, Lỗ Tấn, sau qua sống
ở Mỹ, viết nhiều sách bằng tiếng Anh giới thiệu Trung Hoa với phương tây.
Một trong mấy cuốn đó rất nổi tiếng là The Importance of
Living, bàn về cách sống, triết lý sống, tác giả thường so sánh hai nếp sống Mỹ
và Trung quốc, tôi nghĩ các bạn, đặc biệt các bạn sống ở nước ngoài, có dịp nên
đọc thử (…).
Nguyễn Hiến Lê dịch cuốn này năm 1964, còn Lâm tiên sinh thì
viết từ 1937, ở New York lận. Nguyễn Hiến Lê không có bản tiếng Anh,
ông dịch theo bản tiếng Hoa và bản tiếng Pháp. Nhưng nhờ vậy bản tiếng Việt rất
hay vì văn phong cổ kính theo kiểu phương Đông, không có “tây” quá, đặc biệt
các nhân danh địa danh đều là từ ngữ Hán Việt quen thuộc, không có mấy ông
Confucius, Laot’su, hay Pekin với Beijin mà chỉ có Khổng tử, Lão tử,
Bắc Kinh thôi”.
Về các nhân danh, địa danh, có lẽ ông Ngô Văn Long muốn nói rằng
trong Sống đẹp không có những tên bị “Tây hóa” như ngày nay ta vẫn thỉnh
thoảng thấy trên báo chí tiếng Việt vì tôi tin rằng ông Long cũng biết rõ cụ
Nguyễn Hiến Lê đâu có chịu giữ nguyên các tên Confucius, Laot’su, Peking,
Beijing trong nguyên tác mà không chuyển ra “từ ngữ Hán Việt quen thuộc”. Hơn nữa,
nếu như trong Đắc nhâm tâm, cụ Nguyễn Hiến Lê cho bà Druckenbroad và ông
Webb như người Việt, một người nuôi gà tàu, một người nuôi gà ta [2]; thì trong Sống đẹp, cụ cho ta cái cảm
tưởng rằng Lâm Ngữ Đường là người Việt, trong nhà cũng thích mặc bộ đồ “bà ba” [3] như cụ vậy. Tôi cho rằng lời cụ tự
nhận định về hai cuốn Đắc nhâm tâm và Quảng gánh lo đi cũng
đúng với cuốn Sống đẹp này: “Chủ trương của tôi là dịch loại
sách “Học làm người”như hai cuốn đó thì chỉ nên dịch thoát, có thể cắt
bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người mình miễn là không
phản ý tác giả; nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có “dấu vết
dịch”, độc giả rất thích” (Hồi ký, trang 303). Tuy nhiên, vì cuốn Sống
đẹp được cụ dịch từ năm 1964, và vì dịch theo cách hiểu của Lâm Ngữ Đường
nên có vài chỗ ta thấy lời của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử hoặc những truyện
liên quan đến các triết gia đó không giống hẳn với những lời và những truyện mà
của cụ Nguyễn Hiến Lê chép trong các cuốn Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử.
Ngô Văn Long còn cho biết:
“Tôi rất… ghiền quyển Sống đẹp của Lâm, sau 75 một
lần ra chợ sách cũ, lúc đó còn dễ dãi, cho bán búa xua, tình cờ thấy quyển The
Importance of Living, bản tiếng Anh đàng hoàng (ngay Nguyễn Hiến Lê cũng không
có) bày dưới hè đường, cầm lên đặt xuống, thèm… chảy nước miếng mà không có tiền
mua (lúc đó còn đem sách nhà đi bán lấy tiền xài, tiền đâu mà mua vô)”.
Ngày nay, chắc Ngô Văn Long và nhiều bạn đã mua được cuốn The
Importance of Living, còn nếu bạn nào chưa “sách giấy” thì có thể vào trang sau
đây để đọc trực tuyến hoặc tải ebook về đọc: http://www.archive.org/.
Nhờ có bản PDF cuốn The Importance of Living mà
trong khi gõ cũng như khi đọc lại các phần do hai bạn Luvasi và Lilypham gõ[4], khi gặp những chỗ ngờ sai, tôi tìm chỗ
tương ứng trong bản tiếng Anh đó để chỉnh sửa và nếu thấy cần thì thêm chú
thích. Tôi cũng dùng bản chữ Hán Sinh hoạt đích nghệ thuật (生活的藝術) đăng trên website Sina (http://vip.book.sina.com.cn/)
để đối chiếu những chỗ ngờ sai [5].
Trong ebook này, tôi cũng tham khảo thêm vài trang web chữ
Hán khác để chép thêm vào Phụ lục 2 vài bài thơ chữ Hán mà Lâm Ngữ Đường hoặc
đã dịch cả bài sang tiếng Anh hoặc có bài chỉ dịch
hai câu.
Xin chân thành cảm ơn bạn Luvasi và đặc biệt là bạn Lilypham
vì bạn giúp tôi rất nhiều trong việc chép và phiên âm chữ Hán. Tôi cũng xin cảm
ơn các vị trích đăng khá nhiều đoạn cuốn Sống đẹp này trên nhiều
trang web khác nhau, nhờ các vị mà tôi đỡ tốn công gõ rất nhiều.
Goldfish
Tháng 03 năm 2010
Chú thích:
[3] Bộ pyjama được cụ
Nguyễn Hiến Lê dịch thoát thành: bộ bà ba. Bản chữ Hán dịch là thuỵ y (睡衣). Goldfish).
[4] Luvasi gõ từ đầu sách đến hết
chương II, Lilypham gõ chương III và từ chương XI đến cuối sách. Phần tôi chỉ
gõ từ chương IV đến hết chương X. (Goldfish)
Tôi đã đọc nhiều cuốn viết về Nghệ Thuật Sống nhưng
không cuốn nào có một tầm quan trọng và làm cho tôi suy nghĩ nhiều bằng cuốn
này.
Những cuốn khác do người Âu hay Mỹ viết đều chú trọng đến sự
thành công, đưa ra những qui tắt thực tế về cách luyện trí, luyện tinh thần, xử
thế và làm việc, cho nên tuy hữu ích thật nhưng không để lại nhiều dư âm trong
hồn ta. Chúng ta có cảm tưởng tác giả là những kỹ thuật gia - ngay cả André
Maurois trong cuốn “Un Art de Vivre” cũng vậy - và kỹ thuật của họ rất
hợp lý, rất có hiệu quả, ta tin họ như ta tin một kiến trúc sư trong việc xây
nhà, tin một kỹ sư trong việc luyện thép, và ta tự hứa sẽ rán theo họ, thế
thôi. Họ không gợi cho ta một thắc mắc, một suy tư nào cả, mà giá trị của một
tác phẩm là ở chỗ phải gợi cho ta được những thắc mắc và suy tư.
Cuốn này khác hẳn. Tác giả, Lâm Ngữ Đường, vượt lên trên tất
cả kĩ thuật đó mà cơ hồ ông cho chỉ là những chi tiết; ông muốn nhìn bao quát cả
vấn đề SỐNG, đặt một cơ sở cho vấn đề đó, mà hễ cơ sở đã vững rồi thì chi tiết
chẳng cần vạch rõ cũng thấy. Vì chỉ có Sống mới là quan trọng, mà nhiều người
ngày nay quên hẳn điều đó đi, quên rằng dù mình làm việc hay tiêu khiển, dù
mình trau dồi tâm trí, dựng nên những học thuyết triết lý, xã hội, kinh tế hay
chính trị... cũng chỉ để phục vụ sự Sống, để duy trì đời Sống, cải thiện nó,
làm cho nó phong phú lên, dễ chịu hơn, cao đẹp hơn; tóm lại là chúng ta tìm cái
Chân, cái Thiện, cái Mỹ không phải vì cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ mà vì sự SỐNG.
Do đó nhan đề cuốn này trong nguyên văn là The Importance of Living: Sự
quan trọng của sinh hoạt.
Mỗi loại sinh vật có một cách sinh hoạt: thảo mộc có cách
sinh hoạt của thảo mộc, cầm thú có cách sinh hoạt của cầm thú, loài người cũng
vậy. Cách sinh hoạt phải hợp với bản chất của mỗi loại. Mà bản chất của con người
không phải là cầm thú, cũng không phải là thánh thần. Đành rằng trong lịch
trình tiến hóa thời nào loài người cũng muốn vươn lên cao hơn, muốn chế ngự được
lòng mình, chế ngự được thiên nhiên, muốn mọc cánh bay lên mà kết bạn với thiên
thần, như Tôn Ngộ Không trong truyện Tây Du ký; nhưng còn một thể xác sớm
muộn gì cũng bị hủy diệt, còn những nhu cầu vật chất như ăn uống, tình dục...
thì con người không thể nào là Thánh được và nhất định phải có ích nhiều khuyết
điểm, nhu nhược, mâu thuẫn… Nhận chân được điều đó - người không phải là cầm
thú cũng không phải là thần thánh - thì mới có thể tìm một lối sống, dựng nên
những học thuyết thích hợp với con người được; như vậy mới là hợp tình hợp
lý, nghĩa là hợp với tâm tình con người và hợp với luật lệ thiên nhiên, chứ
không phải hợp với những phép diễn dịch, quy nạp… của các luận lí gia. Vì “lòng
người vẫn có những lý lẽ mà lý trí không sao hiểu nổi”. Bốn chữ “hợp tình,
hợp lý” tóm tắt được tất cả triết lý của họ Lâm. Bất kỳ cái gì, dù cao đẹp
tới mấy, dù đúng phép luận lý tới mấy mà không hợp tình hợp lý cũng là xấu.
Làm việc vốn là một hành động tôn nghiêm, nhưng nếu cặm cụi
làm việc mà quên ăn, quên ngủ, hóa quạu quọ, khắc nghiệt với người khác thì là
quên mình, quên người, là không hợp tình, hợp lý, là xấu.
Đề cao một lý tưởng để kiến thiết quốc gia, mưu hạnh phúc cho
đồng bào là một hành động rất cao đẹp, nhưng nếu vì mục đích đó mà gây ra những
cuộc tàn sát như Hitler đối với dân tộc Do Thái thì lại là không hợp tình hợp
lý, là xấu.
Lâm Ngữ Đường bảo triết lý đó không phải là của ông mà của
dân tộc Trung Hoa vì nó tổng hợp, dung hòa được hai triết thuyết quan trọng nhất,
có ảnh hưởng lớn nhất của Trung Hoa, tức Khổng giáo và Lão giáo. Nó bàn bạc
trong thơ văn Trung Hoa, thấm nhuần đời sống Trung Hoa và ông dẫn ra rất nhiều
cố sự cùng danh ngôn để làm chứng cứ. Do đó, ngoài giá trị về phương diện mà
người Pháp gọi là Culture humaine (ta thường dịch ra là Học làm người),
tác phẩm còn có một giá trị lớn hơn nhiều về phương diện nghệ thuật, văn hóa. Đọc
nó ta nhìn được tổng quát cả nhân sinh quan của người Trung Hoa - và của người
Việt ta nữa - và những bạn trẻ thiếu căn bản về cổ học có thể có một nhận thức
đại cương đúng và gần đủ về triết học, nghệ thuật phương Đông. Cho nên theo
tôi, những cuốn khác chỉ bàn về Kỹ thuật Sống, riêng cuốn này mới xét về Nghệ
thuật Sống.
Về nguyên tắc “hợp tình hợp lý” thì tôi hoàn toàn đồng
ý với tác giả [1], nhưng về chi tiết thì tôi thấy có nhiều
chỗ tác giả đi quá xa và tôi đoán rằng nhiều độc giả cũng như tôi, mười điều
trong sách chỉ tin được bốn năm điều.
Nhưng chính nhờ chỗ đó mà tác phẩm mới có nhiều thú vị. Tác
giả đã có lần hô hào phục hưng thuyết Tính linh (expressionnisme)[2] trong văn học, chủ trương rằng “viết
chỉ là để phát huy tính tình hoặc biểu diễn tâm linh” của mình, cho nên phải cực
kỳ thành thực, tự nhiên, rất ghét sự giả dối, tô điểm, phải nghĩ sao viết vậy,
không được giấu giếm, không sợ người cười chê, không sợ trái với lời thánh hiền
thời xưa. Vì vậy, ông coi ta như bạn thân, đôi khi cười cợt, đùa bỡn ta nữa. Ta
cần nhận ra được những chỗ đó, để nở một nụ cười đáp lại.
Ngay cả những khi ông nghiêm trang, hăng hái đả đảo một quan
niệm mà từ xưa ta vẫn tin là đúng, thì ta cũng nên tìm hiểu ông. Vì chúng ta
không nên hẹp hòi mà nghĩ rằng chỉ có ta mới hoàn toàn nắm được chân lý. Vả lại
xét cho cùng, đọc một tác giả đồng thanh đồng khí với mình, thú tuy thú đấy
nhưng không lợi ích gì mấy; chính những tác giả chủ trương ngược với ta mới bắt
ta phải suy nghĩ, đặt lại vấn đề, mới mở mang kiến thức của ta. Suy nghĩ kỹ rồi
mà thấy chủ trương của ta vẫn đúng thì ta càng vững tin ở mình hơn; ngược lại nếu
thấy chủ trương của ta cần phải bổ khuyết thì cái lợi càng lớn hơn nữa.
Nếu trong số độc giả có vị nào theo học thuyết Mặc Tử, nguyện
“mòn trán long gót” vì nhân loại, thì tất nhiên là tôi rất kính phục và tôi
càng mong rằng những vị đó có dịp đọc qua một vài chương trong cuốn này, chẳng
hạn chương VI hay X.
Tôi nhớ có một lần sau hai năm chuyên tâm vào một công việc rất
mệt trí đến nỗi bệnh cũ của tôi trở nên nặng, tôi đành bỏ dỡ công việc, đem
theo bản tiếng Pháp (L’importance de vivre) của cuốn này về Long Xuyên dưỡng bệnh.
Trong cảnh nghỉ ngơi nhàn nhã như vậy tôi mới thưởng thức hết cái hóm hỉnh, sâu
sắc của Lâm và một chương tả nền trời xanh cùng tiếng chim hót đã làm cho tôi
thấy vũ trụ đẹp thêm lên bội phần: một dây mướp rũ từ cành xoài xuống đã gần
tàn chỉ còn mỗi một bông vàng rực đong đưa dưới gió, cảnh thực là bình thường,
quê mùa mà sao hôm đó tôi thấy vui lạ, rực rỡ lạ. Nhờ nó một phần mà trí óc tôi
dịu xuống và khi trở về Sài Gòn, tôi làm việc lại được.
Vậy, dù bạn không ưa triết lý hợp tình hợp lý của Lâm thì bạn
cũng nên cất cuốn này vào tủ, lúc nào có ra Vũng Tàu hay lên Đà Lạt nghỉ mát ít
hôm thì mang nó theo, biết đâu nó chẳng làm cho bạn thấy vũ trụ đẹp hơn mà cuộc
du lịch của bạn sẽ có hứng thú hơn, vì sách giúp ta hiểu đời mà đời cũng giúp
ta hiểu sách.
Tinh thần phân tích, phê bình tuy là cần thiết trong việc đọc
sách nhưng thiếu sự cảm thông thì khó nhận được cái hay, cái đẹp mà tâm hồn ta
chỉ khô khan lần đi thôi. Ai cũng có thể viết một cuốn sách một trăm trang để
phê bình một cuốn ba trăm trang được; nhưng suy tư để nhận thấy dụng ý, nhân
sinh quan của tác giả là việc ít thấy, không phải vì nó khó mà ít ai chịu làm,
ít ai chịu quên cái “bản ngã” của mình để tìm hiểu cái “bản ngã” của người. Đa
số đau khổ của nhân loại do đó mà ra cả. Lâm không ưa đạo Phật vì ông cho là nó
“bi thảm” quá, nhưng về chủ trương “vô ngã” của đạo Phật thì chắc Lâm không phản
đối. Đọc chương XIV, tôi có cảm tưởng như vậy. Mà ông đã đem tinh thần “vô ngã”
ra nói chuyện với ta thì ta cũng nên đem tinh thần “vô ngã” ra nghe ông.
Tôi không cần giới thiệu nhiều về tác giả vì danh tiếng ông,
người đọc sách nào mà không biết.
Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang), tên là Ngọc Đường, sanh năm 1895 ở
Phước Kiến, xuất thân trường đại học Thánh Ước Hàn rồi du học Âu Mỹ tại các trường
đại học Harvard, Iéna, Leipzig, chuyên về ngôn ngữ học, về nước làm giáo sư đại
học Bắc Kinh và làm chủ nhiệm, hoặc chủ biên ba tạp chí văn học, nổi danh nhất
là tạp chí Luận ngữ. Ông có hồi làm ngoại giao bí thư, sau thế chiến vừa rồi
làm Trưởng ban Văn Nghệ của Cơ quan Văn Hóa Liên Hiệp Quốc. Tư tưởng của ông
nhiều khi sâu sắc và văn lại rất dí dỏm (người Trung Hoa gọi ông là U mặc
đại vương: ông vua hài hước) cho nên rất nhiều người ưa đọc.
Ông ưa viết bằng tiếng Anh để giới thiệu văn hóa Trung Hoa với
thế giới, đã soạn trên mười lăm cuốn hoặc thuộc loại tiểu thuyết như bộ Moment
in Peking, A leaf in the storm, hoặc thuộc loại biên khảo như Lady Wu (về
đời Vũ Tắc Thiên), The Gay Genius (về đời Tô Đông Pha), hoặc thuộc loại
nghị luận như My Country and my People (bản dịch ra tiếng Hán nhan đề
là Ngô thổ dữ ngô dân), The importance of living… Vài tác phẩm của
ông đã được dịch ra mười bốn thứ tiếng, và cuốn The importance of living,
đã đứng đầu trong số những sách bán chạy nhất ở Mỹ luôn mười một tháng.
