Thứ Tư, 8 tháng 1, 2020

Nguồn gốc của muôn loài 4

Nguồn gốc của muôn loài 4
CHƯƠNG IX 
TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG HOÀN THIỆN CỦA CÁC BẰNG CHỨNG ĐỊA LÝ 
Sự thiếu vắng của các biến thể trung gian ngày nay. Bản chất của sự tuyệt chủng của các biến thể trung gian; về số lượng của chúng - Sự bào mòn của thời gian, điều này có thể suy ra từ tỷ lệ lắng đọng và xói mòn của đất - Sự nghèo nàn trong bộ sưu tập cổ sinh vật học - Sự gián đoạn trong các dạng địa lý - Sự thiếu vắng của các biến thể trung gian trong mọi dạng - Sự xuất hiện đột ngột của các nhóm loài - Sự xuất hiện đột đột của chúng trong các địa tầng thấp nhất có hóa thạch. 
Trong chương VI, tôi đã liệt kê các ý kiến bất đồng chính phản bác lại lý thuyết của tôi về những vấn đề được bàn đến trong cuốn sách này. Hầu hết các ý kiến này đang được đưa ra thảo luận. Thứ nhất, đó là sự khác biệt giữa các dạng cụ thể, chúng không thể trộn lẫn với nhau dù bằng vô số các mối liên kết chuyển hóa. Đây rõ ràng là một khó khăn. Tôi đặt lý do giải thích tại sao những mối liên kết như vậy không thường xuất hiện trong thời đại ngày nay, các điều kiện sống rất thuận lợi cho chúng với những diện tích mênh mông trong đó điều kiện vật chất đã được nâng cấp. Tôi muốn làm rõ một điều rằng cuộc sống của từng loài phụ thuộc nhiều vào sự tồn tại của các thể hữu cơ khác, hơn là vào khí hậu; do đó điều kiện tiên quyết đối với cuộc sống của mỗi loài đó lại không thể nâng cấp được một cách vô tình như độ nóng hay độ ẩm. Tôi cũng muốn chỉ ra rằng các biến thế trung gian, do tồn tại với số lượng ít hơn so với các dạng mà nó liên kết, nói chung sẽ bị đánh bại và bị đào thải trong quá trình biến đổi và tiến hóa hơn nữa. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến vô số các mối liên kết trung gian không còn ngày nay xuất hiện trong tự nhiên lại phụ thuộc nhiều vào quá trình chọn lọc tự nhiên, trong đó các biến thể mới liên tiếp thay thế và đào thải các dạng bố mẹ của chúng. Nhưng nếu chỉ xét về tỷ lệ, quá trình đào thải này diễn ra trên một quy mô rất lớn, có thể suy đoán rằng số lượng các biến thể trung gian phải đã từng tồn tại trên trái đất này thật sự là rất lớn. Nhưng tại sao tất cả các dạng địa lý, địa chất lại không có dấu hiệu của các liên kết trung gian này? Chắc chắn là mô địa chất học không thể khám phá ra bất kỳ chuỗi hữu cơ tiến hóa nào như vậy; và đây có thể là trở ngại lớn nhất đối với lý thuyết của tôi. Tôi tin rằng lời giải thích được ẩn chứa trong sự không hoàn thiện của các bằng chứng địa lý. 
Điều đầu tiên phải ghi nhớ đó là trong lý thuyết của tôi, những dạng trung gian nào đã từng tồn tại. Tôi nhận thấy rằng, khi nghiên cứu hai loài bất kỳ, sẽ rất khó tránh không tự vẽ ra cho bản thân mình một dạng có thể liên kết trực tiếp hai loài đó với nhau. Nhưng suy nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm; chúng ta nên luôn tìm kiếm những dạng trung gian giữa các loài và cho tất cả các loài nhưng không biết tổ tiên của chúng như thế nào; và dạng tổ tiên nói chung sẽ có một số khác biệt so với các thế hệ con cháu về sau. Dưới đây là một ví dụ đơn giản: Chim bồ câu đuôi quạt và bồ câu to diều đều là con cháu của loài bồ câu núi; nếu chúng ta có tất cả các biến thể trung gian đã từng tồn tại, chúng ta sẽ có một xâu chuỗi cực kỳ gần giữa hai giống trên và loài bồ câu núi; nhưng chúng ta sẽ không có một biến thể liên kết trực tiếp giữa chim bồ câu đuôi quạt và bồ câu diều to; ví dụ, không có bất cứ điều gì liên kết từ việc cái đuôi phát triển rộng ra với việc nhiều thức ăn làm to diều, những đặc điểm nổi bật của hai giống trên. Hơn nữa, hai giống trên đã trở nên quá khác biệt, đến nỗi nếu chúng ta không có các chứng cứ lịch sử hay gián tiếp về nguồn gốc của chúng, chúng ta sẽ không thể quả quyết khi so sánh cấu trúc cơ thể chúng với loài bồ câu núi, rằng liệu chúng có phải có nguồn gốc từ loài này hay từ các loài cùng phái khác như c. oenas. 
Đối với các loài tự nhiên, nếu chúng ta quan sát các loài rất khác nhau, ví dụ như ngựa và heo vòi, chúng ta không có bất cứ lý do nào để có thể giả định rằng có một mối liên hệ trực tiếp giữa chúng, mà chỉ là mối liên hệ giữa từng loài và một loài tổ tiên chung không được biết đến của chúng. Loài tổ tiên chung này, trong cấu tạo cơ thể của mình nói chung đặc điểm tương đồng với cả loài heo vòi và loài ngựa, nhưng lại có những đặc điểm cụ thể khác biệt cả hai loài trên, thậm chí còn nhiều hơn những khác nhau giữa hai loài. Do đó, trong tất cả các trường hợp như vậy, chúng ta không thể nhận ra dạng bố mẹ của bất cứ hai hay nhiều loài nào, ngay cả khi chúng ta so sánh từng chi tiết cấu tạo cơ thể của dạng bố mẹ với các con cháu đã tiến hóa của chúng, trừ khi cùng lúc đó, chúng ta có một chuỗi hoàn hảo về các quan hệ liên kết. 
Theo lý thuyết của tôi, có khả năng, một trong số hai dạng sinh vật có thể là con cháu cuả dạng kia; ví dụ loài ngựa bắt nguồn từ loài heo vòi; và trong trường hợp này sẽ tồn tại mối liên hệ trực tiếp giữa chúng. Nhưng những trường hợp như vậy cho thấy một dạng đã tồn tại trong một thời gian dài mà không biến đổi gì, trong khi dạng con cháu của nó đã có những biến đổi rát lớn; và yếu tố cạnh tranh giữa các sinh vật, giữa loài cha mẹ và loài con cái sẽ làm cho điều này trở nên hiếm hơn; trong tất cả các trường hợp, những dạng sinh vật mới và đã tiến hóa sẽ có xu hướng thay thế những dạng sinh vật cũ và chưa tiến hóa. 
Theo lý thuyết chọn lọc tự nhiên, mọi loài sinh vật sống đều có quan hệ với các loài cha mẹ của mỗi phái, do những khác biệt không lớn hơn những gì chúng ta đã thấy giữa các biến thể trong cùng một loài ngày nay; và những loài cha mẹ này, ngày nay nói chung đều đã tuyệt chủng, cũng sẽ có mối quan hệ tương tự với các loài tổ tiên, do đó các loài tựu trung lại sẽ được xếp vào các lớp lớn hơn. Vì thế số lượng các dạng liên kết trung gian, giữa tất cả các sinh vật đang sống và đã tuyệt chủng là vô cùng lớn. Nhưng chắc chẳc rằng, nếu như lý thuyết này đúng, những dạng liên kết đó vẫn đang tồn tại trên trái đất này. 
Sự bào mòn của thời gian - Cho dù còn rất nhiều các dạng liên kết trung gian vẫn chưa được tìm thấy dưới dạng hóa thạch, do không đủ thời gian để diễn ra quá nhiều chuyển hóa hữu cơ như thế, mọi biến đổi được tác động một cách từ từ thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Tôi thậm chí khó có thể nhắc lại với độc giả - những người có thể không nghiên cứu về sinh vật - những sự kiện dẫn đến suy nghĩ về những bào mòn của thời gian. Người đọc có thể đã từng đọc tác phẩm vĩ đại của ngài Charles Lyell “Các thành phần của địa chất”- công trình vốn được coi là đã tạo ra cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên, nhưng không thừa nhận mức độ rộng lớn đến không thể giải thích nổi trong quá khứ, hãy ngừng đọc cuốn sách này ngay lập tức. Đó là vì nếu chưa công nhận điều đó thì không chưa thể nghiên cứu “các thành phần của địa chất”, hoặc đọc những công trình chuyên môn của các học giả khác về các dạng khác nhau, và để nhận thức được cách mỗi tác giả đưa ra ý kiến dù là chưa đầy đủ về độ lâu dài của mỗi dạng địa chất, thậm chí là mỗi địa tầng. Một người cần phải mất nhiều năm tự tiên hành thí nghiệm với các địa tầng khác nhau, quan sát nước biển mài mòn các lớp đá và tạo ra các lớp trầm tích, lúc đó anh ta mới có thể hy vọng hiểu được mọi thứ về sự bào mòn của thời gian, hiện tượng vẫn thường xuyên xảy ra xung quanh chúng ta. 
Sẽ rất có ích khi đi dạo dọc theo những đường bờ biển dài, những nơi có dạng những núi đá cao trung bình, và đánh dấu quá trình mủn ra của đá. Trong hầu hết các trường hợp, các ngọn sóng chỉ chạm được vào các vách trong khỏang thời gian rất ngắn hai lần mỗi ngày, và các đợt sóng chỉ ăn sâu vào các vách đá khi chúng mang theo cát và sỏi; do đó có lý do để tin rằng nước ngọt không có tác động, hoặc nếu có thì là rất ít trong việc bào mòn đá. Cuối cùng, nền của các vách đã bị xói mòn, những mảnh vỡ khổng lồ rơi xuống, và những gì còn cố định sẽ dần bị ăn mòn, từng mảnh nhỏ một, cho đến khi kích thước của chúng chỉ còn rất nhỏ, đến mức có thể bị sỏng cuốn đi, sau đó chúng dần chìm vào với sỏi và cát. Nhưng chúng ta vẫn thường xuyên nhìn thấy các chân vách đá vẫn còn tồn tại xung quanh các tảng đá mòn, tất cả đều được bao phủ bởi một lớp rất dày các sinh vật biển, cho thấy chúng đã bị mài mòn như thế nào và chúng ít khi bị cuốn đi. Hơn nữa, nếu chúng ta cứ lần theo bất cứ vách đá núi nào đang bị xói mòn trong vài dặm, chúng ta sẽ thấy chỉ ở đây và kia, trong một khỏang cách không xa hay chi quanh đúng một vòng, vách đá đó đang phải chịu sự bào mòn của thời gian.Sự xuất hiện trên bề mặt và thảm thực vật cho thấy dấu ấn của thời gian do nước đã rửa trôi nền của chúng. 
Tôi tin rằng người nào đã nghiên cứu kỳ các động thái của biển sẽ có ấn tượng sâu sắc bới tốc độ chậm chạp mở các bờ biển núi đá đã bị ăn mòn. Những quan sát của Hugh Miller, Smith và Jordan Hill là ấn tượng nhất. Với ấn tượng đó, hãy thừ để bất cứ ai thí nghiệm các lớp cuội kết dày hàng nghìn feet. Những lớp cuội kết này dù có thể được hình thành nhanh hơn so với các lớp trầm tích khác nhưng lại là từ sỏi đã bị ăn mòn, mỗi hòn sỏi đều ghi dấu ấn của thời gian; do đó sẽ rất tốt cho việc đưa ra kết luận xem các lớp trầm tích đã được tích tụ chậm như thế nào. Chúng ta nhớ đến nhận xét nổi tiếng của Lyell rằng độ dày kích thước của các dạng trầm tích là kết quả và thước đo sự xói mòn vỏ trái đất đã phải hứng chịu. Và mức độ ăn mòn được thể hiện qua sự lắng đọng các lớp trầm tích ở rất nhiều nước. Giáo sư Ramsay đã đưa cho tôi số liệu về độ dày tối đa, trong hầu hết các trường họp bằng đo lường thực tế, một vài trường hợp khác là ước tính của từng dạng ở các vùng khác nhau ở nước Anh, và dưới đây là kết quả: 
Địa tầng đại cổ sinh (không bao gồm các tầng đá lửa): 57.154 feet Địa tầng thứ sinh: 13.190 feet 
Địa tầng thứ ba: 2.240 feet 
Tất cả tạo nên độ dày là 72.584 feet, tương đương xấp xỉ 13, 75 dặm Anh. Một vài dạng trong số này chỉ có rất mỏng ở Anh lại có độ dày hàng nghìn feet ở châu âu lục địa. Hơn nữa, giữa mỗi dạng kế tiếp nhau, theo ý kiến của hầu hết các nhà địa lý học, chúng ta có những khỏang trống thời gian vô cùng lớn, những cột chống cao ngất của những dãy núi đá trầm tích ở Anh chính là những bằng chứng không đầy đủ về thời gian của quá trình tích tụ.
Những nhà quan sát giỏi đã ước tính rằng trầm tích được lắng đọng bởi con sông Missisipi vĩ đại với tốc độ chỉ 600 íèet trong vòng hàng trăm nghìn năm. Sự đánh giá này có thể không chính xác; tuy nhiên nếu xem xét về khỏang không rộng lớn mà những lớp trầm tích có giá trị được vận chuyển qua nhờ thủy triều ở biên, có thể thấy quá trình tích tụ ở mỗi vùng chắc chắn phải diễn ra cực kỳ chậm chạp. 
Nhưng khối lượng bào mòn của mồi địa tầng, không phụ thuộc vào mức độ tích tụ của các vật bị bào mòn, có thể là những chứng cứ tốt nhất về sự bào mòn của thời gian. Tôi nhớ rằng đã từng gặp nhiều khó khăn với các bằng chứng về sự bào mòn khi quan sát các hòn đảo có núi lừa đã bị ăn mòn bởi sóng biến, bị tỉa dần vào các vách núi dựng đứng cao một hai nghìn feet; còn những con dốc thoai thoải của các dòng dung nham, do trước đây chúng ở dạng lỏng, ngay lập tức cho thấy mức độ sâu của các tầng đất đá cứng đã từng có thời ăn sâu ra cửa biển. Câu chuyện tương tự vẫn được kể một cách đơn giản hơn-những vết nứt lớn mà dọc theo đó các địa tầng nhô lên ở phía bên này và chìm xuống ở phía bên kia, đến độ cao hoặc độ sâu hàng nghìn feet, do vỏ trái đất bị nứt, bề mặt đất đã bị san phang hoàn toàn bởi các trạng thái của biển, nên không có bất cứ dấu vết nào của sự biến vị này có thể nhìn thấy từ bên ngoài. 
Ví dụ sự đứt đọan của dãy Craven chạy lên cao những 30 dặm, và dọc theo đường nứt này, sự thay đổi theo chiều dọc của địa tầng được tính từ 600 đến 3000 feet. Giáo sư Ramsay đã đưa ra tính toán về sự sụt lún của Anglesea là 2300 feet, và ông cho tôi biết, ông tuyệt đối tin tưởng sự sụt lún này ở Merionethshire là 12000 feet, nhưng trong những trường hợp này, không có gì trên bề mặt cho thấy những hay đổi to lớn này. Các cột đá của một hoặc cả hai bên đều đã biến mất. 
Tôi đã có ý định đưa ra một trường hợp khác, đỏ là một trong những trường họp nổi tiếng về sự xói mòn ở Weald. Mặc dù phải thừa nhận rằng sự xói mòn ấy tương đối nhẹ nếu so sánh với các hiện tượng xói mòn trên diện rộng ở các đại tầng đại cổ sinh, trong các phần có độ dày mười nghìn feet, như đã được ghi trong hồi ký của giáo sư Ramsay cũng về chủ đề này. Tuy vậy đây vẫn sẽ là một bài học hay nếu đứng trên đỉnh Downs ở phía bắc và nhìn về phía nam của đỉnh này, một người sẽ có thể tự vẽ ra các đỉnh núi đá vốn đã bao phủ Weald trong một khoảng thời gian nhất định từ khi hình thành đỉnh núi đá vôi của vùng này. Theo những gì giáo sư Ramsay đã nói với tôi, khỏang cách từ phía bắc đến phía nam đỉnh Downs là 22 dặm, độ dày của các tầng đại chất thì vào khỏang trung bình là 1100 feet. Nhưng như giả thuyết của một số nhà địa chất học, nếu sắp xếp các núi đá cũ đã nằm dưới Weald, nơi mà ở các sườn núi có những lớp trầm tích tích tụ mỏng hơn ở các nơi khác, những tính toán trên sẽ là sai lầm. Tuy nhiên, những nghi ngờ này không ảnh hưởng nhiều đến những tính toán đối với vùng cực tây của khu vực này. Sau đó nếu chúng ta biết được mức độ mà nước biển thường cuốn trôi một dãy núi ở bất cứ độ cao nào, chúng ta có thể tính được thời gian cần thiết để ăn mòn cả dãy Wealđ. Tất nhiên là điều này không thể thực hiện được, nhưng để xây dựng một vài hiểu biết thô sơ về vấn đề này, chúng ta có thể giả sừ rằng nước biển có thể ăn mòn một vách núi đã cao 500 feet với tốc độ 1 inch trong một thế kỷ. Thoạt tiên tốc độ này nghe có vẻ quá nhỏ, nhưng kết quả này sẽ không thay đổi nếu chúng ta giả sử một vách núi cao một thước Anh sẽ bị ăn mòn với tốc độ cứ hai mươi hai năm lại ăn mòn mất 1 thước Anh. Tôi hơi nghi ngờ là liệu có phái bất cứ núi đá nào, dù là mềm như đá vôi, có thể chịu đựng được mức ăn mòn này; mặc dù không nghi ngờ gì rằng mức độ bị ăn mòn của các dãy núi cao sẽ nhanh hơn so với các mảnh vỡ của những vách núi bị rơi. Mặt khác, tôi không tin rằng bất cứ đường bờ biển nào, dù dài mười hay hai mươi dặm, có thể chịu đựng sự ăn mòn trong khi chiều dài cũng bị rút ngắn; và chúng ta phải nhớ rằng hầu hết các địa tầng điều có những lớp cứng hơn do đã chống đỡ sức tấn công của nước. Do đó, trong điều kiện bình thường, tôi có thể kết luận rằng đối với một đỉnh núi cao 500 feet thì tốc độ xói mòn một feet một thế kỷ là hợp lý. Dựa theo các số liệu trên, với tốc độ này, sự ăn mòn của đỉnh Weald sẽ phải mất tới 306662400 năm, tương đương với 300 triệu năm. 
Các thay đổi của nước ngọt ở Weald, khi nước dâng cao, khó có thể có các tác động lớn, nhưng có thể làm giảm đi những số liệu đã ước tính ở trên. Mặt khác, trong mức độ dao động mà chúng ta biết rằng khu vực này đã từng trải qua, bề mặt đã tồn tại hàng triệu năm như đất, do đó đã thóat được các tác động của biển cả, khi bị nhấn chìm trong một thời gian cũng dài tương đương, chúng cũng đã thoát được tác động của biển cả. Vì thế có khả năng có một thời kỳ dài hơn 300 triệu năm đã trôi qua kể từ giai đoạn sau của kỳ thứ sinh. Tôi đưa ra những nhận xét này vì chúng hết sức quan trọng đối với chúng ta trong việc tìm ra các kết luận khác, tuy không hoàn chỉnh, về sự bào mòn của thời gian. Trong từng năm của những giai đoạn trên, trên cả thế giới, đất và nước đã bị chiếm hữu bởi các dạng sinh vật. số lượng các thế hệ là không xác định. 
Sự nghèo nàn trong bộ sưu tập sinh vật cổ của chúng ta - Mọi người đểu thừa nhận rằng các bộ sưu tập sinh vật cố của chúng ta là không hoàn thiện. Kết luận của nhà nghiên cứu sinh vật cổ nổi tiếng Edward Forbes không thể bị lãng quên, đó là số lượng các loài hóa thạch được biết và được đặt tên từ các mẫu vật đơn lẻ và thường là vụn vặt, hoặc là từ các mẫu vật được thu thập ở một vài điểm. Chỉ một phần rất nhỏ trên bề mặt trái đất là đã được khai thác địa lý, và không có khu vực nào được quan tâm một cách đầy đủ. Không dạng hữu cơ mềm nào được bảo tồn. Vỏ và xương của các loài đã bị phân hủy và biến mẩt khi bị bỏ quên ở đáy biển, nơi các trầm tích không thể tích tụ được.. Tôi tin rằng chúng ta vẫn đang tiếp tục có những quan điểm sai lầm khi tự thừa nhận rằng trầm tích đã lắng đọng lại ở gần như khắp đáy biển, với tốc độ đủ nhanh để bao phủ và bảo tồn các dấu tích hóa thạch. Khi xem xét một vùng rộng lớn của đại dương, màu nước biển xanh tươi cho thấy sự tinh khiết của nó. Có nhiều trường hợp quá trình trong định dạng địa chất đã được thực hiện sau một khỏang ngừng khổng lồ của thời gian, bởi các dạng địa chất khác, không cần lớp đáy đã bị xói mòn, điều này chỉ có thể được giải thích trên quan điểm rằng đáy biển không phải luôn trong tình trạng không biến đổi. Những tàn tích còn sót lại bị bao phủ trong cát và sỏi sẽ lộ ra do nước mưa khi các tầng cát sỏi này dâng lên. Tôi suy đoán rằng chỉ có một số ít trong số các sinh vật biển sống trong điều kiện mức nước cao thấp khác nhau cỏ thể được bảo vệ. Ví dụ, một số loài Chthamalinae (một chi nhỏ thuộc họ chân tơ không cuống) sống trên tất cả các ngọn núi trên thế giới với số lượng rất lớn; chúng chỉ sống ở vùng duyên hải, trừ một số loài sống ở Địa Trung Hải, sống trong những vùng nước sâu. Hóa thạch của chúng đã được tìm thấy ở Sicily, nơi mà cho đến nay vẫn chưa tìm thấy các loài khác ở địa tầng thứ ba; tuy nhiên hiện nay loài này được biết đến là phái Chthmalus tồn tại trong thời kỳ đá vôi. Loài thân mềm Chiton cũng có hiện tượng tương tự. 
Nói về các sinh vật trên cạn sống trong kỷ Thứ hai và Kỷ đại cổ sinh, sẽ là thừa khi tuyên bố rằng những bằng chứng của chúng tôi thu thập được từ những hóa thạch còn lại là những mảnh vỡ cực kỳ vụn. Ví dụ, không một sinh vật trên cạn có mai nào được cho là thuộc về những thời kỳ này, trừ một ngoại lệ do ngài C.Lyell khám phá ra trong tầng trầm tích đá vôi ở Bắc Mỹ. về các hóa thạch của các động vật có vú, chỉ cần đọc lướt qua một lần bảng lịch sử trong phụ lục cuốn Manual của Lyell mà không cần đọc chi tiết cả cuốn sách cũng có thể thấy được mức độ hiếm hoi đế tìm thấy và bảo tồn được những hóa thạch này. Sự hiếm hoi đó cũng không phải là điều gì đáng ngạc nhiên; khi chúng ta nhớ rầng một phần trong bộ xương của các động vật có vú trên cạn đã được phát hiện ra lớn như thế nào trong các hang động và các đáy hồ; mà đó lại không phải là các hang và đáy hồ có cùng thời kỳ với các dạng địa chất thứ sinh hoặc đại cổ sinh của chúng ta. 
Nhưng sự không hoàn thiện của các bằng chứng địa lý chủ yếu là do một nguyên nhân khác quan trọng hơn tất cả các nguyên nhân trên; đó là từ một vài dạng địa chất được phân biệt với nhau bởi các khỏang ngắt quãng của thời gian. Khi chúng ta đọc thấy các bảng sắp xếp các dạng địa chất trong các cuốn sách, hay khi chúng ta lần theo chúng trong tự nhiên, rất khó tránh khỏi việc tin rằng các dạng đại chất này là liên tục với nhau. Nhưng từ công trình vĩ đại của ngài R. Murchison ở Nga, chúng ta biết được khỏang cách về thời gian giữa những dạng địa chất ở nước này lớn như thế nào; ở Bắc Mỹ và các vùng khác trên thế giới cũng vậy. Một nhà địa lý học chuyên nghiệp nhất chỉ tập trung chú ý đến những vùng đất rộng lớn, thì sẽ không bao giờ đặt ra nghi vấn rằng trong các thời kỳ còn trống và ít kết quả của đất nước anh ta, những bãi trầm tích lớn, chứa rất nhiều các dạng sinh vật mới và kỳ lạ, có thể được tích tụ ở đâu đó. Và nếu trong từng lãnh thổ riêng biệt, người ta khó có thể đưa ra ý kiến về độ dài của thời gian đã trôi qua giữa các dạng địa chất liên tiếp nhau, chúng ta có thể suy ra rằng không ở đâu có thể đưa ra kết luận chắc chắn được. Những thay đối thường xuyên và to lớn về kết cấu khỏang vật học của các dạng địa chất liên tiếp nhau, nói chung thường tạo ra những biến đồi lớn về địa lý ở những vùng đất lân cận, nơi trầm tích được tìm thấy, cùng với niềm tin về những khòang thời gian khổng lồ giữa các dạng đã biến mất. 
Nhưng tôi nghĩ chúng ta có thề biết tại sao các dạng địa lý của mỗi vùng lại luôn trong tình trạng bị gián đoạn; các dạng địa chất không nối tiếp liên tục. Hiếm có một thực tế nào lại gây khó khăn cho tôi nhiều hơn khi thử nghiệm hàng trăm dặm bờ biển ở Nam Mỹ, vốn đã nhô lên cao hơn vài trăm feet trong thời kỳ gân đây, ngòai sự thiêu vắng của bất cứ bãi trầm tích nào trong thời kỳ gần đây đủ rộng để tồn tại dù chi trong một thời kỳ địa lý ngắn ngủi. Dọc theo bờ biển phía Tây nơi cư trú của rất nhiều động vật biển kỳ lạ, các lớp đất ở tầng thứ ba không được phát triển đầy đủ, do đó không bằng chứng nào về các động vật biển kỳ lạ ở đây sẽ được lưu giữ lại cho đến các thời kỳ sau. Suy nghĩ một chút có thể giải thích tại sao dọc theo đường bờ biển đang nhô lên ở phía Tây của Nam Mỹ, không tìm thấy các dạng địa chất có quy mô lớn chứa những hóa thạch mới đây hoặc trong kỷ thứ ba, mặc dù nguồn cung cấp trầm tích phải là rất lớn, do sự bị ăn mòn khổng lồ của các dãy núi đá ven biển và từ các rìa cũng chảy vào biển. Không nghi ngờ gì, câu trả lời chính là các vùng bãi lắng ở duyên hải và cận duyên hải đang tiếp tục bị bào mòn, ngay khi chúng được bồi đắp bởi sự dâng lên chậm chạp và từ từ của đất trong khi vẫn bị sóng ăn mòn. 
Tôi nghĩ, chúng ta có thể yên tâm kết luận rằng trầm tích phải được thích tụ thành những khối cực kỳ dày, cứng và rộng để chống lại sự ăn mòn không ngừng của sóng biển khi mực nước biển thay đổi. Những bãi tích tụ trầm tích dày và rộng này có thể được hình thành theo hai cách. Thứ nhất, đó độ sâu rất lớn của biển, theo những nghiên cứu của E.Forbes, chúng ta có thể kết luận rằng sẽ có rất ít sinh vật cư trú dưới đáy biển, và khi đáy biển dâng lên sẽ cho chúng ta một kết quả không hoàn chỉnh về các dạng sinh vật đã từng tồn tại. Thứ hai, đó là trầm tích có thể nếu được tích tụ theo bất kỳ quy mô và độ dày nào trên một đáy nông nếu đáy biển tiếp tục lún xuống.
Trong cách thứ hai, tốc độ chìm xuống và tốc độ cung trầm tích còn tương đương nhau, biển sẽ tiếp tục lún, điều này sẽ có lợi cho các sinh vật, do đó sẽ hình thành các dạng hóa thạch có được độ dày đủ để chống chọi với bẩt cứ sự ăn mòn nào khi biển dâng lên. Tôi cũng cho rằng các dạng tổ tiên của chúng ta, vốn có rất nhiều dưới dạng hóa thạch cũng được hình thành trong quá trình bị nhấn chìm của đất. Kể từ khi công bố quan điểm của mình về vấn đề này năm 1845, tôi đã theo dõi tiến trình địa lý, và đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng tất cả các tác giả khi nghiên cứu vấn đề này đều đưa đến kết luận như trên. Tôi chỉ có thể bổ sung thêm rằng chỉ có các dạng tổ tiên kỷ thứ ba ở đường bờ biển phía tây của Nam Mỹ có đủ độ lớn cần thiết để chống chọi với bất cứ sự ăn mòn nào, nhưng nó cũng không thể tồn tại trong một thời gian dài. Và dạng địa chất này chắc chắn đã được hình thành khi mức độ dao động của trái đất đã giảm bớt, do đó mới trở nên tương đối dày như vậy. 
Các dữ kiện địa lý chỉ cho chúng ta biết rằng từng khu vực đã trải qua rất nhiều mức độ dao động một cách từ từ, và có vẻ như những dao động này đã tác động đến một khỏang không gian rộng lớn. Các dạng địa lý cuối cùng có nhiều dưới dạng hóa thạch và đủ dày và rộng để chống chọi lại sự nhấn chìm có thể đã được hình thành trên một không gian lớn trong thời kỳ nhấn chìm, những nơi có đủ trầm tích để giúp biển tiếp tục nhấn chìm, bao phủ và bảo vệ các dấu tích còn sót lại trước khi chúng bị phân hủy. 
Mặt khác, chừng nào đáy biển còn ở trạng thái đứng yên, các bãi lắng đọng dày có thể sẽ không được tích tụ ở những nơi bị nhấn chìm vốn rất thuận lợi cho các sinh vật. Điều này càng ít xảy ra hơn trong các thời kv chuyến giao của quá trình tiến hóa; hay nói một cách chính xác hơn, những nền mới tích tụ sẽ bị phá hủy do nền này sẽ nhô cao lên trong giới hạn các biếấn động của biển. 
Do các vấn đề trên nên các bằng chứng địa lý sẽ bị gián đoạn. Tôi cảm thấy tin vào tính chân thực của quan điểm này, vì chúng được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố chung đã được ngài c. Lyell và E. Porbes cùng đưa ra một cách độc lập với nhau. 
Ở đây có một điều cần lưu ý, trong giai đoạn các vùng lục địa dâng lên và mức nước biển hạ xuống, các điều kiện sống mới sẽ được hình thành. Như đã giải thích ở trên, các hoàn cảnh sống sẽ ở điều kiện thuận lợi nhất cho việc hình thành các loài và các giống mới. Nhưng thông thường thì những giai đoạn đó không được ghi lại trên những dấu tích lịch sử. Mặt khác, khi nước biến rút, số lượng các khu vực có sự sống và số các sinh vật sẽ giảm đi (trừ những sinh vật sống ở ven bờ biển trước khi lục địa tách ra thành các quần đảo). Và cuối cùng, số loài được tạo mới sẽ ít hơn số những loài đã biến mất vì những biếấn động về địa lý. Chính vào thời kỳ đầu của giai đoạn hình thành lục địa, các lớp trầm tích chứa nhiều hóa thạch đã được hình thành. Có thể nói rằng thiên nhiên đã được bảo vệ để chống đỡ lại với những biếấn động từ dạng này sang dạng khác của chính nó. 
Từ những nhận xét trên, có thể thấy rõ ràng là, nếu xem xét một cách tổng thể, các dầu tích địa lý là không hoàn thiện; nhưng nếu chúng ta chỉ giới hạn sự chú ý của mình vào bất cứ một dạng địa lý nào, chúng ta sẽ thấy rất khó giải thích tại sao chúng ta không thể tìm thấy những giống tương đối tiến hóa giữa các loài có quan hệ với nhau về nguồn gốc. Trong một vài trường hợp, trên cùng một dạng địa lý có thể tìm thấy các giống khác nhau của cùng một loài được phân bố ở tầng trên và tầng dưới của dạng địa lý đó, nhưng những trường hợp như vậy thường rất hiếm và thường bị bỏ qua. Mặc dù để hình thành một dạng địa lý phải mất một khỏang thời gian nhất định, nhưng tôi đã phát hiện ra khá nhiều lý do giải thích tại sao trong các dạng địa lý lại không lưu lại các chuỗi quan hệ giữa các loài giống như khi chủng còn sống, tuy vậy tôi không có cách nào để quyết định thứ tự tầm quan trọng của những lý do đó. Mặc dù mỗi dạng địa lý có thể đại diện cho một thời kỳ rất dài trong quá khứ, nhưng khỏang thời gian đó không là gì nếu so với khỏang thời gian cần thiết đế một loài có thể biến đổi sang thành một loài khác. Tôi được biết hai nhà nghiên cứu hóa thạch mà ý kiến của họ rất được tôn trọng là Bronn và Woodward, họ đã kết luận rằng thời gian trung bình để hình thành mỗi dạng địa chất thường dài gấp hai, thậm chí gấp ba thời gian cần thiết để hình thành các dạng đặc biệt. Và giống như tôi, họ cũng cho rằng có một số khó khăn khó vượt qua cản trở chúng ta đưa ra kết luận chính xác về vấn đề này. Khi chúng ta phát hiện ra bất cứ loài gì ở giữa các lớp địa chất, chúng ta có thể sẽ hấp tấp kết luận rằng dạng sinh vật đó chưa hề xuất hiện trước đây. Và một lần nữa khi chúng ta biết được một loài nào đó đã biến mất trước khi hình thành các dạng địa chất phía trên, chúng ta không thể vội vàng kết luận rằng loài đó đã vĩnh viễn biến mất. Chúng ta đã quên mất vùng đại lục châu âu nhỏ bé như thế nào khi so sánh với cả thế giới, cũng như quên rằng một dạng địa lý có rất nhiều tầng khác nhau ở khắp châu âu và có quan hệ mật thiết với nhau. 
Đối với tất cả các loài sinh vật biển, chúng ta có thể yên tâm kết luận rằng có một lượng lớn sinh vật đã di cư đến các khu vực khác trong các thời kỳ có những biếấn động về thời tiết và các biếấn động khác; và khi chúng ta tìm thấy một loài nào xuất hiện lần đầu tiên trong một dạng địa chất, có khả năng loài đó đã di cư đến khu vực này. Ví dụ, khá đặc biệt là một số loài đã xuất hiện tương đối sớm hơn ở tầng đại cổ sinh ở Bắc Mỹ so với ở châu âu; tức là sau một khoảng thời gian, chúng đã di cư từ Mỹ sang vùng biển châu âu. Trong khi tiến hành thí nghiệm với các lớp trầm tích mới được hình thành nhất ở một vài nơi trên thế giới, chúng tôi đã để ý thấy trong lớp trầm tích đó có một số loài khá phổ biến trong thời đại hiện nay, nhưng dần biến mất ở vùng ven biển, hoặc ngược lại, rất phát triển ở các bờ biển lân cận, nhưng lại rất hiếm hoặc không xuất hiện trong các lớp trầm tích ở đó. Tôi đã phát hiện ra một điều thú vị là có một số lượng nhất định các sinh vật đã di cư trong kỷ Băng hà, thời kỳ chỉ để lại một phần trong các dấu tích địa lý ngày nay, và có thể thấy được sự thay đổi rất lớn về mức độ bất thường của những biếấn động về thời tiết, về những khoảng thời gian biến mất lạ kỳ, tất cả đều diễn ra trong kỷ Băng hà. Tuy nhiên, có thể sẽ có ý kiến nghi ngờ rằng có phải liệu trên tất cả các phần tư của trái đất, ở các tầng địa chất thứ sinh, bao gồm cả các tầng có hóa thạch, đã diễn ra quá trình tích tụ cùng thời kỳ này hay không. Cũng có thể giả sử rằng trầm tích đã lắng xuống trong suốt cả kỳ Băng hà ở gần của sông Mississipi, trong một độ sâu nhất định mà ở đó các sinh vật biển có thể sinh sôi nảy nở, mà như chúng ta đã biết là hàng loạt các biếấn động địa lý ở các vùng khác của nước Mỹ cũng diễn ra vào thời gian này. Khi tầng đáy sông này đã lắng xuống ở vùng nước nông của gần của sông Mississipi bỗng dâng lên tại một thời điểm nào đó trong kỷ Băng hà, những phần hữu cơ còn sót lại có thể sẽ xuất hiện và biến mất ở các tầng địa chất khác nhau, do sự di cư của các sinh vật khi có những biếấn động về địa lý. Và trong tương lai, một nhà địa lý học tiến hành thí nghiệm với những tầng địa chất này có thể có xu hướng sẽ kết luận rằng thời gian sống trung bình của các háa thạch trong tầng đất đó ngắn hơn so với cả kỷ Băng hà, chứ không phải dài hơn.
Để có được một sự biến đổi hoàn chỉnh giữa hai loài trong hai tầng khác nhau trong cùng một lớp địa chất, chắc chắn quá trình tích tụ và lắng đọng phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài mới đủ để quá trình biến đổi chậm chạp giữa các loài diễn ra. Do đó các tầng lắng đọng thường rất dày, và các loài trong đó phải sống ở cùng một vùng trong cả quá trình đó. Nhưng chúng tôi đã nhận thấy các lớp địa chất dày có hóa thạch chỉ có thể tích tụ được trong thời gian nước rút, và để duy trì độ sâu cũ - điều kiện cần thiết để cùng một loài có thể sống trong cùng một khu vực, lượng cung trầm tích phải gần như cân bàng với lượng nước đã rút. Nhưng khi nước rút thường nhẩn chìm luôn cả những vùng tạo trầm tích, do đó nguồn cung trầm tích khi quá trình này diễn ra. Trên thực tế, hiếm khi có sự cân bàng tương đối giữa nguồn cung trầm tích và diện tích đã bị nhấn chìm. Theo quan sát của nhiều nhà nghiên cứu, các tầng lắng đọng dầy thường có ít các phần hữu cơ, trừ ở hai tầng trên cùng và dưới cùng của nó. 
Có vẻ như mỗi dạng địa chất riêng biệt cũng như tất cả các dạng địa chất trên bất cứ nước nào nói chung là thường bị gián đoạn trong quá trình tích tụ. Khi quan sát dạng địa chất hình thành từ các lòng sông có chứa các khoáng chất khác nhau, chúng ta có lý do để tin rằng quá trình lắng đọng đã thường xuyên bị ngắt quãng, do sự thay đổi thuỷ triều của biển và nguồn cung trầm tích của các dạng tự nhiên khác nhau nói chung đều là kết quả của những thay đổi về địa lý cần nhiều thời gian. Ngay cả những nghiên cứu các dạng địa chất gần đây nhất cũng không đưa ra được khoảng thời gian cần thiết để lắng đọng được một lớp trầm tích. Rất nhiều ví dụ có thể đưa ra về những lòng sông chỉ dầy khoảng vài feet những phải mất một khoảng thời gian vô cùng dài mới tạo thành được; do đó hình thành nên các lớp trầm tích mỏng hơn cũng phải mất một khoảng thời gian tương đối dài. Rất nhiều ví dụ có thể đưa ra minh chứng cho những tầng địa chất thấp hơn đã được nâng cao rồi lại bị nhấn chìm, sau đó được bao phủ bởi các tầng địa chất phía trên có cùng dạng- các dẫn chứng thể hiện điều này dù chưa được xem xét thấu đáo vẫn cho thấy có sự ngắt quãng trong quá trình tích tụ. Trong những trường hợp khác mà chúng tôi đã có đầy đủ bằng chứng nhất về các cây hoá thạch, dù đã hoá thạch nhưng vẫn đứng thẳng như khi chúng mọc lên nhưng trải qua những khoảng lặng dài về thời gian và những biến đổi về mức độ trong quá trình lắng đọng, đã không phải là loài cây đã từng được bảo vệ trước đây, do đó, Messrs.Lyell và Dawson đã từng ra tầng các-bon dầy 1400 feet ở Nova Scotia, với tầng rễ nguyên thuỷ của mình, từng tầng từng tầng một, không ít hơn 68 lớp khác nhau. Do đó, khi các loài cùng xuất hiện ở đáy, ở giữa và ngay trên đầu tầng địa chất, có khả năng là chúng không sống cùng một thời điểm trong cả quá trình lắng đọng, nhưng đã biến mất và tái xuất hiện, có thể là rất nhiều lần trong cùng một kỷ nguyên địa lý. Nếu những loài này đều đã trải qua một lượng đáng kể các biến đổi trong hầu hết các thời kỳ địa lý, một bộ phần tầng địa lý sẽ không thể bao gồm tất cả các biến dạng trung gian mà theo lý thuyết của tôi là đã tồn tại trong quá trình tiến hoá của các loài, bao gồm các dạng đã biến đổi ít nhiều. 
Điều quan trọng nhất cần ghi nhớ là các nhà tự nhiên học đã không có bất cứ quy tắc vàng nào để phân biệt giữa các loài và các giống, họ chỉ nhận biết dựa trên một vài biến dị nhỏ của từng loài, nhưng khi bắt gặp những khác biệt tương đối lớn giữa hai dạng bất kỳ, họ xếp tất cả chúng vào một loài, trừ khi họ có khả năng liên kết chúng lại bàng những dạng trung gian có quan hệ gần nhau. Do đó chúng ta khó có thể hi vọng rằng gây tác động đến các tầng địa lý. Giả sử B và c là hai loài khác nhau, và một loài thứ ba, A, được tìm thấy ở lớp địa chất dưới B và c, ngay cả khi A nhất định là thể trung gian giữa B và c, nhưng nó vẫn được xếp vào loài thứ ba, khác biệt với hai loài trên, trừ khi cùng một lúc nó có thể kết nối với cả hai loài trên thông qua các giống trung gian. Điều này cần phải ghi nhớ, như đã giải thích ở trên là A phải là thể trung gian giữa B và c, dù xét về cấu trúc không phải A giống hoàn toàn B và c. Do đó chúng ta có thể bắt gặp những loài bố mẹ và các con cháu đã biến dạng của chúng trong các tầng địa chất từ thấp đến cao của cùng một dạng địa chất, và trừ khi chúng ta bắt gặp một vài thể chuyển đổi trung gian, nếu không chúng ta sẽ không thể nhận ra mối quan hệ giữa chúng và sẽ xếp chúng vào các loài hoàn toàn khác biệt nhau. 
Các nhà nghiên cứu hoá thạch đã phát hiện ra những điểm khác nhau hình thành nên các loài, và họ làm được điều này càng thuận lợi hơn nếu các tầng trầm tích xuất hiện ở các lớp phụ khác nhau của cùng một dạng địa chất. Một vài nhà sinh vật học có kinh nghiệm đã xếp rất nhiều loài vào nhóm hoàn hảo của D"Orbigny và một vài loài khác vào các giống, và dựa trên quan điểm này, chúng tôi đã tìm ra một số bằng chứng về những biến đổi.
Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét những khoảng lặng rộng lớn hơn, đó là những giai đoạn tách biệt nhưng liên tiếp nhau của cùng một dạng địa chất lớn, chúng ta sẽ nhận thấy những hoá thạch đã hình thành, mặc dù nói chung thường được xếp vào các dạng khác nhau nhưng vẫn có quan hệ gần gũi hơn so với những loài được tìm thấy ở các dạng địa lý phân cách nhau rộng hơn, nhưng đối với chủ đề này, tôi sẽ quay lại ở chương sau. Một nhận xét khác cần được lưu ý: với những động thực vật có khả năng nhân giống rộng rãi và không mang tính thuần chủng cao, có lý do để nghi ngờ rằng, các giống ban đầu thường chỉ mang tính địa phương, và những giống địa phương này không phân tán rộng rãi và thay thế các dạng cha mẹ chúng cho đến khi chúng đã tiến hoá và được hoàn thiện đến một mức độ nào đó. Theo quan điểm này, cơ hội khám phá ra trong một dạng địa chất ở bất cứ nước nào trong những thời kỳ chuyển đối ban đầu giữa hai dạng là rất nhỏ, đối với những thay đổi liên tiếp được giả sử rằng chỉ mang tính địa phương hoặc chỉ giới hạn trong một vài địa điểm mà thôi. Hầu hết các động vật biển đều rất đa dạng, và chúng ta đã nhận thấy rằng các thực vật đa dạng nhất thường có nhiều giống nhất, do đó đối với sò và một số động vật biển khác, có thể có những loài có rất nhiều giống, vượt quá giới hạn hiểu biết của các nhà sinh vật học về các dạng địa chất ở châu âu, thường tăng lên, trước hết là đối với các giống địa phương và sau đó là đến các loài mới; và điều này một lần nữa sẽ làm giảm rất nhiều cơ hội tìm ra những giai đoạn chuyển đổi trong bất kỳ một dạng địa chất nào.
Một điều khác cần ghi nhớ là trong hiện tại, với các lớp trầm tích đã được nghiên cứu, hai dạng có thể hiếm khi liên kết với nhau bởi các giống trung gian và do đó khó có thể kết luận là chúng cùng một loài, cho đến khi thu lượm được rất nhiều dạng trầm tích từ nhiều nơi khác nhau, và trong trường hợp các hoá thạch đã không bị tác động gì bởi các nhà nghiên cứu cổ vật. Có thể chúng ta sẽ không đủ khả năng để liên kết các loài với nhau bàng các mối liên hệ đa dạng, hoàn hảo, trung gian và đã hoá thạch bằng cách tự hỏi bản thân xem liệu, ví dụ, các nhà địa lý học ở tương lai có khả năng chứng minh rằng các con cháu của các giống cừu, ngựa, chó...ngày nay có thừa hưởng một vài đặc tính từ các loài cha mẹ nguyên thuỷ hay không, hoặc liệu một số loài sò sống ở các bờ biển ở Bắc Mỹ, vốn được coi là các loài khác với đại diện của chúng ở châu âu, và được một số nhà sinh vật học coi là các giống, có những đặc điểm gì đặc biệt khác biệt hay không. Điều này sẽ bị ảnh hưởng không chỉ bởi những gì các nhà địa lý học khám phá trong các lớp hoá thạch có vô số các tầng trung gian, và đối với tôi, sự thành công này cũng sẽ không thể đạt được ở mức cao nhất. 
Các nghiên cứu địa lý, mặc dù đã bổ sung thêm rất nhiều loài vào những chủng sinh vật đã tồn tại và biến mất, và đã thu hẹp những khoảng trống giữa một vài nhóm sinh vật, nhưng vẫn chưa làm được gì nhiều trong việc phá vỡ sự phân biệt giữa các loài, bằng cách kết nối chúng qua các giống trung gian hoàn hảo và đa dạng, và điều này đã không ảnh hưởng, có khả năng là lý lẽ chắc chắn và rõ ràng nhất có thể dùng để phản bác lại lý thuyết của tôi. Do đó, tôi cần phải tổng kết lại những gì đã nêu ở trên với những minh họa cụ thể. Quần đảo Malay có diện tích tương đương từ cực bắc châu âu đến Địa Trung Hải, từ Anh đến Nga, và do đó có cùng số lượng các dạng địa chất đã từng được thí nghiệm ở nước Mỹ. Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài GodwinAusten rằng các điều kiện sống hiện nay của quần đảo này, với vô số các đảo riêng rẽ ở các vùng biển rộng lớn và nông, có thể dại diện cho điều kiện sống trước đây của châu âu, khi diễn ra quá trình tích tụ của hầu hết các lớp trầm tích. Quần đảo Malay là một trong những khu vực có nhiều dạng hữu cơ nhất trên thế giới, nếu tất cả các loài được tìm thấy đều đã từng sống ở đây, chính vì vậy chúng ta thấy được mức độ không hoàn thiện của lịch sử tự nhiên của thế giới này. 
Nhưng chúng ta có tất cả các lý do để tin rằng các sinh vật sổng ở kỷ thứ ba của quần đảo này đã được bảo quản theo cách không hoàn chỉnh trong các dạng địa chất mà chúng ta cho rằng đã từng được tích tụ tại đó. Theo tôi suy đoán, không có nhiều động vật vùng duyên hải, hoặc những loài sống ở các dãy núi đá ven biển đã bị hoá thạch; và những loài bị vùi xuống cát sỏi có thể tồn tại được trong một giai đoạn rất dài. Bất cứ nơi nào trầm tích không được tích tụ ở lòng biển, hoặc không được tích tụ ở mức đủ dày để bảo vệ các cơ thể hữu cơ bên trong khỏi bị phân hủy, không thể lưu lại bất cứ phẩn nào sót lại của các sinh vật đó. 
Trong quần đảo của chủng ta, tôi tin rằng các dạng hoá thạch có thể được hình thành với độ dày vừa đủ để tồn tại trong một thời gian dài, kể cả trong tương lai như các dạng thứ sinh đã từng tồn tại trong quá khứ, chỉ trong thời kỳ bị nhấn chìm. Các giai đoạn nhấn chìm có thể được tách ra với nhau bởi các khoảng lặng rất lớn, trong đó các khu vực có thể được nâng lên hoặc nhấn xuống; trong khi dâng lên, mỗi dạng hoá thạch có thể bị phá huỷ, gần như là ngay khi vừa tích tụ xong, do các tác động va đập của sóng biển, như chúng ta đã thấy ở bờ biển Nam Mỹ. Trong thời kỳ nhấn chìm, rất nhiều sinh vật cũng có thể bị tuyệt chủng, trong thời kỳ tiến hóa, sẽ có rất nhiều biến dị, nhưng những dấu tích địa lý của thời kỳ đó thường là không đầy đủ. 
Có thể có ý kiến nghi ngờ rằng về độ dài của thời kỳ chìm xuống toàn bộ hay một phần của quần đảo, cùng với sự tích tụ trầm tích, có thể vượt quá khoảng thời gian trung bình để hình thành một dạng địa chất tương tự; và những bất ngờ này không tách rời đối với sự bảo tồn của tất cá các biến dạng trung gian giữa hai hay nhiều loài. Nếu những bước tiến hoá này không được bảo vệ đầy đủ, các giống chuyển đổi sẽ xuất hiện với tư cách là các loài mới. Cũng có khả năng là mỗi thời kỳ nhấn chim kéo dài có thể bị ngắt quãng bởi các dao động về mức độ, và những thay đổi nhỏ về khí hậu cũng có thể tác động đến quá trình này; và trong các trường họp này, cư dân của các quần đảo sẽ phải di cư, và không có dấu tích nào về sự tiến hoá của chúng được lưu lại trong các tầng địa chất của khu vực này. 
Rất nhiều sinh vật biển của bán đảo ngày nay rất đa dạng, họ hàng của chúng có thể xếp thành dãy dài hàng nghìn dặm, và các số liệu tìm thấy khiến tôi tin rằng nhất định có nhiều loài còn đa dạng hơn thường tạo ra các giống mới; và các giống này có thể ban đầu chỉ sống tập trung trong một vùng mà thôi, nhưng khi chúng có thêm những biến dị nhất định, hoặc khi biến đổi và tiến hoá cao hơn, chúng sẽ dần di chuyển và phân tán rộng cách xa nơi cha mẹ chủng từng sinh sống. Khi những giống này quay trở về nơi quê cha đất tổ của mình, do chúng đã khác nhiều so với trước đây, hoặc có thể không nhiều lắm nhưng cũng có thể vẫn được xếp vào hàng những loài và giống mới bởi các nhà sinh vật học. 
Nếu sau đó, nếu các chú ý trên có thể tin được, chúng ta không có quyền hy vọng sẽ tìm thấy trong các dạng địa chất của chúng ta một số lượng không xác định những thể trung gian hoàn hảo, mà theo lý thuyết của tôi là có liên hệ với tất cả các loài trong quá khứ và hiện tại của cùng một nhóm vào một chuỗi sinh vật dài và có nhiều nhánh. Chúng ta chỉ có thể tìm kiếm một vài mối liên hệ, vốn có quan hệ chặt chẽ hơn, hoặc một vài quan hệ về khoảng cách với nhau, và những mối liên hệ đó, hãy xếp chúng gần với nhau, nếu được tìm thấy trong các tầng khác nhau của cùng một dạng địa chất sẽ được hầu hết các nhà sinh vật học xếp vào là những loài mới. Nhưng tôi không hề từng nghi ngờ về độ nghèo nàn của các bằng chứng địa lý về các chuỗi sinh vật sống được bảo quản dưới dạng hoá thạch, hoặc không gặp bất cứ khó khăn nào trong quá trình tìm kiếm những mối quan hệ trung gian giữa các loài cùng xuất hiện trong các dạng địa chất. 
Về sự xuất hiện đột ngột của tất cả nhóm các loài có họ hàng với nhau - Cách thức đột ngột mà cả nhóm loài xuất hiện bất ngờ trong một vài dạng địa chất nhất định, đã được thừa nhận bởi một số nhà nghiên cứu sinh vật học, ví dụ như Agassiz, Pictet và một nhân vật rất cỏ uy tín, giáo sư Seđgwick, như một phản biện quan trọng đối với quan điểm về sự biến đổi theo chuỗi của các loài. Nếu một số loài, thuộc về cùng một chủng hoặc cùng một họ, đã thực sự bắt đầu cuộc sống cùng một lúc, thực tế có thể rất quan trọng đối với lý thuyết di truyền với quá trình biến đoi diễn ra chậm chạp thông qua chọn lọc tự nhiên. Đối với sự phát triển của một nhóm sinh vật, vốn đều có nguồn gốc từ một tổ tiên nào đó, chắc rằng đó phải là một quá trình diễn ra vô cùng chậm; và những tổ tiên này hẳn đã phải sống rất lâu trước khi những con cháu tiến hoá của chúng xuất hiện. Nhưng chúng ta đã liên tục đánh giá qua sự hoàn thiện của bản ghi địa lý, và nhận định một cách sai lầm, vì các chủng hoặc họ nhất định đã không được hình thành trong một giai đoạn nhất định, mà chúng không tồn tại trước giai đoạn đó. Chúng ta liên tục quên thế giới lớn như thế nào, so sánh với vùng mà các dạng địa lý ở đó đã được khảo sát cẩn thận; chúng ta quên rằng những nhóm loài có thể đã tồn tại ở nơi khác lâu và được nhân lên một cách chậm chạp trước khi chúng di cư đến những quần đảo cố xưa của châu âu và Mỹ. Chúng ta không tính đến giới hạn khổng lồ của những khoảng thời gian, mà có lẽ đã lướt qua các dạng địa chất liên tiếp nhau, có lẽ trong vài trường hợp dài hơn thời gian cần thiết để tích tụ một dạng địa chất. 
Những khoảng lặng này sẽ có tạo ra thời gian cho sự nhân lên của các loài từ một vài hoặc số ít dạng cha mẹ nào đó; và trong dạng địa chất tiếp theo, những loài như vậy sẽ xuất hiện như thể thình lình được tạo ra vậy. 