Chúng tôi tiết rằng không kiếm được nguyên văn bằng tiếng Anh
của cuốn The importance of living, đành phải dùng bản tiếng Pháp L’importance
de vivre của nhà Correa (1948) và bản tiếng Trung Hoa Sinh hoạt đích
nghệ thuật do Việt Duệ dịch, của nhà Thế giới Văn Hóa (1940). Bản tiếng
Hoa đầy đủ, chép hết những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong
tác phẩm và nhiều khi lại chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Bản tiếng
Pháp có cắt bớt nhiều đoạn và bỏ hẳn vài tiết.
Chúng tôi châm chước cả hai bản, cũng cắt bớt hoặc tóm tắt vì
những lẽ dưới đây: tác phẩm viết vào khoảng 1937, nên có đoạn nay không còn hợp
thời; tác giả chú ý viết cho người phương Tây đọc, nên đối với chúng ta, người
phương Đông, nhiều đoạn không cần thiết; sau cùng, như chúng tôi đã nói, tác giả
theo thuyết Tính Linh, cứ thuận tay mà viết, cốt tự nhiên, thân mật như trong
cuộc nhàn đàm giữa bạn bè, nên nhiều chỗ chúng tôi cho là rườm.
Vì vậy, bản này chỉ là một bản lược dịch. Nếu dịch trọn thì
phải thêm khoảng trăm trang nữa.
Mới đầu chúng tôi đã có ý chép thêm vào cuối sách những văn
thơ chữ Hán để một số độc giả có thể thưởng thức nguyên văn của cổ nhân; nhưng
sau tính lại nếu chép hết rồi phiên âm nữa thì sách này sẽ dày thêm ít nhất là
trăm rưỡi trang, giá sách sẽ khó mà phổ thông được. Cho nên chúng tôi chỉ lập một
bảng ghi bằng chữ Hán những tên người và tên tác phẩm Trung Hoa đã dẫn trong
sách. Địa danh, xét ra không quan trọng lắm, nên chúng tôi bỏ. Những chú thích ở
cuối trang đều là của chúng tôi.
Sài gòn, ngày 30-12-1964
NGUYỄN HIẾN LÊ
Chú thích:
[1] Trong tiết “Nhân sinh quan của
tôi”, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Đạo nào cũng phải hợp tình hợp lý (bất viễn
nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy
đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể,
không có của riêng”. (Hồi ký, trang 552).
TỰA CỦA DỊCH GIẢ
Cuốn này chép những kinh nghiệm của bản thân tôi về tư tưởng
và đời sống. Nó không có tính khách quan mà cũng không nhắm xác định những chân lý bất hủ. Nói thực ra thì viết về triết lý, tôi coi rẻ chủ trương khách quan,
quan điểm của mỗi người mới là điều quan trọng. Tôi đã muốn dùng nhan đề: “Một
triết lý trữ tình”, trữ tình hiểu theo cái nghĩa: biểu hiện một quan niệm hoàn
toàn cá nhân. Nhưng nhan đề đó đẹp quá, tôi phải bỏ, e đọc giả hiểu lầm mà thất
vọng vì phần chính trong tư tưởng của tôi có tính cách thực tế, dễ đạt được hơn
vì tự nhiên hơn. Lê lết trên đất, làm bạn với cỏ cây, tôi lấy làm thỏa mãn sung
sướng lắm. Đôi khi say sưa mà vùng vẫy trên cát như vậy, tâm hồn ta nhẹ nhàng tựa
nhu bay bỗng lên trời, nhưng rốt cục, ít khi ta rời khỏi mặt đất được vài tấc.
Tôi đã có ý viết trọn cuốn sách này theo lối đối thoại như
Platon. Muốn diễn những tư tưởng ngẫu nhiên xuất hiện trong óc ta, ghi những việc
vặt có ý nghĩa trong đời sống hằng ngày và nhất là muốn thơ thẩn trong cánh đồng
tư tưởng êm đềm và tĩnh mịch thì lối đó thực là thích hợp. Nhưng không hiểu tại
sao tôi lại không dùng nó. Có lẽ vì ngại rằng ngày nay ít người thích nó mà
sách ít đọc giả chăng. Dù sao, nhà văn nào cũng mong được nhiều người đọc. Lối
đối thoại tôi nói đó, không phải là cái lối người hỏi, người đáp như trong các
bài phỏng vấn đăng trên báo, cũng không phải cái lối giảng giải bằng những đoạn
ngăn ngắn đâu, mà là cái lối nhàn đàm hứng thú, dài dòng liên tiếp trên mấy
trang giấy, uyển chuyển tiến tới rồi lại quay về điểm cũ, đúng lúc bất ngờ nhất
thì lại ngưng lại, đổi hướng, y như một người đi chơi về nhà, nhảy qua hàng rào
mà vô, làm cho bạn đồng hành phải ngạc nhiên. Được dạo chơi trên những con đường
vắng vẻ rồi nhảy qua rào mà vô nhà, ôi thú biết mấy!
Những quan niệm trong cuốn này không có gì là tân kỳ, và đã
được vô số tư tưởng gia Đông, Tây diễn đi diễn lại. Những quan niệm tôi mượn của
phương Đông đều là những chân lý tầm thường ai cũng biết, nhưng nó là những
quan niệm của tôi vì nó hợp với một cái gì như cái bẩm tính của tôi. Khi tôi mới
gặp nó lần đầu, thì lòng tôi tự nhiên chấp nhận nó liền. Tôi thích nó vì nó chứ
không phải vì những người diễn ra nó. Thực ra khi đọc sách cũng như khi viết
lách, tôi đã đi theo những con đường ít người đi. Nhiều tác giả tôi dẫn trong
cuốn này không có tên tuổi gì cả và một vị giáo sư Văn Học Trung quốc có thể ngạc
nhiên, vì vậy. Còn một số tác giả khác rất có danh tiếng thật, nhưng tôi chấp
nhận quan điểm của họ không phải vì cái tiếng tăm lẫy lừng của họ mà chỉ vì tư
tưởng của họ tự nhiên thích hợp với tôi. Tôi có thói quen mua những sách cũ rẻ
tiền, ít ai biết tới, để xem có thể kiếm được trong đó có gì khác thường không.
Kiếm được một viên ngọc nhỏ trong một thùng rác thú hơn la ngắm một viên ngọc lớn
bày ở cửa hàng bán đồ châu bảo.
Sự hiểu biết của tôi không phải là uyên thâm hay quảng bác. Nếu
uyên thâm, quảng bác thì người ta không biết điều phải là phải, điều trái la
trái nữa. Tôi chưa hề đọc Locke [1], Hume [2], Berkeley [3] mà cũng chưa theo học môn triết ở một
trường Đại học nào. Đứng về phương diện kỹ thuật mà xét, thì phương pháp học hỏi
và sự huấn luyện của tôi quả là vô lý, vì tôi không quan tâm tới các triết gia
mà chỉ quan tâm tới cái đời sống nóng hổi thôi. Như vậy chẳng hợp lệ chút nào cả,
tất nhiên là sai rồi. Lý luận của tôi căn cứ ở những nhân vật dưới đây: bà
Hoàng, một bạn thân của gia đình tôi, có nhiều ý kiến hay về sự giáo dục phụ nữ
Trung Hoa; một chị lái đò ở Tô Châu ngôn ngữ bóng bẩy thanh lịch; một anh lái
xe ô tô buýt ở Thượng Hải; một con sư tử con ở sở Bách Thú; một con sóc ở vườn
hoa Trung ương tại Nữu Ước; một anh bồi cà phê có lần nhận xét rất đúng; một ký giả (mất đã mười năm) viết một bài về thiên văn đăng trên báo; tất cả những tin
tức về các vụ án; và tất cả những nhà văn nào còn giữ được tánh hiếu kỳ về đời
sống hoặc không làm tiêu diệt cái tánh đó của chúng ta… những người và vật đó
quá đông, làm sao mà tôi kể hết cho được?
Nhờ không được đào tạo ở một trường Đại Học mà tôi thấy đỡ ngại
ngùng, sợ sệt khi viết một cuốn về triết lý. Nhận xét đời sống ở chung quanh,
tôi thấy cái gì cũng hóa ra giản dị hơn, minh bạch hơn. Tôi biết rằng các triết
gia chính thống sẽ bảo rằng lối học hỏi của tôi còn thiếu sót, rằng lối phô diễn
của tôi cộc lốc, giản dị, dễ hiểu quá, rút cục là tôi thiếu thận trọng, bước
vào trong cái ngôi đền triết lý thiêng liêng mà không biết sợ sệt, rón rén, cứ
nói bô bô lên. Các triết gia hiện đại hình như thiếu cái đức này nhất: đức can
đảm. Nhưng từ trước tới nay tôi vẫn dạo ở ngoài cái khu vực triết lý, cho nên
tôi vững bụng. Cứ theo trực giác của mình, phán đoán theo ý mình, phô diễn ý kiến
của mình và thú thực với công chúng một cách nhẹ dạ, ngây thơ, cứ như vậy mà
tìm được một số bạn đồng thanh đồng khí ở một chân trời nào đó. Theo cách đó,
nhiều khi người ta ngạc nhiên thấy rằng đã có một nhà văn nào đó diễn đúng những
ý của mình, có đúng những cảm giác của mình, chỉ khác là họ diễn dễ dàng hơn
mình, thú vị hơn mình thôi. Như vậy là mình tìm thêm được một cổ nhân làm chứng
cho mình nữa và đôi bên thành những bạn thân về tinh thần.
Cho nên tôi mang ơn những tác giả đó, đặc biệt là các bạn
tinh thần Trung Hoa của tôi. Soạn cuốn này, tôi được các bậc thiên tài giúp sức;
tôi mong rằng tôi quý các vị đó ra sao thì cũng được các vị ấy quý mến tôi như
vậy. Thực ra nhờ các vị ấy mà tôi mới được biết một sự cảm thông duy nhất và
chân thực này: Sự cảm thông giữa hai người xa cách nhau về thời gian mà có những
tư tưởng như nhau, những cảm xúc như nhau và hoàn toàn hiểu lẫn nhau. Một số
các bạn đó đã giúp đỡ tôi nhiều, khuyên bảo tôi nhiều; như Bạch Cư Dị ở thế kỷ 8; Tô Đông Pha ở thế kỷ 11, với vô số nhân vật độc xuất ở hai thế kỷ 16,17 - như Đồ Xích Thủy, lãng mạn mà hoạt bát; Viên Trung Lang vui vẻ mà kỳ đặc; Lý
Trác Ngô thâm thúy mà vĩ đại; Trương Trào đa cảm mà phức tạp; Lý Lạp Ông phóng
túng, dật lạc; Viên Tử Tài lạc quan, phong phú; Kim Thánh Thán vui tính, sôi nổi - hết thảy đều là những tâm hồn không câu chấp tiểu tiết, những người kiến giải
độc đáo, đối với sự vật lại có ý thức đặc biệt, nên không được phái phê bình
chính thống thưởng thức; họ tốt quá nên không chịu theo quy cũ, đạo đức quá nên
không được Nho gia khen là tốt. Một số nhân vật khác, tên tuổi ít ai biết. Một
vài nhân vật đó có thể không có tên trong cuốn này nhưng tinh thần của họ bàn bạc
trên mỗi trang. Sau này địa vị của họ tất sẽ được phục hồi, không sớm thì muộn.
Một số nhân vật khác, tên tuổi ít ai biết, nhưng cũng được tôi hoan nghênh vì
có nhiều nhận xét xác đáng. Tôi gọi họ là những Amiel [4] của Trung Quốc; họ ít nói nhưng nói
thì luôn luôn hợp nhân tình và tôi trọng cái lương tri của họ. Ngoài ra, tôi
không quên hạng người cổ kim, đông tây bất hủ mà “khuyết danh”, trong lúc cao hứng
thốt được những lời chí lý mà không ngờ như các vị thân phụ vô danh của các bậc
vĩ nhân. Sau cùng, còn những nhân vật vĩ đại nhất, những vị mà tôi coi như thầy
chứ không như bạn; sự hiểu biết quang minh của họ vừa siêu phàm mà vừa hợp nhân
tình, trí tuệ của họ biểu hiện một cách dễ dàng vì đã đạt được cái mức hoàn
toàn tự nhiên, như Trang Tử và Đào Uyên Minh mà tinh thần giản phác, thuần
chính, làm cho hạng người tầm thường thất vọng, không sao đạt được. Đôi khi tôi
để những vị đó nói chuyện thẳng với đọc giả, những khi khác tôi nói thay họ mà
cứ tưởng rằng mình tự nói ra. Tình thân giữa các vị đó và tôi càng cố cựu thì
cái món nợ tinh thần của tôi đối với các vị đó càng có tính cách thân thiết, vô
ảnh vô hình, như ảnh hưởng của cha mẹ tới con cái trong một gia đình nền nếp vậy;
không còn vạch rõ được chỗ nào giống nhau, chỗ nào khác nhau nữa.
Tôi đã lựa lối phô diễn của thời đại, trình bày những điều
mình đã hấp thụ, chứ không dịch sát lời cổ nhân. Lối đó có chỗ bất tiện, nhưng
xét về đại thể, dễ có tính cách thành thực hơn. Vậy lựa hay bỏ đoạn nào, câu
nào là tự ý tôi cả. Trong cuốn này tôi không có ý trình bày tất cả tư tưởng của
một thi sĩ hay một triết gia nào; vậy nếu chỉ căn cứ vào những trang này mà xét
họ là sai. Và tôi xin theo lệ thường mà kết thúc bài tựa này như sau: Cuốn
độc giả đương đọc đây, nếu có được một ưu điểm nào thì phần lớn là nhờ công những
người hợp tác với tôi, còn về những chỗ lầm lẫn, khuyết điểm thì chỉ một mình
tôi chịu trách nhiệm.
Nữu Ước, ngày 30-7-1937
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
Chú thích:
CHƯƠNG I
NHẬN THỨC
Trong những quan niệm sau đây, tôi sẽ trình bày quan điểm của
người Trung Hoa về nhân sinh quan và sự vật quan, quan điểm mà các triết gia ưu
tú Trung Hoa đã phổ biến trong văn chương của họ. Tôi hoàn toàn nhận định rằng
triết lý đó chỉ là một thứ triết lý nhàn tản, nhưng tôi tin rằng quan điểm đó rất
đúng và nó làm cảm động được lòng người một xứ này thì cũng làm cảm động được
lòng người ở mọi xứ khác, vì trừ màu da ra thì con người, ai cũng như ai. Vậy
các thi nhân, học giả Trung Hoa nhờ lương tri, óc thực tế và thi cảm có một
quan niệm về nhân sinh ra sao thì tôi sẽ trình bày đúng như vậy. Tôi sẽ rán biểu
lộ một phần cái mỹ lệ, cái bi hài, cái lo sợ mà nhân dân Trung Hoa - một dân tộc
biết rằng đời người có hạn nhưng cũng biết rằng đời sống là tôn nghiêm - đã cảm
thấy trong đời sống sinh hoạt.
Triết gia Trung Hoa lim dim mơ mộng, ngó vạn vật chung quanh
một cách âu yếm.
Với một chút mỉa mai nhẹ nhàng, nửa khinh mạn nửa khoan dung,
thỉnh thoảng bừng tỉnh dậy rồi thiêm thiếp lại. Mắt nhắm, mắt mở, họ thấy vạn vật
và cả chính họ nữa đều là phù phiếm cả; nhưng họ còn có đủ óc thực tế để thích ứng
với đời. Họ không có ảo tưởng nên ít khi vỡ mộng, không có cao vọng nên rất ít
khi thất vọng. Về phương diện đó, tinh thần họ được giải thoát.
Sau nhiều năm nghiên cứu văn học và triết học Trung Hoa, tôi
thấy lý tưởng cao nhất của họ là con người đạt quan, sáng suốt tỉnh ngộ, nhờ vậy
tư cách của họ mới được phần cao thượng, mà họ mới có thể tiến trên đường đời với
một tinh thần phúng thích ôn hòa, mới có thể tránh được những dụ dỗ của danh lợi
mà biết lạc thiên tri mệnh. Cũng nhờ tinh thần đạt quan đó, họ có một ý thức về
tự do, biết yêu sự phóng lãng, sự nhàn tản, có cái ngạo cốt và một thái độ lãnh
đạm. Phải có cái ý thức về tự do với cái lãnh đạm đó thì chúng ta mới hưởng thú
ở đời một cách nhiệt liệt được.