Ở đây tôi có thể nhắc lại một nhận xét trước đây đã từng được đưa ra, đại ý là sẽ mất một thời kỳ kế tiếp dài để một thể hữu cơ thích nghi với một cuộc sống đặc biệt và mới nào đó, ví dụ bay xuyên qua không khí; nếu không khi điều kiện sống này xuất hiện, và một ít loài như vậy thu nhận những lợi thế lớn hơn so với các thể hữu cơ khác, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn cần thiết để sản sinh nhiều dạng phân kỳ, có thê lan truyền nhanh chóng và rộng rãi trên khắp thế giới. 
Tôi sẽ đưa ra một so ví dụ để minh họa những nhận xét này; và để thể hiện rằng chúng ta đã không trung thực khi mắc phải sai lầm đi giả sừ rằng toàn bộ các nhóm (của) những loài đã được sinh ra một cách bất ngờ. Tôi có thể nhắc lại dẫn chứng nổi tiếng mà trong những luận án địa lý, được xuất bản không quá lâu trước đây, một tầng lớp đông đảo động vật có vú luôn luôn được cho rằng bất ngờ xuất hiện vào kỷ thứ ba. Và bây giờ một trong những hiểu biết phong phú nhất về những hóa thạch của động vật có vú lại thuộc về giữa kỷ thứ sinh; và một động vật có vú thật đã được phát hiện trong đá cát kết đỏ mới ở giai đoạn gần như bắt đầu của kỷ nguyên lớn này. Cuvier đã từng kết luận rằng không có con khỉ nào xuất hiện trong bất kỳ địa tầng, tầng lớp xã hội thuộc kỷ thứ ba nào; nhưng bây giờ những loài đã tuyệt chủng đã được phát hiện ở Ấn Độ, Nam Mỹ, và châu âu, thậm chí còn ở các giai đoạn trước nữa. Trường hợp nổi bật nhất, tuy nhiên, là trường hợp của họ cá voi; đây là những động vật khổng lồ có xương, sống ở biển, và ở khắp thế giới, vấn đề là không phải chỉ một bộ xương cá voi đã được tìm thấy trong tất cả các dạng địa chất thứ sinh nào, có vẻ hoàn toàn giúp cho việc khẳng định niềm tin rằng thứ tự phân biệt lớn này đã bất ngờ được tạo ra trong khoảng lặng thứ nhì gần đây nhất và dạng địa chất thuộc kỷ thứ ba sớm nhất. Nhưng bây giờ chúng ta có thể đọc trong Phần phụ của cuốn Tài liệu, của Lyell được xuất bản vào năm 1858, những bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của cá voi trong trên cát xanh, thời điểm nào đó trước khi kết thúc kỷ thứ nhì.
Tôi có thể đưa ra những dẫn chứng khác mà tôi đã từng được tận mắt chứng kiến và bị gây ẩn tượng rất mạnh. Trong một luận văn nói về những con hà Sessile hóa thạch, tôi đã phát biểu rằng, từ số lượng những loài thuộc kỷ thứ ba đã tuyệt chủng và từng tồn tại; từ sự phong phú khác thường của những cá thể của nhiều loài khắp thế giới, từ vùng Bắc cực đến đường xích đạo, sống ở nhiều khu vực sâu khác nhau từ những giới hạn thủy triều trên đến 50 fathon; từ cách thức hoàn hảo trong đó những dạng được giữ gìn trong những lớp đáy thuộc kỷ thứ ba già nhất; từ sự dễ dàng mà chỉ cần một đoạn con đập là có thể nhận biết được; từ tất cả những điều kiện trên này, tôi cho rằng có những con hà sessile tồn tại trong thời kỳ thứ nhì, chúng chắc chắn đã được bảo tồn và phát hiện ra, và không giống một loài đã được phát hiện ra trong những lớp trầm tích của thời kỳ này, tôi kết luận rằng nhóm lớn này đã bất ngờ phát triển vào thời điểm bắt đầu của kỷ thứ ba. Đây là một rắc rối gây tác động không tốt tới tôi, trong khi tôi nghĩ rằng sự xuất hiện đột ngột một nhóm lớn các loài nữa. Nhưng công trình của tôi sẽ khó được được xuất bản, do một nhà sinh vật học tài giỏi, M. Bosquet, gửi cho tôi bản vẽ của một dạng hoàn hảo của một con sò sessile mà ông đã tự mình lấy được từ những tảng núi đã ở Bỉ. Và, sessile này là hà Chthamalus, một chủng phổ biến, lớn, và có mặt ở khắp nơi nhưng không thể được tìm thấy trong bất kỳ xã hội nào thuộc kỷ thứ ba. Từ đó chúng ta bây thể biết chắc chắn rằng những con hà sessile tồn tại trong thời gian thời kỳ thứ nhì; và những con hà này có thể là tổ tiên của nhiều loài đã tồn tại và thuộc kỷ thứ ba của chúng ta. 
Tình huống phổ biến luôn được các nhà sinh vật học nhấn mạnh ở trên về sự xuất hiện rõ ràng là rất đột ngột của cả nhóm các loài, là của loài cá teleostea, sống ở các vùng nước thấp trong kỷ đá vôi. Nhóm này bao gồm phần lớn những loài đã từng tồn tại. Gần đây, giáo sư Pictet đã đính chính lại sự tồn tại của chúng- trong giai đoạn sau của sự tiến hoá; và một số nhà sinh vật học nào đó tin rằng nhất định mà có những loài cá già hơn mà cho đến nay vẫn chưa được biết đến, thật sự chính là teleostean. Giả thiết rằng, tuy nhiên, do toàn bộ nhóm đó đã biến mất, như ý kiến của Agassiz, tại thời điểm bắt đầu của dạng địa chất đá vôi, sự việc chắc chắn rất đáng chú ý; nhưng tôi không thể thấy) rằng đó là một khó khăn không thể khắc phục nếu dựa trên lý thuyết của tôi, trừ phi nó có thể giống như-những loài của nhóm này đột nhiên xuất hiện và đồng thời trên khắp thế giới trong cùng một thời kỳ. Điều này gần như quá đủ để nhận xét khó có vật hóa thạch - cá nào được biết từ phía nam của đường xích đạo; và được nêu trong cuốn “Nhà sinh vật học” của Pictet nó sẽ có rất ít những loài được biết từ vài dạng địa chất ở châu âu. Thậm chí ngày nay, nếu quần đảo Malay được chuyển đổi vào đất liền, thì Ấn Độ Dương nhiệt đới sẽ trở thành một vòng cung bao quanh, lớn và hoàn hảo, trong đó bất kỳ nhóm động vật biển lớn nào cũng có thể được nhân lên; và ở đây chúng còn lại rất ít, cho đen khi vài loài dần thích nghi với điều kiện khí hậu, và được phép tăng gấp đôi so với ở miền nam châu Phi hoặc châu úc. 
Từ những điều trên và những nhận xét tương tự, nhưng chủ yếu từ những thiếu sót về kiến thức địa chất của những nước khác bên ngoài châu Ảu và châu Mỹ; và từ sự cách mạng về ý tưởng của các nhà sinh vật học của chúng ta, từ những khám phá từ nhiều những năm trước, khiến tôi có thể phát biểu về sự kế tiếp của các dạng hữu cơ khắp nơi trên thế giới, giống như một nhà tự nhiên học chỉ có năm phút đứng trên một vùng càn cỗi nào đó ở châu Úc và sau đó bàn luận về số lượng và phạm vi của các sinh vật của nó. 
Về sự xuất hiện đột ngột của những nhóm những loài có quan hệ chặt chẽ với nhau ở những tầng địa chất có hóa thạch thấp nhất được biết tới. Đây cũng là một khó khăn lớn, thậm chí còn lớn hơn khó khăn trước. Tôi muốn đề cập đến cách mà trong đó một số nhóm loài đột ngột xuất hiện trong tầng thấp nhất chứa hóa thạch. Hầu hết lý lẽ có thể thuyết phục tôi là tất cả các loài đang tồn tại của cùng một nhóm đều là kế thừa từ một tổ tiên, mức độ được biết đến cũng ngang bàng nhau. Ví dụ, tôi không thể nghi ngờ gì rằng tất cả các trùng tam diệp kỷ Silurian đã được kế thừa từ một loài tôm cua nào đã sống rất lâu trước kỷ Silurian, và có lẽ khác nhiều so với bất kỳ động vật nào đã được biết đến. Vài động vật thời Silurian cổ xưa nhất, như Nautilus, Lingula, không khác nhiều so với những loài đang sống hiện nay; và trên lý thuyết tôi không thể giả định rằng tất cả những loài cổ xưa đều là tổ tiên của những loài hiện nay vì chúng không mang những đặc tính của bất kỳ dạng trung gian nào. Hon nữa, nếu có những tổ tiên dạng này, chúng gần như chắc chắn đã bị tiêu diệt bởi những con cháu đã tiến hoá của chúng. 
Vậy thì, nếu lý thuyết của tôi là đúng, sẽ khẳng định rằng trước khi địa tầng Silurian thấp nhất được bồi đắp, một thời gian dài trôi qua, có thể là dài hơn toàn bộ khoảng thời gian từ kỷ Silurian xa xưa đến ngày nay; và rằng trong khoảng thời gian rộng lớn và chưa được biết đến này, thế giới đã tiến hoá với những tạo vật mới. 
Trả lời cho câu hỏi tại sao chúng ta không tìm thấy những thời kỳ nguyên thuỷ rộng lớn này và chúng chưa được ghi lại, tôi có ý kiến như sau: Một số nhà địa chất nổi tiếng nhất, như ông R. Murchison đã bị thuyết phục rằng chúng ta nhìn thấy trong những lớp hữu cơ còn lại của địa tầng Silurian thấp nhất bình minh của cuộc sống trên hành tinh này. Những nhà khoa học lỗi lạc khác, như Lyell và sau đó là E. Forbes đã tranh luận về kết luận này. Chúng ta không được quên rằng chỉ một phần nhỏ của thế giới được biết đến một cách chính xác. M. Baưande đã đã bổ sung thêm vào hệ thống Silurian nhiều loài đặc biệt và mới. Những dấu hiệu của cuộc sống đã được phát hiện ra trong tầng Longmynd ở dưới tầng Barrande. Sự có mặt của những nút nhỏ chất phốt phát và chất nhựa đường trong vài tảng đá vô sinh ở tầng thấp nhất, cho thấy đã từng có sự sống tồn tại trong những thời kỳ này. Nhưng khó khăn trong việc lý giải sự thiếu vắng nhiều hóa thạch mà theo lý thuyết của tôi là không nghi ngờ gì đã được tích lũy trước kỷ nguyên Silurian ở đâu đó, thì rất lớn. Phải chăng những tầng địa chất cổ xưa nhất này đã bị nhấn chìm toàn bộ, hoặc bị xóa sạch vì biến chất, nên chúng ta chỉ tìm thấy những tàn dư nhỏ của những dạng địa chất nối tiếp chúng trong thời kỳ đó, và những điều đó nói chung cũng trong điều kiện bị biến dạng. Nếu những mô tả mà chúng ta đang có về các lớp trầm tích của kỷ Silurian ở những vùng mênh mông ở Nga và Bắc Mỹ, không hỗ trợ quan điểm này, những dạng địa chất càng cổ xưa, thì chắc phải chịu đựng rất nhiều tác động của quá trình chìm lấp và biến dạng càng nhiều. 
Trường hợp này hiện nay vẫn không thể giải nghĩa được; và có thể được coi như một lý lẽ hợp lý chống lại những quan điểm nêu trên. Để chỉ ra rằng từ nay về sau sẽ có đủ lý lẽ để giải thích điều này, tôi sẽ đưa ra một số giả thuyết. Từ dạng tự nhiên của những thể hữu cơ còn lại, vốn không xuất hiện những tầng địa chất quá sâu, trong vài dạng địa chất của châu âu và châu Mỹ; và từ số lượng lắng đọng dày hàng trăm dặm, chúng ta có thể suy ra rằng từ những hòn đảo đầu tiên đến những hòn đảo cuối cùng, hoặc những khoảng đất rộng, bất cứ nơi nào diễn ra quá trình lắng đọng, đều xuất hiện trong khu lân cận của những lục địa đã có châu âu và Bắc Mỹ. Nhưng chúng ta không biết tình trạng của sự vật ở đoạn trung gian giữa những sự hình thành nối tiếp nhau; chúng ta không biết phải chăng nếu trong những quãng thời gian đó châu âu và Hoa Kỳ đã tồn tại như những dải đất khô nổi lên trên mặt biển hay là những vùng đất ngầm nằm trong lòng đại dương gần lục địa mà trên đó không hề có một khối trầm tích nào kết tụ, hay là đáy biển của một vùng biển mở rộng. 
Chúng ta thấy rằng những đại dương hiện nay có diện tích gấp ba diện tích đất liền và những đảo nhỏ nằm rải rác; nhưng chúng ta không thấy một hòn đảo nào thực sự mang tính chất đại dương lại chứa đựng những vết tích thuộc thời kỳ đại cổ sinh và kỷ đệ nhị. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng, ở những nơi có đại dương, thì vào những thời kỳ như kỷ đại cổ sinh hay đệ nhị đều không tồn tại những lục địa hay đảo lục địa; vì nếu có thì, những khối kết tầng cổ sinh và đệ nhị kỷ tất cả đã được hình thành. Sau đó, một phần khối ấy sẽ phải nhô cao lên sau những biếấn động địa chất đã phải xảy ra trong các giai đoạn kéo dài ấy. Như vậy, nếu chúng ta có thể dựa vào những sự kiện trên để kết luận một điều thì đó là: ở những vùng hiện nay ngập chìm trong nước biển đã có niên đại từ thời kỳ xa xưa nhất mà chúng ta có thể biết, và mặt khác, ở những vùng mà hiện nay là lục địa, thì từ kỷ Cambry cũng đã có những vùng đất liền rộng lớn và chúng chắc chắn đã phải trải qua những biếấn động địa chất mạnh mẽ. Bản đồ màu tôi đính kèm với cuốn sách về các đảo san hô đã dẫn tôi đến kết luận rằng những đại dương lớn hiện nay vẫn là những khoảng lún xuống; rằng những quần đảo lớn bao giờ cũng là trung tâm của các hoạt động địa chất mạnh mẽ, và các lục địa vẫn là những vùng đất nhô cao. Nhưng liệu đây có phải là thực tế kéo dài từ thời kỳ khai sinh quả đất không? Trong khi trái đất trải qua nhiều biếấn động, các lục địa ngày nay dường như được hình thành chủ yếu nhờ vào lực đẩy sinh ra từ những biếấn động địa tầng; nhưng cũng có thể là qua các thời đại, những diện tích thuộc diện vậấn động ưu thế đã không thay đổi theo thời gian. Ở một thời kỳ rất xa trước kỷ Cambry, ở những vùng hiện nay là đại dương, có thể đã có những lục địa và những đại dương vô cùng rộng lớn bao phủ các vùng hiện nay là lục địa. Chủng ta cũng không thể giả định chẳng hạn như đáy biển hiện thời của Thái Bình Dương trở thành lục địa thì chúng ta sẽ tìm thấy ở đó những tầng địa chất có niên đại cổ xưa hơn tầng địa chất của Xilua, giả thiết rằng các tầng trầm tích đã được tích tụ ở đó; vì nó có thể xảy ra việc những tầng địa chất bị chìm xuống vài dặm gần trung tâm trái đất và chịu áp lực của một khối nước khổng lồ, đã có thể trải qua những hoạt động biến đổi địa chất nhiều hơn so với những địa tầng nằm gần vỏ quả đất. Tôi luôn luôn cảm thấy cần có sự giải thích đặc biệt cho những lớp đất đá đã được nung nóng dưới áp suất lớn ở một số vùng rộng lớn trên thế giới, ví như Nam Mỹ, và chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm ra những tầng địa chất đã bị xói mòn trước kỷ Xilua. Những khó khăn về nhiều mặt mà chúng ta vừa thảo luận, như việc không tìm thấy mối liên hệ trung gian giữa những giống hiện nay và giống xưa kia, sự xuất hiện đột ngột của toàn bộ một giống nào đó trong các tầng địa chất ở châu âu, hay sự biến mất gần như hoàn toàn của các hóa thạch dưới tầng địa chất Xilua hiện nay. Chứng cớ là các nhà cổ sinh vật học như Cuvier, Agassiz, Owen, Barrande, Falconer, và E. Forbes và các nhà địa chất học như Lyell, Murchison, Sedgwick, đều đã nhất trí ủng hộ và đôi khi nhiệt thành với nguyên lí chủng loại bất biến, về phía bản thân, theo như ẩn dụ của Lyell, tôi coi những thư đồ địa chất như một pho lịch sử trái đất không đầy đủ, được viết bằng một thứ tiếng luôn thay đổi, mà chúng ta chỉ sở hữu cuốn sách sau cùng, liên quan tới chỉ vài ba nước. Trong cuốn sách ấy, thi thoảng mới có một vài chương được bảo quản, và trong những trang sách của những chương đó chỉ có một số trang là còn có thể hiểu được. Mồi một chữ cái của thứ tiếng ấy, một thứ tiếng thay đổi dần dần, chất liệu mà lịch sử được ghi chép lại bàng, có thể thay đổi đôi chút qua các chương do sự đứt quãng giữa các chương với nhau, có thê tượng trưng cho những hình thái đã thay đổi đột ngột, bị chôn vùi trong những tầng địa chất liên tiếp và phân tán của chúng ta. Giả thuyết này đã làm giảm nhiều, nếu không muốn nói là làm mất hẳn, những khó khăn mà chúng ta đã thảo luận trong chương.
CHƯƠNG X 
SỰ NỐI TIẾP ĐỊA CHẤT HỌC CỦA SINH VẬT 
Sự xuất hiện dần dẩn và kế tiếp của các loài mới: tốc độ biến đổi khác nhau của chúng - Những loài đã mất đi không xuất hiện lại - Những nhóm loài tuân theo cùng quy luật chung trong sự xuất hiện và biến mất như một loài đơn lẻ - về sự tuyệt chủng - về sự thay đổi kiểu hình hữu cơ trên khắp thế giới - về những mối liên hệ họ hàng giữa các loài đã tuyệt chủng với nhau, và với những loài đang tồn tại - về trạng thái phát triển của những kiểu hình cũ - về sự nối tiếp của những loại hình giống nhau trong các khu vực tương tự nhau - Tóm tắt chương này và chương trước. 
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét các số liệu và quy luật liên quan tới sự nối tiếp địa lý của các sinh vật hữu cơ phù hợp với quan điểm chung về sự bất biến của các loài hoặc là phù hợp với sự biến đổi dần và chậm của các loài, thông qua chọn lọc tự nhiên và di truyền. 
Các loài mới xuất hiện rất chậm, trên đất liền và dưới mặt nước, lần lượt từng loài một. Giáo sư Lyell đã chỉ ra rằng những chứng cứ tìm thấy được từ các tầng địa chất thuộc Kỷ thứ 3 khó có thể bị bỏ qua; và mỗi năm những mảng trống kiến thức lại được lấp đầy. Trong những tầng đất được xét nghiệm gần đây nhất, chỉ có một hai loài tuyệt chủng và những di chỉ về loài mới được phát hiện, trong khi niên đại của những tầng đất này thuộc loại khá cổ. Nếu chúng ta tin vào những quan sát của Philippi ở Sicily, chúng ta sẽ thấy những loài sinh vật biển trên hòn đảo này đã trải qua rất nhiều những biến đổi liên tục và dần dần. Những lớp đất đá thuộc Kỷ thứ 2 tuy có vụn hơn nhưng theo quan điểm của Bronn, sự biến mất và xuất hiện của những di chỉ về những loài sinh vật tuyệt chủng không xảy ra đồng thời trong các kỷ. 
Các loài động vật thuộc các chi và lớp khác nhau không biến đổi giống nhau về tốc độ và mức độ. Trong những lớp đất đá cổ nhất thuộc Kỷ thứ 3, một số loại vỏ của sinh vật hiện còn sống trên Trái Đất vẫn có thể được tìm thấy giữa những hóa thạch của các sinh vật tuyệt chủng. Trường hợp hóa thạch của một con cá sấu có đặc điểm tương đồng với những động vật có vú và than lằn đã tuyệt chủng trong lớp đất đá tìm thấy ở vùng hạ Himalaya cũng là một ví dụ điển hình được ngài Falconer đưa ra. Loài động vật hình lưỡi ở kỷ Silua không khác với loài vật cùng loại hiện đang tồn tại, trong khi phần lớn những động vật giáp xác và thân mềm thuộc kỷ Silua đã thay đổi rất nhiều. Sự sinh sản ở trên cạn dường như thay đổi nhanh hơn nhiều so với ở dưới mặt biển. Có cơ sở để tin rang các sinh vật bậc cao của thiên nhiên thay đổi nhanh hơn các sinh vật bậc thấp. Tuy vậy, vẫn có những ngoại lệ cho trường hợp này. Khi một loài đã hoàn toàn biến mất khỏi Trái Đất, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng một cá thể tương tự sẽ không thể xuất hiện lại. Ngoại lệ duy nhất của quy luật này là các “cụm sinh vật” của ngài Barrande. Theo ông này, các di chỉ của một số sinh vật sẽ xuất hiện trong lớp đất đá cổ, và rồi lại xuất hiện một lần nữa trong một lớp đất đá cổ khác. Nhưng tôi thấy giải thích của Lyell rằng đó chỉ là một trường hợp di cư từ một khu vực địa lý xa xăm tới, có vẻ như cũng có thể chấp nhận được.
Những bằng chứng trên rất phù hợp với giả thuyết của tôi. Tôi không tin vào bất cứ một quy luật phát triển bất di bất dịch, khiến cho tất cả các sinh vật của một vùng thay đổi đột ngột, hoặc đồng thời, hoặc ở một mức độ giống nhau nhất định. Quá trình biến dị chắc chắn phải diễn ra rất chậm. Khả năng biến dị của mỗi loài là hoàn toàn khác nhau. Liệu những biến dị đó có thể được tận dụng bởi chọn lọc tự nhiên, và liệu sự biến dị đó được tích lũy nhiều hay ít ở các loài khác nhau, tùy thuộc vào rất nhiều yéu tố khách quan phức tạp - phụ thuộc vào giao phối chéo, vào tỉ lệ giao phối trong những điều kiện vật chất đang thay đổi của vùng, và đặc biệt là bản tính của những động vật mà loài biến dị phải cạnh tranh. Do đó, không có gì lạ khi một loài có thể giữ kiểu hình tương tự lâu hơn các loài khác, hoặc giả có thay đổi thì cũng là rất ít. Chúng ta cũng thấy hiện tượng này xảy ra trong sự phân bố địa lý. Ví dụ: những con bọ cánh cứng và những chiếc vỏ lục địa ở Madeira đã thay đổi khá nhiều so với những họ hàng thân cận nhất của chúng ở châu âu, trong khi những chiếc vỏ biển và các loài chim thì lại không hề thay đổi. Chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi nhanh chóng hơn của những loài sống trên cạn và những động vật bậc cao so với sinh vật biến và động vật bậc thấp, do mối quan hệ phức tạp giữa động vật bậc cao với môi trường sống hữu cơ và vô cơ của chúng, đã được giải thích trong một chương trước. Khi nhiều sinh vật trong một vùng đã được thay đổi và hoàn thiện, chúng ta có thể hiểu, về khía cạnh cạnh tranh, và trong mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật, rằng bất kỳ một cá thể nào không trải qua quá trình biến dị và hoàn thiện, có thể sẽ bị đẩy tới chỗ diệt vong. Bởi vậy, nếu chúng ta quan sát trong một khoảng thời gian đủ dài, chúng ta sẽ thấy cuối cùng thì tất cả các sinh vật đều thay đổi, bởi những sinh vật nào không thay đổi đều sẽ bị tuyệt chủng. 
Trong những quãng thời gian dài bàng nhau, tỉ lệ biến dị trung bình của các cá thể trong cùng một lớp có thể gần bằng nhau. Nhưng do việc tích luỹ những di tích hoá thạch phụ thuộc vào lượng lớn trầm tích lắng xuống trong một khu vực khi nước rút, các lớp đất đá của chúng ta được tích tụ vào những thời điểm bất thường và cách xa nhau, do vậy, số lượng biến dị hữu cơ để lại trên những hoá thạch sót lại trong những tầng đất đá liên tiếp không giống nhau. Mỗi lớp đất đá ở đây không đánh dấu một bước tạo hóa và hoàn thiện mới của thiên nhiên mà chỉ là một trường hợp hy hữu, trong những thay đổi chậm chạp của môi trường. 
Chúng ta có thể hiểu rõ tại sao khi một loài biến mất nó sẽ không bao giờ xuất hiện lại, ngay cả khi có những điều kiện sống hữu cơ và vô cơ tương tự. Tuy con cháu của loài sinh vật có thể thay thế chỗ của một loài khác trong tự nhiên, song - cả 2 kiểu hình, cả cũ và mới - sẽ không thể giống nhau hoàn toàn, bởi cả 2 sẽ đều được di truyền những đặc điểm khác nhau từ tổ tiên của chúng. Ví dụ, nếu tất cả những con chim bồ câu đuôi quạt bị tiêu diệt, bằng việc nỗ lực trong một khoảng thời gian dài, chúng ta có thể tạo ra một giống bồ câu mới không khác gì giống chim của chúng ta hiện nay. Nhưng nếu nhũng con chim bồ câu núi cũng bị tiêu diệt, và chúng ta hoàn toàn có thể tin là những cá thể bố mẹ thường sẽ bị tiêu diệt và thế chỗ bởi con cháu của chúng ở nhũng thế hệ sau, chủng ta vẫn có thể tạo ra được một loài bồ câu đuôi quạt giống hệt với loài chim bồ câu hiện đang tồn tại từ một loài chim bồ câu bất kỳ, hoặc ngay cả từ loài chim bồ câu đã được thuần hóa, bởi tất cả những con chim bồ câu đuôi quạt mới được tạo ra chắc chắn sẽ được thừa kế từ tổ tiên của chúng một số đặc tính khác biệt nhỏ. 
Nhiều nhóm loài, hợp lại thành các chi và họ, cũng tuân theo những quy luật chung trong sự biến mất và xuất hiện như tùng loài riêng lẻ, thay đổi nhanh hoặc chậm, và ở mức độ mạnh yếu khác nhau. Một nhóm sẽ không xuất hiện lại một khi nó đã biến mất, nếu không thì sự tồn tại của nó, trong tuổi thọ của nó, là liên tục. Tuy tôi biết nhũng ngoại lệ của quy luật này có tồn tại song lại quá ít, ít đến nỗi một số người như E. Forbes, Pictet, và Woodward (những người không đồng tình với quan điểm của tôi), cũng phải công nhận sự thật đó, và giả thuyết của tôi cũng rất bám sát những quy luật đó. Do tất cả những loài trong một nhóm có cùng một tổ tiên là một loài nào đó, rõ ràng bất cứ một loài nào trong nhóm xuất hiện liên tiếp cùng với thời gian, thì những cá thể thuộc loài đó cũng đã tồn tại một khoảng thời gian dài tương tự để có thể sản sinh ra những cá thể mới và biến dị hoặc những cá thể cũ và không biến đổi. Các loài thuộc chi động vật hình lưỡi chắc chắn đã phải tồn tại liên tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ cấu trúc Silua thấp nhất cho đến ngày nay. 