Triết lý của tôi được người phương Tây cho là có giá trị hay
không, điều đó tôi không quan tâm tới. Muốn hiểu được đời sống phương Tây, thì
phải có cặp mắt, bộ thần kinh, tính tình và thái độ vật chất của người phương
Tây. Tôi tin rằng bộ thần kinh của người Mỹ chấp nhận được nhiều cái mà người
Trung Hoa không chịu nổi, ngược lại cũng đúng nữa. Trời sinh ra mỗi dân tộc một
khác. Nhưng cái gì cũng là tương đối cả. Tôi chắc chắn rằng người Mỹ sống vội
vàng, náo động như vậy, nhiều khi cũng ước ao cái thú tuyệt trần được nằm dài
trên cỏ mà mơ mộng. Không thế thì sao có kẻ lại la lên như vầy: “Tỉnh dậy đi mà
sống chứ” (Wake up and live). Xét cho cùng, họ không đến nỗi xấu lắm đâu. Có lẽ,
trong một xã hội mà ai nấy cũng phải làm lụng, thì cái danh từ “thơ thẩn” làm
cho họ ngượng đấy thôi; nhưng tôi tin rằng họ thỉnh thoảng cũng muốn dãn bắp thịt
ra, lăn trên cát, chân nọ gác chân kia một cách khoan khoái và gối đầu lên cánh
tay mà nhìn trời. Vậy thì họ cũng không khác Nhan Hồi là mấy, Nhan Hồi mà chính
Khổng Tử khen là có đức hạnh. Thế thì người Mỹ cứ thành thực đi, họ thích cái
gì thì tuyên bố thẳng với thế giới rằng thích cái đó, rằng không phải trong khi
họ làm việc ở phòng giấy mà chính là trong khi họ nằm dài trên cát, thì tâm hồn
họ mới reo lên: “Chà! Đời sống thú vị thật”. Văn hóa một dân tộc là sản phẩm
tinh thần của dân tộc đó, lẽ ấy đương nhiên; vì vậy mỗi dân tộc đối với vấn đề
nhân sinh có những lối giải quyết khác nhau, hơn nữa có những lối nghiên cứu,
có những lối đặt vấn đề khác nhau. Xét về dĩ vãng, chúng ta thấy tinh thần dân
tộc Trung Hoa có ưu điểm và khuyết điểm. Dân tộc đó có một nghệ thuật vẻ vang
nhưng một khoa học thấp kém, lương tri thì chói lọi mà luận lý thì ấu trĩ, nhàn
đàm về nhân sinh thì thú vị mà lại thiếu cái phong độ học giả về triết lý. Người
ta thường nhận rằng tinh thần Trung Hoa rất thực tế, thực lợi; vài người ưa
nghệ thuật khen rằng dân tộc Trung Hoa có tinh thần triết lý hơn hoạt động;
không vậy thì làm sao chịu đựng được một cuộc sống gay go trong bốn ngàn năm mà
không bị chứng huyết áp tiêu diệt, và tồn tại được tới ngày nay. Không dân tộc
nào chịu đựng nhiều như vậy. Do đó, có hậu quả này: ở phương Tây, hạng người cuồng
nhiều đến nỗi phải nhốt vào các dưỡng trí viện, còn ở Trung Hoa, hạng đó lại
quá hiếm và được người ta tôn trọng. Vâng, đúng là dân tộc Trung Hoa có một triết lý nhẹ nhàng, gần như vui vẻ, điều đó chứng thực các khí chất triết quan của họ.
Triết lý về nhân sinh đó do bốn phần tử dưới đây tạo thành:
tinh thần thực tế rất cao, tinh thần lý tưởng hơi thấp, tinh thần hài hước rất
phát triển, và thi cảm thì mẫn nhuệ.
Hình như thực tế và lý tưởng là hai động lực mạnh nhất của sự
tấn bộ. Hai động lực đó chống đối nhau trong mọi hoạt động của con người, chỉ
khi nào chúng hòa hợp nhau một cách thích đáng thì mới thực có sự tấn bộ. Tại
những dân tộc kiện toàn nhất, như dân tộc Anh, ta thấy sự hòa hợp đó.
Một lý tưởng mơ hồ mà không suy xét kỹ thì luôn luôn nực cười;
tinh thần lý tưởng mà quá mạnh thì có thể nguy hại cho nhân loại, nhân loại sẽ
phí sức đeo đuổi những mục đích ảo tưởng. Một dân tộc mà có nhiều kẻ hoài bão ảo
tưởng thì cách mạng nổi lên liền liền, y như một cặp vợ chồng tính tình bất định,
cứ ba tháng lại thay đổi chỗ ở một lần, vì ở đâu cũng không vừa ý. Cũng may
loài người được phú bẩm thêm tính hài hước, mà công dụng theo ý tôi là kiểu
chính mộng tưởng, bắt nó phải tiếp xúc với thực tế. Con người cần phải mơ mộng,
nhưng cũng cần biết cười những cái mộng của mình. Về phương diện đó, Người
Trung Hoa được trời phú cho một trình độ cao.
Tôi cho rằng tính hài hước liên quan mật thiết với tinh thần
thực tế. Hài hước có khi là độc ác vì làm cho người ta vỡ mộng, nhưng chính nhờ
vậy mà ta khỏi đâm đầu vào bức tường đá của thực tế. Hài hước cũng làm giảm cái
nhiệt tâm của người ta, nhưng nhờ vậy mà người ta mới thọ.
Chỉ biết thực tế mà không biết hài hước, tức là loài vật.
Biết mộng tưởng mà không biết hài hước thì là cuồng nhiệt.
Biết thực tế và biết mộng tưởng là có lý tưởng.
Biết thực tế và biết hài hước là có óc bảo thủ.
Biết mộng tưởng lại thêm óc hài hước thì là mộng.
Biết thực tế, biết mộng tưởng, lại biết hài hước là biết
mình.
Vậy người khôn ngoan, sáng suốt, biết dùng tinh thần hài hước
và thực tế mà điều hòa mơ mộng hoặc lý tưởng của mình. Dưới đây, tôi sẽ dùng những
công thức bán khoa học để rán phân tích tính tình của vài dân tộc. Những công
thức đó hoàn toàn là của tôi, không thể chứng thực, kiểm soát được. Độc giả muốn
phê bình nó, hay thay đổi nó, tùy ý. Tôi chỉ xin chư vị đừng dùng những thống
kê hay những đồ biểu để chứng thực những ý kiến của chư vị thôi. Chúng ta gọi
tinh thần thực tế là T, tinh thần mơ tưởng là L (lý tưởng), tinh thần hài hước
là H, và chúng ta thêm một yếu tố quan trọng nữa: C tức cảm tính. Rồi chúng ta
định với nhau rằng số 4 trỏ một mức quá cao, số 3 trỏ một mức cao, số 2 trỏ một
mức trung bình, số 1 trỏ một mức thấp và chúng ta sẽ có những công thức bán
khoa học dưới đây. Thái độ của con người và dân tộc khác nhau tùy theo thành phần
của các yếu tố kể trên, cũng như các chất hóa học Sulfatehay sulfite.
Không thể dùng những tiếp vị ngữ ate hay ite để phân biệt những tính tình của
các dân tộc được vì không lẽ lại gọi là “tính ate”, “tính ite”, chúng ta đành
phải gọi như vầy: 3 viên thực tế, cộng với 2 viên mơ tưởng, 2 viên hài hước, 1
viên cảm tính, thành người Anh. Và ta viết:
- T3L2H2C1 = người Anh
- T2L3H3C3 = người Pháp
- T3L3H2C2 = người Mỹ
- T3L4H1C2 = người Đức
- T2L4H1C1 = người Nga
- T2L3H1C1 = người Nhật
- T4L1H3C3 = người Trung Hoa
Tôi không biết rõ người Ý, người Ý Pha Nho, người Ấn… để đặt
một công thức cho họ, và tôi nhận rằng những công thức trên cũng đủ gây những
cuộc chỉ trích như bão tố rồi. Tôi tự hứa sẽ tự sửa đổi nó lần lần để tôi dùng,
khi nào tôi được biết thêm những sự kiện mới hơn. Hiện nay, những công thức đó
là một tài liệu về sự tấn bộ của tôi trong ngành khoa học và về những thiếu sót
trong cái ngu của tôi.
Theo tôi, dân tộc Anh xét chung có tinh thần lành mạnh nhất:
cái phần T3L2 của họ ngược hẳn với phần T2L3 của dân tộc Pháp, nhờ vậy
họ có tính cách ổn định. Nhưng tôi cho rằng T3L2H3C2 mới là công thức lý tưởng, vì nhiều mơ tưởng, nhiều cảm tính quá thì không phải là điều tốt. Tôi
cho cảm tính của người Anh một con số thấp quá chăng: C1, nhưng như vậy lỗi tại
ai, nếu không phải là tại họ? Làm sao mà biết được họ có bao giờ cảm xúc hay
không - chẳng hạn vui vẻ, sung sướng, giận dữ, thỏa mãn - vì lúc nào họ cũng
lãnh đạm.
Chúng ta có thể áp dụng công thức trên vài văn nhân, thi sĩ,
chẳng hạn các nhà danh tiếng dưới đây:
- Shakerpeare = T4L4H3C4
- Heine = T3L3H4C3
- Shelley = T1L4H1C4
- Poe = T3L4H1C4
- Lý Bạch = T1L3H2C4
- Đỗ Phủ = T3L2H2C4
- Tô Đông Pha = T3L2H4C3
Tất nhiên nhà nào cảm tính cũng cao hết, nếu không, họ đã
không phải là thi sĩ.
Vậy công thức của tôi về tinh thần dân tộc Trung Hoa là:
- T4L1H3C3
Trước hết chúng ta xét yếu tố C3, nó trỏ rằng người Trung Hoa
mẫn cảm, và đối với nhân sinh có một thái độ nghệ sĩ. Triết gia Trung Hoa nhìn
đời y như thi nhân, triết lý của họ giống thơ hơn là giống khoa học, trái hẳn với
phương Tây. Nhờ họ cảm mạnh được nỗi vui buồn, sự thăng trầm của đời sống nên
ho mới có được một triết lý vui vẻ. Thấy ngày xuân thấm thoát mà người ta cảm
được cái bi kịch của nhân sinh; nhìn hoa nở rồi tàn mà người ta động mối thương
tâm. Mới đầu người ta buồn rầu, chán ngán rồi sau giác ngộ và mỉm cười tinh
ranh như một triết gia lão thành.
Yếu tố T4 trở thành óc thực tế rất cao, có thái độ của một
người không bỏ mồi bắt bóng. Người lý tưởng nói “Đời người chỉ là giấc mộng”;
người thực tế đáp lại: “Đúng, nhưng xin để cho chúng trong giấc mộng đó tận hưởng
lạc thú đi”. Tinh thần đó là tinh thần thực tế của một thi sĩ chứ không phải của
một nhà doanh nghiệp, nó không phải là sự lạc quan của một thanh niên ca hát tiến
tới sự thành công mà sự lạc quan của một ông già vừa vuốt chòm râu bạc phơ vừa
chuyện trò nhỏ nhẹ.
Nhưng tác dụng quan trọng nhất của tinh thần thực tế đó là trừ
bỏ tất cả những cái gì không cần thiết cho sự duy trì đời sống. Vì người khôn
là người chỉ giữ lại vài ba vấn đề như hưởng lạc thú trong gia đình, hưởng lạc
thú ở đời, thưởng thức thiên nhiên và văn hóa, còn bao nhiêu cái phù phiếm khác
thì gạt bỏ cả đi.
Ba tôn giáo của Trung Hoa: Khổng, Lão, Phật đều là những hệ
thống triết học hoằng đại, nhưng cả ba đều bị lương tri pha loãng đi, và rút cục
đều chỉ nhắm giải quyết mỗi vấn đề này là tìm hạnh phúc cho nhân sinh. Một người
Trung Hoa mà đã tới tuổi già thì không tin hẳn một ý tưởng nào, một tín ngưỡng
nào, một phái triết học nào, không chịu suy nghĩ quá về một vấn đề nào cả. Quý Văn Tử nói rằng mình bao giờ cũng suy nghĩ ba lần rồi mới làm; Khổng Tử nghe vậy
bảo một cách hóm hỉnh: “Hai lần cũng đủ rồi” (Tái, tư khả hỉ). Một môn đồ bất
quá chỉ là một học sinh về triết học, còn một người mới thật sự là một học sinh
về nghệ thuật sống, có khi là một vị tôn sư về nghệ thuật sống nữa.
Vậy triết học Trung Hoa có những đặc điểm này: Có tài nhìn đời
sống bằng một nhãn quan nghệ thuật, có ý thức trở về một đời sống bình dị, có một lý tưởng vừa phải, cận tình hợp lý. Kết quả là triết lý đó tôn trọng thi sĩ,
nông dân và những người phóng lãng, điều đó thật lạ lùng.
Tôi, một đứa con tinh thần của phương Đông và phương Tây, tôi
cho rằng loài người quý hơn loài vật ở những điểm này: biết tò mò một cách
không vị lợi, có xu hướng tự nhiên tìm hiểu tri thức, có khả năng mộng tưởng,
hoài bão một lý tưởng cao, mà cũng có khả năng (rất quan trọng) dùng tinh thần
hài hước và tinh thần thực tế mạnh mẽ để kiểm chứng mộng tưởng mà hãm bớt lý tưởng
lại. Sau cùng, có khả năng không phản ứng với hoàn cảnh như một cái máy mà biết
tính toán, quyết định những phản ứng của mình, cải biến hoàn cảnh theo ý mình.
Nói cách khác, con người là một sinh vật tò mò, mơ mộng, hài hước và ngông.
Tôi thấy thế giới ngày nay nghiêm trang quá, cho nên cần có một
triết lý sáng suốt và vui vẻ. Nghệ thuật sống của người Trung Hoa đáng được gọi
là một “triết lý vui vẻ”, như Nietzsche đã nói. Chỉ một triết lý vui vẻ mới
thật là sâu sắc, mà những tư tưởng gia nghiêm trang của phương Tây chưa bắt đầu
hiểu được thế nào là đời sống. Theo tôi, nhiệm vụ của họ phải là dạy cho
chúng ta nhìn đời một cách phù phiếm hơn, vui vẻ hơn phần đông những nhà kinh
doanh, vì nhà kinh doanh nào, tới tuổi năm mươi, có thể nghỉ ngơi được mà không
nghỉ ngơi thì tôi cho là không có tinh thần một triết nhân. Đó là một quan điểm
căn bản chứ không phải là một lời nói phiếm ngược đời đâu. Chỉ khi nào nhân loại
có cái tinh thần vui vẻ nhẹ nhàng đó thì thế giới mới hòa bình, hợp lý được.
Người thời nay coi đời là nghiêm trang quá, cho nên thế giới mới xáo động như vậy.
Vậy tìm nguồn gốc thái độ triết lý đó nó làm cho ta hưởng được lạc thú ở đời,
phát triển được một tính tình yêu hòa bình hơn, hợp lý hơn, bớt cuồng nhiệt đi,
không phải là một việc tốn công vô ích.
Tôi cho triết lý đó là triết lý Trung Hoa, chứ không phải triết lý của một phái nào, vì nó vĩ đại hơn cả Khổng giáo, Lão giáo, nó vượt lên trên
cả hai phái đó và tất cả các triết gia thời cổ, nó mượn tư tưởng của những nhà
đó rồi dung hòa cả lại thành một đại thể, và từ những tư tưởng minh triết trừu
tượng của họ, nó tạo nên một nghệ thuật sống mà bất kỳ ai trong hạng thường
nhân cũng có thể hiểu được. Nghiên cứu văn học, nghệ thuật và triết học Trung
Hoa rồi tổng hợp lại, tôi càng nhận thấy rõ rằng những môn đó đều khuyên ta nên
tỉnh ngộ, đừng mơ mộng hão huyền, cứ hưởng thú ở đời đi, mà lời khuyên đó là đề
tài bất biến, đặc biệt nhất, kiên trì nhất trong bất
kỳ môn nào.
CHƯƠNG II
QUAN NIỆM VỀ NHÂN LOẠI
Khi xét quan niệm của Hy lạp về nhân loại, tôi chú ý nhất tới
điều này: họ cho thần thánh giống với phàm nhân, còn đạo Ky Tô muốn cho phàm
nhân theo gót được Thần Thánh. Cái đám thần ở trên núi Olympe của người Hy Lạp
quả là một bọn ưa khoái lạc, hiếu sắc, đa tình, nóng nảy, gay gổ nhau, lừa dối
nhau, đánh xe và ném lao y như người Hy Lạp vậy; một bọn thần cũng thích hôn
nhân và có vô số con hoang. Thần với người chỉ khác nhau ở chỗ thần làm sấm làm
chớp được, tạo được cây cỏ trên mặt đất, sống hoài mà không chết và uống mật
hoa chứ không uống rượu. Chúng ta thấy thân mật với bọn thần đó quá, có thể đeo
bị trên lưng rồi đi săn với thần Apollon, hoặc giữa đường, vẫy thần Mercure lại,
nói đùa với ngài ít câu, như nói đùa với một người trạm đưa điện tín ở Western
Union (Liên Hiệp Điện Tín Cục của Tây bộ) và nếu câu chuyện phím kéo dài quá
thì ta có thể tưởng tượng rằng ngài sẽ bảo ta: “Đúng lắm. Nhưng xin lỗi nhé,
tôi phải đem gấp điện tín này lại con đường 72”. Thần của dân tộc Hy Lạp
là người, khác xa với Đức Thượng Đế tận thiện của đạo Ky Tô! Những vị thần
trên núi Olympe đó chỉ là một giống người siêu việt thôi, một giống vĩ nhân bất
tử (vĩ nhân hiểu theo nghĩa có nhiều quyền uy, khả năng, chứ không phải có nhiều
đạo đức). Trên cái bối cảnh của núi Olympe đó, người Hy Lạp đã tạo ra được những
truyện đẹp lạ lùng như truyện Démeter [2], truyện Proserpine [3] và truyện Orphée [4]. Sự tín ngưỡng các vị thần đó học cho là
một điều đương nhiên, vì chính Socrate, khi uống thuốc độc cũng rảy một chút rượu
tế thần, cầu thần giúp cho mình mau qua thế giới bên kia. Thái độ đó hơi giống
thái độ Khổng Tử. Ở thời đại đó tất nhiên phải như vậy. Nhưng ở thời đại này,
tinh thần Hy Lạp sẽ có phản ứng nào? Không làm sao mà biết được. Thế giới Hy Lạp
không phải là thế giới ngày nay mà thế giới Ky Tô ngày nay không phải là thế giới
Hy Lạp. Tiếc Thay!