Chúng ta đã thấy trong chương trước, đôi khi các loài trong một chi dường như có vẻ xuất hiện một cách rất đột ngột. Tôi đã cố đưa ra một số giải thích cho điều này, nhưng nếu đó là sự thật thì quan điểm của tôi chắc chắn sẽ bị bác bỏ hoàn toàn. Song, những trường hợp như vậy là cực kì hiếm, với quy luật chung là sự tăng dần về số lượng, cho đến khi nhóm đã đạt con số cực đại, và rồi, sớm hay muộn, số lượng này dần dần giảm. Nếu số loài trong một chi, hay số chi trong một họ, được thể hiện bởi một đường biểu diễn có độ dày thay đổi, đi xuyên qua những lớp địa tầng liên tiếp, nơi mà hóa thạch của các loài được tìm thấy, đường biểu diễn này sẽ đôi khi tưởng chừng như được bắt đầu ở phần cuối của nó, không phải bằng một nét thanh mảnh, mà lại đột ngột, độ dày tăng dần cùng với thứ tự của các lớp đất đá, đôi khi giữ độ dày không đổi trong một khoảng thời gian, và rồi cuối cùng mỏng dần ở những tầng đất trên cùng, đánh dấu quá trình diệt vong và cuối cùng là tuyệt chủng của loài đó. Sự tăng dần về số lượng các loài trong một chi rẩt phù hợp với giả thuyết của tôi bởi các loài hợp thành chi, các chi hợp thành họ chỉ có thể tăng dần dần, do quá trình biến dị và sinh sản về số lượng các kiểu hình tưorng tự nhất thiết phải diễn ra từ từ - một loài tạo điều kiện cho một hoặc hai loài biến dị phát triển, những biến dị này dần biến thành một loài, và cứ tiếp tục như vậy, như sự đâm chồi của những cành cây con của một cây lớn, cho đến khi cả cây đã lớn mạnh. 
Về sự tuyệt chủng - Cho đến giờ chúng ta mới chỉ nhắc qua về sự biến mất của các loài và các chi. Giả thuyết chọn lọc tự nhiên về sự tuyệt chủng của các cá thể cũ và sự tạo thành các cá thể mới và cải tiến liên quan rất mật thiết với nhau. Quan niệm cũ về việc tất cả sinh vật trên Trái Đất đều đã bị tiêu diệt bởi thiên tai trong các giai đoạn liên tiếp giờ đây đã được loại bỏ, kể cả những nhà địa chất học như Elie de Beaumont, Murchison, Barrande, những người mà quan điểm của họ chắc chắn sẽ khiến họ nghĩ như vậy cũng đã thay đổi. Trong khi đó, từ việc nghiên cứu các tầng địa chất, chúng ta có thể chứng minh rằng các loài và các nhóm loài động vật biến mất dần dần, đầu tiên tại một khu vực rồi đến một khu vực khác, và rồi cuối cùng là biến mất hoàn toàn khỏi mặt đất. Các loài và nhóm loài khác nhau tồn tại trong những khoảng thời gian kéo dài rất khác nhau; có những nhóm đã tồn tại từ thủa khai sinh sự sống, trong khi có một số đã biến mất từ cuối thời kỳ Đại Trung Sinh. Không có một quy luật nhất định nào quy định khoảng thời gian tồn tại của bất cứ loài hay họ nào. Quá trình diệt vong hoàn toàn của một loài động vật nói chung chậm hơn so với quá trình sinh sản của chúng. Nếu sự xuất hiện và biến mất của một họ được biểu diễn như ví dụ trên, bằng một đường thẳng có độ dày thay đổi, đường biểu diễn này có xu hướng nhọn dần về phía ngọn, đánh dấu quá trình diệt vong và cuối cùng là tuyệt chủng, so với phần đầu của nó, nơi đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên và sự tăng trưởng về số lượng của loài đó. Tuy nhiên, trong một số trường hạp, ví như loài sò cúc, sự tuyệt chủng của chúng vào cuối Kỷ thứ 2 đã đến một cách rất nhanh chóng. 
Chủ đề về sự tuyệt chủng của các loài động vật đều liên quan tới một điều bí ẩn không rõ lý do. Một số tác giả cho rằng do mỗi cá thể có một tuổi thọ nhất định, nên điều đó cũng đúng đối với một loài. Sự tuyệt chủng của các loài động vật làm tôi rất hứng thú. Tôi đã tìm thấy ở La Plata một chiếc răng ngựa, bị chôn vùi cùng với những hóa thạch của loài Mastodon, Megatherium, Toxodon, và một số loài động vật đã tuyệt chủng khác, lẫn với rất nhiều vỏ động vật ở một thời điểm địa chất rất muộn mà vẫn còn sống ngày nay.
Song điều làm tôi ngạc nhiên nhất là do ngựa là giống vật chỉ được nhập sang Nam Mỹ kể từ sau khi người Tây Ban Nha có mặt trên lục địa, lại đã sinh sôi và phát triển khắp toàn vùng về số lượng. Tôi tự hỏi bản thân điều gì đã có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của loài ngựa cổ khi mà các điều kiện sổng rõ ràng quá thuận lợi. Song, tôi còn phải ngạc nhiên hơn nữa khi giáo sư Owen thông báo rằng đó không phải răng của một con ngựa cổ, mà là răng của một loài sinh vật khác đã tuyệt chủng. Nếu giống ngựa này còn sống, với số lượng có hạn, chắc chắn rằng không có nhà tự nhiên học nào lại có thể phủ nhận sự quý hiếm của nó. Sự quý hiếm là thuộc tính của rất nhiều loài sinh vật trên toàn trái đất. Nếu chúng ta đặt ra câu hỏi tại sao loài này hay loài kia lại quý hiếm, chúng ta sẽ trả lời rằng những điều kiện sống bất lợi cho loài này xuất hiện. Nhưng, những điều kiện bất lợi đó là gì thì chúng ta khó có thể biết chính xác được. Nếu coi loài ngựa của chúng ta còn sống, và là một loài động vật rất quý hiếm, và qua việc phân tích nghiên cứu các loài thú có vú khác, ngay cả loài thú sinh sản chậm như voi, và quá trình biến thành ngựa hoang của những con ngựa thuần ở Nam Mỹ, chúng ta có thể chắc chắn rằng với điều kiện sống thuận lợi thì chỉ trong một vài năm giống ngựa này sẽ có mặt trên khắp lục địa. Nhưng chúng ta không thể biết được những điều kiện bất lợi nào đã kiểm soát sự phát triển về số lượng của loài ngựa này, rằng những điều kiện đó gồm một hay nhiều yếu tố bất ngờ, vào thời điểm nào của tuổi thọ của loài ngựa, và ở cấp độ nào chúng cùng ảnh hưởng tới loài ngựa. Nếu những điều kiện bất lợi này vẫn cứ tiếp diễn, kể cả một cách chậm chạp, chúng ta chắc chắn sẽ vẫn không thể biết được chúng là gì, và dần dần, giống ngựa này sẽ trở nên ngày càng quý hiếm và cuối cùng cũng trở thành tuyệt chủng, thay vào vị trí của nó là một loài có khả năng cạnh tranh thành công hơn. 
Sự tăng trưởng về số lượng của một loài nào đó luôn luôn được kiểm soát bởi những nhân tố vô hình và những nhân tố này là thừa đủ để gây ra tình trạng quý hiếm, hay cuối cùng là tuyệt chủng. Trong những tầng địa chất thuộc Kỷ thứ 3 chúng ta có thể thấy rất nhiều trường hợp trong đó tình trạng quý hiếm xảy ra trước sự tuyệt chủng. Đây là kết quả của quá trình diệt chủng của các loài dưới sự tác động của con người. Tôi xin nhắc lại quan điểm của bản thân (đã được xuất bản vào năm 1845): Việc chấp nhận các loài lâm vào tình trạng quý hiếm trước khi bị tuyệt chủng, không cảm thấy bất ngờ trước sự quý hiếm đó, và rồi lại cảm thấy ngạc nhiên trước sự tuyệt chủng của loài đó thật chẳng khác gì việc công nhận rằng bệnh tật là dấu hiệu của cái chết, hoàn toàn không cảm thấy ngạc nhiên trước bệnh tật, nhưng rồi khi người mắc bệnh mất thì lại phân vân và nghi ngờ liệu có phải người đó chết vì một hành động bạo lực nào đó. Thuyết chọn lọc tự nhiên chủ yếu dựa trên quan điểm mỗi loại và mỗi loài mới được hình thành và duy trì bởi chúng có những đặc điểm cạnh tranh mới ưu việt hơn so với các loài khác, cuối cùng là sự diệt vong tất yếu của những cá thể kém ưu việt hơn. Quan điểm này cũng được áp dụng trong việc chăn nuôi gia súc. Khi một loại mới có ưu điểm hơn được tạo thành, đầu tiên nó sẽ thay thế những loại khác kém ưu việt hơn trong những vùng lân cận. Khi đã được củng cố những đặc tính ưu việt của mình, nó sẽ được vận chuyển đến những vùng mới, ví như giống bò sừng ngắn, và thay thế vị trí của các giống khác ở các nước khác nhau. Do đó, sự xuất hiện của những kiểu hình mới và sự biến mất của những kiểu hình cũ, dù nhân tạo hay tự nhiên, đều gắn liền với nhau. Trong một số nhóm động vật phát triển thành công, số lượng các cá thể mới được sinh ra trong một khoảng thời gian nhất định là lớn hơn số lượng cá thể cũ đã bị tiêu diệt. Nhưng chúng ta* cũng biết rằng số lượng cá thể được sinh ra không phải là tăng mãi mãi, hoặc ít nhất là trong những thời kỳ địa chất về sau, do vậy, khi khảo sát những càng xa xưa, sự sản sinh một số lượng các cá thể mới cũng đã tiêu diệt một số lượng cá thể cũ tương đương. 
Như đã giải thích và minh hoạ bằng các ví dụ, quá trình cạnh tranh tự nhiên sẽ xảy ra gay gắt nhất giữa các cá thể tương đồng về càng nhiều mặt. Do đó, những cá thể đã được cải tiến và thay đối, mang đặc tính ưu việt hơn thường sẽ gây ra hiện tượng tuyệt chủng ở những cá thể ở đời trước. Nếu rất nhiều cá thể khác nhau đã được hình thành trong một loài, thì những loài họ hàng gần nhất loài, ví như các loài trong cùng một chi, sẽ là đối tượng dễ bị tuyệt chủng nhất. Do vậy, theo quan điểm của tôi, những loài mới có cùng chung một loài tổ tiên, hay một chi mới sẽ thay thế một chi cũ, trong cùng một họ. Nhưng cũng có những trường hợp một loài mới trong một lớp sẽ thay thế được vị trí của một loài thuộc một lớp khác, và góp phần tiêu diệt loài đó. Và nếu nhiều cá thể anh em được tạo ra từ kẻ xâm lăng thành công này, rất nhiều sinh vật khác sẽ phải nhường lại chỗ cho nó. Đồng thời, những cá thể họ hàng gần với loài xâm lăng này sẽ thường phải gánh chịu những đặc tính kém ưu việt hơn do di truyền. Nhưng bất kể là một loài thuộc cùng hay khác lớp bị hất cẳng bởi loài khác đã được cải tiến, thay đổi, một số ít những nạn nhân lại vẫn có thể tồn tại lâu dài, do thích ứng được với một điều kiện sống riêng biệt nào đó, hoặc do sống tại những khu vực hẻo lánh, noi chúng thoát khỏi sự cạnh tranh khốc liệt với các loài xâm lăng. Ví như loài sò lớn Trigonia sống ở Kỷ địa chất thứ hai vẫn còn sống trong vùng biển của Úc, và một số thành viên của loài cá vảy láng vẫn sống trong các vùng nước ngọt. Do đó quá trình diệt vong của một nhóm thường là một quá trình chậm hơn quá trình sinh sản của nó. 
Ngoại trừ trường hợp loài bọ ba thuỳùya loài sò cúc vào cuối kỉ Silua, ta nên chú ý rằng quá trình diệt chủng dần dần có thể đã diễn ra trong những quãng thời gian ở giữa những tầng địa chất liên tiếp. Hơn thế nữa, hoặc do di trú đột ngột hoặc quá trình sinh trưởng nhanh bất thường, rất nhiều loài của một nhóm mới có thể chiếm đoạt một khu vực mới, và chúng cũng sẽ tiêu diệt những cư dân gốc một cách nhanh không kém. Và những cá thể phải nhường chỗ thường sẽ trở thành họ hàng, do chúng thường có chung những đặc tính kém ưu việt hơn. 
Do vậy, theo quan điểm của tôi, phương thức mà các loài riêng lẻ và các nhóm loài trở nên tuyệt chủng rât phù hợp với thuyết chọn lọc tự nhiên. Sự tuyệt chủng không có gì khiến chúng ta phải ngạc nhiên, và nếu chúng ta cần cảm thấy ngạc nhiên thì hãy ngạc nhiên về giả định rằng chúng ta có thể hiểu được hết những yếu tố phức tạp và bất ngờ góp phần tạo nên sự tuyệt chủng. Nếu chúng ta quên dù chỉ trong một giây, rằng mồi loài thường có xu hướng tăng trưởng bất thường, và sự tăng trưởng này luôn được kiểm soát, mặc dù rất ít khi được con người biết đến, toàn bộ hoạt động của thiên nhiên sẽ trở nên vô nghĩa. Cho đến khi nào mà chúng ta có thể nói một cách chắc chan tại sao loài này có nhiều cá thể hơn loài kia, tại sao chỉ có loài này mà không phải loài khác có thể được hội nhập vào một đất nước thì chỉ khi đó chúng ta mới nên cảm thấy ngạc nhiên tại sao chúng ta không thể lý giải được sự tuyệt chủng của riêng một loài, hay của một nhóm loài nào đó. 
Mọi cá thể trên thế giới biến đổi gần như đồng thời với nhau. 
Không cỏ một phát hiện khảo cổ học nào nổi bật hơn phát hiện rằng mọi cá thể biến đổi gần như đồng thời với nhau trên toàn thế giới. Do đó những tầng địa chất thuộc kỷ Phấn Trắng của châu âu vẫn có thể được tìm thấy ở những nơi hẻo lánh nhất của thế giới, dưới những điều kiện khí hậu khác nhau, ngay cả khi không có bất cứ một mẫu địa chất nào được tìm thấy, ví dụ như ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ cận xích đạo, tại Tierra del Fuego, tại Mũi Ảo Vọng, hay trên cao nguyên Ấn Độ. Tại những địa điểm này, những hoá thạch hữu cơ trong một số lớp đất mang những đặc điểm tương đồng đến không ngờ so với những hóa thạch được tìm thấy trong kỷ Phấn Trắng. Hóa thạch của những loài giống nhau không phải bao giờ cũng được tìm thấy, bởi trong một số trường hợp, không có một loài giống nhau hoàn toàn, mà chúng chỉ thuộc cùng một chi, một họ, hay chỉ là một bộ phận của một chi, hay chỉ giống nhau về cấu trúc bên ngoài. Hơn thế nữa, những hoá thạch không được tìm thấy trong kỉ Phấn Trắng ở châu âu, mà chỉ được tìm thấy ở trong những tầng địa chất phía trên hoặc dưới, cũng không được tìm thấy ở những địa điểm trên. Trong một số tầng địa chất Đại cổ Sinh kế tiếp nhau ở Nga, Tây u, và Bắc Mỹ, sự giống nhau giữa các loài tương tự nhau cũng được quan sát thấy bởi một số tác giả khác. Ngài Lyell cũng khẳng định điều này sau khi quan sát một số địa điểm trầm tích ở Bắc Mỹ và châu âu. Ngay cả khi không xét đến những hoá thạch thường được tìm thấy ở thế giới cũ và mới, vẫn có thể thấy rõ sự tương đồng chung giữa các thế hệ sinh vật liên tiếp trong khoảng thời gian từ Đại cổ Sinh đến Đại Trung Sinh, và những tầng địa chất này vẫn có thể được liên hệ với nhau một cách dễ dàng. 
Tuy nhiên, những quan sát này chỉ được bao gồm các loài sinh vật biển. Chúng ta không có đủ số liệu để có thể đánh giá sự thay đổi song song của các loài cả trên cạn và dưới nước. Song, chúng ta có thể nghi ngờ việc liệu những sinh vật này có thay đổi hay không bởi nếu những loài như Megatherium, Mylodon, Macrauchenia, và Toxodon di trú đến châu âu từ La Plata, và không có một bất cứ một tài liệu nào nói về nguồn gốc của chúng, ít người sẽ nghi ngờ việc chúng đã từng chung sống với những loài sò vẫn còn tồn tại ngày nay. Song từ việc những con vật kỳ lạ này sống chung với loài Mastodon và loài ngựa, chúng ta có thể kết luận rằng chúng sống vào một trong ba kỷ cuối của thời kỳ Đại Trung Sinh. 
Khi nói về những sinh vật biển “biến đổi đồng thời trên toàn thế giới”, chúng ta nên chú ý rằng lời khẳng định này không chính xác đối với khoảng thời gian kéo dài đến nghìn hay trăm nghìn năm, và nó cũng không hoàn toàn chính xác về mặt địa lý. Bởi nếu ta so sánh tất cả những sinh vật biển sống tại châu âu ngày nay hay tất cả những sinh vật biển sống ở châu âu trong kỷ Plaitôxen (thời kỳ cách đây 1 triệu năm, kéo dài tám trăm nghìn năm, bao gồm cả thời kỳ băng hà) với những loài tưomg tự ở Nam Mỹ hoặc ở Úc, thì ngay cả những nhà tự nhiên học tài giỏi nhất cũng khó mà khẳng định được đặc điểm giống nhau giữa những loài sống tại châu âu với những loài sống ở phía Nam xích đạo. Một số nhà quan sát tên tuổi cũng khẳng định rằng những hóa thạch được tìm thấy tại Hoa Kỳ có nhiều đặc điểm tương đồng với những hóa thạch được tìm thấy ở châu Ẩu trong thời kỳ Đại Trung Sinh hơn là với những loài hiện đang sống tại khu vực này. Nếu điều này là đúng thì rõ ràng những trầm tích hoá thạch ven biển khu vực Bắc Mỹ từ nay sẽ được xếp loại cùng với những tầng địa chất có niên đại cao hơn tại châu âu. Do đó, trong một tương lai khá xa, ở những tầng địa chất chứa đựng hóa thạch có sự tương đồng ở một mức độ nào đó, và loại bỏ những tầng địa chất chứa đựng những hóa thạch mà chỉ được tìm thấy ở những tầng địa chất cổ hơn nằm phía dưới, những tầng địa chất hiện đại mà đặc biệt là những tầng trầm tích trên cùng của kỷ thứ 3, kỉ thứ 4 và tầng trầm tích hiện đại của châu Ẩu, Bắc và Nam Mỹ, và ủc sẽ được sẳp xểp ngang hàng về phương diện địa chất. 
Những nhà quan sát kỳ cựu như bà Vemeuil và Archiac đều bị ảnh hưởng bởi sự thật rằng các cá thể sống biến đổi đổi đồng thời trên toàn bộ Trái Đất.
Sau khi đã nói đến sự tương đồng nhau về kiểu hình ở những sinh vật thuộc Đại Cổ Sinh sống tại châu âu, họ còn thêm rằng: “Nếu gặp phải hiện tượng kỳ lạ này, chúng ta cần hướng sự chú ý tới khu vực Bắc Mỹ, nơi mà hàng loạt những hiện tượng kỳ lạ tương tự đã được tìm thấy, và có vẻ như những biến dị ở các loài sinh vật, sự tuyệt chủng của chúng, và sự tạo thành loài mới không phải do những thay đổi về quy luật thủy triều hay những nguyên nhân mang tính khu vực và đương đại mà là do những quy luật chung của thế giới động vật. Những kết luận mạnh mẽ tương tự cũng đã được ngài Baưande phát biểu. Quả là vô vọng khi chúng ta coi những thay đổi về thuỷ triều, khí hậu, hay những điều kiện vật chất khác là nguyên nhân của những biến dị của những sinh vật sống trong những điều kiện khí hậu khác nhau trên toàn thế giới. Hơn thế nữa, ngài Barrande còn khẳng định rằng chúng ta nên xem xét một quy luật đặc biệt nào đó. Chủng ta sẽ nhìn nhận vấn đề này một cách rõ ràng hơn khi quan sát sự phân bổ các sinh vật hữu cơ, và tìm hiểu sự khác nhau nhỏ bé trong mối quan hệ giữa điều kiện vật chất của một vùng, và bản tính của những cư dân sinh sống trong vùng đó. 
Sự biến đổi song song của các sinh vật trên thế giới hoàn toàn có thể giải thích được bàng thuyết chọn lọc tự nhiên. Các loài mới được tạo thành bởi sự xuất hiện của các loại mới. Những loại mới này thường có đặc điểm ưu việt hơn so với những cá thể cũ, trong khi những cá thể thống trị khác, hoặc có những đặc điếm ưu việt hơn so với những cá thể khác trong khu vực, thường sẽ tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những loại mới hoặc những loài sơ khai khác, bởi những loại và những loài sơ khai này bắt buộc phải có đặc điểm còn ưu việt hơn loài hiện đang thống trị để có thể duy trì nòi giống và tồn tại. về vẩn đề này, chúng ta có những bằng chứng chắc chắn nhất. Những loài cây thống trị là những loài cây được tìm thấy nhiều nhất trong lãnh thổ của nó, được phổ biến nhiều nhất, do đã sản sinh ra được số lượng loại mới nhiều nhất. Việc loài thống trị, có khả năng biến dị cao, và khả năng khuếch tán xa, đã xâm chiếm một phần lãnh thổ của những loài khác, là loài có khả năng khuếch tán xa hơn nữa, và tạo dựng nên những loại và loài mới ở những vùng mới là hoàn toàn tự nhiên. Quá trình khuếch tán có thể rất chậm, phụ thuộc nhiều vào những thay đổi địa chất và khí hậu, hoặc vào sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng với thời gian, những cá thể thống trị sẽ vẫn thành công trong việc phát tán. Quá trình này rất có thể chậm hơn đối với những sinh vật sống trên cạn trên nhũng lục địa khác nhau so với nhũng loài thuỷ cư sống trong nhũng vùng biển nối tiếp nhau. Do đó, chúng ta thường nhận thấy sự biến đối song song ở những động vật trên cạn ở một cấp độ nhẹ hơn là ở dưới nước. 
Trong quá trình khuếch tán của mình, một loài thống trị có thể gặp những loài khác ưu việt hơn chính bản thân nó, và quá trình khuếch tán, hoặc ngay cả sự tồn tại của loài kém ưu việt hơn đó sẽ không còn. Chúng ta không biết chính xác điều kiện nào là tốt nhất cho sự sinh sôi của những loài thống trị mới, song với một số cá thể xác định, những điều kiện đó có thể là: sự xuất hiện của những thay đổi có lợi, giảm thiểu cạnh tranh với những cá thể địa phưomg, hoặc mở rộng lãnh thổ sống, hoặc ngay cả tình trạng bị cô lập, được lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian dài (như đã giải thích ở trên). Nếu một phần tư thế giới này có những điều kiện thuận lợi cho động vật trên cạn phát triển và một phần khác cho động vật dưới biển phát triển, thì với một khoảng thời gian đủ dài và những điều kiện đó ở cùng một cấp độ, thì bất cứ nơi đâu những cư dân của hai vùng này gặp nhau, cuộc chiến sẽ rất dài và khốc liệt, và những cá thể xuất thân từ hai vùng đều có thể chiến thắng. Nhưng, với thời gian, những cá thể thống trị ở mức độ cao nhất, bất kể được sinh ra ở đâu, đều có khuynh hướng trở nên thịnh hành. Và với sự thịnh hành của chúng, sự tuyệt chủng của những các thể và kiểu hình kém ưu việt hơn là không thể tránh khỏi, và bởi những cá thể, kiểu hình này thường có mối liên hệ di trưyền với nhau, từng nhóm sinh vật sẽ dần dần biến mất, mặc dù ở dây hoặc đó một cá thể vẫn có thể sống sót trong một quãng thời gian dài.
Từ đó, theo tôi, sự biến đổi đồng thời và liên tiếp của sinh vật trên thế giới rất phù hợp với quan điểm những loài mới được tạo nên từ sự khuếch tán và biến dị của những loài thống trị. Những loài mới được tạo nên, chỉnh bản thân chúng cũng là những loài thống trị, do di truyền, hoặc do đã có một đặc điểm nào đó ưu việt hơn so với những cá thể bố mẹ và các loài khác. Chính những cá thể này một lần nữa lại khuếch tán, biến dị, và tạo nên một loài mới. Những kiểu hình bị đánh bại và phải nhường lại chồ cho những cá thể mới và ưu việt hơn thường sẽ có họ hàng với nhau do di truyền, nên cùng với sự xuất hiện của những nhóm mới, đã được cải tiến, từng nhóm sinh vật cũ cũng biến mất dần dần và sự biến đổi hai chiều của sinh vật trên khắp thế giới cũng sẽ tuân theo quy luật này. 
Tôi đã đưa ra những lý do lý giải sự bồi tụ của các tầng hóa thạch của chúng ta hiện nay, chúng được hình thành khi mà mực nước đã rút xuống. Những tầng trầm tích và hoá thạch lớn được tạo nên trong khoảng thời gian mực nước hạ xuống khi thềm đại dương ổn định, hoặc tăng, hoặc khi các lớp đất đá không kịp che lấp và bảo tồn những sinh vật hữu cơ. Trong những khoảng thời gian dài này, những sinh vật sinh sống tại các vùng có thể đã trải qua những biến đổi và diệt chủng khá lớn, và hiện tượng di trú phổ biến trên toàn thế giới. Do các hoạt động địa chất thường có ảnh hưởng rất lớn tới một khu vực rộng lớn, rất có thể những tầng địa chất đương đại đã được hình thành trên một diện rộng, theo từng vùng trên thế giới. Song chúng ta cũng không có lý và rằng những vùng rộng lớn luôn chịu ảnh hưởng của các hoạt động địa chất tương tự nhau. Khi hai tầng địa chất đựơc bồi tụ ở 2 khu vực khác nhau trong những khoảng thời gian gần giống nhau, và với những nguyên nhân đã giải thích ở trên, chúng ta có thể quan sát thấy quá trình tiến hóa. Song, các loài sinh vật sẽ không nhất thiết giống nhau bởi một trong hai vùng sẽ có nhiều thời gian hơn dành cho quá trình biến dị, tuyệt chủng, di trú. Những trường hợp tương tự có thể đã xảy ra tại Châu âu. Trong hồi ký của mình về những rải trầm tích thuộc kỷ Eoxen ở Anh và Pháp, ngài Prestwich đã phác thảo nên những mối liên hệ song song mật thiết giữa các tầng địa chất liên tiếp giữa hai nước. So sánh một số tầng địa chất của 2 nước này với nhau, ông phát hiện thấy một sự tương đồng khá kỳ lạ về số lượng các loài có nguồn gốc cùng một chi, song những loài sinh vật đó lại mang những đặc điểm khác nhau rất khó giải thích khi xét đến khoảng cách giữa hai vùng. Giả thuyết rằng đã từng có một eo đất ngăn cách tạm thời 2 vùng biển với 2 hệ động vật khác nhau có vẻ như là một cách giải thích khá hợp lý cho những sự khác biệt này. Nhà địa chất học Lyell cũng đã rút ra những kết luận tương tự từ việc nghiên cứu những tầng địa chất thuộc thời kỳ Đại Trung Sinh. Ông Barrande cũng kết luận rằng có một sự tương đồng song song kỳ lạ giữa những hoá thạch trong dải trầm tích thuộc kỷ Silua ở Bô hi mia và bán đảo Xcăngđinavi. Mặc dầu vậy, ông vẫn tìm thấy một số lượng lớn sự khác biệt giữa các loài. Nếu những tầng địa chất ở 2 nước Anh và Pháp không được bồi tụ trong cùng một khoảng thời gian, tức là sự hình thành của một tầng tại một nước xảy ra trước hoặc sau sự hình thành của tầng địa chât tương ứng tại nước còn lại, và các loài sinh vật sinh sống trong cả 2 vùng này vẫn tiếp tục tiến hóa trong suốt quá trình hình thành và tạm dừng hình thành các tầng địa chất chứa hoá thạch, và nếu những tầng địa chất ở cả 2 vùng được sắp xếp theo thứ tự tương tự nhau, một cách phù hcrp, tạo nên một ảo giác về sự phát triển song song của các loài sinh vật, thi các loài sinh vật được tìm thấy trong những tầng địa chất tương ứng ở cả 2 vùng chắc chắn sẽ không giống nhau. 