Người Hy Lạp nhận rằng làm người thì phải chết một đôi khi phải
chịu một định mạng cay nghiệt nữa, nhưng xét về đại thể, thì người Hy Lạp yêu đời
sống và vũ trụ và mặc dầu, họ dùng khoa học để khám phá thế giới vật chất, họ
cũng rán tìm trong vũ trụ cái thiện, cái chân và cái mỹ. Bản chất của con người
ra sao thì họ nhận nó như vậy. Họ không tưởng tượng một lạc viên Eden,
cũng không quan niệm một “hoàng kim thời đại”, cũng không tin rằng nhân loại đã
bị đọa lạc, từ thiên cung bị đày xuống cõi trần. Các người theo đạo Ky Tô có thể
bảo rằng họ an phận chịu cái kiếp con người. Nhưng cái kiếp người đó đẹp biết
bao! Một số nhà ngụy biện Hy Lạp cho bản tính con người là tốt, một số khác chê
là xấu; nhưng họ không tranh biện với nhau kịch liệt như Hobbes và Rousseau.
Sau cùng, Platon cho rằng con người gồm cả dục vọng, tình cảm và tư tưởng; và lý tưởng ta cần phải đạt là làm sao dùng sự sáng suốt, chân tri để điều hòa cả
ba phần đó. Theo ông, “tư tưởng” thì bất hủ còn linh hồn thì có cao thượng và
đê tiện tùy con người thích hay không thích sự công bằng, sự học hỏi, sự điều độ
và cái đẹp. Socrate nghĩ rằng linh hồn độc lập mà bất tử. Trong thiên Phédon ông
bảo: “Khi hồn lìa xác mà tự tồn tại, khi xác lìa hồn, không phải là chết thì là
gì”. Tin rằng linh hồn bất tử, đó là một điểm tương đồng của các quan niệm Ky Tô, Hy Lạp, Lão và Khổng.
Người Trung Hoa cho con người là “vạn vật chi linh” và Khổng
giáo còn đặt con người ngang hàng với Trời, Đất nữa: Tam tài [5] là Thiên, Địa, Nhân.
Làm người thì tự nhiên có nhiệt tình, dục vọng và tinh thần.
Tự bản thể thì những cái đó không tốt, không xấu. Đàn ông hay đàn bà, ai cũng
có tính dục, cũng biết đói, biết khát, cũng có lúc sợ, có lúc giận dữ, cũng chịu
cảnh đau ốm, khổ não và cũng chết. Tác dụng của văn hóa theo Khổng giáo là điều
hòa những nhiệt tình cùng dục vọng đó; và một khi điều hòa được thì con người
cũng ngang hàng với Trời, Đất. Từ nhỏ đến già, tình, dục cùng tinh lực của con
người đều thay đổi, phát triển theo từng thời kỳ, cho nên Khổng tử bảo: “Nhỏ
thì phải răn mình vì sự tranh đấu, lớn lên phải răn mình về sắc dục, già thì
phải răn mình về tính tham lam” (Thiếu, giới chi tại đấu; cập kỳ tráng,
giới chi tại sắc; cập kỳ lão, giới chi tại tham), nghĩa là trẻ con thì ham đánh
nhau, người lớn thì ham đàn bà, mà người già thì ham tiền.
Thái độ của người Trung Hoa có thể tóm trong câu này: “Cái gì
cũng nên vừa phải thôi”, đừng đòi hỏi nhiều quá hay ít quá. Con người ở giữa
cái khoảng trời, đất, giữa cái lý tưởng và cái thực tế, giữa những tư tưởng cao
thượng và những tình dục đê hèn. Bản chất của con người như vậy: thèm khát hiểu
biết cũng như thèm khát nước ngọt, thích một tư tưởng đẹp cũng như thích món thịt
bò nấu măng, thưởng thức một câu thơ hay cũng như ngắm nghía một mỹ nữ. Thế giới
như vậy đó, đâu có hoàn hảo. Tất nhiên có thể cải thiện xã hội, nhân loại một
phần nào được, nhưng người Trung Hoa không tin rằng có sự hòa bình hoàn toàn,
có hạnh phúc hoàn toàn. Có một cố sự chứng tỏ quan điểm đó. Một người bị giam ở
địa ngục, sắp được đầu thai, tâu với Diêm Vương: “Như quả Đại Vương muốn cho
tôi trở về dương gian, thì tôi xin được vài điều kiện”. Diêm Vương hỏi: “Điều
kiện nào?”. Người đó đáp: “Tôi xin được làm con một vị Tể tướng, làm cha một vị
Trạng nguyên; tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả
cá, có đủ loại trái cây; lại xin có một người vợ rất đẹp và nhiều tỳ thiếp diễm
lệ, hết thảy đền ngoan ngoãn chiều chuộng tôi; lại xin châu bảo chất đầy phòng,
lúa chất đầy lẫm, tiền bạc chất đầy rương, mà tôi thì được làm công khanh, một
đời vinh hoa phú quý, sống lâu trăm tuổi”. Diêm Vương đáp: “Trên dương gian mà
có được con người như vậy thì ta đây đã đầu thai thay
ngươi rồi!”.
Bản chất của con người đã như vậy (không hoàn toàn tốt, không
hoàn toàn xấu) thì thái độ phải chăng, hợp lý là tìm cách thích ứng với nó. Với
lại cũng không có cách nào tránh được nó kia mà. Tình dục hoặc bản năng bẩm
sinh ra, là điều không có ích lợi gì mấy để đem ra bàn. Nhưng có điều chắc chắn
là để cho chúng sai khiến, làm nô lệ cho chúng thì nguy hiểm lắm. Cho nên phải
giữ cái đạo trung. Cái thái độ cận tình hợp lý đó tạo nên một triết lý khoan
dung, coi những lầm lẫn, những hành vi xấu xa của con người, bất luận về phương
diện pháp luật, luân lý hay chính trị, là có thể tha thứ được nếu nó chỉ là cái
chuyện thường tình. Người Trung Hoa còn cho Trời hay Thượng đế là một vị hoàn
toàn hợp lý cận tình nữa, và nếu chúng ta sống hợp với lương tri của ta thì
không sợ gì cả, mà nếu lương tâm của ta được yên ổn, thì không còn gì sướng
hơn, dẫu là ma quỷ cũng không dám động đến ta. Có một Thượng Đế hợp lý cận tình
quản nhiệm công việc của những người mà đa số cũng hợp lý, cận tình, như vậy
thì thế giới sẽ hoàn toàn có trật tự, thái bình vô sự. Bọn chuyên chế sẽ chết;
bọn phản quốc sẽ tự tử; bọn ăn cắp sẽ bị bắt; kẻ giàu tham ham tom góp bảo vật,
suốt đời lo lắng, thì con cái họ sẽ phá tán gia sản, và những bảo vật đó sẽ vào
tay các gia đình khác; kẻ sát nhân sẽ không tránh khỏi tội chết; những đàn bà bị
nhục sẽ được báo thù. Đôi khi, cũng có người bị ức hiếp gào lên: “Trời không có
mắt”, nhưng hiếm lắm. Rút cục, dù theo Lão giáo hay theo Khổng giáo thì cái mục
đích duy nhất đều là tìm hiểu Tự nhiên để hòa hợp với Tự nhiên, và nếu cần phải
đặt tên cho dễ gọi thì tôi đặt cho triết lý đó cái tên: “Chủ nghĩa Tự
nhiên hợp lý”. Một người theo chủ nghĩa đó sẽ sống một cách thỏa mãn, như vạn vật.
Đúng như các phụ nữ vô học người Trung Hoa thường nói: “Cha mẹ sinh ra mình,
thì mình sinh con. Còn việc gì khác để làm nữa?”.
Có một triết lý ghê gớm trong lời đó. Đời sống thành ra một
trình tự về tình lý, mà vấn đề linh hồn bất tử thành ra vấn đề phụ. Do đó mà ta
thấy những ông lão trịnh trọng dắt cháu nội đi mua kẹo mạch nha cho nó, vừa đi
vừa nghĩ rằng trong mười năm nữa mình sẽ xuống hố hoặc về với ông bà. Điều quý nhất mà chúng ta có thể hi vọng được ở đời này là đừng có những đứa con cháu
làm nhục cho ta. Tất cả đời sống Trung Hoa quy cả vào ý tưởng duy nhất đó.
Vậy tình thế của loài người như vầy: chúng ta muốn sống nhưng
phải sống trên trái đất này chứ không phải sống trên trời. Đừng để cho óc ta cất
cánh bay bổng lên thế giới của các vị thần rồi mà quên khuấy kiếp trần đi.
Chúng ta đâu có bất tử như các vị thần? Chúng ta sẽ chết kia mà. Đối với ai muốn
sống hoài, bất tử, thì cái đời người sáu bảy chục năm quả là ngắn ngủi, nhưng đối
với người nào biết khiêm tốn một chút thì bấy nhiêu cũng khá dài rồi đấy. Trong
bảy chục năm học hỏi được nhiều lắm chứ mà hưởng thụ cũng được nhiều lắm chứ. Sống
bảy chục tuổi thì được nhìn thấy đời mình, đời con mình, đời cháu mình, thế là
ba thế hệ; được mục kích những cái ngu xuẩn và học những cái khôn của loài người
trong ba thế hệ, nhiều đấy chứ! Người nào khôn thì tới cái tuổi đó, sau khi được
chứng kiến biết bao sự thay đổi về thời trang, về phong tục, luân lý, chính trị,
tất phải thỏa mãn lắm, đứng dậy ra về mà khen rằng: “Vở tuồng hay quá” trong
khi bức màn từ từ hạ xuống.
Vì chúng ta trần tục, sinh trên cõi trần, nên không thể thoát
ly trần thế được. Trên cõi trần này chúng ta chỉ là những khách qua đường,
nhưng như vậy có gì đâu để mà than thở? Dù cõi trần này chỉ là một khám đường u
ám, thì cũng cứ chuẩn bị đời sống được chừng nào hay chừng đó; mà thực ra nó
không phải là một khám đường, nó là một vũ trụ cực đẹp đẽ để tiếp đón ta trong
già nửa một thế kỷ; không tận lực chuẩn bị đời sống của ta cho được mỹ mãn thì
chẳng hóa ra ta là người vong ân bạc nghĩa ư? Đôi khi chúng ta tham lam quá, tỏ
vẻ miệt thị trái đất tầm thường mà lại rất khoan hồng, nhân từ này. Đáng lẽ
chúng ta phải có cảm tình, phải thực tâm yêu mến bà Mẹ của vạn vật đó chứ, phải
quyến luyến với cái nơi mà ta gởi tạm cái thể xác cùng tinh thần của ta đó chứ.
Ta nên như Thoreau - một nhà văn Mỹ theo chủ nghĩa tự nhiên ở
thế kỷ 19 - coi mình như đồng loại với trái đất và cũng như trái đất, gặp mùa
đông thì cứ nhẫn nại đợi một tia nắng xuân. Dù sao, trần thế mới là chân thực,
thiên đường chỉ là hư ảo: được sinh ở giữa cái khoảng chân thực và hư ảo đó, quả
là hạnh phúc cho loài người.
Bất kỳ một triết lý thực tế, lương hảo nào cũng phải thừa nhận
rằng chúng ta có một thể xác. Đã đến lúc chúng ta phải thừa nhận rằng mình là
loại động vật; từ khi có những tấn bộ về khoa sinh vật học, nhất là về khoa
sinh hóa học (sinh vật và hóa học) thì điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Khốn
thay, các vị “sư”, các triết gia của ta lại thuộc vào cái giới mệnh danh là tri
thức, mà các nhà tri thức lại tự hào về cái tinh thần của họ cũng như các bác
thợ giày tự hào về miếng da họ dùng. Đôi khi các nhà đó cho danh từ “tinh thần”
chưa được mắc mỏ, trừu tượng mà dùng những danh từ “tinh túy”, “linh hồn” và viết
bằng chữ hoa để nhát ta. Thế là trong cái xưởng học thuật, thân xác con người
đã biến thành tinh thần, rồi kết đặt lại thành “tinh túy”, nhưng người ta quên
rằng ngay như chất rượu kia, sở dĩ ta uống được là vì nó có một “thực thể”, chứ
nếu chỉ có “tinh túy” không thôi thì làm sao uống cho vô [6]. Và bọn phàm nhân tội nghiệp chúng ta lại
phải uống cái “tinh túy ngưng tụ ” đó. Cái thái độ quá trọng tinh thần đó thật
là tai hại, làm cho người ta không nhận thức được đầy đủ bản chất con người. Sở
dĩ nó phát sinh là vì người ta không hiểu rõ về sinh vật học, tâm lý học, về
nghĩa vụ của ngũ quan, của cảm xúc và nhất là của bản năng trong đời sống. Con
người đã do nhục thể và tinh thần tạo thành thì nhiệm vụ đầu tiên của triết học
là phải trỏ cho ta rằng hai phần đó điều hòa nhau.
Có điều này hiển nhiên nhất là các triết gia không chịu nhận
rằng chúng ta có một thân thể. Thấy những khuyết điểm, những bản năng, những
xung đột đã mang của chúng ta, các nhà thuyết giáo đâm ra chán ngán, đôi khi muốn
rằng chúng ta được như những vị thiên thần, nhưng chúng ta hoàn toàn không tưởng
tượng nổi đời sống các vị thiên thần đó ra sao. Đa số cho rằng thiên thần có một
thân thể, một hình dáng như chúng ta trừ hai cánh. Lắm lúc tôi nghĩ rằng như vậy
có lợi ngay cả cho các vị thiên thần nữa.
Vì ta thử tưởng tượng đời sống các vị thiên thần sẽ khổ sở ra
sao nếu các vị đó không có một thân thể, không có cặp mắt để nhìn dòng nước
trong, không có chân để nhúng vào dòng nước đó mà cảm thấy mát mẻ thú vị, không
được thấy một dĩa thịt vịt Bắc Bình hoặc thịt vịt Long Island, một dĩa bánh kẹp,
không có lưỡi để nếm những thức đó, không có răng để nhai rau ráu, không được
nhìn vẻ mặt của những người thân yêu, không có một chút cảm xúc nào cả. Ôi buồn
biết mấy, nếu một này nào đó chúng ta phải trở lại cõi trần này như những vị thần
linh, lặng lẽ tiến vô phòng của con chúng ta để nhìn chúng ngủ, mà không có bàn
tay vuốt ve chúng, không có cánh tay để ôm chúng, không có ngực để cảm thấy cái
hơi nóng của chúng, không có vai để chúng áp mặt, ngả đầu vào, không có tai để
nghe tiếng nói của chúng.
Thuyết thiên thần không có thể xác là một thuyết mơ hồ, không
làm cho ta mãn ý. Kẻ nào bênh vực thuyết đó có thể nói: “Phải, nhưng trong thế
giới thần linh, chúng tôi không có những thỏa mãn trần tục đó”. “Thế thì có cái
gì thay vào không?”. Bí, hoặc chỉ có thể đáp: “Có sự hư vô, sự hòa bình, sự an
tĩnh”. “Như vậy lợi gì không?”. “Khỏi phải làm việc, khỏi phải khó nhọc, khỏi
phải lo buồn”. Vâng, tôi nhận rằng bọn tội nhân bị cực hình sẽ ao ước được một
cảnh thiên đường như vậy lắm.
Nếu ta tìm hiểu kĩ cơ năng của thân thể và trình tự của tinh
thần, thì chúng ta sẽ có một nhãn quan đích xác hơn, rộng rãi hơn về bản thân
chúng ta, và danh từ “động vật” sẽ giảm được một phần cái ý nghĩa hep hòi, độc
ác mà trước kia người ta gán cho nó. Câu tục ngữ: “Hiểu tức là tha thứ” có thể
đem áp dụng ở đây. Hễ hiểu rõ cơ năng của thân thể thì ta sẽ không khinh thị
thân thể ta nữa, điều đó có vẻ lạ lung mà rất đúng. Xét bộ tiêu hóa của ta, đừng
vội bảo nó cao quí hay đê tiện, mà cứ tìm hiểu nó đi; khi đã tìm hiểu rồi ta sẽ
thấy nó rất cao quý. Tất cả các cơ năng khác như: đổ mồ hôi, bài tiết, nội tiết,
cảm xúc, tư tưởng… thì cũng vậy, cũng đều cao quí cả. Người ta sẽ không khinh
trái thận nữa; người ta sẽ không cho một chiếc răng hư là dấu hiệu của sự suy
nhược, là lời nhắc nhở nên sửa soạn linh hồn để mà chầu trời nữa, mà người ta lại
phòng một bác sĩ nha khoa. Tôi vẫn thích được thấy một triết gia sâu răng hoặc
một thi sĩ lạc quan bị bệnh khó tiêu. Tại sao triết gia đó lại không tiếp tục
bàn luận đi mà lại ôm hàm răng y như chúng ta vậy? Tại sao thi sĩ đó không ca
hát nữa? Quên cái công dụng của ruột, chẳng phải là vô ân bạc nghĩa ư? Nếu nó
không hoạt động điều hòa thì tinh thần có vui vẻ mà ca hát được không?
Khoa học nghiên cứu kỹ sự kỳ diệu và sự bí mật của các cơ
năng trong thân thể, ít nhất cũng đã dạy cho ta biết tôn trọng thân thể ta hơn.
Trước hết, về phương diện khởi nguyên của loài người, chúng ta bắt đầu hiểu rằng
chúng ta không do đất sét tạo thành mà được đứng đầu các loài động vật. Rồi về
phương diện thân thể con người, chúng ta được thấy rằng nó bí mật và diễm lệ vô
cùng. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng vật chất như có trí năng. “Mỗi bộ phận
trong cơ thể như hiểu được những nhu cầu hiện tại và tương lai của toàn thể và
tự biến đổi để thích ứng với những nhu cầu đó. Cơ thể ta nhận định được cái gần
và cái xa, tương lai và hiện tại” (Alexis Carrel trong cuốn L’Homme, cet
inconnu).
Chẳng hạn, thật là lạ lùng, ruột của ta tự biết chữa lấy những
vết thương của nó, hoàn toàn ngoài ý muốn của ta: “Khi một khúc ruột nào bị
thương thì nó không vận động nữa, tự tê liệt trong một thời gian như để ngăn
các chất dơ trong ruột, không cho nó chảy vô trong bụng. Rồi có một bộ phận
khác ở trong ruột tự tiến tới, đắp lên vết thương, dính chặt vào nó. Bốn năm giờ
sau, lỗ hổng đã bít kín rồi. Trong trường hợp bác sĩ ngoại khoa dùng kim khâu vết
thương thì cũng chính là nhờ ruột có một bộ phận tự đắp lên, dính vào vết
thương mà ta hết bệnh”.
Nhục thể thông minh như vậy thì tại sao ta lại khinh thân thể
ta chứ? Nó là một bộ máy biết tự dinh dưỡng lấy, tự điều khiển lấy, tự sửa chữa
lấy, tự sinh sản lấy; một bộ máy lắp sẵn từ khi ta mới sanh, chẳng cần chăm sóc
tới mấy mà cũng chạy liên tiếp ba phần tư thế kỷ như chiếc đồng hồ quả lắc của
ông nội chúng ta.
Bộ máy đó là một loại thính thị vô tuyến, có một hệ thống thần
kinh và lâm ba (lymphe), so với các máy điện tín, điện thoại phức tạp nhất thế
giới thì hoàn hảo hơn nhiều. Nó lại có một hệ thống để sắp đặt các tin tức, tài
tình đến nỗi tin tức nào ít quan trọng thì sắp vào một cái kho trên thượng
lương còn những tin thường dùng tới thì sắp vào chỗ tiện lợi hơn; nhưng cả những
tin sắp trong kho, từ ba chục năm trước, họa hoằn mới dùng tới, mà cũng không
thất lạc, muốn tìm là được liền. Bộ máy đó tiến được như một chiếc xe hơi, nó
hoàn toàn không có tiếng động và chiếc xe hơi đó nếu gặp tai nạn, bể kính hoặc
gãy tay lái, thì tự nó tạo ra chất để thay thế tấm kính, bánh tay lái, cùng lắm
thì dùng miếng tay lái còn lại chạy đỡ cũng được, tức như trường hợp một trái
thận bị cắt bỏ thì trái thận kia bành trướng ra, tăng sức hoạt động lên để lọc
hết số lượng nước tiếu bình thường. Nó lại giữ được một nhiệt độ là 370, và tạo
lấy những chất hóa học để biến đổi thức ăn thành da, thịt…
Hơn nữa, nó có ý thức về tiết điệu của đời sống, về thời
gian, chẳng những về ngày, giờ mà cả về những quãng dài mười năm. Vì cơ thể ta
quy định tuổi thơ, tuổi dậy thì, tuổi thành niên, khi nào không cần lớn thêm nữa
thì nó ngưng phát triển. Nó tự chế tạo những chất trừ độc, mà kết quả kỳ diệu lạ
lùng. Mà nó làm tất cả những công việc đó trong sự an tĩnh hoàn toàn, không náo
động như các nhà máy, nhờ vậy mà các nhà siêu hình học của chúng ta mới được
yên ổn, không bị quấy rầy để tự do suy nghĩ về cái “tinh thần” hoặc cái “tinh
túy” của mình.
Tôi cho rằng về phương diện sinh lý, đời sống con người không
khác chi một bài thơ. Nó có vần luật, tiết điệu, có những chu kỳ thịnh suy của
nó. Mới đầu là tuổi nhỏ ngây thơ rồi tới tuổi xuân vụng về, rán thích ứng với
xã hội, nhiều nhiệt tình, nhiều tham vọng, dại dột mà có lý tưởng; tiếp tới một
tuổi hoạt động kịch liệt, rút được nhiều kinh nghiệm trong xã hội và về bản chất
con người; tới tuổi trung niên, hoạt động giảm đi, tính tình dịu đi, như một
trái cây đương chín hoặc một thứ rượu ngon đã hết nồng, đối với nhân sinh lần lần
có một quan niệm khoan dung hơn, ôn hòa hơn, nhưng cũng ngạo nghễ hơn, “bất chấp”
hơn; rồi tới khi bắt đầu xế bóng, các hạch nội tiết hoạt động giảm đi, chúng ta
mới thật là có được cái triết lý của tuổi già, cái tuổi hòa bình, ổn định, nhàn
dật mà mãn nguyện; sau cùng, sinh mệnh tàn lụi và ta ngủ một giấc vĩnh viễn.
Đáng lẽ, người ta phải nhận được cái đẹp của những nhịp điệu đó trong đời sống
như nhận được cái đẹp trong những bản đại hòa tấu chứ; nhận được chủ đề, những
chỗ gấp, chỗ khoan cùng chỗ hòa âm cuối cùng của nó. Sự tiến triển của các chu
kỳ trong một đời sống bình thường thì đại thể là như vậy; nhưng bản nhạc của đời
cũng do cá nhân diễn tấu nữa. Một vài người tấu vụng, nhiều âm không điều hòa,
mỗi lúc một lớn mãi lên, át hẳn cả điệu chính, có khi còn làm cho khúc nhạc phải
nhưng lại và người đó phải nhảy xuống sông hoặc bắn một phát súng vào đầu mình.
Chỉ tại những người đó thiếu sự giáo dục, chứ bình thường thì đời người phải tiến
trong một một cuộc vận chuyển rất mực nghiêm túc.
Ai cũng phải nhận rằng đời người từ tuổi thơ, tuổi tráng niên
tới tuổi già là một sự hòa hợp mỹ mãn, cũng như ngày thì có buổi sáng, buổi trưa
và buổi chiều mà năm thì có bốn mùa. Không có cái gì tự nó tốt hay xấu. Hễ hợp
với tuổi với mùa thì là tốt. Nếu chấp nhận quan niệm sinh lý đó và rán sống hòa
hợp với tuổi của mình thì chỉ trừ những kẻ điên rồ, tự cao tự đại, hoặc hoài
bão những lý tưởng viễn vông, còn thì ai cũng nhận rằng đời có thể đẹp như một
bài thơ. Shakespeare đã diễn ý đó trong một thiên nói về bảy giai đoạn trong một
đời người, và nhiều văn nhân Trung Hoa cũng đã chủ trương như vậy. Lạ thay,
Shakespeare không lúc nào có nhiều tinh thần tôn giáo và rất ít lưu tâm đến tôn
giáo. Tôi cho rằng sở dĩ ông vĩ đại là nhờ đó; bản chất con người ra sao thì
ông nhận nó như vậy không xen vào sự an bài của hóa công, cũng như không xen
vào cá tính các nhân vật trong kịch của ông. Shakespeare y như hóa công, y như
thiên nhiên; không có lời khen nào vinh dự cho một nhà văn, hoặc một nhà tư tưởng
bằng lời ấy. Ông chỉ sống, nhận xét, rồi qua thế
giới khác.
Chú thích:
[1] Trong tiết này, tác giả không
xem xét quan niệm của những người theo đạo Phật, vì “quan niệm đó bi thảm quá”;
nhưng ông có xét quan niệm của những người theo đạo Ky Tô trong ba trang đầu;
chúng tôi lược bỏ những trang đó vì thấy không cần thiết cho ý nghĩa của toàn
chương.
[2] Démeter: nữ thần Đất, dạy nghề
nông, che chở hôn nhân. Nữ thần đi khắp trời đất tìm con gái là Parséphone bị
Hadès bắt cóc.
[4] Orphée: thần giỏi thơ và nhạc,
vợ là Eurydice chết, Orphée xuống âm phủ, đòi Pluton (tức như Diêm Vương) trả lại
Eurydice cho mình.
[6] Ý tác giả muốn nói: tinh thần
mà không có vật chất thì vô dụng. Ông mỉa những người quá trọng tinh thần và
khinh vật chất.
CHƯƠNG III
DI SẢN ĐỘNG VẬT TÍNH TRONG TA
Quan niệm của khoa sinh vật học trình bày ở chương trên giúp
chúng ta nhận định được cái đẹp và cái tiết điệu của đời sống mà cũng cho ta thấy
rằng năng lực của ta có hạn. Nhớ rằng mình là dòng dõi của giống người
Néanderthal hoặc giống người Bắc Kinh, và xa hơn nữa, của loài vượn hình người [1] thì chúng
ta sẽ có một ý thức về cái hài kịch của loài người, nghĩa là thấy những tinh
ranh của loài người thì biết tán thán mà thấy những tội lỗi khuyết điểm của
loài người thì biết mỉm cười, khoan dung. Đọc tập luận văn rực rỡ “The
Simian World” (Thế giới người vượn này) của Clarence Day, chúng ta có thể
tha thứ cho mọi người, tha thứ các nhân viên kiểm tra kiểm duyệt, các nhà tuyên
truyền, các nhà xuất bản phát xít, các xướng ngôn viên trên đài phát thanh Quốc
Xã, các nghị viên, lập pháp ủy viên, các nhà độc tài, các nhà chuyên môn kinh tế,
các đại biểu dự các hội nghị quốc tế và tất cả các ông bự muốn can thiệp vào đời
sống của người khác. Chúng ta có thể tha thứ cho họ được vì chúng ta đã bắt đầu
hiểu họ.
Nghĩ vậy, tôi càng khen cái tinh khôn và cái kiến thức của
con khỉ trong Tây Du Ký. Sự diễn tiến của lịch sử nhân loại giống với cuộc
hành trình qua Tây Thiên của những động vật nửa người nửa thú trong truyện đó.
Con khỉ Tôn Ngộ Không tượng trưng sự thông minh của loài người; con heo Trư Bát
Giới tượng trưng cái phần bẩm tính thấp nhất của chúng ta, Sa Họa thượng tượng
trưng cái lẽ phải thông thường; còn Huyền Trang pháp sư tượng trưng trí tuệ và
thánh đạo. Pháp Sư được bọn tùy tòng kỳ quái đó hộ vệ, từ Trung Hoa qua Tây
Trúc thỉnh kinh. Lịch sử tấn bộ của loài người y hệt cuộc hành trình của bọn
người có nhiều khuyết điểm đó, vì ngu xuẩn hoặc vì tàn ác mà luôn luôn gặp tai
nạn hoặc gặp những tình cảnh tức cười. Biết bao lần Pháp sư phải trừng trị con
khỉ tinh quái và con heo ham mê khoái lạc kia! Trong cuộc hành trình của nhân
loại tới sự hoàn thiện của thần, thánh, các bản năng xấu xa xuất hiện liên liền:
nhu nhược, giận dữ, muốn phục thù, hung bạo, ham khoái lạc, không độ lượng, nhất
là tự cao tự đại. Con người càng tài giỏi thì sức phá hoại càng tăng, và cũng
như con khỉ Tôn Ngộ Không có phép đằng vân giá võ, ngày nay chúng ta có thể bay
lên mây, lộn nhào trong không trung, nhổ những lông chân của chúng ta để tạo
thành những con khỉ khác, sai chúng tấn công kẻ thù của ta, lại có thể gõ cửa
Thiên môn, gạt phắt vị thần coi cửa ra một bên, sầm sầm tiến vào đòi được một
chỗ ngồi trong cuộc quần tiên đại hội.
Con khỉ đó thông minh nhưng tự cao tự đại; nó có đủ phép thần
thông để vào cửa Thiên Đình được, nhưng không có đủ lương tri, đủ sự quân bình
về tinh thần để sống yên ổn trên trời. Nó thừa tư cách để sống cái đời sống của
phàm nhân trên cõi trần này, nhưng thiếu tư cách để sống chung với các vị tiên
bất tử trên Trời. Trong bản chất của nó, có cái gì thô bạo, ngỗ nghịch, như
vàng còn lẫn chút cặn vậy, cho nên khi nó lên Thiên cung, thì nó gây một cuộc hỗn
loạn kinh khủng, như một con sư tử cuồng xổng chuồng gánh xiếc, vùng chạy khắp
châu thành. Không chừa được tánh ác, nó phá tiệc yến hằng năm do Tây Thiên
Vương Mẫu đãi các thần tiên. Giận dữ vì không được mời dự thắng hội bàn đào, nó
tự xưng là sứ giả của Thượng Đế, nó đánh lừa Xích cước Đại tiên, để Đại tiên đi
lạc đường rồi nó tự biến thành Đại tiên, tới dự hội. Nhiều vị tiên khác cũng bị
nó gạt như vậy. Vô tới tòa Bảo Các nó thấy chưa ai tới, chỉ có những người đứng
coi những vò quỳnh tương. Nó bèn dùng phép thần thông, biến thành một con trùng
đốt những người giữ vò, những người này lăn ra ngủ, thế là nó tha hồ uống quỳnh
tương. Khi nó đã nửa say rồi, nó lảo đảo tiến vô đại sảnh, ăn những trái bàn
đào bày trên đài. Khách tới, thấy cảnh ngổn ngang bừa bãi trong sảnh thì nó đã
qua nhà Thái Thượng Lão Quân tính ăn trộm Kim đan trường sinh bất tử của ngài.
Sau cùng, nửa sợ bị nghiêm trị vì đã phá tiệc bàn đào, nửa tức vì không được mời
dự tiệc, nó trốn khỏi Thiên cung mà trở về Tề Thiên phủ, kể chuyện phá hội bàn
đào cho bọn khỉ thần dân của nó nghe rồi phất cờ phản nghịch, trên cờ viết bốn
chữ “Tề Thiên Đại Thánh”, gây một cuộc chiến tranh kinh khủng với các chiến
sĩ nhà Trời; hai bên bất phân thắng bại cho tới khi Quan Thế Âm Bồ Tát ở trên
mây phóng ra một cành hoa, nó té nhào và bị bắt.
Chúng ta cũng như Tôn Ngộ Không, luôn luôn phản động, chứ
không chịu hòa bình, khiêm tốn, cho đến khi bị Quan Thế Âm Bồ Tát khắc phục.
Chúng ta phải đợi đến khi Khoa học đã thám sát khắp vũ trụ rồi mới thực là học
được bài học khiêm tốn. Vì trong Tây du ký, con khỉ Tôn Ngộ Không, sau khi
bị bắt, vẫn còn nuôi ý phản nghịch, chất vấn Ngọc Hoàng Thượng Đế tại sao không
muốn phong cho nó một chức cao trong số các thần tiên; sau cùng thua cuộc với
Như Lai Phật Tổ hay với Thượng Đế gì đó, nó mới chịu khuất phục, tự bỏ cái tên
Tề Thiên Đại Thánh đi. Nó bèn bay trên không trung, nhanh như chớp, cho tới khi
gặp năm ngọn núi, cho rằng chỗ đó không còn vết người nào nữa. Để lưu lại một dấu
vết chứng tỏ rằng nó đã tới đó, nó tiểu tiện vào chân ngọn núi ở giữa rồi rất tự
mãn, nó quay về, kể chuyện lại với Phật Tổ. Phật Tổ xòe một bàn tay ra, biểu nó
ngửi mùi nước tiểu của nó ở dưới ngón giữa, cho nó thấy rằng nó bay cùng trời đất
như vậy mà rút cục chỉ quanh quẩn trong lòng bàn tay của Ngài. Lúc đó nó mới chịu
cúi đầu quy phục, bị Phật Tổ dùng xích sắt cột nó vào một phiến đá luôn trong
năm trăm năm; hết thời gian đó nó được Huyền Trang Pháp sư phóng thích và theo
Pháp sư qua Tây Trúc thỉnh kinh.
Con khỉ Tôn Ngộ Không đó, hình ảnh của chúng ta đó, mặc dầu
quái ác, tự cao tự đại mà thực ra thật dễ thương. Cho nên nhân loại có nhiều
nhược điểm, khuyết điểm thì chúng ta cũng nên yêu
nhân loại.
Vậy loài người cách biệt xa với Thượng Đế toàn thiện, cũng
như con kiến cách biệt xa với chúng ta. Chúng ta thông minh thật và thường hơi
tự mãn. Nhưng theo các nhà sinh học thì mãi tới gần đây phần tinh thần của
chúng ta mới phát triển, chúng ta mới biết dùng ngôn ngữ để biểu thị tư tưởng,
và hiện nay vẫn giữ nhiều bản năng của loài động vật, những bản năng dã man mà
rất mạnh, mạnh hơn những động lực tinh thần nhiều, thành thử về phương diện cá
nhân cũng như về phương diện đoàn thể, chúng ta có nhiều hành động xấu xa. Ngày
nay chúng ta hiểu được phần tinh thần của chúng ta ra sao rồi. Chúng ta thông
minh thật, nhưng chưa đủ. Bộ óc của chúng ta chỉ là một đốt xương sống khuếch
trương mà thành cho nên công dụng của nó cũng như công dụng của xương sống, chỉ
là để cảm thấy cái nguy, kịp thời phản ứng hầu bảo vệ sinh mạng - chứ không phải
để suy nghĩ. Về việc suy nghĩ thì thường thường chúng ta dở lắm. Tước sĩ
Balfour đáng được lưu danh chỉ nhờ nói được một câu mạnh mẽ này: “Bộ óc con người
là một cơ quan để kiếm thức ăn cũng như cái mồm con heo vậy thôi”. Tôi không
cho lời đó là ngạo đời mà cho rằng ông sáng suốt hiểu bản chất của chúng ta lắm.