Giờ đây chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa các loài đã tuyệt chủng và các loài còn tồn tại. Mối quan hệ này là một phần của thế giới tự nhiên và có thể được lý giải bằng nguyên lý di truyền. Một cá thể tuyệt chủng càng lâu thì lẽ dĩ nhiên nó sẽ càng khác so với các cá thể hiện đang tồn tại. Nhưng như nhà phân loại học Buckland đã từng nói, bất cứ hoá thạch nào cũng có thể được xếp loại vào nhóm sinh vật vẫn còn tồn tại, hoặc giữa chúng. Sự thật rằng những loài tuyệt chủng giúp chúng ta hoàn thiện sơ đồ mối liên hệ giữa các loài, họ, bộ đã tuyệt chủng là không thê chối cãi bởi nếu chúng ta chỉ chú ý đến hoặc những loài đã tuyệt chủng hoặc những loài còn sống, sơ đồ của chúng ta sẽ không thể hoàn hảo bằng nếu chúng ta kết họp cả hai với nhau. Riêng với động vật có xương sống, nhà khảo cổ học lỗi lạc Owen của chúng ta có thể liệt kê rất nhiều những trường họp các sinh vật đã tuyệt chủng xen vào giữa các sinh vật đang tồn tại trong sơ đồ các mối quan hệ. Cuvier đã phân loại thú thành hai bộ lớn loài da dày (Pachyderm) và động vật nhai lại (Ruminant), nhưng nhà khảo cổ học Owen của chúng ta đã phát hiện ra quá nhiều mối liên hệ hóa thạch đến nỗi ông phải thay đổi toàn bộ sự sắp xếp của 2 bộ này, và đưa một số sinh vật trong bộ pachyderm vào trong nhóm phụ của bộ ruminant. Ví như ông đã triệt tiêu phần lớn những khác biệt rõ ràng giữa lợn và lạc đà. Đối với các sinh vật không có xương sống, Barrande đã khẳng định ông được dạy rằng các sinh vật thuộc thời kỳ Đại Thái cổ đều cùng bộ, họ, chi với các sinh vật ngày nay, song sự khác nhau giữa chúng không chỉ ít như thế.
Việc các loài đã tuyệt chủng được coi như là trung gian giữa các loài hiện đang tồn tại đã bị một số tác giả phản bác. Sự phản bác này là có lí nếu chúng ta coi sự “trung gian” này khẳng định các đặc điểm của một loài đã tuyệt chủng là trung gian cho hai loài hiện đang tồn tại. Song, trong thực tế, rất nhiều loài sinh vật hoá thạch chắc chắn sẽ phải được xếp loại ở giữa các loài còn sống, một số giống tuyệt chủng giữa các giống còn tồn tại, và ngay cả các giống thuộc các họ khác nhau. Nếu như cá và bò sát ngày nay có một tá đặc điểm khác nhau, thì những tổ tiên xa xưa của cả hai chắc chắn sẽ có số lượng những đặc điểm khác nhau ít hơn bởi mặc dù ngày nay đây là hai loài rất khác nhau, song tại một thời điểm đủ xưa trong quá khứ, 2 loài này có thể đã có những đặc điểm gần giống nhau nào đó. 
Quan niệm phổ biến hiện nay là một sinh vật càng cố thì sẽ càng có nhiều khả năng chỉ ra mối tương đồng giữa những nhóm sinh vật rất khác nhau ngày nay. Kết luận này chỉ có thể áp dụng được với những nhóm sinh vật đã phải trải qua nhiều biến đổi trong các giai đoạn địa chất, và để kiểm tra sự chính xác của nó quả là rất khó bởi đôi khi có những sinh vật, ví như loài Lepidosiren được phát hiện có các đặc điểm giống với rất nhiều nhóm sinh vật khác nhau. Song, nếu chúng ta so sánh loài bò sát xưa, loài ếch nhái cổ, loài cá cổ, loài động vật thân mềm cổ, và những con thú thuộc thời kì Băng Hà với con cháu của chúng ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận sự chính xác của lời kết luận này. 
Bây giờ chúng ta sẽ đánh giá mức độ phù hợp của những suy luận và vỉ dụ này với thuyết di truyền và biến dị. Do vấn đề này khá phức tạp, tôi đề nghị bạn đọc giở lại bảng trong chương IV của cuốn sách này. Giả sử những chữ in nghiêng và có đánh số là các chi, và những đường chấm phân nhánh từ đó ra là biểu hiện của những loài của mỗi chi. Tuy hình vẽ thật đơn giản, và chỉ biểu diễn được rất ít loài và chi, nhưng điều này không quan trọng lắm. Các đường ngang có thể được hình dung như những hệ thống địa chất kế tiếp nhau, và ta có thể coi tất cả các kiểu hình phía dưới đường biểu diễn trên cùng đều đã tuyệt chủng.
Ba chi hiện đang tồn tại a14, q14, p14 hợp lại thành một họ nhỏ, b 14, và f14 thành một họ nhỏ hoặc một họ phụ, o14, Ĩ14, m14 một họ thứ 3. Cả ba họ này cùng với những chi đã tuyệt chủng thuộc một dòng nối từ cá thể bố mẹ A, sẽ tạo thành một bộ do đều đã được di truyền lại một số những đặc điểm từ tổ tiên chung của chúng. Theo nguyên lý các đặc tính có khuynh hướng biến dị, được giải thích bởi sơ đồ này trong những phần trước, một kiểu hình càng mới thì sẽ càng khác xa so với tổ tiên nguyên thủy. Do đó chúng ta hiểu tại sao những hóa thạch cổ xưa nhất ngày nay lại khác những sinh vật đang tồn tại nhiều nhất. 
Song, sự phân ly tính trạng của các đặc tính không phải là một trường hợp tất yếu, do sự phân hướng của những tính trạng này chỉ phụ thuộc vào những cá thể con cháu của một loài chiếm được nhiều vị trí khác nhau trong nền kinh tế của thiên nhiên. Do vậy, rất có thể như trường hợp của những hóa thạch thuộc kỷ Xilua, một loài có thể tồn tại với những biến dị nhỏ tương ứng với những biến đổi của điều kiện sống, và duy trì biến dị đó trong một thời gian dài. Trường hợp này được biểu diễn bởi con số F14 trong sơ đồ. 
Tất cả các kiểu hình còn sống hay đã tuyệt chủng, đều bắt nguồn từ A, hình thành nên một bộ, và do những hiệu quả liên tục của quá trình tuyệt chủng và phân li tính trạng, bộ này đã chia ra thành nhiều họ và họ phụ, một số họ này đã tuyệt chủng ở nhũng thời kì khác nhau, một số họ vẫn còn tồn tại đến ngày nay. 
Trong khi nhận xét sơ đồ, giả sừ nếu chúng ta tìm thấy ở những hóa thạch bị chôn vùi trong những tầng địa chất khác nhau, ở đoạn dưới của chuỗi, ba họ trên cùng sẽ được coi là ít khác nhau hơn. Nếu những chi al, a5, aio, f8, m3, mó, m9, được khai quật lên, thì những ba họ trên cùng này sẽ liên quan mật thiết với nhau đến mức chúng có thể phải được xếp loại thành một họ lớn, như trường hợp của các động vật nhai lại và động vật da dày. Nhưng nếu có người phản đối việc khẳng định những chi đã tuyệt chủng mang những đặc điểm trung gian, tức là liên kết họ ba chi đang sống hiện nay, thì điều đó cũng đúng, do chúng là trung gian, song là trung gian trong một quá trình dài và lắt léo với nhũng kiểu hình rất khác nhau. Giả sử nhiều kiểu hình đã tuyệt chủng được tìm thấy ở phía trên một trong những tầng địa chất khác nhau - trên số VI chẳng hạn - mà người ta lại không tìm thấy một kiểu hình nào dưới đó, thì có 2 họ (chủ yếu là a14 trở đi và b14 trở đi) sẽ phải được hợp nhất thành một họ lớn và hai họ còn lại (chủ yếu từ a14 đến f14, giờ đây bao gồm 5 chi, và từ o14 đến m14) sẽ vẫn khác nhau, song ở một mức độ ít hơn so với trước khi tìm thấy những hóa thạch. Nếu chúng ta giả sử rằng các chi của 2 họ này khác nhau ở một tá đặc điểm, và trong trường hợp này, vào thời điểm VI, chúng sẽ chỉ khác nhau ở một vài đặc điểm do ở giai đoạn này, chúng chưa phân ly tính trạng nhiều lắm so với tổ tiên của bộ như sau này. Do vậy các chi cổ xưa và tuyệt chủng, ở một cấp độ nào đó, mang những đặc điểm trung gian về tính trạng giữa những con cháu biến dị của chúng hoặc giữa họ hàng thân thuộc ngang hệ với chúng. 
Trong tự nhiên, mọi việc sẽ phức tạp hơn những gì được thể hiện ở sơ đồ bởi các nhóm sinh vật sẽ có số lượng đông hơn, chúng sẽ tồn tại trong những khoảng thời gian ngắn dài rất khác nhau, và sẽ có những biến dị ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong khi chúng ta chỉ sở hữu tập cuối cùng (và trong tình trạng hết sức không đầy đủ) của pho sách địa chất, chúng ta hoàn toàn không thể mong chờ việc hoàn thiện những khoảng trống lịch sử của thiên nhiên, qua đó thống nhất các họ, bộ sinh vật với nhau, trừ những trường hợp hết sức hãn hữu. Chúng ta chỉ có thể giả định rằng những nhóm sinh vật đó đã trải qua những quá trình biến dị trong các kì địa chất, và có nhiều điểm giống nhau hơn so với con cháu chúng ngày nay, được thể hiện qua những tầng địa chất xa xưa. Những nghiên cứu của những nhà khảo cổ học lỗi lạc đều chứng minh điều này. 
Như vậy, thuyết di truyền và biến dị là thuyết duy nhất giải thích được những vấn đề chính trong mối liên hệ giữa các sinh vật tuyệt chủng với nhau, và giữa các sinh vật đã tuyệt chủng với các sinh vật đang tồn tại. 
Cũng trong thuyết di truyền và biến dị này, các hệ động vật của bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử quả đất cũng sẽ là những hệ động vật với những đặc điểm kiểu hình trung gian của những hệ động vật trước và sau nó. Do đó, những loài thuộc thế hệ thứ 6 trong biểu đồ là thế hệ những con lai biến dị của những loài thuộc thế hệ thứ 5, và là bố mẹ của thế hệ con lai càng biến dị hơn thứ 7. Do vậy, chúng chắc chắn sẽ mang những đặc điểm trung gian của những sinh vật ở thế hệ trước và thế hệ sau. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải tính đến sự tuyệt chủng của những loài ở thế hệ trước, và sự xuất hiện của các loài mới do biến dị hoặc di cư trong những giai đoạn trung gian giữa các tầng địa chất liên tiếp. Chịu tác động của những hoạt động này, hệ động vật của từng giai đoạn địa chất chắc chắn mang những đặc điểm trung gian của những hệ động vật trước và sau nó. Khi những hoá thạch thuộc kỷ Đêvôn lần đầu tiên được tìmàngasy, các nhà khảo cổ học đã quan sát thấy rằng những hóa thạch này mang những đặc điểm trung gian của những hoá thạch thuộc kỷ Xilua ở dưới, và kỷ than đá ở trên. Song mỗi hệ động vật cũng lại không hoàn toàn mang tính chất trung gian bởi sự hình thành các tầng địa chất liên tiếp nhau trải qua những khoảng thời gian khác nhau. 
Song cũng tồn tại một số ngoại lệ. Ví dụ điển hình nhất là khi tiến sĩ Falconer sắp xếp loài voi và loài mastodon theo 2 cách khác nhau. Đầu tiên ông sắp xếp chúng theo những đặc điểm giống nhau về kiểu hình, và lần thứ 2 theo giai đoạn tồn tại của từng loài. So sánh hai cách sắp xếp, kết quả cho thấy thứ tự ở 2 cách sắp xếp không giống nhau. Những loài có đặc điểm đặc trưng nhất, hoặc trung gian nhất về đặc điểm và tuổi thọ đều không phải là những loài cổ nhất hoặc trẻ nhất. Nhưng nếu chúng ta giả sử rằng những số liệu về sự xuất hiện và tuyệt chủng là hoàn toàn chính xác, chúng ta vẫn không thể biết được liệu những cá thể được sinh ra có tồn tại trong những khoảng thời gian giống nhau hay không? Một cá thể rất cổ xưa trong một số trường hợp vẫn có thể sống lâu hơn một cá thể được sinh ra sau đó, nhất là đối với những sinh vật sống trên cạn tại những địa điểm khác nhau. Nói cách khác, nếu những tộc chim bộ câu thuần hoá hiện đang tồn tại và đã tuyệt chủng được sắp xếp theo những đặc điểm giống nhau, cách sắp xếp này sẽ không giống với cách sắp xếp theo thời gian chúng xuất hiện, và sẽ càng không giống nếu được sắp xếp theo thời gian tuyệt chủng bởi ngày nay loài chim bồ câu đá bố mẹ vẫn còn sống, trong khi những loại nằm giữa loài chim bồ câu đá và chim bồ câu đưa thư đã tuyệt chủng. Những con chim bồ câu đưa thư với đặc điểm nổi bật là chiếc mỏ dài lại xuất hiện sớm hơn những con chim bồ câu nhào lộn. 
Có mối liên quan mật thiết với lời khẳng định rằng những hoá thạch hữu cơ từ một tầng địa chất trung gian, ở một cấp độ nào đó, cũng mang những đặc tính trung gian, là một sự thật được tất cả các nhà khảo cổ học đồng ý: Các hoá thạch từ 2 tầng địa chất liên tiếp có sự tương đồng rõ ràng hơn hoá thạch từ hai tầng địa chất cách xa nhau. Giáo sư Pictet cũng quan sát thấy những điểm tương đồng chung giữa những hoá thạch hữu cơ từ những tầng địa chất thuộc kỉ Phấn Trắng, mặc dù đó là những hoá thạch tiêu biểu cho từng giai đoạn. Quan niệm của giáo sư Pictet rằng kiểu hình của mỗi loài là một đặc điểm bất di bất dịch dường như đã bị lay chuyển, nhất là do tính phổ biến của những hoá thạch này. Một người đã quá quen với sự phân bổ của các loài ừên thế giới sẽ không tìm hiểu những mối tương đồng giữa những loài đặc trưng trong những tầng địa chất liên tiếp với lý do là những điều kiện sống xa xưa hầu như không thay đổi. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng, các sinh vật sống, hoặc ít nhất là những sinh vật biển, đã biến dị gần như đồng loạt trên toàn thể giới, trong những điều kiện thời tiết và điều kiện sống hết sức khác biệt. Chúng ta hãy thử suy ngẫm về điều kiện sống khắc nghiệt trong kỷ plaitôxen, kéo dài cho đến hết kỉ Băng Hà, và chú ý tới những ảnh hưởng nhỏ bé của nó tới từng sinh vật biển. 
Đối với thuyết di truyền, ý nghĩa đầy đủ của việc những hoá thạch trong những tầng địa chất liên tiếp có mối liên quan mật thiết với nhau là quá rõ ràng, mặc dù chúng được xếp loại như những loài khác nhau. Do quá trình hình thành các tầng địa chất thường xuyên bị cắt ngang, nên chúng ta không thể tìm thấy tất cả những hoá thạch trung gian của những loài xuất hiện và tuyệt chủng ở đầu và cuối một giai đoạn trong một hoặc hai tầng địa chất liên tiếp. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy những loài họ hàng, hay còn được một số tác giả gọi là loài đại diện, khi chúng ta xét đến những tầng địa chất cách nhau những khoảng thời gian địa chất không quá xa. Tóm lại, chúng ta sẽ tìm thấy những bằng chứng cho quá trình biến dị dần dần và rất khó hiểu của một số cá thể. 
Sự phát triến của các loài sinh vật cố - vấn đề liệu những kiểu hình đương đại đạt sự phát triển cao hơn nhiều so với những kiểu hình cổ xưa là một vấn đề đã gây nhiều tranh cãi. Song, vì những nhà tự nhiên học vẫn chưa thể đồng ý được với nhau những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát triển cao thấp của các kiểu hình, nên tôi sẽ không đề cập tới vấn đề này. Mặc dù vậy, ở một mức độ nào đó, dựa trên thuyết của mình, tôi vẫn cảm thấy rằng những kiểu hình mới phải đạt sự phát triển cao hơn các kiểu hình cũ bởi mỗi loài mới được hình thành do có một số đặc điểm có lợi hơn những cá thể khác trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Dưới điều kiện thời tiết gần tương tự nhau, nếu những sinh vật thuộc kỉ Eoxen trong một khu vực trên thế giới được thả cho cạnh tranh với những sinh vật gốc của khu vực đó hiện còn đang tồn tại, thì chắc chắn hệ động thực vật kỉ Eoxen sẽ bị đánh bại và tiêu diệt, cũng như hệ động vật Đại Trung Sinh sẽ bị hệ động vật Eoxen đánh bại, hoặc như hệ động vật Đại cổ Sinh sẽ bị hệ động vật Đại Trung Sinh đánh bại và tiêu diệt. Việc quá trình phát triển này có ảnh hưởng lớn tới cấu tạo tổ chức của những sinh vật thành công đương đại không có gì lạ, nhưng để có thẻ kiểm nghiệm quá trình này thì quả là nan giải. Tôm cua không phải là những động vật phát triển cao nhẩt trong lớp động vật thân cứng, song chúng đã đánh bại loài sinh vật thân mềm phát triển cao nhất. Từ những gì quan sát được từ quá trình phát triển của hệ động thực vật Anh ở New Zealand, chúng ta có thể tin rằng nếu tất cả các loài động, thực vật của nước Anh được thả hoang tại New Zealand, thì với thời gian, một loạt các loài động, thực vật Anh sẽ trở thành hoang dại và sẽ tiêu diệt rất nhiều động, thực vật gốc. Trong khi đỏ, từ việc quan sát những gì đang xảy ra tại New Zealand và việc chưa từng có một cư dân thuộc khu vực nam bán cầu hoang dại hoá thành công ở bất cứ nơi đâu tại Châu Ẩu, chúng ta nghi ngờ khả năng nếu toàn bộ hệ động thực vật ở New Zealand được thả hoang tại Anh, liệu có một số lượng lớn các loài có thể đánh bại hệ động thực vật Anh hay không, về khía cạnh này, ta có thể kết luận rằng hệ động thực vật ở Anh phát triển cao hơn ở New Zealand. Trong khi đó, ngay cả nhà tự nhiên học tài giỏi nhất, nghiên cứu hệ động thực vật ở cả 2 nước cũng không thể tiên đoán được kểt quả này. Ông Agassiz lại khẳng định rằng các loài động vật cổ xưa, ở một mức độ nào đó, giống phôi thai của các loài động vật cùng lớp, hay sự di truyền địa lí của các loài đã tuyệt chủng ở một mức độ nào đó, tương đương với sự phát triển phôi thai ở các loài động vật hiện đại. về vấn đề này, tôi đồng ý với giáo sư Pictet và Huxley khi nói rằng sự chính xác của thuyết này chưa thể được chứng minh. Song, tôi lại tin tưởng rằng nó sẽ được chứng minh trong một tương lai không xa, và sẽ đúng, ít nhất với các nhóm phụ, hay các nhánh đã tách khỏi nhau trong khoảng thời gian gần đây bởi thuyết của Agassiz khá phù hợp với thuyết chọn lọc tự nhiên. Trong một chương sau tôi sẽ chứng tỏ rằng một cá thể đã phát triển rất khác với bào thai của nó, do những thay đổi bất ngờ xảy ra khi cá thể còn qua nhỏ, và bởi được di truyền lại ở một độ tuổi nhất định. Quá trình này hoàn toàn không ảnh hưởng tới bào thai, trong khi đó, qua các thế hệ liên tiếp, nó tiếp tục bổ sung sự khác biệt giữa cá thể đã phát triển và bào thai. Do đó, bào thai có thể coi là đại diện cho những điều kiện sống cổ xưa, và ít bị thay đổi của từng sinh vật.
Quan điểm này có thể đúng, nhưng nó sẽ không bao giờ có được bằng chứng đầy đủ. Mặc dù những con thú, bò sát, và cá cổ xưa nhất thuộc những lớp riêng biệt, và một số cá thể có thể có ít đặc điểm khác nhau hơn những cá thể cùng lớp đương đại, song khả năng tìm thấy hoá thạch những động vật có đặc điểm giống với bào thai của động vật có xương sống là rất nhỏ, và chỉ có thể xảy ra khi mà các tầng địa chất xưa hơn tầng địa chất kỷ Xilua được tìm thấy. Ngài Cliít đã chứng minh cách đây nhiều năm những hóa thạch thú được tìm thấy trong các hang động của úc có những đặc điểm rất gần với những loài thú có túi hiện nay tại châu lục này. Một sự tương đồng, mà một con mắt không chuyên vẫn có thể nhận thấy rõ được được thể hiện qua những mảnh áo giáp khổng lồ của con tatou được tìm thấy ở nhiều vùng thuộc La Plata. Giáo sư Owen cũng đã chứng minh rõ ràng phần lớn những hóa thạch thủ bị chôn vùi và được tìm thấy tại các vùng ấy đều có mối liên hệ với những loài hiện đang sống tại Nam Mỹ. Mối liên hệ này còn được thấy rõ hơn nữa ở bộ sưu tập kì lạ gồm những hài cốt hóa thạch thu thập được trong các hang động tại Brasil bởi Lund và Clausen. Những sự kiện ấy đã thu hút sự chú ý của tôi, đến nỗi năm 1839 và 1845 tôi đã nhấn mạnh nhiều đến cái “quy luật kế tiếp của các loại hình” - và đến “những quan hệ kì diệu giữa những giống đã mất với những giống còn sống trong cùng một lục địa”. Sau đó, giáo sư Owen cũng mở rộng khái niệm đó cho các hóa thạch thú ở Cựu thế giới. Nó cũng được áp dụng trong việc khôi phục lại những con chim lớn đã tuyệt chủng ở New Zealand và tại những con chim trong các hang động ở Brazil. Ông Woodard đã chứng minh rằng quy luật ấy cũng thích hợp với ốc ở biển, song không rõ bằng do sự phân bố rộng rãi của phần lớn các chi động vật thân mềm. Người ta còn có thể thêm vào nhiều thí dụ khác, như mối liên hệ giữa loài ốc trên cạn đã mất và hiện còn sống ở đảo Madeira hay tại vùng biển nước lợ Aralo - Caspian. 
Vậy, quy luật về sự kế tiếp các loại hình như nhau trong những vùng như nhau có ý nghĩa gì? Sau khi đã so sánh khí hậu hiện nay của châu úc so với khí hậu của một số bộ phận của Nam Mĩ ở cùng vĩ độ, sẽ rất là táo bạo nếu một mặt giải thích sự khác nhau giữa các sinh vật của 2 lục địa ấy qua sự khác nhau của các điều kiện vật lí dẫn đến sự khác nhau về kiểu hình; và mặt khác giải thích thông qua sự giống nhau của các điều kiện, do có sự tương đồng giữa các loài vào giai đoạn cuối Đại Trung Sinh. Chúng ta cũng không thể cho rằng do một quy luật bất biến mà châu úc đã chỉ sản sinh ra nhiều nhất hoặc chỉ riêng các loài thú có túi và một mình Nam Mỹ sản sinh ra loài vô xỉ và một số kiểu hình riêng của nó. Thật vậy, chúng ta biết rằng xưa kia châu âu đã sản sinh ra nhiều giống thú có túi và trong các công trình nghiên cứu trước đây, tôi cũng đã chứng minh rằng quy luật phân bố của giống thú có túi trên cạn ở Mỹ ngày nay đã khác rất nhiều. Bắc Mỹ trước đây đã có những điều kiện tự nhiên tương tự như những điều kiện tự nhiên của vùng Nam Mỹ ngày nay và ngược lại. Phát hiện của Falconer và Cautley cũng chỉ ra răng loài thú ở Ấn Độ trước đây có nhiêu đặc diêm giống với loài thủ ở châu Phi ngày nay. Điều tương tự cũng có thể được áp dụng cho các sinh vật biển. 
Thuyết biển dị và di truyền đã có thể giải thích ngay được quy luật kế tiếp trong một thời gian dài nhưng không phải là bất biến của các loại hình như nhau trong những vùng như nhau. Do mọi sinh vật ở mỗi nơi trên thế giới đều có khuynh hướng phát tán thế hệ con cháu đã biến dị một chút mang những dặc tính tương tự tổ tiên của chúng trong những thời kỳ kế tiếp. Nếu những sinh vật của một lục địa trước kia đã khác rất nhiều so với những sinh vật của một lục địa khác, thì con cháu đã biến dị của chúng cũng sẽ lại khác nhau ở mặt hình thức và cấp độ tương tự. Nhưng sau những khoảng thời gian dài và những thay đổi địa lý quan trọng kéo theo nhiều hiện tượng di cư tương hỗ, thì những kiểu hình kém ưu việt hơn thường sẽ nhường chỗ cho những kiểu hình siêu việt, có ưu thế, và do vậy sẽ không có sự bất biến trong sự phân bố các loài sinh vật trước đây và sau này. 
Có người có thể hỏi liệu con lười, con tatou, và con ăn kiến ngày nay ở Nam Mỹ có phải là con cháu thu nhỏ của loài Megatherium, và những con quái vật khổng lồ họ hàng khác hay không? Đây là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Những sinh vật khổng lồ này đã hoàn toàn tuyệt chủng và không hề có con cháu. Song, trong những hang động ở Brazil người ta tìm thấy những loài sinh vật đã tuyệt chủng khác có nhiều điểm tương đồng về kích thước và một số đặc điểm khác với những con vật hiện đang sống tại Nam Mĩ ngày nay. Một số hóa thạch được tìm thấy ở đây rất có thể là tổ tiên của những loài đang sống. Lưu ý là theo thuyết của tôi thì tất cả các loài cùng một chi đều bắt nguồn từ một loài duy nhất, và nếu trong 6 chi, mồi chi có 8 loài, cùng được tìm thấy trong một tầng địa chất, và trong tầng địa chất tiếp theo cũng có 6 chi đại diện hoặc tương đồng với cùng số lượng loài, chúng ta có thể kết luận rằng chỉ có một loài trong mỗi chi cũ đã để lại những con cháu đã thạy đổi, cấu thành 6 chi mới. 7 loài trong cùng một chi còn lại đã tuyệt chủng và không hề để lại con cháu. Hoặc là (mà đây là trường hợp thường xảy ra nhất), chỉ có hai hay ba loài của 2 hay 3 chi cũ là bố mẹ của 6 chi mới, tất cả chi và loài khác đều đã bị tuyệt chủng. Trong những bộ đang thoái trào, bao gồm sự giảm về số lượng các loài và chi, như trường hợp loài vô xỉ ở Nam Mỹ, số lượng loài và chi để lại con cháu đã biến đổi sẽ còn ít hơn. 
TÓM TẮT CHƯƠNG NÀY VÀ CHƯƠNG TRÊN 
Tôi đã cố gắng chứng minh rằng các đồ thư địa chất của chúng ta là rất không hoàn chỉnh, rằng chỉ một bộ phận nhỏ của trái đất đã được khai thác về mặt địa chất một cách cẩn thận; rằng chỉ một số lớp sinh vật đã được bảo quản trong trạng thái hóa thạch; rằng số lượng nhũng mẫu vật và loài sinh vật được bảo tồn trong các viện bảo tàng là không đáng kể so với số lượng các thế hệ đã tồn tại trong thời gian hình thành một tầng địa chất; rằng do phải có sự rút lui của mực nước biển mới cho phép các trầm tích được bồi tụ, các hóa thạch được bảo vệ nên những khoảng thời gian rất dài đã trôi qua giữa các tầng địa chất; rằng rất có khả năng hiện tượng tuyệt chủng, biến dị xảy ra mạnh hơn trong những thời kì nước biển rút, và các thời kì sau này bất lợi cho việc duy trì các hóa thạch nên số lượng hình thái được bảo tồn phải ít hơn rất nhiều; rằng mỗi tầng địa chất không được tích tụ một cách liên tục; rằng thời gian cho việc hình thành một tầng địa chất thường ngắn hơn thời gian tồn tại trung bình của một giống loài; rằng hiện tượng di cư đã đóng một vai trò quan trọng trong sự xuất hiện đầu tiên của những hình thái mới trong mỗi vùng và tầng địa chất; rằng các giống được phát tán là giống đã thay đổi nhiều nhất, và thường đã sản sinh ra những giống mới nhiều nhất; và lúc đầu các loại mới đều có tính chất địa phương. Kết hợp các nguyên nhân này lại với nhau, và nó sẽ làm cho quá trình hình thành địa chất cực kỳ hổng, nhưng ta sẽ giải thích được một phần lớn tại sao chúng ta tìm thấy nhiều mối liên hệ trung gian nhưng không tìm thấy vô số những biển dị nối liền nhau và các kiểu hình đã mất và còn sống. 
Người không thừa nhận những quan điểm này về bản chất của các tài liệu địa chất thì sẽ bác bỏ luôn toàn bộ thuyết của tôi. Bởi anh ta không thể tìm được vô số những hình thái chuyển tiếp trước kia đã liên kết những giống gần nhau hay tiêu biểu mà người ta thẩy ở những tầng nối nhau trong cùng một tầng địa chất. Anh ta cũng sẽ không tin vào những khoảng thời gian khổng lồ đã trôi qua giữa các tầng địa chất liên tiếp, và bỏ qua sự quan trọng của vai trò của di cư trong khi nghiên cứu tầng địa chất của một vùng nào đó. Anh ta cũng có thể cho rằng sự xuất hiện đột ngột của một nhóm loài là một điều hiển nhiên, mặc dù thường thì đó chỉ là bề mặt của sự việc. Anh ta còn có thẻ hỏi nếu vô số sinh vật đã tồn tại từ lâu trước khi tầng địa chất Xilua được hình thành thì giờ đây tàn tích của chúng đâu? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi sau cùng này một cách giả dụ rằng các đại dương của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu rồi, và các đại lục của chúng ta đã được hình thành từ thời kỳ trước kỷ Xilua, nhưng trước thời kỳ ấy một khoảng thời gian tương đương thế giới có thể đã có một bộ mặt khác, và những châu lục cũ, được hình thành bởi những tầng địa chất cổ xưa hơn cả những gì chúng ta đã biết, có thể giờ đây đã ở trong trạng thái biến chất hoặc chôn vùi dưới đáy biển.
Nhưng ngoại trừ những khó khăn này, tất cả các sự kiện đáng chú ý khác của ngàng khảo cổ học đều có vẻ như rất phù hợp với thuyết di truyền và biến dị thông qua chọn lọc tự nhiên. Qua đó chúng ta có thể hiểu các loài xuất hiện một cách từ từ và liên tiếp như thế nào, tại sao các loài trong cùng một lớp thường không nhất thiết thay đổi đồng thời, hoặc ở một cường độ và tốc độ tương tự, nhưng với thời gian, mọi loài sinh vật đều sẽ phải trải qua biến dị ít hay nhiều. Sự tuyệt chủng của các loài cũ gần như là một hậu quả tất yếu của việc sinh sản các loài mới. Chúng ta có thể hiểu tại sao một loài sinh vật, một khi nó tuyệt chủng thì nó sẽ không bao giờ xuất hiện lại nữa. Các chi sinh vật tăng về số lượng một cách từ tốn, và tồn tại trong những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau, và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan. Loài sinh vật thống trị của nhóm sinh vật thống trị thường sinh ra rất nhiều thế hệ con cháu biến dị, và từ đó nhiều nhóm và nhóm phụ mới được hình thành. Trong khi đó, các cá thể của những loài kém ưu việt hơn, do có cùng một đặc tính di truyền bất lợi nào đó từ cùng một tổ tiên, sẽ dần dần trở thành tuyệt chủng, và sẽ không để lại thế hệ con cháu nào trên thế giới. Nhưng sự tuyệt chủng hoàn toàn của bất cứ một nhóm sinh vật nào cũng là một quá trình diễn ra rất lâu dài, do một sổ con cháu có thể được sống trong những môi trường thích hợp và cách li. Khi mà một loài biển mất, nó sẽ không xuất hiện lại, do sự liên tục trong di truyền đã bị phá vỡ. 
Chúng ta có thể hiểu sự phát tán của những kiểu hình un việt, nhừng kiểu hình có nhiều biến đổi nhất, cùng với thời gian, sẽ phát tán ra khắp thế giới những thế hệ con cháu mang những đặc điểm tương đồng nhưng biến dị, và những thế hệ con cháu này thường sẽ thế vị trí của những nhóm sinh vật không cạnh tranh nổi trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Do vậy, sau những khoảng thời gian dài, các sinh vật trên trái đất dường như đã đồng thời thay đổi. 
Chúng ta có thể hiểu được cung cách mà tất cả các sinh vật đang sống và đã chết, hợp lại thành một hệ thống vĩ đại do tất cả đều có liên quan qua các thế hệ. Do xu thế biến dị liên tục của kiểu hình, chúng ta có thể hiểu được tại sao một sinh vật càng cổ xưa sẽ càng khác so với các sinh vật hiện đang tồn tại. Tại sao những hình thái cổ xưa lại lấp chỗ trống giữa những hình thái hiện nay, và có khi tập hợp thành một những nhóm sinh vật trước kia được coi là khác nhau, hoặc thông thường thì làm giảm sự khác biệt sinh học giữa chúng. Một kiểu hình càng cổ thì ở một mức độ nào đó nó mang những đặc tính trung gian giữa các nhóm hiện nay đã phân li vì một kiểu hình càng cổ bao nhiêu thì nó sẽ càng cỏ những đặc điểm giống với tổ tiên của các nhóm sinh vật đã phân li bấy nhiêu. Các kiểu hình đã tuyệt chủng thường ít khi mang những đặc tính trung gian giữa các kiểu hình còn sống; mà chỉ là trung gian qua một đường vòng dài và lắt léo qua rất nhiều những kiểu hình khác nhau hoặc đã tuyệt chủng. Chúng ta có thể thấy rõ tại sao những hóa thạch hữu cơ trong các tầng địa chất kế tiếp lại gần với nhau hơn những hóa thạch tương tự trong những tầng địa chất khác do có mối liên hệ gia phả, và tại sao những hóa thạch chôn vùi trong một tầng địa chất trung gian lại mang những đặc điểm trung gian.
Sinh vật của mỗi thời kỳ địa chất liên tiếp trong lịch sử trái đất đã chiến thắng những kẻ đi trước chúng trong cuộc đấu tranh sinh tồn; đồng nghĩa với việc chúng chiếm một vị trí cao hơn trong thang thiên nhiên, và điều đó cũng giúp các nhà khảo cổ học tự lý giải với bản thân rằng hệ thống tổ chức chung đã tiến hóa. Nếu sau này việc những động vật cổ xưa mang những đặc điểm giống với phôi thai của những động vật cùng một lớp ngày nay được chứng minh thì học thuyết của tôi sẽ trở nên dễ hiểu hơn. Sự kế tiếp những loại hình tổ chức giống nhau trong những vùng tương tự nhau, trong những thời kì địa chất cuối cùng, không còn là một bí mật nữa và đã được giải thích thông qua các quy luật di truyền. 
Vậy nếu như giả định của tôi về việc những đồ thư địa chất không hoàn thiện, và có thể nói rằng chúng ta có thể chứng minh rằng chúng khó có thể trở nên hoàn thiện hơn, những phản bác đối với thuyết chọn lọc tự nhiên sẽ hoàn toàn biến mất hoặc bị giảm đi rất nhiều. Mặt khác, tất cả các quy luật khảo cổ học đều khẳng định rằng các loài là sản phẩm của di truyền, các loài cổ được thay thế bởi những loài mới và ưu việt hơn, và những hình thái này lại là kết quả của các quy luật biến dị luôn luôn hoạt động quanh ta, được bảo quản bởi quá trình chọn lọc tự nhiên.
CHƯƠNG XI 
PHÂN BỐ ĐỊA LÝ 
Tình trạng phân bổ hiện tại không thể là do sự khác nhau về điều kiện vật lý Tầm quan trọng của các giới hạn - Sự giống nhau của các sinh vật ở cùng một lục địa - Các trung tâm của sự tạo thành - Các phương tiện phân tán, bằng cách thay đổi khí hậu và điều kiện đất, và các biện pháp được áp dụng tùy theo thời điểm khác - Sự phân bố theo địa lý trên thế giới trong thời kỳ Băng hà Khi xem xét sự phân bố của các sinh vật có tổ chức trên bề mặt trái đất, chúng ta sẽ thấy ngay một thực tế rằng, sự tương đồng hoặc không tương đồng giữa các cư dân trên các vùng khác nhau không thể do điều kiện tự nhiên và nhiệt độ giữa các vùng đó. Hầu hết tất cả các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này cũng đều đi đến kết luận như vậy. Chỉ riêng trường hợp của Mỹ cũng đã đủ để chứng minh cho thực tế này: Nếu không tính đến vùng phía bắc- nơi quá trình băng hóa đất đai diễn ra liên tục-thì tất cả các tác giả đều thống nhất rằng một trong nhữnng sự phân bố cơ bản nhất về địa lý là giữa vùng Cựu lục địa và Tân thế giới. Nhưng nếu đi hết các vùng lục địa của Mỹ, từ miền Trung nước Mỹ đến điểm cực nam, chúng ta sẽ gặp các điều kiện sống hầu như rất khác nhau; từ các vùng ẩm ướt nhất, đến những sa mạc khô cằn, những dãy núi cao sừng sững, những thảo nguyên cỏ xanh, những rừng già, đầm lầy, hồ và các sông lớn..., mỗi nơi có một kiểu khí hậu khác nhau. Khó có một kiểu khí hậu hay điều kiện sống nào không tồn tại song song giữa vùng Cựu lục địa và vùng Tân thế giới - ít nhất là các loài có thể di chuyển từ hai vùng không có những khác nhau cơ bản về điều kiện sống, rất khó tìm thấy những loài có điều kiện sống hoàn toàn khác biệt, ràng các điều kiện đó chỉ khác nhau chút ít. Ví dụ, vùng Tân thế giới nóng hơn so với Cựu lục địa, nhưng ở đó không có các loài động thực vật khác hoàn toàn. Tuy vậy, các sản phẩm sống giữa hai vùng này thì khác nhau khá nhiều. 
Ở bán cầu nam, nếu chúng ta so sánh các miền đất rộng lớn ở Ôxtrâylia, Nam Phi và miền tây Nam Mỹ, giữa vĩ độ 25° và 35°, chúng ta sẽ thấy có những YÙng rất giống nhau về điều kiện sống, nhưng điều này không có nghĩa là không thế chỉ ra ba loài động thực vật tương đối khác nhau. Hay chúng ta so sánh các sản phẩm của Nam Mỹ ở phía Nam của vĩ độ 35° nam với ở vĩ độ 25° bắc, nơi có điều kiện khí hậu tương đối khác nhau, sẽ nhận thấy chúng có mối liên quan mật thiết với nhau, hơn là so với các sản phẩm ở Ôxtrâylia hày châu Phi có cùng khí hậu. Các kết luận tương tự cũng có thể rút ra khi nghiên cứu sinh vật ở các vùng biển khác nhau. 
Một thực tế quan trọng khác chúng ta cần lưu ý là giới hạn của bất kỳ loài nào, nói cách khác là những cản trở đổi với việc di cư tự do, có liên quan chặt chẽ và quan trọng tới sự khác nhau giữa các sản phẩm của các vùng khác nhau. Điều này có thể thấy rõ qua những khác biệt to lớn của hầu hết các sinh vật sống trên cạn ở vùng Tân thế giới và Cựu lục địa, trừ vùng phía bắc, nơi đất đai gần như nối liền, và ở đó sự khác nhau về khí hậu là rất ít nên các dạng sinh vật ôn đới ở miền bắc có thể di cư tự do, giống như các sinh vật biển ngày nay. Sự khác biệt này có thể thấy giữa các cư dân ở Ôxtrâylia, châu Phi và Nam Mỹ có cùng vĩ độ, ở các nước này các loài hàu như là sống tách biệt với nhau. Ở các lục địa cũng có hiện tượng tương tự; do sự khác nhau giữa những dãy núi cao ngất nối tiếp nhau với các sa mạc mênh mông, đôi lúc là với những dòng sông lớn, chúng ta sẽ tìm thấy sự khác nhau giữa các sinh vật; mặc dù những dãy núi, những con sông,... là không thể vượt qua, hoặc có vẻ như sẽ tồn tại rất lâu, những khác biệt đó ở mức độ thấp nếu xét về những đặc điểm của từng lục địa riêng biệt. 
Đối với môi trường biển, chúng ta cũng thấy có hiện tượng tương tự. Không có hai loài động vật biển nào có sự khác biệt rõ ràng hơn khi so sánh giữa bờ biển phía đông và phía tây của vùng phía Nam và Trung Mỹ; tuy nhiên những động vật này chỉ bị ngăn cách bởi eo biển nhỏ nhưng không thể vượt qua Panama. Hướng tây của các bờ biển ở châu Mỹ, một không gian rộng cho biến lấn vào và không có một hòn đảo nhỏ như một nơi không chào đón sự di cư; và ngay khi vượt qua chướng ngại vật này, sẽ gặp bờ đông của Thái Bình Dương, với những động thực vật hoàn toàn khác. Như vậy là có ba loài động vật biển trải dài từ phía bắc sang phía nam, theo đường song song không cách xa nhau mấy, dưới điều kiện khỉ hậu tương tự nhau; nhưng bị ngăn cách với nhau bởi những rào cản không thể vượt qua như đất liền hoặc cửa biển nên chúng hoàn toàn khác biệt nhau. Mặt khác, nếu tiếp tục đi tiếp về hướng tây từ những hòn đảo phía đông ở những khu vực nhiệt đới của Thái Bình Dương, thấy vô số các hòn đảo hạn chế di cư, cho mãi tới sau khi sang nửa bán cầu bên kia đến các bờ biển của châu Phi; và trong suốt quãng đường dài đó, cũng không có bất cứ động vật biển nào được định nghĩa rõ ràng hoặc hoàn toàn khác biệt. Mặc dù hiếm khi một con cua, con sò, hay cá có điểm chung với các động vật đã nói ở trên của vùng Đông và Tây Mỹ, vùng phía đông các đảo ở Thái Bình Dương, nhưng có nhiều loài cá từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương; và nhiều loài sò cũng rất phổ biến ở các đảo phía đông của Thái Bình Dương và bờ phía đông của châu Phi, dù chúng ở cùng một kinh độ nhưng có vĩ tuyến trái ngược nhau. 
Một thực tế thứ ba, phần nào đã nam trong những điều đã đề cập ở trên là sự đồng dạng của những sản phẩm của cùng lục địa đó hoặc biển, mặc dù các loài được phân biệt rõ ràng ở một số điểm và mức độ khác nhau. Đó là quy luật tổng quát, và mỗi lục địa lại có vô số các ví dụ minh hoạ cho quy luật ấy. Tuy vậy, ví dụ nhà tự nhiên học đi từ phía bắc đến phía nam không bao giờ bị ẩn tượng bởi cách rằng nhóm được phân biệt với nhau, rằng là bởi mối liên hệ, khả năng thay thé lẫn nhau. Anh ta nghe tiếng những loài chim cùng giống, và nhận thấy chúng gần như nhau, cách xây tổ của chủng cũng tương tự nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau, các quả trứng cũng như vậy. Ở đồng bằng gần eo biển Magellan có loài đà điếu châu phi Mỹ, và về phía bắc là đồng bằng của La Plata có những loài khác nhưng cũng thuộc giống đó; chúng có những đặc điểm khác với đà điểu châu Phi cũng sống cùng ở vĩ độ đó.
Trên cùng các đồng bằng của La Plata, có thể thấy các con agouti và bizcacha, những động vật có thói quen giống thỏ rừng và thỏ nuôi, có cùng đẳng cấp nhưng chủng mang những đặc điểm về cấu trúc giống châu Mỹ. 
Chúng ta lên những đỉnh cao ngất ở Cordillera và sẽ thấy những loài bizcacha; xuống biển chúng ta chỉ có thể tìm thấy hải ly hoặc hươu xạ nhưng có cấu tạo cơ thể kiểu châu Mỹ. Nếu để ý tới những hòn đảo của châu Mỹ, chủng có thể khác về cấu trúc thuộc địa lý, về các sinh vật cư trú nhưng chủng là những loài mang đặc trưng của Mỹ là loài sinh vật kiểu Mỹ phổ biến cả ở trên cạn và dưới mặt nước. Chúng ta có thể thấy đặc điểm này dạng hữu cơ nằm sâu dưới lòng đất, vượt qua cả không gian và thời gian, trong cùng những vùng đó đất và nước, độc lập với các điều kiện bên ngoài. 
Mối ràng buộc này, theo lý thuyết của tôi, đơn giản là sự thừa kế, đã tự có, như chủng ta đã biết, sản sinh những tế bào tương đối giống, hoặc, giống trường hợp những biến dị có đặc điểm gần như giống nhau. Sự khác nhau giữa các loài cư trú ở những vùng khác nhau có thể được cho là biến đổi thông qua chọn lọc tự nhiên, và phụ thuộc ở mức tương đối những ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện vật lý khác nhau. 
Mức độ khác nhau sẽ phụ thuộc vào sự di trú của những dạng trội hơn từ vùng này đến vùng khác với mức độ ít hoặc nhiều hơn, trong một số giai đoạn; trong các hành động và phản ứng của chúng, bên trong cuộc đấu tranh cho cuộc sống; quan hệ giữa các dạng hữu cơ, như tôi đã từng nhận xét là quan trọng nhất trong tất cả các quan hệ. Do đó tầm quan trọng cao của những rào cản được thể hiện thông qua việc kiểm tra hoạt động di cư khi quá trình biến đổi diễn ra chậm chạp, thông qua chọn lọc tự nhiên. 
Trong vô số loài, việc có nhiều những cá nhân, đã từng chiến thắng nhiều đối thủ bên trong họ hàng của chính mình sẽ có cơ hội tốt nhất để thống lĩnh những nơi ở mới, khi chúng đến một đất nước mới. Ở nơi ở mới của mình, chúng sẽ được sống trong các điều kiện mới, và sẽ thường xuyên biến đổi hơn nữa; do đó chúng sẽ tiếp tục chiến thắng, và sẽ sản sinh những nhóm con cháu đã tiến hóa. Trên nguyên lý này về sự thừa kế có tiến hoá, chúng ta có thể hiểu làm sao nó lại là một thế hệ, các thế hệ và thậm chí là cả một họ đang sống trong cùng một vùng lại có thể phổ biến và nổi tiếng đến thế. Tôi tin rằng, như đã nhận xét trong chương trước, không có quy luật nào về những tiến hoá cần thiết vì tính biến thiên của mỗi loài là một thuộc tính độc lập, được phát huy thông qua chọn lọc tự nhiên, cho đến lúc nó kiếm hệ, khả năng thay thế lẫn nhau. Anh ta nghe tiếng những loài chim cùng giống, và nhận thấy chúng gần như nhau, cách xây tổ của chủng cũng tương tự nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau, các quả trứng cũng như vậy. Ở đồng bằng gần eo biển Magellan có loài đà điểu châu phi Mỹ, và về phía bắc là đồng bằng của La Plata có những loài khác nhưng cũng thuộc giống đó; chúng có những đặc điếm khác với đà điểu châu Phi cũng sống cùng ở vĩ độ đó. 
Trên cùng các đồng bằng của La Plata, có thể thấy các con agouti và bizcacha, những động vật có thói quen giống thỏ rừng và thỏ nuôi, có cùng đẳng cấp nhưng chúng mang những đặc điểm về cấu trúc giống châu Mỹ. 
Chúng ta lên những đỉnh cao ngất ở Cordillera và sẽ thấy những loài bizcacha; xuống biển chúng ta chỉ có thể tìm thấy hải ly hoặc hươu xạ nhưng có cấu tạo cơ thể kiểu châu Mỹ. Nếu để ý tới những hòn đảo của châu Mỹ, chúng có thể khác về cấu trúc thuộc địa lý, về các sinh vật cư trú nhưng chúng là những loài mang đặc trưng của Mỹ là loài sinh vật kiểu Mỹ phổ biến cả ở trên cạn và dưới mặt nước. Chúng ta có thể thấy đặc điểm này dạng hữu cơ nằm sâu dưới lòng đất, vượt qua cả không gian và thời gian, trong cùng những vùng đó đất và nước, độc lập với các điều kiện bên ngoài.
Mối ràng buộc này, theo lý thuyết của tôi, đơn giản là sự thừa kế, đã tự có, như chúng ta đã biết, sản sinh những tế bào tương đối giống, hoặc, giống trường hợp những biến dị có đặc điểm gần như giống nhau.
Sự khác nhau giữa các loài cư trú ở những vùng khác nhau có thể được cho là biến đổi thông qua chọn lọc tự nhiên, và phụ thuộc ở mức tưomg đối những ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện vật lý khác nhau. 
Mức độ khác nhau sẽ phụ thuộc vào sự di trú của những dạng trội hơn từ vùng này đến vùng khác với mức độ ít hoặc nhiều hơn, trong một số giai đoạn; trong các hành động và phản ứng của chúng, bên trong cuộc đấu tranh cho cuộc sống; quan hệ giữa các dạng hữu cơ, như tôi đã từng nhận xét là quan trọng nhất trong tất cả các quan hệ. Do đó tầm quan trọng cao của những rào cản được thể hiện thông qua việc kiểm tra hoạt động di cư khi quá trình biến đổi diễn ra chậm chạp, thông qua chọn lọc tự nhiên. 
Trong vô số loài, việc có nhiều những cá nhân, đã từng chiến thắng nhiều đối thủ bên trong họ hàng của chính mình sẽ có cơ hội tốt nhất để thống lĩnh những nơi ở mới, khi chúng đến một đất nước mới. Ở nơi ở mới của mình, chúng sẽ được sống trong các điều kiện mới, và sẽ thường xuyên biến đổi hơn nữa; do đó chúng sẽ tiếp tục chiến thắng, và sẽ sản sinh những nhóm con cháu đã tiến hoá. Trên nguyên lý này về sự thừa kế có tiến hoá, chúng ta có thể hiểu làm sao nó lại là một thế hệ, các thế hệ và thậm chí là cả một họ đang sống trong cùng một vùng lại có thể phổ biến và nổi tiếng đến thế. Tôi tin rằng, như đã nhận xét trong chương trước, không có quy luật nào về những tiến hoá cần thiết vì tính biến thiên của mồi loài là một thuộc tính độc lập, được phát huy thông qua chọn lọc tự nhiên, cho đến lúc nó kiếm lợi cho cá nhân trong cuộc đấu tranh vất vả vì cuộc sống, vì vậy mức độ tiến hoá của các loài khác nhau sẽ là không thống nhất về số lượng. Nếu, ví dụ, một số loài, trong sự cạnh tranh trực tiếp với nhau, di cư tới một tập thể trong một nước mới, phát triển sau và hoàn toàn cô lập, thì chúng sẽ phải biến dị chút ít, nếu không chúng không thể tồn tại và phát triển được; 
Những nguyên lý này được thực hiện thông qua việc mang các dạng hữu cơ vào trong những quan hệ mới với nhau, và trong một độ nhỏ hơn trong điều kiện sống mới. Như chúng ta đã thấy trong chương trước có vài dạng giữ gần như nguyên tất cả đặc tính của mình từ một thời kỳ thuộc địa lý từ xa xôi, vì thế mà các loài nhất định đã di trú qua những khoảng không rộng và đã biến đổi đi rất nhiều. 
Xét về quan điểm này, rõ ràng là một vài loài cùng giống mặc dù sổng ở những vùng xa nhất của thế giới, trước đấy nhất định đã xuất phát từ cùng một nguồn gốc, bước chúng đã thừa kế từ cùng một tổ tiên. Trong trường họp của những loài đó, vốn đã trải qua tất cả các giai đoạn địa lý và đã tiến hoá rất ít, không khó để tin rằng chúng đã cùng di cư đến từ một vùng do những thay đổi lớn về địa lý và thời tiết với số lượng rất lớn. Nhưng trong nhiều trường họp khác, chúng ta có lý do để tin rằng những loài trong cùng một giống đã được sản sinh ra trong giai đoạn tương đối gần đây là rất khó. 
Cũng là điều hiển nhiên rằng, các cá thể cùng loài đó sống ở cô lập và xa xôi, chắc chan phải xuất phát từ một nơi duy nhất, nơi cha mẹ của chúng đã được sinh ra. Như đã giải thích trong chương trước, không thể tin được những cá nhân giống nhau ở chỗ được sinh ra thông qua chọn lọc tự nhiên từ cha mẹ hoàn toàn khác nhau. Do đó chúng tôi đặt ra câu hỏi liệu có phải các loài đã được tạo ra chỉ ở một hoặc hay nhiều điểm trên bề mặt trái đất. Chắc chắn có nhiều trường hợp cực kỳ khó khăn, trong việc hiểu làm sao những cùng loài giống nhau có thể đã di trú từ một điểm nào đó đến vài địa điểm cô lập và xa xôi, và chúng được tìm thấy trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên tính đơn giản của suy nghĩ này là mỗi loài đều được sinh ra tại một điểm nào đó trên trái đất 
Nói chung mọi người thường cho rằng, trong đa số các vùng sống của một loài liên tục; và khi một cây hoặc động vật sống ở hai điểm quá xa nhau, hoặc với một khoảng lặng của tự nhiên như vậy, vì không gian đó không thể dễ dàng băng qua bởi sự di trú, nên tạo ra một số điểm ngoại lệ và khá đặc biệt. Khả năng di cư ngang qua biển có giới hạn phân biệt hơn đối với những động vật có vú và do đó chúng ta không thể giải nghĩa được những trường hợp của động vật có vú đó sống ở các điểm khác nhau của thế giới. 