Chúng ta không hoàn toàn? Phải. Nhưng Thượng Đế tạo ra chúng
ta như vậy mà! Tỵ tổ của chúng ta bơi lội, bò, chuyền cành nọ sang cành kia ở
trong rừng hoang như Tarzan. Theo tôi, trong mỗi giao đoạn tiến hóa, con người
đều hoàn toàn cả không có gì phải điều chỉnh. Nhưng ngày nay chúng ta phải làm
một công việc điều chỉnh thiên nan vạn nan…
Khi tự tạo ra một nền văn minh là loài người bắt đầu tiến vào
một cuộc phiêu lưu mà, xét về phương diện sinh vật, chính hóa công cũng phải lấy
làm khủng khiếp. Về sự thích ứng với tự nhiên thì mọi sinh vật đều là toàn mỹ cả,
vì vật nào không thích ứng nổi thì đã bị tiêu diệt rồi. Nhưng ngày nay, chúng
ta không phải là thích ứng với tự nhiên, mà là thích ứng với cái mà chúng ta gọi
là văn minh. Trong thiên nhiên, tất cả các bản năng đều tốt, nhưng trong xã hội,
chúng ta lại cho chúng ta dã man. Con chuột nào cũng đi mò thức ăn - có phải vì
vậy mà chúng ta thiếu đạo đức đâu - con chó nào cũng sủa, con mèo nào đêm cũng
đi… o mèo, con sư tử nào cũng giết loài vật khác, con ngựa nào thấy nguy cũng
chạy, con rùa nào cũng ngủ gần trọn ngày, và con sâu, con rắn, con chim, bất kỳ con thú nào cũng sinh sản giữa “công chúng”. Vậy mà áp dụng quan niệm của ta về
văn minh để xét thì ta chê con chuột là ăn trộm, con chó là ồn quá, con mèo là
không chung tình, con sư tử, con cọp nào cũng hiếu sát, con ngựa nào cũng là
hèn nhát, con rùa nào cũng là làm biếng, và cuối cùng, con sâu, con rắn, con
chim, con thú nào cũng là tục tĩu. Bạn thử nghĩ, có phải là giá trị đã đảo lộn
cả không? Chính vì vậy đó mà bây giờ chúng ta mới ngồi đây để than thở, tự hỏi
tại sao hóa công lại tạo ra chúng ta không hoàn toàn như vậy.
Con người ai cũng có một thân thể sớm muộn sẽ bị hủy diệt, điều
đó có nhiều hậu quả quan trọng. Trước hết, không ai sống hoài; rồi sau, ai cũng
có một cái bao tử, nhiều bắp thịt cứng rắn, và một bộ óc tò mò. Những hậu quả
đó ảnh hưởng sâu xa không bao giờ ta nghĩ tới; nhưng nếu chúng ta không nhận thấy
nó một cách rõ ràng thì chúng ta không thể hiểu được bản thân chúng ta và nền
văn minh của chúng ta.
Con người bất luận giàu sang, nghèo hèn, cũng được Trời cho một
chiều cao là từ thước rưỡi tới thước tám và một tuổi thọ là năm sáu chục năm.
Tôi ngờ rằng cái luật thiên nhiên đó quyết định mọi chính thể dân chủ, mọi loại
thi ca và mọi thuyết triết học. Hóa công sắp đặt như vậy, xét ra quả là tiện.
Chúng ta không cao quá, không thấp quá, và riêng phần tôi, cao một thước sáu
mươi ba, tôi lấy làm thỏa mãn lắm. Tôi cho năm sáu chục năm là dài quá rồi;
nhưng hóa công sắp đặt như vậy cũng là hoàn hảo. Năm sáu chục năm bằng ba thế hệ,
thành thử khi chúng ta sanh ra còn được thấy ông nội ít năm trước khi người mất,
rồi khi chúng ta tới tuổi già thì được thấy nhiều đứa cháu nội ra đời. Về điểm
đó, tất cả triết lý thu gọn trong câu tục ngữ Trung Hoa này: “Dù có ngàn khoảnh
ruộng tốt cũng chỉ ngủ trên chiếc giường năm thước” (Gia hữu thiên khoảnh lương
điền, chỉ thụy ngũ xích cao sàng) [2]. Tôi không cho
rằng một vị quốc vương cần một chiếc giường dài quá bảy thước Trung Hoa mà dù
là quốc vương thì tối tối cũng phải lên giường ngủ. Vậy thì tôi có thua kém gì
một vị quốc vương đâu. Và dù một người giàu nứt vách đổ tường đi nữa thì cũng
ít khi thọ quá cái tuổi “cổ lai hy” là bảy chục.
Về sinh mệnh, ai có phần nấy và không ai có quyền để áp được
toàn bộ; nhờ vậy chúng ta mới sống một cách thảnh thơi được. Đáng lẽ là những
người mướn phòng vĩnh viễn trên cõi trần này thì chúng ta chỉ là những người
khách qua đường, chủ điền hay tá điền cũng vậy. Thế là cái ý nghĩa của danh từ
địa chủ đã giảm đi rồi. Ít người nhận đúng được ý nghĩa của sự bình đẳng trước
sự chết thì Nã Phá Luân cũng chẳng coi sự bị đày ra đảo Sainte Hélène ra cái gì
đâu, và tôi không hiểu như vậy tình trạng châu Âu sẽ biến đổi ra sao. Không có
sự chết thì làm gì có tiểu sử các anh hùng và các nhà xâm lăng; giả sử như có
thì tác giả các tiểu sử của họ chắc chắc không khoan hồng như vậy đâu. Chúng ta
tha thứ bọn vĩ nhân trên thế giới này vì họ chết rồi mà chúng ta có cảm tưởng rằng
mình ngang hàng với họ. Mỗi đám tang đều mang một tấm phướn viết bốn chữ này: “Nhân
loại bình đẳng”. Do đó, ta mới có ý thức rằng đời sống là một hài kịch, và mới
có đề tài cho thi ca và triết học. Shakespeare sâu sắc biết bao khi ông cho
Hamlet [3] đi tìm tàn cốt
cao quý của Vua Alexandre và thấy nấm tro tàn đó dùng để bịt miệng một thùng rượu.
Alexandre chết, người ta chôn Alexandre, Alexandre trở về cát bụi, cát bụi tức
là đất, đất đó trộn với đất sét, vậy thì tại sao ta lại không có thể dùng tro
tàn của Alexandre để bịt một thùng rượu được? Tinh thần hài hước của ông còn hiện
rõ hơn nữa khi ông cho vua Richard II đàm luận về các nấm mồ, các con dòi trong
áo quan, các mộ chí, và các truyện hoạt kê của các con rùa lúc nhúc trong sọ một
ông vua. Omar Khayyam (một thi sĩ Ba Tư ở thế kỷ thứ X) và Giả Phù Tây - biệt
danh là Mộc Bì Tử, một thi sĩ ẩn cư của Trung Hoa - đều đem cái tinh thần hài
hước về sự chết ra giải thích lịch sử, cho những con chồn đào hang trong lăng tẩm
của Vua chúa. Và Trang Tử trong đoạn bàn về chiếc đầu lâu, về sự chết, đã làm
cho triết học Trung Hoa bắt đầu có vị hài hước sâu sắc:
“Trang Tử tới nước Sở, thấy một cái đầu lâu rỗng khô, trắng,
lấy roi ngựa gõ vào, hỏi: “Ai đó, tham sinh, trái lẽ mà tới nỗi này chăng? Hay
là mất nước rồi chết vì đao búa, mà tới nỗi này? Hay là có hành vi bất thiện,
làm nhục cho cha mẹ vợ con mà tới nỗi này? Hay là vì chết đói mà tới nỗi này?
Hay là được sống trọn tuổi trời rồi chết? Nói xong, Trang Tử gối đầu lên đầu
lâu đó mà ngủ…”.
“Vợ Trang Tử chết, Huệ Tử đến viếng, thấy Trang Tử đang ngồi
duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn mà hát. Huệ Tử bảo:
- Mình ăn ở với người ta, có con với người ta; bây giờ người
ta già, người ta chết, không khóc cũng còn được, lại còn gõ bồn mà hát, chẳng
cũng quá lắm ư?
Trang Tử đáp:
- “Không phải thế. Lúc nhà tôi mới mất, tôi cũng như mọi người,
thương tiếc lắm chứ! Nhưng xét lại hồi trước thì vốn là không có sinh; chẳng những
không có sinh mà vốn lại không có hình; chẳng những không có hình mà vốn lại
không có khí; con người chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến
mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, khác
nào như xuân hạ thu đông bốn mùa cứ tuần hoàn qua lại không? Vả lại con người
chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ còn
theo đuổi, nghêu ngao khóc lóc, thì chẳng hóa ra không biết mạng trời ư? Cho
nên tôi không khóc nữa” [4].
Vậy khi ta có ý thức rằng ai cũng phải chết, rằng thời gian
trôi đi mất, không giữ lại được thì thi ca triết lý mới bắt đầu xuất hiện. Cái
ý thức về sự phù du của nhân sinh đó bàng bạc trong toàn thể thi ca Trung Quốc
và trong một phần lớn thi ca phương Tây. Trong buổi tà huy rực rỡ, ta chèo chiếc
thuyền trên một dòng sông lững lờ, cảnh đẹp biết bao, nhưng ngay lúc đó, hoa nở
rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết, và đời người cũng theo luật của hóa công, cùng
với vạn vật sinh ra, lớn lên rồi chết, để nhường chỗ cho kẻ khác. Có thấy rõ được
rằng cõi trần là hư ảo thì mới là giác ngộ. Trang Tử bảo có lần nằm mộng thấy
mình hóa ra bướm, vẫy cánh mà bay, khi tỉnh dậy thấy mình là Trang Tử, rồi ông
tự hỏi chính là Trang Tử mộng thấy hóa ra bướm hay bướm mộng hóa ra là Trang Tử [5]. Đời sống chỉ
là một giấc mộng mà chúng ta như những lữ khách ngồi trong chiếc thuyền trôi
theo dòng thời gian vĩnh viễn, xuống thuyền ở bến này, rồi rời thuyền lên bộ ở
bến khác để nhường chỗ cho những lữ khách đợi thuyền ở trên bờ.
Đời người sẽ mất nửa phần thú vị đi nếu chúng ta không cảm thấy
rằng nó là một giấc mộng, hoặc một cuộc hành trình nhất thời, hoặc một màn kịch
trên sân khấu mà đào kép quên rằng mình chỉ đóng trò thôi.
Chúng ta là động vật, một hậu quả quan trọng nhất của sự
kiện đó là chúng ta có một cái bao không đầy, gọi là bao tử. Nó ảnh hưởng lớn đến
văn minh của nhân loại. Một triết gia sành ăn của Trung Quốc, Lý Lạp Ông, trong
bài tựa phần “Ẩm soạn bộ”, tập “Nhàn tình ngẫu ký’; có lời trách oán cái
bao không đầy ấy như vầy:
“Xét cơ thể của con người, tôi thấy tai, mắt, mũi, lưỡi, tay
chân, thân thể, hết thảy đều cần thiết, không thể thiếu được, chỉ có hai cơ
quan không cần thiết chút nào cả mà trời lại phú cho ta, tức cái miệng và cái
bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của loài người, từ xưa đến nay. Có cái
miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức nên
mới sinh ra những mưu mô, gian trá. Mưu mô, gian trá sinh ra nên mới phải đặt
hình pháp; thành thử vua không thể thi hành nhân chính, cha mẹ không thể nuông
chiều con cái, ngay đến Tạo vật hiếu sinh như vậy cũng phải làm trái cái chí của
mình. Tất cả những cái đó chỉ do Tạo vật vụng tính khi tạo thân thể con người,
cho ta hai cơ quan đó.
“Thảo mộc không có miệng và bao tử mà vẫn sống, đá đất không
ăn uống mà vẫn trường tồn. Thế thì tại sao loài người lại khác mà phải có miệng
và bao tử? Nếu như phải có miệng và bao tử thì sao không cho ta như loài cá
loài tôm, uống nước mà sống, hoặc như con ve con châu chấu, hút sương mà sống,
cũng phát triển đầy đủ khí lực để bơi lội, bay nhảy, kêu hót vậy? Như vậy chúng
ta sẽ có cầu gì với đời đâu mà bao nhiêu nỗi lo lắng sẽ biến hết. Đã sinh ra
cái miệng, cái bao tử, Tạo vật lại cho ta nhiều thị dục, bao nhiêu cũng không
chán, như sông biển không bao giờ đầy, thành thử suốt đời, bao nhiêu cơ quan
khác đều phải kiệt lực cung phụng cho hai cơ quan đó mà không đủ.
“Tôi suy đi nghĩ lại về điều đó, không thể không trách Tạo vật
được. Tôi cũng biết rằng Tạo vật tất cũng hối hận rằng mình lầm, nhưng đã lỡ rồi,
hình thể con người đã định rồi, làm sao sửa được. Cho nên ai đã đặt ra pháp lệnh,
chế độ, phải thận trọng ngay từ lúc đầu, không thể sơ suất được, điều đó thực
là quan trọng”.
Nhất định là đã lỡ rồi, không sao sửa được nữa; và cái sự kiện
chúng ta có một cái bao tử để đánh dấu quá trình lịch sử của nhân loại. Khổng Tử
hiểu rõ thiên tính của con người, cho nên chỉ kể cho hai thị dục lớn nhất là
dinh dưỡng và sinh dục, tức như nói nôm na thì là ăn uống và trai gái. Nhiều
người đã khắc chế được sắc dục nhưng chưa có vị thánh nào khắc chế được ẩm thực,
quên đi sự ẩm thực quá bốn năm giờ liền. Cứ cách ít giờ thì trong óc ta nhất định
nổi lên điệp khúc bất biến này: “Bao giờ ăn đây?”. Mỗi ngày điệp khúc đó nổi
lên ít nhất là ba lần, đôi khi bốn năm lần. Các cuộc hội nghị quốc tế, đương
lúc bàn cãi say sưa và sôi nổi về tình hình chính trị, cũng phải tạm ngưng lại
vì bữa cơm trưa… Quốc hội phải sấp đặt nghị trình sao cho hợp với giờ ăn bữa
cơm. Một cuộc lễ gia miện [6], mà kéo dài tới
năm, sáu giờ hoặc nhằm bữa cơm trưa tất bị công chúng la ó tức thì. Vì chúng ta
có một cái bao tử cho nên khi chúng ta họp nhau lại để tỏ lòng kính mến ông nội,
thì chúng ta cử hành một tiệc khánh thọ để ăn uống.
Có lý do cả đấy. Bạn bè gặp nhau ở bữa tiệc thì hòa thuận vui
vẻ với nhau lắm. Một chén yến có công dụng làm giảm nhiệt độ của cuộc tranh biện,
làm dịu bớt sự xung đột về quan điểm của nhau. Bạn thân nhất mà họp nhau lúc
đói thì thế nào cũng gây lộn nhau. Ảnh hưởng của một bữa ăn ngon kéo dài có khi
cả tuần, cả tháng, cho nên chúng ta ngần ngại không nỡ điểm một cách gay gắt một
cuốn sách mà tác giả đã đãi ta một bữa thịnh soạn ba bốn tháng trước. Chính do
lẽ đó mà người Trung Hoa vốn hiểu thấu bản tính con người, tìm cách giải quyết
những cuộc phân tranh ở giữa tiệc rượu chứ không phải ở pháp đình. Nhiều khi
dùng cách đó mà họ tránh được những cuộc phân tranh nữa. Ở Trung Hoa, chúng ta
thường bày tiệc để mua chuộc lòng người. Sự thực chỉ có cách đó là chắc chắn
hơn cả để thành công về chính trị. Ai chịu khó so sánh các thống kê, sẽ thấy có
một liên quan chặt chẽ, hoàn toàn giữa số yến tiệc một người đãi bạn bè với sự
thăng quan mau chóng của người đó.
Trời sinh ra chúng ta như vậy, làm khác sao được? Tôi không
tin rằng đó là thói riêng của người Trung Hoa. Một người Mỹ, làm Tổng trưởng
Bưu điện hay làm chức giám đốc nào đó, có thể từ chối một ân huệ với người bạn
thân đã đãi mình năm sáu bữa cơm ngon tại nhà không? Tôi cá rằng tính tình người
Mỹ không khác người Trung Hoa, nhưng họ không có những nhận xét sâu sắc về bản
tính con người, hoặc không biết tổ chức đời sống chính trị cho hợp với bản tính
đó.
Chúng ta bị vấn đề ẩm thực chi phối tới nỗi từ cách mạng, hòa
bình, chiến tranh, ái quốc, đến tinh thần ái quốc, đời sống hằng ngày của cá
nhân, của xã hội đều chịu ảnh hưởng sâu xa vì nó. Nguyên nhân cách mạng Pháp ở
đâu? Có phải tại Rousseau, Voltaire, Diderot không? Không. Chỉ tại vấn đề ẩm thực.
Nguyên nhân cách mạng Nga và cuộc thí nghiệm của Sô Viết? Cũng tại vấn đề ẩm thực.
Nã Phá Luân nói câu này thực thâm thúy: “Quân đội ra trận với bao tử của họ”.
Khi dân chúng đói thì đế quốc tan vỡ mà những chế độ bạo ngược mạnh mẽ nhất
cũng phải sụp đổ. Đói thì mọi người không chịu làm việc, quân lính không chịu
chiến đấu, các cô danh ca không chịu hát, các ông nghị viện không chịu họp hội,
ngay đến các vị Tổng thống cũng không chịu trị nước nữa. Và vì đâu ông chồng chịu
khó nhọc làm việc trong phòng giấy suốt ngày, nếu không phải là vì hi vọng về
nhà được ăn một bữa cơm ngon. Do đó mà có câu tục ngữ này: Muốn chiếm được lòng
của một người đàn ông thì nên theo con đường từ bao tử của họ. Khi nhục thể được
thỏa mãn rồi thì tinh thần bĩnh tĩnh, khoan khoái hơn và người ta hóa ra đa
tình, đa cảm hơn. Các bà thường phàn nàn rằng các đấng phu quân ít khi để ý tới
những chiếc áo mới, giày mới, hoặc kiểu tô lông mày mới của mình. Nhưng có bao
giờ các bà phàn nàn rằng các ông không để ý tới món bíp tếch ngon hoặc món trứng
tráng ngon không? Lòng ái quốc là gì, nếu không phải là lòng yêu những món ngon
mà mình được ăn hồi nhỏ? Tôi đã có lần nói rằng người ta trung thành với chú
Sam [7] là trung
thành với món bánh rán [8], món thịt muối,
món khoai tây ngon của chú, trung thành với anh Fritz [9] là trung
thành với những món thịt cá rán bọc bột, món bánh Noel của anh. Còn về tình
thân ái quốc thì tôi cho rằng món mì ống (macaroni) chứ không phải Mussolini đã
phá cái tình “tương tri” của thế giới với nước Ý, mà món mì ống đã gây được. Là
vì trong sự ẩm thực, cũng như trong sự chết, chúng ta thấy rõ rằng tứ hải giai
huynh đệ.
Đứng trước một bữa tiệc sang, mặt mày người Trung Hoa tươi tỉnh
ra sao! Khi bao tử của họ no, họ cho rằng đời sống đẹp quá. Từ cái bao tử no
đó, tiết ra một niềm vui tinh thần. Họ tin rằng bao tử mà no thì mọi sự như ý.
Cho nên về vấn đề ăn uống, nhắm nháp, họ không bẽn lẽn, thẹn thùng gì cả. Nuốt
một muỗng canh ngon, họ chặc lưỡi thú vị, mà người phương Tây cho vậy là thiếu
nhã nhặn. Tôi có cảm tưởng rằng chính cái phép lịch sự của phương Tây [10],
buộc người ta ăn uống nhỏ nhẹ, không ồn ào, không tỏ vẻ khoan khoái, đã làm cho
nghệ thuật nấu ăn của họ ngừng lại không tiến nữa. Tại sao người phương Tây
trong bữa ăn lại nhỏ nhẹ như vậy, lại tỏ vẻ thiểu não, lễ mạo trịnh trọng như vậy?
Tôi tin chắc rằng khi người mẹ cấm trẻ con ồn ào trong bữa ăn là làm cho nó bắt
đầu cảm thấy cái bi thảm của cuộc đời. Tâm lý con người như vậy: hễ không được
tỏ nỗi vui ra mà phải nén nó lại thì không thể nào cảm giác được nỗi vui đó nữa,
sinh ra uất hận, buồn bực, đau bao tử, đau thần kinh. Ta nên bắt chước người
Pháp, khoan khoái la lớn “A!” khi người bồi bàn đem lên một đĩa sườn ngon, rồi
“hừm hừm” y như một loài vật, sau khi đã nếm được một miếng. Biết thưởng thức
món ăn, tỏ rằng mình có một bao tử bình thường, khang kiện thì đó có gì là đáng
xấu hổ? Không, người Trung Hoa không như vậy. Họ không có lễ độ trong bữa cơm,
nhưng biết thưởng thức món ăn lắm.
Khoa thực vật học và động vật học không phát triển ở Trung
Hoa vì nhà bác học của họ không thể lạnh lùng ngắm một con cá mà không nghĩ
ngay đến cái vị của nó và muốn xực nó. Trông thấy một con nhím, họ nghĩ ngay đến
cách làm thịt ra sao cho hết chất độc; đối với họ, chỉ có vấn đề đó là thực tế
và quan trọng, còn như loài nhím sống ra sao, có công dụng gì, khi thấy thù địch
thì da nó làm sao mà dựng đứng những lông nhọn lên được, tất cả những câu hỏi
đó họ cho là phù phiếm, vô ích. Phương Đông phải học môn động vật học và thực vật
học của phương Tây, nhưng có thể dạy lại phương Tây cách thưởng thức cây cối,
hoa cỏ, chim chóc, động vật.
Vậy ẩm thực là một trong những lạc thú quý nhất ở đời. Cũng
may mà bản năng biết đói ít bị tục kỵ húy và giới luật xã hội đè nén như bản
năng tính dục, mà các triết nhân, thi nhân, thương gia, nghệ sĩ có thể tụ họp
chung quanh một cái bàn, ăn uống trước công chúng mà không mắc cỡ gì cả. Bản
năng đó nhờ ít bị đè nén nên ít gây ra những sự trụy lạc, điên khùng cùng tội lỗi.
Chỉ có một bản năng đó là được nhân loại thẳng thắn coi trọng. Đâu đâu người ta
cũng nhận rằng đói là phải ăn; còn bản năng tính dục thì đâu có được nhận như vậy.
Được thỏa mãn rồi thì sự đói không gây xáo trộn gì cả. Cùng lắm là có một số
người xấu ăn ra sao mà đến nỗi sinh đau bao tử, lở bao tử, hoặc đau gan; vài kẻ
tự đào huyệt bằng răng nữa - như trường hợp vài cụ lớn Trung Hoa hiện thời - nhưng dù vậy đi nữa, họ cũng không xấu hổ.
Cũng có lẽ trên, sự ẩm thực ít gây tội ác xã hội hơn là tính
dục [11].
Hình luật ít xét đến tội ăn uống mà đặt ra biết bao điều về cái tội gian dâm,
hiếp dâm, ly dị. Lời bàn đó không phải phù phiếm đâu vì vấn đề ẩm thực chúng ta
khá thong thạo mà về vấn đề tính dục thì cái ngu xuẩn của ta đáng sợ. Nhiều gia
đình Mãn Châu khi con gái về nhà chồng, dạy cho chúng nghệ thuật yêu đương cũng
như nghệ thuật làm bếp, nhưng ở các xứ khác, người ta có làm gì không? Thành thử
về tính dục, chỉ có toàn là những truyện tiên, những huyền thoại và những dị
đoan.
Về phương diện khác, đáng tiếc rằng chúng ta không có cái diều
chim, hoặc cái dạ dày của loài nhai lại, nếu có thì xã hội đã thay đổi không thể
tưởng tượng nổi, chúng ta đã thành một giống người khác rồi. Loài người mà có
cái diều chim thì tất hiền lành, hòa bình như những con gà con, con cừu con rồi.
Chúng ta sẽ ăn hột, ăn trái cây, hoặc ăn cỏ trên những đồi xanh, mà sẽ không hiếu
chiến, tàn ác như ngày nay.
Có một sự liên quan chặt chẽ giữa thức ăn và tính tình mà ta
không ngờ. Tất cả các loài ăn cỏ đều bẩm sinh ra hòa bình: như con cừu, con ngựa,
con bò, con voi, con sẻ…; tất cả những loài ăn thịt đều hiếu sát: như con chó
sói, con sư tử, con cọp, con ó… Hễ không cần chiến đấu thì tính tình không hiếu
chiến. Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Nếu
loài người có diều mà ăn thóc ăn cỏ thì cũng sẽ còn những cuộc chiến đấu nho nhỏ
như trong loài gà, nhưng những chiến đấu đó khác xa những chiến tranh hiện thời
ở Âu châu để xuất cảng các đồ hộp.
Tôi không biết gì về những con khỉ ăn thịt khỉ, nhưng tôi biết
nhiều về những con người ăn thịt người, vì các nhà khảo cứu về nhân loại học đều
chứng minh rằng thói quen ăn thịt người rất phổ thông. Tổ tiên chúng ta là những
động vật ăn thịt. Vậy thì ngày nay chúng ta ăn thịt lẫn nhau - về phương diện
cá nhân, xã hội và quốc tế nữa - cũng là chuyện thường có gì mà lấy làm lạ? Các
giống mọi ăn thịt người và những người văn minh chỉ khác nhau ở điểm này: tụi mọi
giết kẻ thù rồi ăn thịt, còn tụi văn minh giết rồi chôn, cắm một cây thánh giá
lên mộ và cầu kinh cho linh hồn kẻ đó. Như vậy đã tàn nhẫn, tự cao tự đại mà lại
thêm ngu xuẩn nữa.
Tôi hoàn toàn nhận rằng chúng ta đương tiến tới sự hoàn thiện,
nghĩa là hiện nay chúng ta chưa hoàn thiện. Hễ chưa có được tính tình của loài
có diều thì chưa thể tự xưng là thực văn minh được. Trong thế giới hiện đại,
tôi thấy có hai hạng người: hạng ăn thịt và hạng ăn rau. Hạng trên chuyên lo việc
của người, hạng dưới chuyên lo việc của mình. Mười năm trước tôi đã thử hoạt động
chính trị, nhưng chỉ bốn tháng rồi tôi phải bỏ vì tự nhận ngay ra rằng mình
không phải là hạng ăn thịt, mặc dù tôi vẫn thích món bíp-tếch. Đặc tính của
loài ăn thịt là thích chiến đấu, mưu mô, lừa gạt, thao túng, đẩy lui kẻ thù; họ
làm những việc đó một cách hào hứng, khéo léo, nhưng tôi thú thực rằng không tán
thưởng thủ đoạn đó một chút nào. Tất cả chỉ là vấn đề bản năng: có người ưa chiến
đấu để thi thố tài năng; nhưng cái chân tài sáng tạo, nghĩa là cái tài làm công
việc của chính mình, hiểu thấu mục tiêu của mình, tựa hồ như hơi hiếm. Biết bao
vị giáo sư giỏi, tốt, trầm tĩnh, hoàn toàn thiếu tánh tham dục và thiếu khả
năng cạnh tranh với người, vậy mà tôi rất ngưỡng mộ họ. Tôi có thể nói rằng tất
cả các nghệ sĩ nghĩ tới việc của mình nhiều hơn là tới việc của người và chính
vì vậy mà họ thuộc loài ăn rau. Muốn cho nhân loại tiến hóa thì phải tăng tiến
số người ăn rau lên để vượt số người ăn thịt. Nhưng hiện thời, chính hạng người
ăn thịt thống trị chúng ta. Trong một thế giới tin tưởng ở những bắp thịt cường
tráng thì nhất định phải như vậy.
Vì chúng ta là động vật, sớm muộn gì cũng chết, cho nên chúng
ta có thể bị giết và cũng có thể giết người, mà không ai muốn bị giết và cũng
ít ai muốn giết người. Chúng ta có cái dục vọng rất cao quí tìm hiểu thêm, mở
mang trí tuệ; nhưng hễ tri thức tăng tiến thì phát sinh sự bất đồng ý kiến, do
đó sinh ra tranh luận. Trong thế giới các vị thần linh trường sinh bất tử, hễ
có tranh luận thì không bao giờ dứt vì không người nào chịu nhận mình lầm.
Trong thế giới của bọn hữu sinh hữu tử như chúng ta, tình cảnh khác hẳn. Thường
thường kẻ tranh luận thế nào cũng bị đối phương ghét cay ghét đắng - lý luận
càng đúng thì lại càng bị ghét - rồi bị đối phương thủ tiêu để giải quyết cuộc
tranh luận. Nếu A giết được B thì A thắng lý; nếu B giết được A thì B thắng lý.
Lối đó là lối thông thường của loài cầm thú. Trong thế giới động vật, con sư tử
bao giờ cũng phải.
Trong xã hội loài người thì cũng vậy; và áp dụng luật đó ta
có thể giải thích lịch sử một cách thích đáng. Chẳng hạn Galilée phát minh ra
được rằng trái đất tròn và thái dương hệ vận chuyển theo những luật nào đó,
nhưng rồi ông chối liền, không thừa nhận những phát minh đó vì ông có thể xác
và có thể chết được, ông có thể bị giết, bị tra tấn; nếu không vậy thì ông đã
tranh biện hoài chứ đâu chịu thua. Chỉ trong phòng tra tấn hoặc một phòng giam,
chứ chưa nói tới cực hình hoặc giàn hỏa, cũng đủ cho ông thấy rằng mình lầm lẫn
tới bực nào rồi. Vấn đề đã được giải quyết như vậy thực là dứt khoát, minh bạch.
Mà lối đó cũng tiện lợi, hữu hiện nữa. Từ chiến tranh xâm lược,
chiến tranh tôn giáo, chiến tranh giữa Saladin [12] và
giáo đồ Ky Tô, từ pháp đình Tôn giáo thời cổ, giàn hỏa để thiêu các phù thủy,
cho tới phương pháp dung chiến hạm để truyền giáo, dùng súng ống để duy trì sự
đô hộ của người Da Trắng, dung thiết giáp xa và phi cơ của Mussolini để truyền
bá văn minh ở Ethiopie, tất cả những phương pháp đó đều là sản phẩm của phép
suy luận cầm thú mà tổ tiên chúng đã di truyền lại. Nếu người Ý có cây súng tốt,
bắn giỏi và được biết nhiều hơn thì Mussolini sẽ khai hóa cho Ethiopie; ngược lại
nếu người Ethiopie có súng tốt, bắn giỏi và giết được nhiều người hơn thì Hailé
Sélassié [13] sẽ
khai hóa cho người Ý.
Chúng ta có thái độ uy nghi lẫm liệt của con sư tử, khinh thị
lối tranh luận. Do đó mới có sự sùng kính quân nhân, vì chỉ có quân nhân là giải
quyết được mau chóng sự bất đồng ý kiến. Cách mau nhất để bịt miệng một kẻ tự
cho mình là có lý, mang tâm tranh luận, gân cổ lên cãi, là treo cổ hắn lên. Chỉ
khi nào không có đủ sức mạnh bắt buộc kể khác chịu nhìn nhận những tín niệm của
mình thì người ta mới phải dùng đến lời nói. Người hoạt động ít khi nói, khinh
thị thói tranh biện. Vì chúng ta nói là để thuyết phục; đã có cách để thuyết phục
thì còn dùng lời nói làm gì?
Nhưng nhân loại, ngoài cái bản năng chiến đấu ra còn có cái bản
năng hay nói nữa. Xét về phương diện lịch sử, cái lưỡi cũng xuất hiện đồng thời
với quả đấm cánh tay. Loài người khác loài vật ở khả năng biết nói nên có đặc
điểm này là biết hỗn hợp dùng cả cái lưỡi và quả đấm. Điều đó cho phép ta tiên
đoán rằng các tổ chức như Hội Vạn quốc [14],
Thượng Nghị viện Huê Kỳ hoặc Hội thương gia…, tóm lại những cơ quan cho ta cơ hội
để nói, sẽ tồn tại hoài. Hình như khi tìm lẽ phải, chúng ta phải nói. Điều đó
đáng quý vì nói là đặc tính của các vị thần. Nhưng chúng ta khác các vị thần ở
điểm này: chúng ta chỉ biện luận tới một mức nào đó thôi; tới cái mức mà một
bên thấy lung túng mà lại có những cánh tay mạnh hơn, không muốn tranh luận nữa,
lật đổ cái bàn, nắm cổ đối thủ mà đả; đả chán rồi ngó chung quanh, hỏi bọn
thính giả bồi thẩm: “Tôi nói đúng hay sai?”. Và thính giả luôn luôn trả lời:
“Ông nói đúng”. Không tin, xin bạn cứ lại các trà thất thì biết. Chỉ có loài
người là giải quyết mọi việc như vậy. Thần thành chỉ dung lời nói để giải quyết
sự xung đột; cầm thú chỉ giải quyết bằng bắp thịt, bằng nanh vuốt; duy có loài
người là dùng hỗn hợp tạp cả miệng lưỡi và cánh tay. Thần thánh chỉ tin ở công lý, cầm thú chỉ tin ở sức mạnh, duy có loài người là tin rằng sức mạnh là công lý. Trong hai bản năng đó, bản năng hay nói, nghĩa là rán sức tìm xem ai có lý,
tất nhiên cao quý hơn bản năng chiến đấu. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ chỉ
dùng lối đàm luận để giải quyết các sự xung đột, và lúc đó nhân loại sẽ được cứu
thoát. Hiện nay thì vẫn còn phải dùng cả hai lối: như ở các trà thất, tranh luận
và đấm đá. Nền văn minh của nhân loại vào năm 1936 như vậy.
Bạn bảo tâm trí là phần cao quý nhất mà ta bẩm thụ được của
Hóa Công. Vâng, hầu hết ai cũng nhận như vậy, nhất là khi người ta nghĩ tới những
bực như Einstein, Edison hoặc những nhà vật lý học khác, những nhà có thể đo được
tia sáng của một ngôi sao, nghiên cứu sự cấu tạo của các nguyên tử mắt người
không thấy hoặc chế tạo được nhưng máy để chụp hình màu. So sánh với loài khỉ
tò mò một cách vụng về, không có mục đích, luôn luôn thay đổi đối tượng, ta phải
nhận rằng trí khôn của ta cao quý hơn, rực rỡ hơn, có thể giúp ta tìm hiểu được
vũ trụ ở chung quanh. Nhưng tôi cho rằng cái tâm trí phổ thông, trung bình, lại
có phần khả ái hơn, mặc dầu không cao quý bằng. Nếu tâm trí của loài người chỉ
cao quí thôi thì chúng ta sẽ là những sinh vật hoàn toàn hợp lý, không có một
chút tội lỗi, một chút nhược điểm, mà thế giới sẽ vô vị ra sao? Tôi rất yêu
nhân loại nên không quan tâm tới hạng thánh thần toàn thiện. Chúng ta khả ái vì
chúng ta có những khi vô lý, vô tâm, điên rồ, vì chúng ta vui buồn, có thành kiến,
nhiệt tín, mâu thuẫn, sơ suất. Nếu chúng ta có một bộ óc hoàn toàn, thì mỗi dịp
Tân niên đã chẳng phải lập kế hoạch mới cho cả năm. Cái đẹp của đời sống là ở
chỗ khi chúng ta xét lại kế hoạch cũ thì thấy rằng chỉ có một phần ba là thực
hiện được, một phần ba nữa chưa hề động tới, còn một phần ba nữa thì quên khuấy
đi... Theo tôi, một kế hoạch thực hiện được từ đầu tới cuối không còn thú vị gì
nữa. Một tướng lãnh ra trận mà chắc mình sẽ thắng thì có thể chán mà rút quân về.