Không có nhà địa chất nào những trường hợp như nước Anh trước đây đã được hợp nhất với châu âu, và vì vậy cùng sở hữu các đặc điểm đó. Nhưng nếu cùng những loài đó có thể được sản sinh ở các điểm riêng biệt, thì tại sao chúng ta không tìm một loại động vật có vú duy nhất phổ biến ở cả châu âu và châu úc hoặc Nam Mỹ? Điều kiện sống cũng gần như thế, do đó vô số những động vật và những cây châu Ẩu đã nhập quốc tịch trong Mỹ và châu Úc; và vài cây nguyên thủy giống hệt là như thế cũng ở những điểm rất xa nhau trên các bán cầu nam và bắc? Tôi tin rằng, câu trả lời là những động vật có vú đó không có khả năng di trú, trong khi vài loài cây, do nhiều cách phân tán, đã di trú ngang qua khoảng cách rộng lớn. Những ảnh hưởng lớn và ấn tượng của những cản trở đối với việc phân tán của mỗi loại, chỉ dễ hiểu nếu xét trên quan điểm phần lớn những loài đã được sinh ra ở nửa bên này trái đất và không có khả năng để di trú tới nửa khác. Một số họ, chi, hoặc các thế hệ sau, và một nhóm lớn các chi của cùng một loài vẫn sống trong một vùng duy nhất, và các nhà tự nhiên học nhận thấy những thế hệ đầu tiên hoặc những thế hệ các loài có liên quan chặt chẽ đến nhau, nói chung thường cư trú hoặc phải cư trú trong cùng một khu vực. Điều khác thường là, nếu, đến các thế hệ thấp hơn, tới từng cá nhân của cùng một loài đó, một quy tắc đối diện trực tiếp thịnh hành; và các loài không phải cư trú, mà là đã được sản sinh trong hai hoặc nhiều hơn địa điểm khác nhau. Do đó đối với tôi, cũng như nhiều nhà tự nhiên học khác, nhất trí quan điểm rằng mỗi loài chỉ được sinh ra trong một vùng, và sau này đã di trú từ vùng đó khi có khả năng di cư và những điều kiện sổng phù hợp. 
Chắc chắn nhiều trường hợp xảy ra mà chúng ta không thể giải thích làm thế nào những loài đó có thể di cư từ vùng này tới vùng khác. Nhưng nếu khí hậu và điều kiện địa lý thay đổi, chắc chắn diễn ra trong bên niên đại địa lý gần đây, nhất định sẽ bị ngắt quãng hoặc chuỗi quan hệ của loài đó sẽ không liên tục. Do đó chúng ta không cần xem xét nhiều xem liệu những ngoại lệ của tính liên tục có nhiều trong tự nhiên hay không, mà chúng ta nên bỏ lòng tin đối với những nhận xét thông thường, rằng mồi loài đã được sản sinh ửa trong cùng một vùng, và đã di cư xa hết mức có thể. 
Nhưng sau vài nhận xét sơ bộ, tôi sẽ bàn luận về một lớp nổi bật nhất của những sự việc; đó là, sự tồn tại những loài đó trên những đỉnh núi cao, và ở những nơi xa xôi vùng nam cực và Bắc cực; và hai là (trong chương sau), sự phân bố rộng các sinh vật sống trong vùng nước ngọt và thứ ba là biến đổi của những loài đó trên những hòn đảo và trên đất liền tách ra bởi hàng trăm dặm biển. Nếu sự tồn tại của loài đó ở những địa điếm cô lập và cách xa trên bề mặt trái đất, hay có thể trong nhiều trường hợp được giải thích trên quan điểm là mồi loài đã di trú từ một nơi đơn lẻ; rồi sau đó, do sự thiếu hiểu biết của chúng ta đối với những thay đổi về khí hậu địa lý và các phương tiện chuyên chở, có thể kết luận rằng đây là một quy luật chung. 
Để bàn luận về chủ đề này, chúng ta sẽ vài loài phân biệt rõ ràng của một giống, trên lý thuyết của tôi đã được thừa kế từ một tổ tiên chung, có thể đã di trú (trải qua sự biển hoá trong thời điểm nào đó trong thời gian di trú của chung) từ vùng tổ tiên của chúng đã sống. Phải chăng điều này cho thấy những trường hợp gần như không thay đổi, ở một vùng, hầu hết các sinh vật cư trú của nó thì có quan hệ gần gũi với nhau, hoặc thuộc về cùng một thế hệ với những loài ở một vùng thứ hai, có thể đều là con cháu của các sinh vật đã di cư từ nơi khác đến. Chúng ta có thể rõ ràng chịu đựng, dựa trên nguyên lý tiến hoá, tại sao cư dân của một vùng lại liên quan tới cư dân của vùng khác, từ đâu nó đã được cung cấp. Một hòn đảo núi lửa, cho thấy, đã bùng nổ và thành hình ở khoảng cách hàng trăm dặm từ lục địa, có lẽ nhận nó trong quá trình xâm lăng, và những con cháu của nó sau khi đã biến hoá, vẫn còn có liên quan rõ ràng bởi sự thừa kế tới những cư dân của lục địa châu âu. Những trường hợp này khá phổ biến trong tự nhiên nhưng chúng ta không thể giải nghĩa được trên lý thuyết về sự tạo thành độc lập. Quan điểm về quan hệ của những loài trong một vùng với những loài trong vùng khác, không khác nhiều (do được thay thể bởi sự đa dạng của loài). Với những dạng hữu cơ không bao giờ được lai giống (nếu từng tồn tại), những loài, nhất định đã được thừa kế từ một sự các thế hệ trước là con lai, sẽ không bao giờ đã lẫn với những cá nhân hoặc những thể lai khác, nhưng sẽ có thể loại bỏ lẫn nhau; do đó, ở các giai đoạn sau của thể lai và đã tiến hoá, tất cả các cá thể của từng thể lai sẽ được thừa kế từ một cha mẹ đơn. Nhưng trong đa số các trường hợp, tức là, với thể hữu cơ thường xuyên họp nhất khi sinh ra, hoặc những thể lai, tôi tin rằng trong thời gian rất chậm của quá trình biến dị, những cá thể của các loài sẽ đã được giữ gần như đồng dạng bởi lai giống; như vậy các cá nhân đó sẽ tiếp tục thay đoi đồng thời, và toàn bộ số lượng các thể lai sẽ không giới hạn ở mỗi giai đoạn, từ một cha mẹ đơn. Để minh họa những gì đã nói ở trên, có thể lấy ví dụ: Loài ngựa đua nước Anh của chúng ta khác rất ít so với những con ngựa thuộc các giống khác; nhưng chúng không có sự khác nhau vượt trội đó từ một cặp bổ mẹ đơn ghép đôi nào, và tiếp tục được chăm sóc trong quá trình lựa chọn và huấn luyện nhiều cá nhân trong nhiều thế hệ. 
Trước khi bàn luận về ba lớp của các dẫn chứng, tôi đã lựa chọn đế giới thiệu số lượng lớn nhất những khó khăn trong lý thuyết “Những trung tâm đơn lẻ của các tạo vật", Tôi phải nói thêm một chút về những phương tiện phân tán. 
NHỮNG PHƯƠNG CÁCH PHÂN TÁN 
Ngài C.Lyell và những tác giả khác có thể đã từng đề cập đến vấn đề này. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây những giới thiệu trừu tượng và ngắn gọn nhất về những lý lẽ quan trọng nhất mà thôi. Sự thay đổi của khí hậu nhất định phải có tầm ảnh hưởng mạnh đối với di trú: Một vùng khi khí hậu của nó thay đổi có thể tạo cơ hội lớn để các loài di trú, nhưng hiện tại điều này là không thể. Tuy nhiên, tôi sẽ nói kỹ hơn về vấn đề này. 
Những sự thay đối của các lớp đất phải cũng có ảnh hưởng lớn: một eo đất hẹp có thể phân ra hai hệ động vật biển khác nhau đã bị nhấn chìm, hoặc các thế hệ trước đã bị nhấn chìm, và hai hệ động vật bây giờ sẽ hòa họp hoặc có thể trước đây đã hòa hợp: nơi biển bây giờ mở rộng, đất ở các thời kỳ trước đã nối các hòn đảo với nhau hoặc thậm chí những lục địa cùng nhau, và như vậy đã cho phép các sinh vật trên trái đất đi từ một nơi này đến nơi khác. Không có nhà địa chất nào phản đối việc thay đổi của các tầng đã xuất hiện trong thời kỳ các thể hữu cơ tồn tại. Edward Forbes nhấn mạnh rằng tất cả các hòn đảo ở Đại Tây Dương sau này mới được nối với châu âu hoặc châu Phi, và châu âu giống như với Mỹ. Các tác giả khác đã theo giả thuyết như vậy mà kết luận ra tính bắc cầu qua từng đại dương, và đã hợp nhất gần như mồi hòn đảo tới một vùng đất liền nào đó. Nếu thực chất những lý lẽ của Forbes là đáng tin cậy, mọi người cần thừa nhận rằng hiếm có một hòn đảo nào tồn tại đơn lẻ mà gần đây không hợp nhất với lục địa nào đó. Quan điểm này đã giải thích những điều rắc rối về sự phân tán của cùng một loài ở các địa điếm cách xa nhau, và loại bỏ nhiều khó khăn.
Đối với tôi, có thừa bằng chứng về dao động lớn trong những lục địa của chúng ta; nhưng không phải là những thay đổi lớn về vị trí và sự mở rộng của các lục địa này, vì chúng đã họp nhất với nhau trong thời kỳ gần đây và với một vài hòn đảo ngoài đại dương. Tôi thừa nhận sự tồn tại trước đây của nhiều hòn đảo, ngày nay đã bị chôn vùi dưới đáy biển, có thể được coi như nơi cư trú cho các loài thực vật và cả các động vật trong quá trình di cư của mình.Và tôi tin rằng trong những đại dương có san hô, những hòn đảo bị chìm như vậy bây giờ đã được đánh dấu bởi những cái vòng san hô hoặc những đảo san hô vòng quanh chúng. Bất cứ khi nào quan điểm nảy được thừa nhận hoàn toàn, tôi tin rằng sẽ có ngày đó, mỗi loài đã xuất phát từ một nơi sinh đơn lẻ, và khi khoảng thời gian chúng ta biết đến những phương tiện phân bố, chúng ta sẽ có thể quan tâm đến sự an toàn của việc mở rộng các lục địa trước đây. Nhưng tôi không tin rằng có thể chứng minh trong những thời kỳ gần đây, vốn khá tách biệt, đã liên tục, hoặc gần như liên tục, họp nhất với nhau, và với nhiều hòn đảo đại dương. Một vài dẫn chứng về sự phân bố, ví dụ như sự khác biệt lớn trong các hệ động vật biển ở hai bờ của mỗi lục địa, quan hệ gần gũi các cư dân thuộc kỷ thứ ba của một vài khu vực và thậm chí là cả biển với cư dân của chúng, quan hệ trong một mức độ nhất định (như chúng ta có thể thấy sau đây) giữa sự phân bố của những động vật có vú và độ sâu của biển, những yếu tố này và các dẫn chứng khác đối với tôi có vẻ như chống lại việc có những thay đổi lớn về mặt địa lý đã diễn ra trong thời kỳ gần đây, cũng như trong các lý thuyết của Forbe và những người ủng hộ ông. Tỷ lệ tự nhiên và tương đối của các sinh vật cư trú trên các hòn đảo đại dương cũng có vẻ như chống đối lại niềm tin về sự liên quan của những hòn đảo này với đất liền trong quá khứ. 
Tôi phải nói vài điều về cái gọi là các phương tiện ngẫu nhiên có nghĩa, nói chính xác hơn là các phương tiện phân bố ngẫu nhiên. Tôi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi các thực vật mà thôi. Trong công việc làm vườn, cây này hoặc cây kia sẽ được cho là không thích ứng tốt với việc phân bố rộng nhưng có thể di chuyển qua biển trong các điều kiện như thế nào thì hoàn toàn không được biết đến. Cho đến khi tôi thử nghiệm với sự giúp đõ của ngài Berkeley, tôi không thể giải thích được tại sao các hạt giống có thể chống lại được tác động của nước biển. Và tôi đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy trong 87 loại, 64 loại nảy mầm sau bị nhúng nước trong 28 ngày, và một số hạt ít sống sót được sau khi bị nhúng chìm trong 137 ngày. Đe thuận tiện, tôi đã thí nghiệm với các hạt nhỏ và chỉ sau vài ngày, chúng đã không thể noi lên trên bề mặt biển, do đó không thế biết được chúng ra sao sau khi gặp nước biển, về sau, tôi thử với vài hạt trái cây lớn hơn, hạt điều., và một số hạt đã đó nổi lên một thời gian dài. Ai cũng biết về sự khác nhau giữa cây xanh và cây cho gỗ khi những trận lụt có thể rửa trôi tất cả những hạt giống mới gieo trồng hoặc các nhánh cây, những hạt này có thể sẽ được làm khô trên các bờ sông, sau đó những d òng chảy sẽ cuốn những hạt này chảy ra biển. Do đó tôi đã làm khô những thân và nhánh của 94 cây có quả chỉn, và để chúng trong nước biển. Đa số hạt chìm nhanh chóng, sau đó một vài hạt m àu xanh lục nổi lên trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong khi các hạt khô nôi lâu hơn; ví dụ, hạt dẻ chìm ngay lập tức, nhưng khi khô, chúng nổi được 90 ngày và về sau nảy mầm; cây măng tây và những quả dâu tây chín noi được 23 ngày, khi khô chúng nổi được 85 ngày, và những hạt giống về sau này cũng nảy mầm; hạt giống chín của cây Helosciadium chìm trong vài ngày, khi khô chúng nổi được trên 90 ngày, và về sau cũng nảy mầm. Trong số tất cả 94 hạt khô được thử nghiệm, 18 hạt nổi hơn 28 ngày, vả một vài hạt trong số 18 hạt đó nổi trong một khoảng thời gian dài hơn rất nhiều. Như vậy là có 64/ 87 hạt giống nảy mầm sau khi bị nhúng chìm trong hai mươi tám ngày; và 18/ 94 cây với quả chín (nhưng không phải là tất cả các loài trong thí nghiệm được tiến hành trước đó) nối, sau khi phơi khô, hơn 28 ngày, từ những dẫn chứng này chúng ta có thể kết luận rằng hạt giống của 14/100 cây của bất kỳ vùng nào cũng có thể nổi trên mặt biển trong thời gian hai mươi tám ngày, và vẫn còn nguyên khả năng nảy mầm của mình. 
Trong Tập bản đồ vật lý của Johnston, tốc độ trung bình của dòng hải lưu ở Đại Tây Dương là ba mươi ba dặm Diem (Vài dòng chảy với tốc độ sáu mươi dặm Diem), với tốc độ trung bình này những hạt giống của 14/ 100 cây từ nước này có thể được thả nổi ngang qua 924 dặm biển tới nước khác; và khi mắc cạn, nếu được cuốn tới những địa đi ê ể m thuận tiện, chúng sẽ nảy mầm. 
Sau này, Martens đã từng thừ theo cách tương tự, nhưng theo cách tốt hơn nhiều anh ta đặt những hạt giống trong một cái hộp trong biển thực tế, để chúng có thể bị ướt và phơi bày trong không khí như thật đáng thả trên biển thật vậy. Anh ta thử 98 hạt giống, phần lớn khác với của tôi; nhưng anh ta chọn nhiều quả lớn và các hạt tương tự từ những cây sống gần biển; và điều này đã tạo thuận lợi cho việc nổi và chống lại các tác động tiêu cực của nước biển. Mặt khác trước đó anh ta không làm khô cây hoặc những nhánh có quả; và điều này, như chúng ta đã thấy nhìn thấy, sẽ giúp chúng nổi được lâu hơn. Kết quả là 18/98 của những hạt giống của anh ấy nổi được 42 ngày, và sau đó vẫn nảy mầm được. Nhưng tôi cho rằng những cây đó được nổi trên sóng trong khoảng thời gian ít hơn so với sự thí nghiệm của chúng tôi. Do đó sẽ an toàn hơn để giả thiết rằng khoảng 10/ 100 cây của một hệ thực vật, sau khi đã khô, có thể được thả nổi ngang qua 900 dặm biển rộng, và rồi vẫn nảy mầm. Điều thủ vị là các hạt lớn thường nổi lâu hơn các hạt nhỏ, vì những cây có hạt hay quả lớn khó có thể phân tán bằng các phương tiện khác. Nhưng hạt giống đôi lúc có thể phân tán bằng cách khác. Gỗ làm nhà có mặt trên đa số các hòn đảo, thậm chí cả trên những hòn đảo ngoài những đại dương rộng lớn nhất;và các cư dân trên các hòn đảo san hô ở Thái Bình Dương, sừ dụng các công cụ bằng đá, đơấn độc từ những gốc của những cái cây trôi dạt đến, và đá trở thành một loại công cụ đặc biệt. Tôi tìm thấy trong quá trình thử nghiệm, khi đá thường được đắp quanh gốc cây, sẽ làm lấp hết các khe hở khiến các hạt không thể được rửa sạch trong quá trình vận chuyển mất nhiều thời gian: một phần đất nhỏ được bao quanh bởi một cây sồi trên 50 tuổi,có ba cây hai lá mầm nảy ra: Tôi rất chắc chắn về sự chính xác trong quan sát này. Một lần nữa, tôi có thể cho thấy những xác chim nổi trên về biển thi thoảng mới tránh được sự phân huỷ của nước biển và hạt của nhiều loại hoa, ví dụ, những hạt đậu Hà Lan chỉ sau vài ngày nhúng nước biển đã chết nhưng một vài hạt thức ăn của chim bồ câu, có thể nổi trên nước biển nhân tạo tới 30 ngày, sau đó, rất ngạc nhiên là vẫn có thể nảy mầm. Những chú chim hiếm khi thất bại trong việc thực hiện nhiệm vụ là cơ quan vận chuyển các hạt giống. Tôi có thể đưa ra nhiều dẫn chứng cho thấy nhiều loài thường xuyên có thể vượt đại dương ra sao. Tôi nghĩ chúng ta có thể đặt ra giả thiết rằng trong điều kiện tốc độ bay trung bình của một con chim thường là 35 dặm một giờ; những hạt cứng được vận chuyển không xây xát chút nào qua hệ tiêu hoá của một chú gà tây. 
Trong hai tháng, tôi nhặt được trong vườn của mình 12 loại hạt giống, có trong phân của những con chim nhỏ, và chúng có vẻ khá hoàn hảo, và một vài trong số chúng đã nảy mầm khi tôi thử trồng. Tuy nhiên có một thực tế quan trọng hơn là: Các hạt giống được vận chuyển trong bị dạ dày chim không dạ dày ép nát, cũng như không bị hỏng, vì như tôi đã thử nghiệm, hạt vẫn nảy mầm; sau khi một chú chim phát hiện và tiêu thụ hết một lượng thức ăn lớn, có thể khẳng định rằng tất cả các hạt không được chuyển vào diều chim trong 12 hoặc thậm chí 18 giờ. Một con chim có thể dễ dàng bị cuốn đi tới 500 dặm, riêng diều hâu luôn tìm kiếm nhữnng con mồi mệt mỏi thì số lượng hạt giống được phân tán còn nhiều hơn nhiều. Ông Brent đã cho tôi biết một người bạn của anh ta đã không thả bồ câu bay từ Pháp đến Anh nữa, vì chúng thường bị giết bởi chim diều hâu. Vài loài diều hâu và những con cú thường ăn hết con mồi cúa mình, và sau một khoảng từ mười hai đến hai mươi giờ, thải ra những chất, theo tôi biết từ những sự thí nghiệm về động vật học, có chứa các hạt có khả năng nảy mầm. Vài hạt giống của yến mạch, lúa mỉ. cây kê, bạch yến, cây gai, cỏ ba lá, và cây củ cải đường có thể nảy mầm sau mười hai đến hai mươi mốt giờ trong dạ dày của những con chim mồi khác nhau; và hai trong số các hạt củ cải đường đã phát triển chỉ sau hai ngày và mười bốn giờ 
Tôi nhận thấy, nhung loài cá nước ngọt, thường ăn hạt giống của nhiều cây trên cạn và dưới nước: cá lại thường xuyên bị chim ăn thịt, và như vậy hạt giống có thể được chuyên chở từ chỗ này đến chỗ khác. Tôi đã nhồi nhiều loại hạt giống vào trong dạ dày của những con cá chết, và sau đó cho các loài như đại bàng, cò, và bồ nông ăn; những con chim này sau nhiều giờ, hoặc thải các hạt giống này ra từ miệng hoặc chuyên chúng vào trong phân của mình; và một vài trong số các hạt này vẫn còn khả năng nảy mầm. Tuy nhiên, một số hạt nhất định bị phân hủy trong quá trình này. Mặc dầu mỏ và chân chim nói chung là khá sạch, nhưng tôi có thể thấy rằng đất đôi khi có dính vào chúng, có lần tôi đã loại bỏ hai mươi hai gam đất sét khô bàn chân của một chú gà gô, và trong đất này có cả hạt giống của một số cây. Như vậy hạt giống có thể thỉnh thoảng được chuyên chở qua những khoảng cách lớn; nhiều dẫn chứng có thể cho thấy rằng trong đất luôn có nhiều hạt giống. 
Do trong các tảng băng đều có nhiều đất và đá, thậm chí có cả bụi cây, xương, và tổ của các loài chim đất, tôi tin rằng chúng đôi lúc đã chuyên chở những hạt giống từ vùng này sang vùng khác của vùng Nam cực và Bắc cực, như giả thuyết của Lyell; và trong kỷ Băng hà từ những vùng ôn hòa bây giờ này sang các vùng khác. Trong kỷ Azores, do số lượng lớn của các cây phổ biến ở châu âu, khi so sánh với cây của các hòn đảo khác gần đất liền hơn, như ngài H. Watson đã nhận xét, từ đặc tính miền bắc của hệ thực vật khi so sánh với vĩ độ, tôi cho rằng những hòn đảo này phần nào được cung cấp hạt giống trong những tảng băng trôi của kỷ băng hà. Theo yêu cầu của tôi, ngài Lyell đã viết cho ngài M. Hartung hỏi về việc liệu có phải ông ta đã quan sát những hòn đá cuội bất thường trên những hòn đảo này, và ông ta trả lời rằng ông đã tìm thấy những mẫu đá hoa cương lớn và những mẫu đá khác chưa bao giờ xuất hiện trên các quần đảo. Từ đây chúng ta có thể suy ra rằng những tảng băng trôi trước đây đã dừng lại bên bờ những hòn đảo này, và có thể đã mang đến đây hạt giống của các cây miền bắc. Khi xem xét những phương tiện chuyên chở trên, và vài phương tiện khác, chắc chắn sẽ được khám phá tiếp, có thể hoạt động sau nhiều năm, nhiều thế kỷ và hàng nghìn năm, tôi nghĩ đó sẽ là một dẫn chứng tuyệt diệu nếu nhiều loài thực vật được phân bố rộng rãi. Những phương tiện chuyên chở này đôi khi được gọi là ngẫu nhiên, nhưng cách gọi đó không chính xác: các dòng hải lưu không phải là ngẫu nhiên, cũng như hướng gió của một vài cơn bão hay xảy ra. 
Rõ ràng là không phải tất cả các phương tiện chuyên chở mang những hạt giống qua nhũng khoảng cách rất lớn; do những hạt giống không đủ khả năng tồn tại lâu dài khi phải chịu những tác động của nước biển trong một thời gian dài, chủng cũng không thể tồn tại quá lâu trong cơ thể các loài chim. Tuy nhiên, những phương tiện này đủ sức thỉnh thoảng chuyên chở qua nhũng khoảng rộng hàng trăm dặm của biển, từ đảo này đến đảo kia, từ đất liền ra đảo chứ không phải từ lục địa này sang lục địa khác. Nhũng hệ thực vật của những lục địa cách xa không thể được trộn lẫn nhờ các phương tiện này vẫn mang những đặc điểm khác biệt như chúng ta vẫn thấy hiện nay.
Những dòng hải lưu, theo hướng của chúng sẽ không bao giờ mang những hạt giống từ Bắc Mỹ đến Anh, tuy nhiên chúng có thể mang những hạt giống từ tây Ấn Độ Dương đến bờ biển phía tây của Mỹ, ở đó, nếu không bị phân hủy sau một thời gian dài trôi nổi trên mặt biển thì cũng chết vì điều kiện khí hậu của Mỹ. Gần như mỗi năm, đều có một hoặc hai lần chim bị cuốn đi qua cả Đại Tây Dương, từ Bắc Mỹ đến bờ tây của Ailen và Anh; nhưng các hạt giống chỉ có thể được vận chở những chú chim này theo một cách duy nhất, đó là, trong đất dính vào chân của chúng- điều này không hề là ngẫu nhiên. Thậm chí ngay cả trong trường hợp này, cơ hội để hạt giống rơi vào những vùng đất thuận lợi và phát triển cũng là rất nhỏ. Nhưng đó sẽ là một sai lầm lớn khi cho rằng do các hòn đảo phát triển đầy đủ, ví dụ như Anh, từ lâu đã không tiếp nhận một sinh vật di cư nào được đưa đến từ châu âu và các lục địa khác nên các hòn đảo xa hơn cũng sẽ có hiện tượng như vậy. Tôi tin rằng trong số hai mươi hạt được mang tới các đảo xa xôi bởi các động vật, hiếm khi có nhiều hơn một hạt có thể thích nghi được với nơi ở mới như bình thường. Nhưng đối với tôi điều này có vẻ không hợp lý cho lắm khi phản bác lại ý kiến là các phương tiện phân tán ngẫu nhiên xuất hiện trong một thời gian dài mất đi trong các bằng chứng địa lý, trong khi các đảo dâng lên và thành hình, và trước khi nó có đầy đủ các cư dân của mình trên mặt đất trần trụi, với rất ít hoặc hầu như không có sâu bọ có hại hoặc các loài chim sinh sống, gần như mồi hạt giống, tình cờ di cư đến chắc chắn đều này mầm và sống sót. 
SỰ PHÂN TÁN TRONG KỶ BĂNG HÀ 
Các đặc điểm nhận dạng của nhiều động thực vật, trên các đỉnh núi cao, được phân ra bởi những vùng đất thấp dài hàng trăm dặm, nơi những loài trên dãy An pơ không có khả năng tồn tại, là một trong những trường hợp nổi bật nhất từng được biết về cùng một loài sống ở những nơi cách xa nhau, mặc dù khả năng chúng di cư từ nơi này đến nơi khác đã bị loại trừ. Có thể thấy ví dụ là những cây hoa tuyết mọc trên dãy Anpơ có mặt ở cả châu âu và châu Mỹ. Những dẫn chứng đó đã đưa Gmelin đến kết luận rằng những cùng loài được tạo ra độc lập tại các địa điểm khác nhau nhưng được đưa đến các vùng khác nhau qua các phương tiện phân tán. 
Khắp một vùng rộng lớn của nước Mỹ, có những tảng đá bất thường, những tảng đá ghi lại sự trôi dạt đến của những tảng băng trôi, cho thấy thời kỳ vô cùng lạnh giá trước đây. Những ảnh hưởng trước đây của khí hậu băng giá đối với sự phân bố của các cư dân châu âu, như đã được giải thích rất rõ ràng bởi Edward Forbes. Nhưng chúng ta sẽ đi theo quan điểm về các biến dị với việc giả thiết sẽ đến một kỷ Băng hà mới, sau đó sẽ tan biến như trước đây. Những cư dân của những vùng ôn hòa hơn cùng lúc đi về hướng nam, nhưng chúng bị ngăn lại bởi những rào cản và bị tiêu diệt. Những ngọn núi bị bao phủ bởi băng tuyết, những cư dân trước đây trên dãy An pơ chuyển xuống tới những miền đồng bằng. Trước khi thời tiết lạnh đạt đến mức cao nhất, chúng ta sẽ có một hệ động vật và hệ thực vật Bắc cực tương đồng, có mặt ở khắp châu âu, kê cả những vùng phía nam của dãy An pơ, thậm chí vào cả trong Tây Ban Nha. Những vùng ôn hòa bây giờ của Mỹ cũng vậy, có đầy những động thực vật Bắc cực, và ở châu âu cũng có hiện tượng tương tự; đối với cư dân tồn tại quanh các cực, mà chúng ta ta giả thiết là có xu hướng đi xuống hướng nam, cũng sống trong môi trường tương tự như vậy. Chúng ta có thể nghĩ ràng kỷ Băng hà đến Bắc Mỹ không cùng lúc đến châu âu, do đó hiện tượng di cư đến miền nam cũng sẽ diễn ra không đồng đều; nhưng kết quả cuối cùng vẫn không mấy khác biệt. 
Khi trái đất nóng trở lại, những dạng địa chất Bắc cực rút lui về phía bắc, kéo theo sự di chuyển về phía bắc của các sinh vật ôn đới. Trong khi tuyết tan từ những ngọn núi, nhũng dạng địa chất Bắc cực tiếp tục bị rửa trôi và tan ra nhanh hơn khi sức nóng tăng, trong khi những bạn đồng hành của chúng tiếp tục bắc tiến. Từ đây, khi sức nóng đã hoàn toàn trở lại, những loài Bắc cực đó, vốn vừa sống trên vùng đất thấp của Tân thế giới và Cựu lục địa, được để lại lẻ loi trên những đỉnh núi cao ở những vùng cực của cả hai bán cầu. 
Như vậy chúng ta có thể hiểu đặc diểm nhận dạng của các thực vật trên những ngọn núi ở Mỹ và Châu âu là rât lớn. Và chúng ta cũng có thể cho ràng những cây trên dãy An pơ có liên quan đến các sinh vật đang sống ở Bắc cực và ở cả những vùng phía bắc, trong khi thời tiết vẫn tiếp tục lạnh, sự di cư và tái di cư thường là từ phía bắc xuống phía nam và ngược lại. Vi dụ, thực vật trên dãy An pơ Xcotlan theo như nhận xét của ngài H. c. Watson, và của Pyrenees có quan hệ đặc biệt hơn với thực vật ở phía bắc bán đảo Scandinavia, của Mỹ với Labrador; thực vật trên các ngọn núi của Siberia tới những điểm cực bắc của nước đó. Quan điểm này cho thấy do những biến đổi đã được thừa nhận của kỷ Băng hà, tôi có thể hài lòng kết luận rằng sự phân bố các sinh vật đã tồn tại của Bắc cực và dãy An pơ ở châu âu và Mỹ, rằng ở những vùng khác chúng ta cũng tìm thấy cùng những loài đó trên những đinh núi cao, chúng ta có thể, chứng minh khí hậu lạnh hơn sẽ khiến các sinh vật phải di cư đến những nơi ấm hơn. 
Nếu khí hậu, từ kỷ Băng hà đến nay luôn ấm hơn so với trước đó (như nhận xét của một vài nhà địa chất Mỹ từ sự phân bố các hóa thạch Gnathodon), những sinh vật ôn hòa và Bắc cực sau đó đã di cư trở lại về phía bắc, và đã tới những vùng đất cư trú hiện tại của chúng; nhưng tôi chưa tìm thấy bất cứ bằng chứng đáng tin cậy nào về điều này. 
Những dạng địa chất Bắc cực, trong thời gian di cư xuống miền nam và có xu hướng quay trở lại định cư lâu dài ở phía bắc, cũng sẽ sống dưới cùng các điều kiện khí hậu đó, và, chúng sẽ tiếp tục sống cùng trên một cơ thể; do đó các quan hệ của chúng với nhau không hề bị phá vỡ, và theo những nguyên tắc đã nêu ra trong chương này, chúng sẽ không biến dị nhiều. Nhưng với những sinh vật ở dãy An pơ của chúng ta, sau khi bị cô lập một khoảng thời gian trái đất nóng trở lại, trên những vùng đất thấp và trên các ngọn núi cao sẽ dần bị biến đổi khác trước và sống sót, và chúng sẽ bị nhầm lẫn với các sinh vật nguyên thủy của dãy An pơ cổ xưa, những loài đã tồn tại trên ngọn núi này trước khi kỷ nguyên Băng giá bắt đầu, và trong thời kỳ lạnh nhất chúng sẽ tạm thời tự điều chỉnh bằng cách di chuyển xuống đồng bằng; chúng sẽ bị tác động bởi những điều kiện khí hậu khác. Mối quan hệ của chúng do đó phần nào cũng sẽ bị ảnh hưởng và phải biến đổi; và chúng ta tìm thấy những trường hợp mà động thực vật của dãy An pơ giống hệt một số loài ở châu âu. Để minh họa điều này, tôi tin rằng, trong kỷ Băng hà, có thể giả thiết ràng các sinh vật hiện đang tồn tại đã bắt đầu đồng loạt xuất hiện. Nhưng những nhận xét đã nêu trên về sự phân bố của các dạng sinh vật Bắc cực và cả các sinh vật ở cùng ôn đới và nhiệt đới, và những nhận xét về các sinh vật ở những ngọn núi thấp hơn và ở miền đồng bằng Bắc Mỹ và châu âu; đã cho thấy được sự giống nhau giữa các dạng sinh vật trên thể giới. Hiện tại, những sinh vật ôn đới và hàn đới bậc thấp của Tân thế giới và Cựu lục địa được phân cách nhau bởi Đại Tây Dương và cực bắc của Thái Bình Dương. Trong kỷ Băng hà, khi những cư dân của Tân thế giới và Cựu lục địa di cư nhiều xuống phía nam, chắc chắn chúng vẫn bị phân cách bởi không gian lớn của đại dương. Tôi tin rằng khó khăn trên có thể được khắc phục bằng cách phát hiện ra sớm những thay đổi của khí hậu. Chúng ta có lý do để tin rằng rằng trong kỷ Pliocene mới, trước kỷ Băng hà, khi phần lớn những cư dân của thế giới sống trong điều kiện khí hậu ấm hơn hiện nay. Từ đây chúng ta có thể nghĩ rằng những sinh vật hiện sống trong khí hậu của vĩ độ 60 °, trong kỷ Pliocene chắc chắn đã di chuyển đến vĩ độ 66 °- 67 °; và những sinh vật Bắc cực chính gổc đó sổng trên các vùng đất tan ra từ cực. Bây giờ nếu chúng ta nhìn vào quả địa cầu, chúng ta sẽ thấy rằng dưới Vòng tròn Cực các lục địa gần như là liên tục từ Tây u, xuyên qua Siberia, đến Đông Mỹ. Và tính liên tục này của các lục địa, và đã khiến các vùng khí hậu có sự giao lưu thuận tiện hơn. Việc tin rằng, từ những lý do được nhắc đến trước đây, các lục địa của chúng ta, tuy nhiên có dài (lâu) còn lại gần như cùng vị trí tương đối khi những sinh vật di cư mới đến, một phần do những biếấn động về mực nước và đất, tôi nghiêng về quan điểm ở trên, có thể thấy rằng thời kỳ trái đất ấm lên và ổn định hơn, như thời kỳ kỷ Pliocene, một số lớấn động thực vật đó sống ở xung các khu vực đất liền gần như liên tục trong cả vùng Tân thế giới và Cựu lục địa, bắt đầu dần di cư về hướng nam nơi có khí hậu ấm hơn, rất lâu trước khi bắt đầu kỷ Băng hà. Chúng ta cỏ thể thấy, những con cháu của chúng, phần lớn sổng trong các điều kiện đã biến đổi, ở Trung Âu và Mỹ. Trên quan điểm này chúng ta có thể hiểu mối quan hệ, với rất ít sự nhận biết, giữa những sinh vật của Bắc Mỹ và châu âu, mối quan hệ rất đáng chú ý, về khoảng cách của hai vùng, và sự phân cách bởi Đại Tây Dương của chúng. Chúng ta có thể hiểu những dẫn chứng và nhận xét của một số nhà quan sát, rằng những sinh vật đó của châu âu và Mỹ trong thời gian về sau thuộc kỷ thứ ba có quan hệ chặt chẽ với nhau hơn chúng so với hiện tại; trong thời kỳ trái đất ấm trở lại và phân ra thành Tân thế giới và Cựu lục địa, các vùng lục địa gần như là liên tục. 
Trong thời kỳ sức nóng giảm dần xuống của kỷ Pliocene, một số loài phổ biến ở Tân thế giới và Cựu lục địa, di trú xuống phía nam của Vòng tròn Cực, quan hệ giữa chủng chắc chắn đã bị cắt đứt hoàn toàn. Và khi những động thực vật di trú về hướng nam, chúng sẽ dần bị pha trộn với các cư dân của Mỹ, đã phải cạnh tranh với chúng và với cả những loài của cựu lục địa.
Do các điều kiện biến dị đều rất thuận lợi, nên đã xảy ra nhiều biển dị. Khi so sánh những sinh vật hiện tại của những vùng ôn đới ở Tân thế giới và Cựu lục địa, chúng ta sẽ tìm thấy rất ít những loài đồng nhất, nhưng chúng ta tìm thấy nhiều dạng phân loại, vài nhà tự nhiên học dựa vào những bằng chứng địa lý, và những người khác thì lại phân biệt dựa trên cơ thể của những sinh vật có quan hệ gần gũi với nhau hoặc những dạng sinh vật tiêu biểu có những đặc điểm nhận dạng rõ ràng. 

Giống như trên đất liền, trong biển cũng có hiện tượng di cư chậm chạp xuống miền nam của một hệ động vật biển, trong kỷ Pliocene hoặc thậm chí sớm hơn, xuống các bờ biển, theo lý thuyết về sự biến dị, nên nhiều dạng có quan hệ gần gũi hiện nay đã từng sống trong những vùng hoàn toàn tách biệt. Như vậy, tôi nghĩ, chúng ta có thể hiểu được sự có mặt của nhiều dạng tiêu biểu thuộc kỷ thứ ba và tồn tại trên trên các bờ biển phía Tây và phía Đông của Bắc Mỹ ôn hòa; trường hợp tiêu biểu là các loài sò biển (như được mô tả trong công trình đáng nể của Dana), của các loài cá và những động vật biển khác, trong Địa Trung Hải và những vùng biển của Nhật Bản, những vùng bây giờ đã được phân cách ra bởi một lục địa. Những trường hợp về các mối quan hệ này của những cư dân của đại dưcmg bây giờ đã tách ra, và của những cư dân quá khứ và hiện tại của những vùng đất ôn hòa Bắc Mỹ và châu âu, là không thể giải thích được dựa trên lý thuyết của sự tạo thành. Chúng ta không thể nói rằng chúng đã được tạo ra giống nhau, trong các điều kiện vật lý tưcmg tự như nhau; ví dụ, những nước Nam Mỹ với những nước miền Nam châu âu, chúng ta có thể thấy rằng tuy các điều kiện sống ở đây tưcmg đối giống nhau nhung các cư dân của chúng thì hoàn toàn khác nhau. 
Nhưng khi quay lại bàn về kỷ Băng hà, tôi hoàn toàn bị thuyết phục bởi quan điểm của Forbes về sự phát triển.
Ở châu âu chúng ta có những bằng chứng rõ ràng nhất về thời kỳ băng hà, từ những bờ biển nước Anh đến vùng Oural, và từ phía nam đến Pyrenees. Chúng ta có thể suy ra rằng, từ những động vật có vú bị đóng băng và các cây cỏ núi trong tự nhiên của Siberia chịu những ảnh hưởng tưcmg tự nhau. Dọc theo Himalaya, ở những khu vực rộng tới 900 dặm, những dòng sông băng đã để lại dấu ấn về sự xuất hiện của mình; và trong Sikkim, có thể thấy cây ngô bám chắc vào những tảng băng khổng lồ có từ xa xưa. Phía Nam đường xích đạo, chúng ta có những bằng chứng chính xác những biến đổi về khí hậu lạnh giá ở Niu Dilân; và đối với các thực vật cũng vậy, do được phân bố rộng rãi trên những ngọn núi trong hòn đảo này cũng có hiện tượng tương tự. Nếu có một tài liệu đáng tin cậy công bố về hiện tượng này, thì chúng ta sẽ có bằng chứng xác thực về những vậấn động của băng tuyết ở vùng đông nam châu úc. 
Ở Bắc Mỹ sau khi quan sát những tảng băng ở phía đông và phía nam, ở vĩ độ 36 °- 37 °, và ở những bờ biển Thái Bình Dương vốn có khí hậu rất khác nhau, và ở xa phía nam ở vĩ độ 46 °có những núi đã không bình thường. Ở Cordillera vùng Nam Mỹ Xích đạo, những sông từng rộng hơn nhiều so với hiện tại. Ở Chile, tôi rất ngạc nhiên về ở cấu trúc những khu đất rộng lớn, khoảng 800 feet. về độ cao, dọc theo thung lũng Andes tôi bây giờ cảm thấy bị thuyết phục trước tảng băng khổng lồ, dấu vết còn lại của cả một dòng sông băng. Tiến lên phía nam về cả hai phía của châu âu, từ vĩ độ 41 ° tới cực nam, chúng ta có những bằng chứng rõ ràng nhất về sự vậấn động của những tảng băng được đưa đến đây từ những vùng đất xa xôi. Chúng ta không biết rằng chính xác kỷ Băng hà giai đoạn nào nếu chỉ thông qua các bản ghi địa lý. Nhưng chúng ta có đầy đủ các bằng chứng cho thấy kỷ nguyên đó nằm trong thời kỳ địa lý gần đây nhất. Chúng ta cũng có những bằng chứng tuyệt vời cho thấy thời kỳ này kéo dài trong một thời gian khổng lồ. Không có bằng chứng rõ ràng nào mang nghĩa ngược lại, chúng ta ít nhất có thể chấp nhận băng giá đồng thời diễn ra ở phía tây và phía đông Bắc Mỳ, ở Cordillera dưới đường xích đạo và dưới ở các khu vực ấm áp hơn, và ở cả vùng cực nam châu Ẩu. Nếu điều này được thừa nhận, thì thật khó tránh khỏi việc tin rằng nhiệt độ của toàn bộ thế giới ở thời kỳ này phần nào đã dịu mát hơn. Nhưng theo tôi sự dịu mát này là do xuống các kinh độ thấp hơn
Trên quan điểm này về thế giới, hoặc ít nhất là về một số lục địa, khí hậu dần lạnh lên sẽ dẫn đến sự phân bổ lại sinh vật từ cực này đến cực kia của trái đất. Ở Mỹ, có thể thấy rằng trong số bốn mươi và năm mươi những cây có hoa của vùng Tieưa del Fuego, không có một bộ phận hệ thực vật khác biệt hoàn toàn so với châu âu. Trên những đỉnh núi cao của Mỹ có những loài đặc biệt thuộc về chủng châu âu đã xuất hiện. Trên những núi cao nhất của Brazil, ít chủng châu âu được tìm thấy gần Gardner, chúng không tồn tại ở những vùng nóng hơn. Cũng như vậy trên đỉnh Silla của dãy Caraccas Humboldt lừng danh đã từ lâu tìm thấy những loài măng những đặc trưng của chủng Cordillera. Trên những dãy núi của dãy Abyssinia, vài dạng sinh vật châu âu và một số đại diện nào đó của hệ thực’ vật đặc biệt của mũi Cape xuất hiện. Ở mũi Hy vọng, có một vài dạng sinh vật châu âu, vốn chưa được con người biết đến, và trên những ngọn núi, ít dạng sinh vật châu âu tiêu biểu nào được tìm thấy, và cả những loài chưa được khám phá ở hai vùng nhiệt đới biệt lập của châu Phi. Trên đỉnh Himalaya, và trên những ngọn núi cô lập của bán đảo Ấn Độ, trên những dãy núi cao ở Ceylon, và trên những dãy núi lửa của Java, nhiều thực vật của châu Ảu cũng xuất hiện, nhưng chưa được phát hiện ra ở những vùng đất thấp. Một danh sách của chủng tập họp trên những đỉnh cao ngất của Java càng làm nổi bật bức tranh về tập họp các loài trên các ngọn đồi châu âu. Còn có dẫn chứng cho thấy những cây bám chắc vào những đỉnh cao của những núi của Borneo là những đại diện tiêu biếu của châu úc, có mặt trên khắp bán đảo của Malacca, rồi xuất hiện thưa thớt rải rác ở Ấn Độ và Nhật Bản. 
Trên những ngọn núi miền nam châu úc, giáo sư F. Myller đã khám phá vài loài đại diện cho châu âu; những loài khác chưa được con người biết đến, xuất hiện trên những vùng đất thấp; và có một danh sách dài của các chủng châu âu ở châu úc. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng trên thế giới, những cây bám chắc vào những núi cao ngất hơn, và ở những vùng đất thấp ôn đới của những bán cầu nam và bắc, tuy chúng có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có quan hệ mật thiết với nhau. 
Có thể gọi ngắn gọn các sự việc trên bằng một khái niệm chung, đó là sự phân bố địa lý. Tôi xin trích dẫn một nhận xét của một người đáng kính, giáo sư. Dana, rằng chắc chắn rất kỳ diệu khi các sinh vật ở Niu Dilân gần giống với các sinh vật ở Anh và các lục địa khác. Ngài J. Richardson cũng nói về sự tái xuất hiện trở lại của một số loài cá phía Bắc ở Niu Zealand, Tasmania... Tôi cũng được biết rằng có hai mươi nhăm loài của dãy Algae di cư tới Niu Zealand và châu âu nhung không tạo ra các sinh vật biển nhiệt đới trung gian.
Nếu quan sát có thể thấy rằng có những dạng sinh vật cực bắc ở bán cầu nam, trên những dãy núi ở giữa hai vùng nhiệt đới, thì đó không phải là các loài đến từ Bắc cực mà là đến từ các vùng ôn đới. Như ông H. c. Watson mới đây đã nhận xét: "Khi lùi dần về phía xích đạo từ hai cực, những hệ thực vật trên dãy An pơ hoặc các dãy núi khác trở nên ít hơn và ít mang đặc tính Bắc cực hơn". Nhiều dạng sinh vật sống ở vùng núi các vùng nhiệt đới của trái đất và ở bán cầu miền nam, được xếp hạng theo sự phân biệt rõ ràng các đặc tính do vài nhà tự nhiên học tiến hành, trong đó có cả các biến dị và một số loài có quan hệ mật thiết với nhau cũng được xếp thành các loài riêng rẽ. 
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét kỹ những dẫn chứng đã được đề cập ở trên, rằng theo các bằng chứng địa lý toàn bộ thế giới, hoặc một bộ phận của nó, trong kỷ Băng hà đồng thời lạnh nhiều hơn so với hiện nay. Kỷ Băng hà chắc chan đã kéo dài rất lâu; và khi chúng ta biết được sự rộng lớn của giai đoạn này, chúng ta sẽ biết được mức độ phân tán và di cư của các động thực vật giai đoạn này lớn đến mức nào. Khi khí hậu dần trở nên lạnh hơn, tất cả những cây nhiệt đới và những sinh vật khác sẽ rút lui về phía đường xích đạo, mang theo các sinh vật ôn đới. Những cây nhiệt đới có lẽ đã tuyệt chủng khá nhiều; không ai có thể nói nhiều ra sao;có lẽ trước đây ở mũi Hy vọng, và một phần của châu úc ôn đới đã có rất nhiều loài sinh vật sinh sống. Do chúng ta đều biết nhiều động thực vật nhiệt đới có thể chống cự khá tốt với khí hậu lạnh, nhiều loài có thể đã tránh khỏi sự diệt vong trong khí hậu ôn đới, đặc biệt hơn là việc tránh bị rơi vào trong những nơi ấm nhất. Nhưng điều cần nhớ là tất cả các sinh vật nhiệt đới sẽ chỉ chịu đựng tới một phạm vi nhất định. Mặc khác, những sinh vật ôn đới, sau khi di cư đến gần đường xích đạo, chúng sẽ sống trong các điều kiện mới, và ít đau đớn hơn. Và nhất định là nhiều hạt giống ôn đới, nếu được bảo vệ khỏi những sự tấn công của các đối thủ khác, có thể chống cự tốt với khí hậu ấm. Tôi cho rằng điều này là có thể xảy ra, khi nghĩ đến những sinh vật nhiệt đới đã bị tổn thương do các thay đổi và không thể chống cự lại các đối thủ cạnh tranh ôn đới mạnh mẽ và trội hơn, những loài có thể có thâm nhập vào rất nhiều quốc gia, thậm chí cả vượt qua đường xích đạo. Những loài mới đến, được hưởng các điều kiện như đất cao, khí hậu khô; và tôi được biết độ ẩm ở các vùng chí tuyến sẽ phá hủy những cây cổ thụ đến từ vùng khí hậu ôn hòa. Mặt khác, những khu ẩm ướt nhất và nóng nhất đã cung cấp một chỗ trú ẩn tuyệt vời cho các cư dân nhiệt đới bản xứ.
Các vùng phía bắc trong phạm vi phía tây Himalaya, và dãy Cordillera, có vẻ đã cung cấp nơi ở cho các loài mới đến này: và một dẫn chứng nổi bật là tất cả các thứ cây có hoa, khoảng bốn mươi sáu cây, phổ biến ở Tierra del Fuego và châu âu vẫn còn tồn tại ở Bắc Mỹ. Tôi tin rằng rằng khí hậu biển dưới đường xích đạo cũng giống như trên đỉnh núi cao khoảng sáu hoặc bảy nghìn feet. Trong thời kỳ lạnh nhất này, những vùng đất thấp nhiệt đới rộng lớn được bao phủ bởi cả cây cỏ ôn đới và nhiệt đới, càng làm tăng thêm sự sum suê kỳ lạ của dãy Himalaya. 
Do đó, tôi tin rằng, một số cây, động vật trên đất, các sinh vật đã di trú trong thời gian kỷ Băng hà từ vùng ôn đới ranh giới giữa cực nam và cực bắc của vùng nhiệt đới, và vài loài thậm chí còn vượt qua cả đường xích đạo. Khi trái đất ấm trở lại, những dạng ôn đới này tự nhiên di cư đến những vùng núi cao hơn, do chúng bị tiêu diệt ở những vùng đất thấp; những loài đã không di cư được đến đường xích đạo, lại quay trở về phía bắc hoặc về hướng nam, quê hương cũ của chúng; nhưng những loài, chủ yếu là từ phía bắc, vượt qua đường xích đạo, vẫn tiếp tục di cư đến những vĩ độ ôn hòa hơn của bán cầu đối diện. Mặc dầu chúng ta có lý do để tin rằng những bằng chứng địa lý thấy toàn bộ các cá thể của vùng Bắc cực đều đã trải qua gần như mọi biến dị trong thời gian di trú đến miền nam và quay trở lại miền bắc, trường hợp này khác với những loài di cư ở vùng núi ở giữa hai vùng nhiệt đới, và ở bán cầu miền nam. Và các kẻ lạ mặt phải đấu tranh với nhiều dạng sống mới; chúng tự lựa chọn những sự biến dị trong cấu trúc của mình, những thói quen, và những đặc tính có lợi cho chủng. Do đó, tuy những loài di cư này vẫn có những điểm giống với các loài này ở Bắc cực hoặc ở bán cầu nam, nhưng khi tồn tại trong những vùng đất mới của mình, các biến dị trở nên rõ nét hơn và trở thành đặc điểm phân biệt 
Và như vậy, khi những dạng này được trộn lẫn với nhau trong kỷ Băng hà, những dạng sinh vật miền bắc sê tiêu diệt những dạng miền nam yếu hơn. Cũng theo cách đó chúng ta thấy rằng hiện nay, có nhiều sinh vật châu âu sổng ở La Plata, và với một số lượng ít hơn ở châu úc, trong một phạm vi nhất định đã tiêu diệt hết các sinh vật bản xứ natives; trong khi đó rất ít dạng sinh vật miền nam, đã trở thành các cư dân của châu âu, sau khi di chuyển đến đây trong hai hoặc ba thế kỷ trước từ La Plata, và trong ba mươi hoặc bốn mươi năm trước từ châu úc. Những loài này cũng đã xuất hiện trên những vùng núi giữa hai vùng nhiệt đới. Không nghi ngờ gì rằng trước kỷ Băng hà với những dạng sinh vật trên dãy An pơ; đã phát triển trội hơn và phát triển sang các vùng rộng lớn hơn và định cư ở phía bắc. Ở nhiều hòn đảo, số lượng các sinh vật địa phương gần như được cân bằng hoặc thậm chí đông hơn so với các sinh vật mới di cư đến; và nếu các sinh vật bản xứ không thật sự bị tiêu diệt, số lượng của chúng cũng giảm bớt đáng kể, và đây là giai đoạn đầu tiên của sự tuyệt chủng. Một ngọn núi là một hòn đảo trên mặt đất; và những ngọn núi ở giữa hai vùng nhiệt đới trước kỷ Băng hà chắc chắn là hoàn toàn tách biệt; tôi tin rằng các sinh vật của các hòn đảo trên đất liền này đã sinh ra các loài ở những vùng rộng lớn hơn về phía bắc, theo đúng cách những sinh vật của các đảo phải nhượng bộ các sinh vật đến từ đất liền, phù hợp với sự phân bố của loài người. Sau đây tôi sẽ nói về những điều cần lưu tâm, đó là những biến cố của những loài đồng nhất ở những nơi xa xôi như Kerguelen, Niu Dilân, và Fuegia, tôi tin rằng khi kỷ Băng hà kết thúc, những núi băng trôi, như ý kiến của Lyell, phần lớn được quan tâm đến sự phân tán của chúng. Nhưng sự tồn tại của vài loài khá khác biệt so với các loài khác, thuộc về những chủng riêng ở phía nam, ở những nơi xa xôi khác ở bán cầu nam. Theo lý thuyết của tôi về sự di truyền các biến dị, có một khó khăn cần lưu tâm. Do một ít trong số những loài này rất khác biệt, chúng ta không thể giả thiết rằng chúng bắc đầu di cư và cso những biến dị cần thiết từ kỷ Băng hà. Đối với tôi, các dẫn chứng trên cho thấy sự phân biệt rõ ràng và đặc biệt giữa những loài di cư; và tôi buộc phải quan tâm đến vùng phía nam, giống như ở bán cầu bắc, trước khi kỷ Băng hà bắt đầu, trên đất liền của cực nam hạ cánh bao trùm toàn nước, có một hệ thực vật bậc cao và hoàn toàn cô lập. Tôi nghi ngờ rằng trước khi hệ thực vật này bi tiêu diệt bởi kỷ nguyên Băng giá, một số đã được phân tán rộng rãi tới nhiều vùng của bán cầu nam do các phương tiện vận chuyển ngẫu nhiên và những dạng trung gian ở những hòn đảo đã bị chìm hoặc vẫn đang, và có lẽ bởi những núi băng trôi trong kỷ Băng hà. Do những phương tiện này, tôi tin rằng, những bờ biển miền nam của Mỹ, Úc, và Niu Dilân đã có rất nhiều loài thực vật đa dạng. 
Ngài c. Lyell cũng cùng quan điểm với tôi khi nói về tác động của những thay đổi lớn về khí hậu đối với phân bố địa lý. Tôi tin rằng thế giới mới trải qua một quá trình biến đổi lớn; điều này cùng với những tiến hóa trong chọn lọc tự nhiên có thể giải thích được sự phân tán của một số loài hiện hữu và các loài có quan hệ gần gũi với nhau. Những sinh vật sống dưới nước có thể trong một thời gian ngắn trôi từ phía bắc đến phía nam, đi qua đường xích đạo. Tuy nhiên, thủy triều để lại những vật mà nó cuốn theo trên các bờ biển, do đó các sinh vật sống dưới nước được đưa lên các đỉnh núi, dần từ vùng nhiệt đới kéo dài đến đường xích đao. Nhiều loài đã trải qua những thời kỳ khó khăn và sống sót được lâu dài trên mặt đất, đóng góp vào các bản ghi địa lý rằng chúng ta quan tâm ở những vùng đất thấp xung quanh.
CHARLES DARWIN
Ngọc Linh dịch 
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh 
"The origin of species" Darwin, London 1933
Theo http://darwin-online.org.uk/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...