Có ai chơi cờ nữa nếu biết rằng đối thủ của mình tính nước nào là đúng nước đó,
không chạy đi đâu được. Có tiểu thuyết nào mà đọc nổi nếu ta biết chắc được tâm lý mỗi nhân vật sẽ biến chuyển ra sao, và câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Đọc tiểu
thuyết là theo dõi động tác của một nhân vật biến hóa bất thường, gặp những
hoàn cảnh cũng biến chuyển bất thường không sao đoán trước được. Nếu nhân vật
là một người cha lúc nào cũng nghiêm khắc, không bao giờ khoan dung với con
cái, hoặc là một người chồng lúc nào cũng lừa vợ, thì tiểu thuyết sẽ chán chết.
Ta thử tưởng tượng một nhạc sĩ nổi danh, tự đắc, đã nhất định không chịu soạn một
ca kịch cho một mỹ nhân nào đó mà bỗng thay đổi ý kiến, hăng hái soạn liền chỉ
vì hay rằng có một địch thủ mình ghét cay ghét đắng đang tính làm công việc đó;
hoặc một nhà bác học suốt đời không chịu đăng một bài nào trên báo hằng ngày,
nay thấy một bạn đồng nghiệp viết lầm một chữ, vội quên quy tắc của mình đi, viết
ngay bài đem lại nhà in; những nhân vật tự mâu thuẫn với mình như vậy mới thực
hợp với tâm lý kỳ cục, vô lý, thiên kiến, bất thường của chúng ta. Không hiểu
thấu chân lý đó thì chẳng biết chút gì về những công trình nghiên cứu khoa tâm lý trong một thế kỷ này cả. Nói cách khác, trí tuệ của ta vẫn còn vụng vê, thiếu
mục đích như trí khôn loài khỉ vậy.
Cái tâm trí vô lý một cách khả ái đó, tôi lại thích nó hơn là
một thứ tâm trí toàn thiện. Tôi ghét một thế giới mà mọi người đều hoàn toàn cả.
Tôi nghi ngờ sự tấn bộ của khoa học chăng? Không, tôi chỉ nghi ngờ cái cảnh giới
của thánh thần thôi. Tôi phản đối tri thức chăng? Có thể như vậy, có thể không.
Tôi chỉ yêu đời sống thôi mà vì yêu đời sống nên tôi nghi ngờ trí tuệ. Bạn thử
tưởng tượng một thế giới không có những tin giết người trên báo, không có hỏa
hoạn, không có một tai nạn phi cơ nào, không có một người chồng bỏ vợ, một vị mục
sư trốn theo ca nữ, không có một ông vua hy sinh ngai vàng cho má phấn, không
có một người nào đổi ý và ai nấy đều theo đúng con đường mình đã vạch sẵn từ hồi
mười tuổi, không sai một tơ hào - cái thế giới thần tiên đó tôi xin vĩnh biệt
thôi. Không có cái gì kích thích, không có cái gì hồi hộp trong thế giới đó cả.
Sẽ không còn có văn chương nữa vì không còn tội lỗi, không còn nhược điểm của
con người, không còn những tình dục hỗn loạn, không còn thiên kiến, không còn
những sự bất thường và tệ hơn nữa, không còn một chút ngạc nhiên nào cả. Y như
một cuộc đua ngựa mà bốn năm vạn khán giả đều biết trước con ngựa nào sẽ về nhất.
Nếu loài người không có chút lầm lỗi thì đời người sẽ hết màu sắc, cũng như
trong một cuộc đua ngựa nhảy rào, không có những tình thế đổi ngược thì hết
thú. Nếu chúng ta là những sinh vật hoàn toàn hợp lý, thì đáng lẽ thành những bậc
trí giả, chúng ta chỉ thành những máy tự động chỉ để ghi rất đúng những xúc động
nào đó như chiếc đồng hồ điện. Như vậy đâu phải là con người nữa, cho nên tôi bảo
là xấu.
Chắc độc giả nghĩ rằng tôi rán bênh vực nhược điểm của nhân
loại, rán coi tật xấu là những đức tốt. Không phải vậy đâu. Nếu chúng ta phát
triển tâm trí cho hoàn toàn, thì có cái lợi là hành vi của ta sẽ hợp lý, nhưng
lại có cái hại là đời sống mất màu sắc, tân kỳ dị. Không có gì chán bằng sống với
một nhà đạo đức kiểu mẫu. Một xã hội gồm toàn những nhà đạo đức tuy tồn tại được
đấy, nhưng có nên sinh tồn trong một xã hội như vậy không? Nên dùng mọi cách để
tạo một xã hội có trật tự, nhưng đừng có trật tự quá. Tôi nghĩ đến loài kiến những
sinh vật có lẽ hợp lý nhất trên trái đất Chúng tạo được một quốc gia theo chủ
nghĩa xã hội và nhờ vậy chúng đã tồn tại được có lẽ cả triệu năm nay rồi. Về
phương diện hành động hợp lý thì chúng đáng được giải thưởng nhất, rồi giải nhì
mới về phần chúng ta. Đời sống của chúng khắc khổ, lành mạnh, cần kiệm. Chúng
tôn trọng kỷ luật của xã hội mà lại tự chủ hơn chúng ta. Chúng làm việc cho Quốc
gia, xã hội mười bốn giờ một ngày; có ý thức rõ ràng về bổn phận, nhưng có lẽ
thiếu ý thức về quyền lợi; chúng kiên nhẫn, có thứ tự, lễ độ, can đảm và nhất
là trọng kỷ luật. Về kỷ luật, chúng ta là hạng bét, đáng cho vào Viện Bảo cổ.
Đọc tiểu sử các vĩ nhân trong lịch sử, chúng ta sẽ nhận điều
này là hành vi của họ rất ít tính cách hợp lý. Ông Jules César cao quý, hành vi
rất vô lý kia, sao lại mê Cléopâtre để đến nỗi vì một người đàn bà mà suýt bỏ
rơi cả đế quốc La Mã. César mới chỉ là suýt bỏ rơi đế quốc chứ Antoine thì bỏ
rơi hẳn rồi. Thánh Moise kia, trong một cơn nổi khùng, do đã đập phá những thạch
bản thiêng liêng mà Ngài đã tốn công khắc bốn chục ngày với Thượng Đế ở trên
núi Sinai; như vậy Ngài có hợp lý gì hơn những người Do Thái đã quên Thượng Đế
và trong khi vắng mặt Thượng Đế đi thờ con Bò vàng không? Rồi vua David tính
tình bất thường kia, tàn ác rồi lại đại độ, thành tín rồi lại bội giáo, thờ
Chúa mà lại phạm tội, rồi làm thơ để tỏ nỗi hối hận, kính thờ Chúa trở lại. Vua
Salomon kia, vào bực đại trí, đại đức mà không giúp con được chút gì… Rồi Đức Khổng
Tử kia, có khách đến thăm, sai người bảo rằng đi vắng, khách mới quay gót đã gảy
đàn cho khách biết rằng mình có nhà... Rồi Đức Ky Tô sa lệ ở Gethsémanie, hoài
nghi ở trên thánh giá... Shakespeare khi chết để lại cho vợ cái giường "tốt
thứ nhì" của mình… Milton xung khắc với vợ, bảy chục tuổi còn viết
một thiên về sự ly dị… Goethe lại nhà thờ làm lễ cưới, dắt theo cậu con mười
chín tuổi... Còn Jonathan Swift và Stella,... Ibsen và Emilie Bardarch nữa.
Vậy thì có phải rõ ràng là nhiệt tình chứ không phải lý trí
thống tri thế giới không? Có phải rằng sự thiếu lý trí của những vị đó làm cho
họ khả ái, hợp nhân tình không? Những tiểu truyện người Trung Hoa viết về cha mẹ
ông bà, đọc rất chán, không bổ ích gì cả mà lại rất sai vì họ có thói tả tổ
tiên như những vị siêu phàm, toàn đức vậy. Các đồng bào của tôi trách cuốn “Nước
tôi và dân tộc tôi” (My country and my people) là tả người Trung Hoa một
cách hợp nhân tính quá, vạch cả những khuyết điểm chung với ưu điểm. Họ tưởng rằng
nếu tôi tả nước Trung Hoa như một xứ cực lạc đầy những thánh hiền đạo Nho sống
rất hợp lý trong cảnh thái bình vĩnh viễn, thì có phải là tôi tuyên truyền đắc
lực cho nước tôi không… Nhưng cái thú vị của truyện ký là nó vạch cho ta thấy rằng
những vĩ nhân cũng có điểm tầm thường như chúng ta. Mỗi một nét vô lý trong
thái độ, hành vi của họ là một nét thêm tính cách chân thực cho truyện. Chính
nhờ vậy mà tác phẩm của Lytlon Strachpy [15] mới
thành công.
Dân tộc Anh là một kiểu mẫu tâm trí lành mạnh. Họ lý luận tệ
lắm, nhưng có những "ăng ten" nhạy để cảm thấy sự nguy hiểm mà bảo vệ
đời sống của họ. Tôi không thấy một chút hợp lý nào cả trong hành vi hoặc trong
lịch sử của họ. Các viện Đại học, Hiến pháp, Giáo hội Anh Cách Lan của họ đều
là những công trình vá víu từng miếng, tùy theo quá trình phát triển mà nay
thêm một chút, mai thêm một chút. Sức mạnh của Đế quốc quốc Anh chính ở chỗ họ
thiếu lý trí, hoàn toàn không nhận được quan điểm của người khác, tin chắc rằng
chỉ phương pháp của họ mới đúng, chỉ món ăn của họ mới ngon. Khi nào họ có lý trí và không quá tin ở họ nữa thì Đế quốc của họ sẽ sụp đổ. Vì hễ nghi ngờ mình
thì không sao chinh phục được thế giới. Ta không sao hiểu được thái độ của họ đối
với vua, không hiểu tại sao họ trung thành, yêu quý một vị quốc vương mà họ cho
nói mới được nói, cho ngồi trên ngai mới được ngồi, bắt xuống thì phải xuống...
Dưới triều Nữ hoàng Elizabeth, khi nước Anh cần những tên hải tặc để che
chở đế quốc, thì họ sản xuất ra được đủ và sùng kính tụi đó. Thời nào cũng vậy,
người Anh luôn luôn có những hành động thích đáng: cần chiến tranh thì họ chiến
tranh, cần chống kẻ thù nào thì họ chống kẻ thù đó, cần liên kết với nước nào
thì họ liên kết với nước đó, cần đứng về phe nào thì họ đứng về phe đó, mà đúng
vào lúc thích đáng nhất, rồi họ dùng một danh từ sai để gọi chiến tranh đó. Như
vậy không phải là nhờ óc lý luận của họ đâu, nhờ những "ăng-ten” của họ đấy.
Nước da của họ hồng hào, có lẽ là do sương mù ở Luân Đôn và
do họ ham chơi cricket (một lối hý cầu). Một nước da lành mạnh như vậy không thể
không ảnh hưởng lớn tới lối nhận định hướng đi của họ trên đường đời. Họ suy
nghĩ bằng lớp da, còn người Trung Hoa suy nghĩ bằng khúc ruột. Người ta bảo rằng
các học giả Trung Hoa bụng chứa đây tư tưởng, đầy kinh luân, thơ văn, hoặc bụng
đầy sầu muộn uất hận, dục vọng. Tình nhân Trung Hoa xa nhau, viết thư cho nhau,
thường dùng từ ngữ "ruột rầu trăm mối" (sầu trường bách kết), gọi cảnh
biệt lý là cảnh "đoạn trường". Học giả Trung Hoa khi soạn một thiên
tiểu luận hoặc diễn văn, mà chưa chép lên giấy thì bảo rằng "phúc cảo” đã
xong, nghĩa là ý tứ đã sắp sẵn trong bụng cả rồi. Tôi tin như vậy là đúng. Sự
kiện đó rất khoa học và có thể chứng thực được nhất là khi các nhà tâm lý học
sau này hiểu rõ tính chất của tình cảm và sự cấu tạo của tư tưởng hơn. Nhưng
người Trung Hoa không cần chứng cứ khoa học. Tính chất tình cảm của khúc điệu
Trung Hoa xuất phát từ bụng người hát (phần dưới hoành cách mô); phải hiểu điều
đó rồi mới nhận được sắc thái tình cảm nồng hậu của âm nhạc Trung Quốc.
Muốn nghiên cứu vũ trụ thì tâm trí có khả năng rất quý; nhưng
muốn nghiên cứu những giao tế nhân sự thì khả năng của nó còn đáng ngờ. Tôi lạc
quan tin những phát minh của khoa học, nhưng tôi ít tin rằng ai nấy đều có óc
biết phán đoán việc đời hoặc đạt được sự bình tĩnh và sáng suất mà không bị dục
tình chi phối. Cá nhân có thể đạt được một mức rất cao về trí, đức, nhưng xã hội
tập đoàn thì vẫn còn bị tình dục sai khiến, vẫn còn có lúc trở lại giai đoạn dã
man, có những bản năng man rợ, những hành vi cuồng nhiệt như loạn thần kinh.
Biết rằng con người dễ lầm lỗi như vậy, chúng ta càng ghét những
kẻ khốn nạn lợi dụng nhược điểm của ta để lôi kéo chúng ta vào một cuộc thế chiến
mới; những kẻ tiêm mối thù hận vào lòng ta (mối thù hận mà ai cũng đã sẵn có
trong lòng rồi); những kẻ đề cao lòng tự ái và tự tư (hai tật đó có người nào
thiếu đâu); những kẻ gợi lòng cuồng nhiệt thú vật của ta, những thành kiến về
chủng tộc của ta; những kẻ bất chấp giới luật thứ năm của Thượng Đế mà hô hào
thanh niên giết người, coi sự tàn sát và chiến tranh là cao quý (cơ hồ như loài
người chưa đủ hiếu chiến); và những kẻ kích thích tình dục của ta (cơ hồ như
chúng ta chưa giống loài vật là bao nhiêu). Cái tâm trí đáng khinh đó mặc dầu rất
cơ xảo, minh mẫn, khôn ranh, cũng chỉ là thứ tâm trí của cầm thú. Ở trong người
chúng ta có một con quỷ cột bằng một sợi dây xích cũ, mòn. Bất cứ lúc nào, dây
xích đó cũng có thể đứt, mà con quỷ đó sẽ vùng chạy, đạp xéo chúng ta và nhắc
nhở rằng chúng ta chỉ có một lớp văn minh ở ngoài, còn bản chất vẫn còn quá gần
với cầm thú. Và thế giới chúng ta có thể biến thành một vũ đài trên đó người
Maure [16] giết
giáo đồ Ky Tô, giáo đồ Ky Tô giết người Maure; người Da đen đâm chém người Da
trắng, người Da trắng đâm chém người đen, và những con chuột chũi sẽ từ trong
hang chui ra để ăn thịt người, những con ó sẽ bay liệng từng bầy trên không sau
một bữa tiệc no nê.
Các nhà phân tâm học khi muốn chữa những bệnh thần kinh thường
làm cho bệnh nhân nhớ lại dĩ văng và nhìn đời một cách khách quan. Loài người
cũng vậy, nếu nhớ lại dĩ vãng của mình thì sẽ hiểu rõ mình hơn, nếu nhớ lại cái
nguồn gốc động vật của mình thì sẽ không có những hành vi của loài cầm thú nữa.
Làm sao kiểu chính được tình trạng đó? Óc phán đoán thì nghèo
nàn và lạnh lẽo, ngay đến lý trí cũng không giúp được bao nhiêu; chỉ có một
tinh thần điều hòa, một nguồn tư tưởng ấm áp rực rỡ, phát từ trực giác, hòa hợp
với tấm lòng trắc ẩn, mới tránh cho ta được sự thoái hóa về thời dã man của tổ
tiên chúng ta. Phải phát triển đời sống một cách điều hòa với bản năng, như vậy
mới cứu được nhân loại. Tôi cho rằng sự giáo dục ngũ quan và cảm xúc của ta
quan trọng gần bằng sự giáo dục tư tưởng.
Chú thích:
[1] Một số nhà khoa học ngày nay không tin chắc như vậy nữa mà ngờ rằng
loài người và loài khỉ như có họ hàng xa với nhau thôi. Vấn đề chưa giải quyết
dứt khoát: chung quy chỉ toàn là giả thuyết.
[8] Sách in là “món bánh” tôi tạm sửa lại thành “món bánh rán”. Nguyên
văn tiếng Anh là: “doughnuts”. (Goldfish).
[12] Vua Ai Cập và Syrie ở thế kỷ 12 (1137-1193) đánh đuổi giáo đồ Ki Tô
giáo ra khỏi Jérusalem, Alexandre… Ông rất can đảm và có đức độ.
[16] Dân Ả Rập theo Hồi giáo ở Mauritanie và nhiều xứ khác như Sénégal.
Ngày trước, thời Trung Cổ, người Á Châu gọi chung dân Ả Rập là người Maure.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét