Thứ Tư, 8 tháng 1, 2020

Nguồn gốc của muôn loài 3

Nguồn gốc của muôn loài 3
CHƯƠNG VI 
NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ MẶT LÝ THUYẾT 
Những khó khăn về mặt lý thuyết của con cháu với sự biến đổi - Sự chuyển tiếp - Sự không xuất hiện hoặc hiếm khi xuất hiện của các biến thể đang trong giai đoạn chuyển đổi - Sự chuyển tiếp trong thói quen cuộc sống - Các thói quen đa dạng trong cùng loài - các loài với thói quen khác so với thói quen của loài họ hàng = Các bộ phận cực kỳ hoàn hảo - Phương cách của sự chuyển đổi - Các trường hợp của sự khó khăn - Natura non facit saltum - Các bộ phận không quan trọng - Các bộ phận không hoàn hảo tuyệt đối trong tất cả các trường hợp - Quy luật tính thống nhất của kiểu loại và của điều kiện tồn tại được sự lựa chọn tự nhiên ủng hộ. 
Trước khi tới được phần này của tác phẩm, chắc hẳn bạn đọc đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Một vài khó khăn quá lớn đến nỗi mà bây giờ tôi không thể suy nghĩ về chúng mà không khỏi cảm thấy ngạc nhiên; nhưng theo hiểu biết của tôi, đa phần trong số chúng, những khó khăn thật sự, theo tôi, lại không có ảnh hưởng tai hại đáng kê nào tới lý thuyết của tôi. 
Những khó khăn và phản đối có thể được chia thành các tiểu phần sau: 
Đầu tiên, tại sao, nếu các loài bẳt nguđh từ các loài khác bởi sự chuyển hóa không cảm nhận được, chúng ta lại không nhìn thấy ở mọi nơi các dạng thức đang trong giai đọan chuyển hóa? Tại sao mọi người chỉ nhầm lẫn những định nghĩa về các loài mà không phải là về toàn bộ thế giới tự nhiên? 
Thứ hai, có khả năng là một con vật, chẳng hạn, có cấu trúc mà tính cách của một con dơi, có thể đã được tạo ra bới sự biến đổi của con vật nào đó với thói quen hoàn toàn khác biệt? Liệu chúng ta có thể tin rằng sự lựa chọn của tự nhiên có thể tạo ra, một mặt, các bộ phận có tầm quan trọng không đáng kể, chẳng hạn như cái đuôi của một con hươu cao cổ mà có tác dụng đuổi những con ruồi bay xung quanh, và mặt khác, các bộ \phận có cấu trúc tuyệt vời, chẳng hạn như con mắt, mà chúng ta cho đến ngày nay vẫn chưa hiểu hết được hoàn toàn tính hoàn thiện có một không hai của nó? 
Thứ ba, liệu bản năng có thể thu được và biến đổi đi thông qua sự lựa chọn của tự nhiên? Chúng ta sẽ nói điều gì về bản năng kỳ diệu mà giúp con ong xây tổ mà cấu trúc của nó khiến những nhà toán học uyên bác sững sờ? 
Thứ tư, chúng ta giải thích như thế nào khi những loài bị lai cấy trở nên vô sinh và cho ra những đứa con không có khả năng sinh sản, trái lại những biến thể khi lai thì chức năng duy trì nòi giống của chúng không bị ảnh hưởng gì? 
Hai dạng khó khăn đầu tiên sẽ được đề cập đến ở đây - Bản năng và tính lai sẽ có trong các chương riêng biệt. 
Về sự không xuất hiện hay hiếm thấy của các biến thể đang trong giai đoạn chuyển đổi - Vì sự lựa chọn của tự nhiên chỉ có thể phát huy ảnh hưởng thông qua quá trình duy trì các biến đổi có lợi, mỗi dạng mới sinh ra trong một nước mà đã chứa đầy các cơ thể sống sẽ có xu hướng chiếm vị trí và do vậy tiêu diệt loài bố mẹ kém được cải thiện hơn hay các dạng khác không có điều kiện phát triển thuận lợi bàng trong quá trình canh tranh với dạng mới sinh này. Chính vì lý do này mà sự tuyệt chủng và sự lựa chọn của tự nhiên, như chúng ta thấy, luôn đi song hành. Nếu chúng ta nhìn vào loài mà có nguồn gốc từ dạng thức sống khác chưa được biết tới, cả cha mẹ và các biến thể đang trong quá trình chuyển đổi nói chung đều bị tiêu diệt bởi quá trình hình thành và hoàn thiện của dạng sống mới. Nhưng nếu theo lý thuyết này thì vô số các dạng sống đang trong giai đoạn chuyển đổi phải tồn tại, tại sao chúng ta lại không tìm thấy chúng với số lượng lớn như thế trên trái đất này? Chúng ta sẽ tiện lợi hơn nhiều nếu để câu hỏi này lại cho chương "về sự không hoàn hảo của ghi nhận địa chất", và ở đây tôi chỉ phát biểu là câu trả lời chủ yếu nằm trong những ghi chép mà kém chính xác và đầy đủ hơn nhiều so với mọi người vẫn thường nghĩ; tính không hoàn hảo của những ghi chép này phần lớn là do các cá thể không sống sâu dưới lòng biển, và do vết tích của chúng bị bao lẩy và bảo quản theo thời gian trong các trầm tích khổng lồ đủ dầy và rộng để chống lại sự bào mòn khủng khiếp của thời gian; và những di tích hóa thạch khổng lồ như thế chỉ có thể được tích tụ khi rất nhiều trầm tích đọng lại ở trong vùng biển nước nông, trong khi nó lắng xuống từ từ. Sự ngẫu nhiên rất hiếm khi xuất hiện, và chỉ sau những khoảng thời gian dài đàng đẵng. Trong khi lòng biển bị lấp hoặc nâng lên hoặc khi một lượng rất nhỏ trầm tích lắng xuống đáy, thì những chỗ trống trong lịch sử địa chẩt học của chúng ta sẽ xuất hiện. Vỏ trái đất là một bảo tàng khổng lồ; nhưng những bộ sưu tập tự nhiên được thu thập trong các khoảng thời gian trước đó cực kỳ nhiều. 
Nhưng ai đó có thể thúc giục là khi vài loài họ hàng gần gũi sống trên cùng một khu vực địa lý, bây giờ chắc chắn chúng ta phải tìm thấy rất nhiều dạng thức chuyển đổi. Chúng ta hãy xem xét một trường hợp đơn giản: khi đi dọc từ bắc đến nam của một lục địa, chúng tôi thường gặp trong các khoảng thời gian kế tiếp nhau các loài đại diện và họ hàng, rõ ràng sống trên gần như cùng một nơi trong thế giới tự nhiên. Những loài đại diện này thường gặp nhau và đan xen với nhau; và khi một loài ngày càng trở nên hiếm đi, thì loài khác lại ngày một xuất hiện nhiều hơn cho đến khi loài sau thay thế loài trước. Song nếu chúng ta so sánh những loài này khi chúng đan cài vào nhau, chúng nói chung là khác xa nhau trong mọi chi tiết cấu trúc như thể các loài được lấy từ nhiều nơi xa cách. Theo lý thuyết của của tôi, những loài họ hàng này đã bắt nguồn từ cùng chung bố mẹ; và trong quá trình biến đổi, mồi con đã trở nên thích nghi với điều kiện sống của chính khu vực nó đang có mặt, và thay thế rồi dẫn đến sự diệt vong của loài cha mẹ gốc và tất cả các biến thể trong giai đoạn chuyển đổi nằm giữa hai đầu quá khứ và hiện tại. Chính vì vậy chúng ta không thể trông đợi thấy được nhiều biến thể chuyển đổi trong thời gian hiện tại ở mỗi vùng, mặc dù chúng đã phải tồn tại ở đây, và có thể đã bị phủ kín trong hóa thạch điều kiện. Nhưng ở những vùng trung gian, có điều kiện sống trung gian, tại sao hiện chúng ta vẫn không tìm thấy các biến thể liên kết trung gian gàn gũi? Câu hỏi này đã khiến tôi cảm thấy bối roi trong một thời gian dài. Nhưng tôi nghĩ nó có thể được giải thích phần lớn ở đây. Ban đầu chúng ta phải hết sức thận trọng khi suy luận, bởi vì một khu vực hiện tại liên tục, đã liên tục như thế trong một giai đoạn dài. Địa chất học có thể khiến chúng ta tin hầu hết mọi lục địa đã bị đứt gãy thành các hòn đảo, thậm chí là trong suốt giai đoạn kỷ thứ ba; và trên các đảo đó, những loài có thể đã được hình thành riêng lẻ không hề có khả năng tồn tại các biến thể trung gian trên các khu vực trung gian. Với những thay đổi đất đai và khí hậu, khu vực biển hiện đang liên tục phải tồn tại trong thời gian gàn đầy trong điều kiện kém liên tục và đồng nhất hơn nhiều so với hiện tại. Nhưng tôi sẽ dùng cách này để giải quyết khó khăn trên; bởi vì tôi tin rất nhiều loài được định nghĩa rõ ràng đã được sinh ra trên các khu vực hoàn toàn liên tục, cho dù tôi không nghi ngờ tình trạng đứt gây trước đó của khu vực đóng một vài trò quan trọng trong sự hình thành loài mới, nhất là với sự lai ghép tự do và các con vật đi hoang. 
Khi nhìn vào các loài hiện giờ phân bố trên một khu vực rộng lớn, chúng ta hay tìm thấy chúng khá đông đúc trên một lãnh thổ lớn, sau đó bỗng nhiên trở nên ngày càng hiếm hoi trong điều kiện chật hẹp và rồi cuối cùng biến mất. Do dó khu vực trung lập giữa hai loài đại diện thường là hẹp nếu đem so sánh với lãnh thổ đúng của riêng mỗi loài. Chúng ta thấy tình trạng giống như thế khi leo núi, và đôi khi vô vùng bất ngờ, như ông Alph De Candolle đã quan sát được, làm thế nào một loài phổ biến ở dãy núi Anpơ biến mất. Ông Forbes cũng đưa ra trường hợp tưomg tự như thế dò chiều sâu đáy biển với một máy. Đối với những người coi điều kiện sống vật chất và khí hậu là những nhân tố quan trọng hơn cà của sự phân bố, thì họ sẽ cảm thấy hết sức ngạc nhiên trước thực tế này bởi vì khí hậu, độ cao hay độ sâu biến đổi không thể cảm nhận được. Nhưng khi chúng ta nghĩ trong đầu là tất cả các loài sẽ tăng số lượng lên vô cùng lớn, khi không phải cạnh tranh với các loài khác; rằng tất cả hoặc là đi săn mồi hoặc là ưở thành con mồi cho loài khác; nói tóm lại, do mỗi cá thể trực tiếp hay không trực tiếp có quan hệ với các cá thể sống khác theo cách quan trọng nhất, chúng ta phải nhận thấy tầm hoạt động của các cư dân ở một nước không phải chỉ phụ thuộc duy nhất vào những thay đổi điều kiện vật lý không thể cảm nhận được, mà phần lớn phụ thuộc vào sự có mặt của các loài khác, có thể tiêu diệt hoặc dựa vào chúng hay cạnh tranh với chúng; và do những loài này là các đối tượng đã được định nghĩa (tuy nhiên chúng có thể đã trở nên như vậy), không đan cài vào nhau bởi quá trình chuyển trạng thái không cảm nhận được, tầm hoạt động của bất cứ loài, chắc chắn rồi, sẽ dựa trên tầm hoạt động của những loài khác, sẽ có xu hướng được giới hạn rõ ràng. Hơn nữa, mỗi loài trong tầm hạn chế hoạt động, nơi mà nó có số lượng ít hơn, sẽ, trong suốt các biếấn động của số lượng kẻ thù và con mồi, hay trong các mùa, là rất có thể chịu sự diệt vong hoàn toàn; và do đó tầm hoạt động địa chất của nó sẽ bị hạn chế nhiều nhất. 
Nếu như tôi đúng khi tin rằng các loài đại diện và họ hàng khi sống trên một khu vực liên tục, thường được phân bố kiểu mỗi con có tầm hoạt động rộng, với khu vực trung lập khá chật chội giữa chúng, trên đó chúng bất chợt trở nên ngày càng hiếm hoi, và sau đó do các biến thể không khác biệt cơ bản nhiều so với loài, một quy tắc sẽ đúng với cả hai; và nếu chúng ta tưởng tượng làm thích nghi một loài biến đổi với điều kiện sống của khu vực rất lớn, chúng ta sẽ phải làm thích nghi hai biến thể này với hai khu vực rộng lớn và một biến thể thứ ba với khu vực trung gian bé hơn. Biến thể trung gian, sau đó, sẽ tồn tại với số lượng ít hơn do sống trên một khu vực bé hơn;và thực tế là, như tôi cỏ thể đưa ra tốt nhất là quy luật này cũng đúng với các biến thể trong tự nhiên. Tôi đã có được trường hợp ví dụ điển hình minh họa quy luật này của biến thể nằm giữa các biến thể nổi bật trong chi Balanus. Vả dựa trên thông tin mà ông Watson, tiến sĩ Asa Gray, và ông Wollaston cung cấp cho tôi rằng thông thường khi các biến thể trung gian giữa hai dạng xuất hiện, chúng có số lượng ít hơn nhiều so với dạng thức mà chúng có liên hệ. Giờ đây nếu chúng ta có thể tin vào các thực tế và suy luận này, và do đỏ kết luận rằng biến thể liên kết hai biến thể khác với nhau nói chung thường cỏ số lượng ít hơn số lượng của các dạng chúng liên kết thì chúng ta có thể hiểu tại sao các biến thể trung gian không tồn tại trong thời gian quá dài; tại sao như là quy luật chung chúng bị tuyệt chủng và biến mất sớm hơn các dạng thức mà chúng liên kết. Đối với bất cứ dạng nào tồn tại với số lượng ít hơn sẽ, như đã nhận xét, chịu nguy cơ bị tuyệt chùng lớn hơn so với dạng tồn tại với số lượng lớn; và trong trường hợp cụ thể này dạng trung gian sẽ chịu sự xâm nhập của của các dạng họ hàng gần gũi cà hai phía. Nhưng một nhận định quan trọng hơn, như tôi tin vậy, là trong quá trình biến đổi nhiều hơn nữa, mà thông qua đó hai biến thể, theo như lý thuyết của tôi, được chuyển hóa và hòan thiện thành hai loài riêng rẽ, hai loài mà có số lượng lớn hơn do sống trên khu vực rộng hơn, sẽ có lợi thế lớn hơn nhiều so với loài trung gian có số lượng nhỏ hơn và sống trên khu vực bé hơn. Bởi vì những dạng thức có số lượng nhiều hơn luôn luôn có cơ hội tốt hơn, trong vòng bất cứ giai đoạn cho trước nào, có được những biến đổi thuận lợi hơn nữa để cho sự lựa chọn của tự nhiên tác động tới và phát huy, so với dạng thức tồn tại với số lượng ít hơn. Do vậy những dạng thức phổ biến, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, sẽ có xu hướng đánh bại và thay thế các dạng không phổ biến bàng, bởi vì dạng sau ít được biến đổi và cải thiện hơn dạng trước. Chính là nguyên lý đấy, như tôi tin, giải thích cho loài phổ biến ở trong một nước, như đã được trình bày. 
Ở chương hai, trung bình có số lượng lớn hơn các biến thể nổi bật so với các loài không phổ biến.
Tôi xin minh họa điều tôi muốn nói bằng cách giả định ba biến thể cừu được giữ, một biến thể cho thích nghi với khu vực núi đồi rộng lớn, biến thể thứ hai trên vùng đất đồi chật chội hơn, và biến thể thứ ba với vùng đồng bằng mênh mông; và cả ba biến thể đều cố gắng hết sức như nhau để gia tăng số lượng của chúng thông qua sự lựa chọn; trong trường hợp này cơ hội nghiêng hẳn về những con cừu nuôi ở vùng núi đồi hay đồng bằng so với con cừu nuôi trên vùng đất đồi chật hẹp trung gian (sườn đồi), và hậu quả là cừu vùng núi đồi và đồng bằng sẽ sớm chiếm chỗ của cừu vùng sườn đồi kém cải thiện hơn, do đó hai giống ban đầu tồn tại với số lượng lớn hơn sẽ gặp nhau không có sự xen lẫn của giống bị thay thế - biến thể trung gian trên sườn đồi. 
Kết luận, tôi tin rằng các loài tiến tới các đối tượng được định nghĩa khá rõ ràng, và không thể hiện trong bất cứ giai đoạn nào một sự hỗn loạn không thể tháo gỡ được của các liên kết trung gian và biến đổi.
Đầu tiên, bởi vì các biến thể mới được hình thành rất chậm chạp, do sự biến đổi là một quá trình từ từ, sự lựa chọn của tự nhiên không thể làm gì cho đến khi biến đổi thuận lợi có cơ hội xuất hiện, và cho đến khi chỗ trong thế giới tự nhiên được chiếm giữ tốt hơn bởi những sự chỉnh sửa nhất định của các cư dân sống trên đó. Và những nơi như thế sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi khí hậu dần dần, hay sự di cư không thường xuyên của dạng thức sống mới; và có lẽ, ở một mức độ quan trọng hơn, phụ thuộc vào cá thể sống cũ biến đổi chậm chạp, với những dạng mới nhờ đó tạo ra và những dạng cũ tác động và phản ứng với nhau. Để sao cho trong bất cứ khu vực nào và bất cứ khi nào chúng ta chỉ có thể nhìn thấy những biến đổi nhỏ của cấu trúc trong mức độ thường xuyên; và điều này đảm bảo rằng chúng ta sẽ nhìn thấy. 
Thứ hai, các khu vực trong một giai đoạn nào đỏ gần đây đã tồn tại ở trạng thái đứt gãy thành các phần mà trên đó nhiều dạng thức, nhất là trong các lớp mà giống đực và giống cái phải giao phối mới có thể sinh con và đi hoang nhiều, có thể đã được coi là đủ khác biệt để được xếp vào loài đại diện. Trong trường hợp này, biến thể trung gian giữa vài loài đại diện và cha mẹ chung phải tồn tại trong những phần gãy đứt của mảnh đất đó, nhưng các biến thể trung gian này sẽ bị thay thế và là cho tuyệt chủng trong suốt quá trình sự lựa chọn của tự nhiên khiến cho chúng không tồn tại hiện nay ở dạng sống. Thứ ba, khi hai hay nhiều hơn biến thể được hình thành trong các phần riêng rẽ của một khu vực hoàn toàn liên tục, có khả năng là các biến thể liên kết trung gian ban đầu sẽ được hình thành trên khu vực trung gian, nhưng sau đó chúng thường tồn tại trong thời gian ngắn. Vì những biến thể trung gian này sẽ, do những lý do đã được gán cho (cụ thể là dựa trên những gì mà chúng ta biết về sự phân bố của các loài họ hàng gần gũi và loài đại diện), tồn tại trên những vùng trung gian với số lượng ít hơn các biến thể chúng có xu hướng liên kết. Nếu chỉ nhìn vào nguyên nhân này thì các biến thể trung gian rất có thể chịu sự tuyệt chủng ngẫu nhiên; và trong suốt quá trình của biến đổi sâu hơn thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, chúng hầu như chắc chắn sẽ bị đánh bại và thay thế bởi các dạng mà chúng liên kết; bởi vì những dạng thức này do tồn tại với số lượng cá thể lớn hơn, trên tổng số, cho ra nhiều biến đổi, và do đó được cải thiện tốt hơn nhờ sự lựa chọn của tự nhiên và thu được lợi thế lớn hơn. 
Cuối cùng, nhìn vào không chỉ một giai đoạn bất kỳ mà vào toàn bộ lịch sử, nếu lý thuyết của tôi là đúng thi các biến thể trung gian, liên kết hầu hết tất cả các loài họ hàng gần gũi của cùng một nhóm với nhau, chắc chắn đã phải tồn tại; và chính quá trình của sự lựa chọn tự nhiên luôn có xu hướng, như đã được nói đến nhiều trước đây, làm tuyệt chủng dạng thức bố mẹ và trung gian. Chính vì thế mà các bằng chứng của chúng chỉ có thể được tìm thấy trong các di tích hóa thạch, mà được lưu lại trong các ghi chép địa chất không hoàn hảo và đứt đoạn. Tôi sẽ cố gắng cho bạn đọc thay điều này ở các chưomg kế tiếp. 
Về nguồn gốc và những chuyển hóa của thực thể hữu cơ với các thói quen và cấu trúc kỳ lạ - Những người phản đối quan điểm tôi nêu ra đã đặt câu hỏi làm thế nào một động vật ăn thịt sống ở trên cạn có thể lại được chuyển hóa thành động vật có thói quen sống dưới nước và con vật đó có thể tồn tại như thế nào trong tình trạng chuyển đổi của nó? Chúng ta dễ dàng nhận thấy là trong cùng nhóm động vật ăn thịt tồn tại có mọi cấp trung gian giữa thói quen chỉ sống dưới nước và thói quen chỉ sống trên cạn; và do mỗi con tồn tại được thông qua đấu tranh sinh tồn, nó sẽ thích nghi tốt trong các thói quen của nó với nơi ở của mình. Hãy xem con Mustela Vision ở vùng Bắc Mỹ, có chân hình mạng nhện, giống con rái cá về bộ lông, chân ngan và hình dáng đuôi; mùa hè, con này lăn dưới nước bắt cá, nhưng suốt mùa đông dài, nó rời bỏ những vùng nước băng giá mà đi săn giống như chồn putoa bắt chuột và các động vật trên cạn khác. Nếu một trường hợp khác được đưa ra, và người ta đặt câu hỏi làm thế nào mà một con vật bốn chân ăn sâu bọ có thể chuyển hóa thành con dơi bay thì câu hỏi này sẽ khó giải đáp hơn nhiều, và tôi không có câu trả lời. Song tôi cho rằng câu hỏi đó chẳng mấy đáng quan tâm. 
Ở đây, cũng giống các lần khác, tôi gặp bất lợi lớn, bởi vì trong số các trường hợp nổi bật mà tôi đã thu thập được, tôi chỉ có thể đưa ra một hoặc hai ví dụ về thói quen và cấu trúc chuyển đổi các các loài có quan hệ mật thiết với nhau thuộc cùng chi, và về các tính cách đa dạng hoặc là cố định hoặc là thi thoảng xuất hiện trong cùng loài. Và tôi cảm thấy là chỉ có thể là một danh sách dài các trường hợp như vậy mới đủ để phần nào trả lời câu hỏi kiểu như câu hỏi về con dơi. Nhìn vào họ sóc, chúng ta sẽ tìm ra sự biến đổi rõ ràng nhất từ các con vật với đuôi của chúng chỉ hơi dẹt, và từ những con khác, như ngài J. Richardson đã nhận xét, với phần lưng của cơ thể chúng khá rộng và với da ở hai bên sườn khá dầy, chuyển thành những con gọi là sóc bay; và những con sóc bay này có các chi và đuôi nối với nhau bởi một mảng da to, có tác dụng như là một cái dù và cho phép chúng lượn trong không trung một quãng xa đáng kinh ngạc từ cây này sang cây khác. Chúng ta không thể nghi ngờ là mỗi cấu trúc có ích đối với với mỗi dạng sóc ở nước bản địa của nó, bằng cách cho phép chúng thoát được các con chim săn mồi, hay thu lượm thức ăn nhanh hơn, hoặc, chúng ta có lý do để tin, bằng cách giảm mối nguy hiểm khi rơi từ trên cao xuống đất. Nhưng nó đúng như thực tế rằng cấu trúc của mỗi con sóc là cái tốt nhất mà có thể được hình thành trong điều kiện tự nhiên. Giả sử khí hậu và thảm thực vật thay đổi, những loài gặm nhấm cạnh tranh khác hay thú săn mồi mới di cư đến đây, hay những con cũ trở nên biến đổi, và tất cả sự so sánh có thể dẫn chúng ta tới niềm tin là ít nhất vài loại sóc bị giảm số lượng hoặc bị tuyệt chủng, trừ khi chúng cũng biến đổi ở mức độ tương ứng. Vì thế tôi không thấy có khó khăn gì, nhất là trong điều kiện sống thay đổi, trong sự duy trì liên tục các cá thể có màng ở hai bên sườn ngày một dày hơn, mỗi thay đổi hữu ích và mỗi cái được nhân rộng thông qua ảnh hưởng tích lũy của quá trình sự lựa chọn của tự nhiên cho tới khi một loài sóc bay hoàn hảo được sinh ra. Bây giờ hãy xem tiếp đến loài Gaỉeophithecus hay loài vượn cáo bay, mà trước đó bị xếp sai vào loài họ dơi. Nó có màng hai bên sườn cực kỳ rộng, trải rộng từ phàn góc miệng cho tới đuôi, và bao gồm các chi và các ngón tay hình thon dài. Màng này cũng có cả các cơ duỗi; mặc dù không có mối quan hệ chuyến hóa nào của cấu trúc, thích hợp với việc bay lượn trên không trung, hiện tại liên kết loài Galeophithecus với các loài Lemuridae khác, nhưng tôi không gặp khó khăn gì trong việc thừa nhận các liên kết dạng này trước đó đã xuất hiện và mỗi con được hình thành theo các bước như trong trường hợp của con sóc bay chưa hoàn thiện hoàn toàn và mỗi cấp của cấu trúc đã có ích cho con vật chủ. Tôi cũng chẳng nhận thấy có bất cứ khó khăn nào mà không thể vượt qua trong việc tin rằng có thể là màng mà liên kết các cánh tay với cẳng tay của loài Galeopithecus có lẽ đã được kéo giãn ra rất nhiều bởi sự lựa chọn của tự nhiên; và con này, xét trong mức độ liên quan của các bộ phận bay, sẽ chuyển hóa thành một con dơi. Loài dơi mà có màng cánh trải rộng từ vai cho tới đuôi, trùm cả lên chân sau, chúng ta có lẽ nhìn thấy dấu vết của một bộ máy ban đầu được kiến tạo dành cho việc bay lượn trong không trung hơn là bay. 
Nếu khoảng mười hai chi của chim bị tuyệt chủng hoặc vẫn chưa được biết tới, người phỏng đoán rằng những con chim có thể đã tồn tại chỉ sử dụng cánh của nó để xua đuổi ruồi muỗi giống như con vịt đầu rùa (Micropterus của người Eypon); như những cái vây trong nước và chân trước trên cạn kiểu của chim cánh cụt; như vây chèo giống của con ostrict; và không dùng để làm gì giống như của con Aperyx. Tuy thế, cấu trúc của những con chim này lại có lợi cho nó trong điều kiện sống của nó bởi vì mỗi con muốn tồn tại được thì phải đấu tranh; nhưng nó không nhất thiết là có thể xảy ra nhất trong tất cả các trường hợp có thể xảy ra. Chúng ta không nên suy luận từ những nhận định này là bất cứ cấp độ nào trong các cấp độ cánh mà được nhắc tới ở đây, mà tất cả có lẽ đều do việc không sử dụng, ám chỉ các bước tự nhiên qua đó loài chim đạt được khả năng bay tuyệt vời của nó; nhưng ít nhất chúng chỉ ra rằng phương pháp đa dạng vô cùng của sự chuyển hóa là có thể. 
Nhìn thấy rằng các lớp thở dưới nước như Crustacea và Mollusca lại thích nghi với cuộc sống trên cạn, và thấy rằng chúng ta có chim và động vật có vú có bay được, côn trùng bay của hầu hết các dạng thức đa dạng, và đã từng có loài bò sát biết bay, chúng ta có thể hình dung là cá bay, mà hiện giờ bay lượn một quãng xa trong không trung, dần nổi lên và chuyển hóa với sự trợ giúp của vây dao động của chúng, có lẽ đã được thay đổi trở thành động vật có cánh hoàn hảo. Nếu suy luận này là đúng, vậy ai đã từng tưởng tượng trong giai đoạn chuyển đổi ban đầu, chúng là cư dân của vùng đại dưorng bao la, và đã chỉ sử dụng bộ phận để bay, như chúng ta biết cho tới nay, để tránh không bị các con cá khác săn? 
Khi chúng ta thấy bất kỳ cấu trúc có cấu tạo hoàn hảo để thực hiện một chức năng nào đó, giống như cánh của con chim dùng để bay, chúng ta nên nghĩ ngay rằng các con thế hiện cấp độ chuyến đổi ban đầu của cấu trúc sẽ hiếm khi tiếp tục tồn tại cho tới ngày nay, bởi vì chúng sẽ bị thay thế bởi chính quá trình hoàn thiện thông qua sự lựa chọn của tự nhiên. hơn thế nữa, chúng ta có thể kết luân rằng các cấp độ chuyển đổi giữa những cấu trúc phù I. p cho những thói quen rất khác biệt trong cuộc sống sc hiếm khi được phát triển ở một giai đoạn ban đầu ới số lượng lớn và trong nhiều dạng thức thứ cấp. Do đó, quay trở lại minh họa mang tính tưởng tượng về loài cá bay của chúng ta, dường như là không có khả năng những con cá có thể bay thực sự đã phát trong rất nhiều dạng thức thứ cấp, để đi bắt nhiều loại mồi theo nhiều cách, trên cạn và trong nước cho đến khi bộ phận bay của chúng trờ nên hoàn thiện, giúp chúng có lợi thế lớn so với các con vật khác trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Do đó cơ hội để phát hiện ra những loài có cấp độ chuyển đổi của cấu trúc trong tình trạng hóa thạch sẽ luôn luôn không nhiều bằng, do chúng tồn tại với số lượng ít hơn, trong trường hợp của loài có cấu trúc phát triển hoàn hảo. 
Bây giờ tôi sẽ đưa ra hai hoặc ba ví dụ về thói quan đa dạng và thay đổi của các cá thể thuộc cùng loài. Khi một trong hai trường hợp xuất hiện, nó sẽ dễ dàng cho sự lựa chọn của tự nhiên để giúp cho con vật, thông qua một vài biến đổi trong cấu trúc của nó, phù hợp với thói quen thay đối của nó, hoặc là chỉ một trong số vài thói quen khác nhau của nó.
Nhưng chúng ta khó có thể nói và không có bằng chứng cụ thể rằng liệu có phải thông thường các thói quen thay đổi đầu tiên sau đó mới đến cấu trúc; hay liệu là ngược lại khi một số biến đổi nhỏ trong cấu trúc dẫn tới sự thay đổi về tính cách; cả hai thường thay đổi cùng nhau. Trong số các trường hợp tính cách thay đổi, ví dụ của nhiều loài côn trùng nước Anh hiện đang sống nhờ vào các cây ngoại lai, chỉ nhờ vào các chất nhân tạo là đủ để minh họa. Đối với trường hợp tính cách đa dạng, vô số các ví dụ có thể được đưa ra. Tôi thường quan sát những con chim giẻ quạt hung dữ (Saurophagus sulphuratus) ở vùng Nam Mỹ, lượn vòng tròn xung quanh một điểm sau đó tiến tới điểm khác, giống như một con chim cách, đứng yên bên lề mép nước một lúc rồi đột nhiên lao vào một con cá, giống như loài chim bói cá. Ở trong nước Anh chim sẻ ngô (Parus maịor) to lớn hơn có thể được trông thấy đang trèo các nhánh cây giống như một loài leo cây; nó thường, giống như chim bách thanh, giết những con chim bé bằng cách mổ vào đầu chúng; và tôi đã rất nhiều lần nhìn và nghe thấy chúng mổ vào các hạt giống của cây thủy tùng trên một nhánh và làm vỡ tung chúng giống như một hạt dẻ. Ở khu vực Bẳc Mỹ, ông Hearne đã nhìn thấy loài gấu đen bơi hàng giờ với cải mồm mở to, đế bắt, giống như cá heo, các con côn trùng trong nước. Thậm chí trong trường hợp đặc biệt như thế này, nếu nguồn cung các con côn trùng là cố định, và nếu những con cạnh tranh thích nghi tốt hơn không tồn tại ở trong nước, tôi không thấy có khó khăn nào trong cuộc đấu tranh giữa các con gấu, tạo ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên, khiến cho cấu trúc của chúng ngày càng thích nghi với môi trường nước và với mồm ngày một mở rộng cho đến khi một sinh vật dị thường giống như cá voi được tạo ra. 
Như chúng ta đôi khi thấy cá thể của một loài có thói quen khác biệt hắn so với thói quen của con giống đực và giống cái của loài đó cũng như của các loài khác thuộc cùng chi, theo lý thuyết của tôi, chúng ta có thể trông đợi rằng những cá thể như thế đôi khi sẽ tạo ra cơ hội cho loài mới xuất hiện, có thói quen tương đồng và với cấu trúc biến đổi hoặc ít hoặc nhiều so với loài thực sự. Một ví dụ như thế trong tự nhiên đã xuất hiện. Liệu ai có thể đưa ra một ví dụ nào khác ấn tượng hơn ví dụ về sự thích nghi của một con chim gõ kiến với việc trèo cây và bắt côn trùng trong các khe nứt trên vỏ cây? Song ở khu vực Băc Mỹ, có những con chim gõ kiến chủ yếu sống dựa vào hoa quả,và các con khác với đôi cánh thon dài dùng đế đuối theo côn trùng; và trên các cánh đồng vùng La Plata, nơi không có một cây nào cả, có một con chim gõ kiến mà trong tất cả mọi bộ phận cơ quan chính của nó, thậm chí trong màu sắc, trong âm thanh chói tai, trong cách bay hình sóng cho tôi biết rõ ràng là nó thuộc về loài gõ kiên thông thường nhưng nó là một con gõ kiến không bao giờ trèo cây. 
Chim hải âu là loại chim thuộc về trời và biển nhất, nhưng ở trong vùng Sounds of Tierra del Fuego, loài Puffìnuria berardi, trong thói quen chung của chúng, trong khả năng lăn kinh ngạc của chúng, trong cách bơi và bay của chúng khi không sẵn sàng để bay, thì ai đó sẽ có thể dễ nhầm lẫn nó với chim anca hay chim lặn; nhưng về cơ bản là chim hải âu với nhiều phần chính của nó thay đổi lớn. Mặt khác, khi một người quan sát tinh tường nhất xem xét cơ thể một con chim két đã chết sẽ không bao giờ nghi ngờ thói quen dưới nước của nó, nhưng thành viên dị thường của họ những động vật chỉ sống trên cạn này hoàn toàn sống nhờ vào lặn - cặp nhiều hòn đá ở chân và sử dụng cánh ơ dưới nước. 
Những ai tin vào thuyết sáng tạo loài độc lập chắc hẳn đôi khi sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi anh ta gặp một con vật với các thói quen và cấu trúc không hề tuân theo quy tắc. Điều gì có thể rõ ràng hơn là chân có màng của con vịt và ngồng được tạo thành để bơi? Thế mà ở những vùng cao có những con ngồng với màng ở chân nhưng hiếm khi hoặc không bao giờ tới gần nước; nhưng không ai trừ ông Audubon đã nhìn thấy loài chim chiến, có cả bốn ngón chân có màng, bước trên mặt nước của biển. Mặt khác, những con chim sâm cầm và chim lặn lại hoàn toàn là loài động vật dưới nước mặc dù những ngón chân của chúng chi có màng bao phủ viền ngoài. Cái có vẻ như rõ ràng hơn là những ngón chân dài của Grallatores được hình thành khi để bước đi trên đầm lầy và những cây nổi, nhưng gà hen có thói quen dưới nước gần giống như chim sâm cầm; và con landrail có thói quen sống trên cạn gần giống như gà gô và chim cun cút. Đối với những trường hợp ấy, tôi có thể đưa ra nhiều ví dụ hơn nữa, thói quen thay đổi nhưng không kèm theo cấu trúc thay đổi. Chân có màng của loài ngỗng sống ở vùng đất cao có thể nói là đã trở thành một cơ quan không có ích, nhưng không phải là vô ích đối với cấu trúc của nó. Còn loài chim chiến, màng cong giữa các ngón chân cho thấy rằng cấu trúc đã bắt đầu thay đổi. 
Những người tin vào ảnh hưởng riêng rẽ và vô số của sự sáng tạo sẽ nói trong những trường hợp như thế này, ý Chúa muốn làm cho loài này thay thế loài khác; nhưng điều này đổi với tôi có vẻ như hết sức lố bịch. Còn người nào tin vào sự đấu tranh sinh tồn và nguyên lý của sự lựa chọn của tự nhiên sẽ công nhận rằng mọi thực thể hữu cơ đều cố gắng hết mình để gia tăng số lượng bản thân; và nếu bất cứ thực thể nào biến đối chút xíu, hoặc là trong thói quen hoặc là trong cấu trúc, và nhờ vậy mà trở nên có lợi thế hơn so với thực thể nào đó trong cùng một nước, nó thế chiếm lấy khu ở của cá thể kém lợi thế hơn đó, cho dù có khác so với nơi ở của bản thân chủng. Do vậy anh ta sẽ không cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng loài chim chiến và ngỗng có màng ở chân, hoặc là sổng ở vùng đất khô hoặc là hiếm khi bước xuống nước; và có những con comcrake với ngón chân dài sống trên những đồng cỏ thay vì ở đầm lầy; có những con chim gõ kiến sống ở nơi không có một cây nào mọc cả; và có những con chim hải âu có thói quen của chim anca. 
Các bộ phận của sự hoàn thiện và phức tạp tới mức tối đa - Đe công nhận rằng đôi mắt, với tất cả các đặc tính không thể bắt chước được của nó, để thay đổi tiêu cự tùy theo độ xa khác nhau, điều chỉnh độ sáng và sự chỉnh sửa quang sai hình cầu và nửa cung, có thể đã được tạo thành thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, có vẻ như, tôi thú thật là, khó có thể xảy ra ở khả năng cao nhất có thể. Nhưng lý do nói với tôi rằng sự chuyển hóa từ đôi mắt không hề hoàn thiện và rất đơn giản tới đôi mắt cực kỳ hoàn thiện và phức tạp, mỗi mức chuyển hóa có ích đối với cơ thể chủ của nó; có thể chứng minh là tồn tại; hơn nữa, nếu đôi mắt thực sự thay đổi vô cùng nhỏ, và những thay đổi được di truyền lại, điều mà rõ ràng là như thế; và nếu bất kỳ thay đổi hoặc chỉnh sửa trong cơ quan đó từng có ích đối với một con vật trong điều kiện sống thay đổi thì khả năng một đôi mắt hoàn hảo và phức tạp có thể được tạo ra bởi qua sự lựa chọn của tự nhiên, mặc dù chúng ta không thể tưởng tượng được, hoàn toàn được coi là có thể xảy ra. Một dây thần kinh làm thế nào để trở nên cảm nhận được ánh sáng, thì không làm chúng ta quan tâm bằng làm thế nào mà sự sống bắt nguồn; nhưng tôi xin nói là vài thực tế đã khiến tôi nghi ngờ rằng bất kỳ dây thần kinh cảm biến nào có thể được làm cho cảm nhận được ánh sáng, và tương tự như vậy cảm nhận được những dao động lớn tạo ra âm thanh. 
Khi nhìn vào những bước chuyển hóa mà qua đó một bộ phận của bất kỳ loài nào được hoàn thiện, chúng ta chắc chắn phải xem xét các cá thể tổ tiên trực hệ của chúng; nhưng điều này hiếm khi có thể, và chúng ta, trong mồi trường hợp, buộc phải xem xét các loài thuộc cùng nhóm, tức là nhìn vào những con cháu cùng hệ của cùng dạng cha mẹ gốc để tìm ra những chuyển hóa nào là có thể, và vì có khả năng là một vài sự chuyển hóa đã được truyền lại tại giai đoạn ban đầu của dòng dõi, trong một điều kiện ít hoặc không biến đổi. Trong sổ loài Vertebrata, chúng ta chỉ tìm thấy một số lượng nhỏ các biến chuyển trong cấu trúc đôi mát, và dựa vào các di tích hóa thạch thì chúng ta chẳng biết thêm điều gì về nó cả. Trong lớp lớn này chúng ta có lẽ phải nên đi sâu xuống hơn nữa bên dưới lòng đất tới địa tầng hóa thạch thấp nhất được biết đến để khám phá các giai đoạn sớm hơn mà ở đó đôi mẳt được hoàn thiện. 
Trong loài Articulata, chúng ta có thể bắt đầu một seri với một dây thần kinh quang học chỉ có sắc tố, và không hề có bất kỳ một bộ máy nào khác; và từ cấp phát triển thấp này, vô số các bước tiến hóa của cấu trúc, tỏa ra theo hai đường cơ bản khác nhau, có thể được chứng minh là tồn tại, cho tới khi chúng ta đạt tới sự hoàn thiện khá cao. Chẳng hạn như trong một số con thuộc loài giáp xác có giác mạc đôi và cái bên trong được chia thành hai mặt, trong mỗi cái đó có một thấu kính lồi. Trong một số con khác loài giáp xác, thủy tinh thể có sắc tô màu và chỉ phản ứng với chùm ánh sáng bên ngoài, là lồi ra phía cuối trên và phải phản ứng bởi sự hội tụ; và ở phần kết thúc bên dưới dường như là có chất thủy tinh. Với những thực tế đưa ra ở đây, hết sức ngắn gọn và còn xa mới để được coi là đầy đủ, cho thấy có nhiều sự chuyển hóa sang dạng trong con mắt của loài giáp xác đang tồn tại, nhớ rằng số lượng loài đang sống so với số lượng loài đã tuyệt chủng là vô cùng nhỏ bé, tôi không thấy có bất cứ một khó khăn lớn nào (không khó hơn trong trường hợp của nhiều cấu trúc khác) để tin rằng sự lựa chọn của tự nhiên đã biến những bộ máy đơn giản của một thần kinh quang học chỉ có sắc tố màu và bao phủ bởi một màng trong suốt, thành một công cụ quang học hoàn hảo như đang tồn tại trong bất kỳ một thành viên nào của lớp Articulate vĩ đại. 
Người sẽ tiến xa như vậy, nếu anh ta tìm ra khi đọc xong tác phẩm này rằng phần lớn các thực tế, nếu không không thể giải thích được, có thể được giải thích bởi lý thuyết về dòng dõi, không được chần chừ đi xa hơn nữa, và để thừa nhận rằng một cấu trúc hoàn hảo như mắt đại bàng có thể được hình thành bởi sự lựa chọn của tự nhiên, mặc dù trong trường hợp này anh ta không biết bất kỳ cấp độ chuyển đổi nào. Lý luận của anh ta phải chiến thắng sự tưởng tượng của anh ta, mặc dù tôi để cảm thấy ngạc nhiên với bất cứ mức độ chần chừ nào trong việc phát triển nguyên lý của sự lựa chọn tự nhiên tới độ dài ngạc nhiên. 
Chúng ta khó có thể tránh được sự so sánh giữa con mắt với kính hiển vi. Chúng ta biết rằng dụng cụ này đã được con người chế tạo hết sức hoàn hảo với kiến thức khoa học tinh thông; và một cách tự nhiên chủng ta suy luận đôi mắt đã được tạo thành bởi một quá trình dạng tưomg tự đấy? Nhưng có thể nào là sự suy luận này quá vội vàng? Liệu chúng ta có bất cứ lý lẽ nào để thừa nhận rằng Đấng sáng tạo dựa vào khoa học tạo ra những con mắt như của con người? Nếu chúng ta phải so sánh con mắt với một công cụ quang học, trong tưởng tượng, chúng ta phải lấy bề dày của các mô trong suốt, với một dây thần kinh cảm ứng ánh sáng bên dưới, và giả thiết rằng mọi phần của lớp này đang liên tục thay đổi chậm chạp về mật độ, để ngăn cách trong lớp những mật độ và độ dày khác nhau, đặt ở những khoảng cách khác nhau, và với mặt của mỗi lớp chậm chạp biến đổi trong dạng thức.
Hơn nữa, chúng ta phải giả thiết rằng có một sức mạnh luôn chú ý theo dõi mỗi biến đổi nhỏ ngẫu nhiên của những lớp trong suốt; và cẩn thận lựa chọn mỗi sửa đổi mà trong điều kiện thay đổi có thể trong bất cứ cách hay mức độ nào cho ra một hình ảnh sắc nét hơn. Chúng ta phải giả định mỗi tình trạng mới của công cụ để được nhân rộng ra hàng triệu lần; và mồi cái được duy trì cho tới khi một cái tốt hơn sinh ra rồi sau đó những cái cũ bị tiêu diệt. Trong các cơ thể sống, sự biến đổi sẽ gây ra những sự sửa đổi nhỏ, thế hệ sẽ nhân rộng chúng hầu như không ngừng và sự lựa chọn của tự nhiên sẽ chọn ra những kỹ năng hoàn thiện sau mồi lần cải thiện. Hãy để cho quá trình này tiếp diễn hàng triệu hàng triệu năm; và trong mỗi năm trên hàng triệu cá thể của nhiều loại; liệu chúng ta không thể tin một công cụ quang học sống có thể nhờ đó mà được hình thành với độ tinh xảo phi thường hơn hẳn so với bất kỳ thủy tinh nào, giống như tác phẩm của Đấng sáng tạo so với của con người? 
Nếu chúng ta có thể chứng minh rằng bất cứ bộ phận phức tạp nào đã tồn tại, mà đã không thể được tạo ra bởi nhiều chỉnh đổi nhỏ liên tiếp thì lý thuyết của tôi sẽ bị sụp đổ. Nhưng tôi không tìm thấy một trường họp nào như thế. Chắc chắn là rất nhiều bộ phận tồn tại mà chúng ta không biết đến các cấp độ chuyển đổi của chúng, nhất là nếu chúng ta nhìn vào các loài cô lập mà theo lý thuyết của tôi phần lớn đã bị tuyệt chủng. Hay một lần nữa nếu chúng ta nhìn vào bộ phận chung cho tất cả các thành viên của một lớp lớn, bởi vì trong trường hợp sau bộ phận phải đã được hình thành ở giai đoạn ban đầu rất sớm, đó là cái mà tất cả các thành viên của lớp đó đã phát triển; và để khám phá những cấp độ chuyển đổi ban đầu mà bộ phận đó đã trải qua, chúng ta phải nhìn vào dạng tổ tiên rất cổ đã tuyệt chủng từ lâu. 
Chúng ta nên hết sức cẩn thận khi kết luận rằng một bộ phận có thể đã không được hình thành bởi các sự chuyển đổi của loại nhất định. Vô số các ví dụ có thể được đưa ra trong số các con vật phát triển thấp về cùng bộ phận thực hiện cùng một lúc các chức năng riêng biệt hô hấp, tiêu hóa, và bài tiết trong ấu trùng của con ruồi trâu và trong cá Cobỉtes. Trong con Hydra loài vật có thể lộn cơ thể ra ngoài do đó mặt ngoài có thể tiêu hóa và dạ dầy hô hấp. Trong những trường họp như vậy, sự lựa chọn của tự nhiên có thể dễ dàng chuyên môn hóa, nếu bất cứ lợi thế nào mà nhờ đó thu được, một phần hay bộ phận đã thực hiện hai chức năng, thành chỉ thực hiện một chức năng và do đó toàn bộ thay đổi đặc điểm của nó trải qua các bước không cảm nhận được. Hai bộ phận khác biệt đôi khi cùng lúc thực hiện cùng một chức năng trên cùng cá thể; một ví dụ minh họa là có loài cá với mang hoặc yếm để thở không khí hòa tan trong nước, trong khi đó chúng thở không khí tự do trong bong bóng ở ruột của chúng, bộ phận sau này có ống khi lực hóa cung cấp không khí và bị chia thành các phần mạch phát triển cao. Trong những trường hợp như thế này, một trong hai bộ phận có thể dễ dàng sửa đổi và hoàn thiện để thực hiện tất cả các công việc này bởi một mình nó, được trợ giúp trong quá trình sửa đổi bởi các bộ phận khác; và sau đó các bộ phận khác này có thể được sửa đổi cho những mục đích khác hoàn toàn riêng biệt hoặc bị đào thải. 
Sự minh họa bóng cá là một ví dụ thuyết phục, bởi vì nó cho chúng ta thấy rõ thực tế quan trọng vô cùng là một bộ phận ban đầu được cấu tạo cho một mục đích, đó là để nổi, có thể được chuyển thành một bộ phận với mục đích hoàn toàn khác, đó là để hô hấp. Bóng cá cũng có tác dụng như là một bộ phận phụ trợ cho thính giác của loài cá nhất định, hay, bởi vì tôi không biết quan điểm nào hiện giờ được đa số tin theo, một phần của cơ quan thính giác đã có vai trò như cơ quan phụ trợ cho bóng cá. Tất cả các nhà sinh lý học đều thừa nhận rằng bóng cá là tương đồng hay "tương tự lý tưởng", trong vị trí và cấu trúc với phổi của các động vật có xương sống phát triển cao hơn: với lý do này, tôi cảm thấy không có khó khăn đáng kể nào khi tin là sự lựa chọn của tự nhiên đã thực sự chuyển hóa một bóng cá thành phổi hay bộ phận chỉ thực hiện chức năng hô hấp. 
Tôi thực sự khó có thể nghi ngờ tất cả các động vật xương sống có phổi đích thực đã bắt nguồn bởi thế hệ thông thường từ dạng nguyên thủy, mà chúng ta không có nhiều hiểu biết về nó, trang bị với một bộ máy để nổi hay bóng cá. Chúng ta do vậy có thể, như tôi đã suy luận từ sự miêu tả thú vị của giáo sư Owen về những phần này, hiểu thực tế kỳ lạ rằng mọi mẫu của thức ăn và đồ uống mà chúng ta nuốt vào phải đi qua miệng của ống khí quản, với một vài nguy cơ có thể rơi vào phổi, bất chấp công cụ tuyệt vời mà nhờ nó thanh môn được đóng lại. Trong những động vật xương sống phát triển cao hơn, cái mang hoàn toàn biến mất - những khe hở ở hai bên cổ và những hướng chạy chồng chéo của các đường động mạch vẫn còn dấu vết ở trong các phôi thai với vị trí trước đó của chúng. Nhưng chúng ta có thể hình dung mang hiện tại cuối cùng cũng biến mất đã thực hiện chức năng hoàn toàn khác do tác động của sự lựa chọn của tự nhiên: theo như cách giống như, xét trên quan điểm của một số nhà tự nhiên học là mang và kích cỡ sống lưng những con giun đốt là với cách và cánh bao trùm của các con côn trùng, có khả năng là những bộ phận đó ở ngay giai đoạn đầu đóng vai trò bộ phận hô hấp đã được chuyển hóa thành bộ phận để bay. 
Khi xem xét những chuyển hóa của bộ phận, nhất là tầm quan trọng của việc luôn nghĩ trong đầu là xác suất của sự chuyển hóa từ chức năng này sang chức năng khác lớn tới mức mà tôi phải đưa ra thêm một ví dụ nữa. Loài chân tơ có cuống có hai nếp gấp nhỏ trên da, tôi gọi chủng là ovigerous frena, mà đóng vai trò, thông qua cách bài tiết các chất dính, để giữ các quả trứng cho đến khi chúng nở ra. Những con chân tơ này không có mang, toàn bộ bề mặt cơ thể, bao gồm cả các frena nhỏ, là bộ phận hô hấp. Loài Balanidae hay loài chân tơ không cuống, mặt khác, không có ovigerous frena, những quả trứng nằm chơi vơi trên đáy túi trứng, trong một vỏ bọc kín; nhưng chúng có mang gấp lớn. Bây giờ tôi nghi sẽ không ai tranh cãi rằng ovigerous frena trong một họ là hoàn toàn giống với mang cá của họ khác; thật vậy, chúng chuyển hóa lẫn nhau. Do đó tôi không nghi ngờ là những nếp gấp nhỏ trên da, mà ban đầu có vai trò như ovigerous frena, nhưng tương tự như vậy, trợ giúp rất ít hệ thống hô hấp, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên đã dần dần chuyển hóa thành mang đơn giản chỉ bằng cách tăng kích thước của nó và loại bỏ đi những tuyến dính vào. Nếu tất cả loài chân tơ có cuống đều bị tuyệt chủng, chúng sẽ phải đã hứng chịu sự tuyệt chủng khốc liệt hơn rất nhiều so với loài chân tơ không cuống. Liệu có ai đã từng tưởng tượng là cái mang của họ chân tơ có cuống ban đầu đã tồn tại như một bộ phận để giữ cho những tế bào trứng không bị trôi ra khỏi túi trứng? 
Mặc dù chúng ta phải vô cùng thận trọng khi kết luận rằng bất kỳ bộ phận nào cũng có thể được tạo ra thông qua những sự chuyển đối liên tục, nhưng khó khăn vẫn còn chồng chất, một vài khó khăn đó tôi sẽ nêu ra ở trong các tác phẩm sau này của tôi. 
Một trong những khó khăn đó là loài côn trùng vô tính, loài mà rất khó để xếp vào giống đực hay giống cái có khả năng sinh sản; nhưng trường họp này sẽ được bàn tới ở chương kế tiếp. 
Những bộ phận phát điện của cá cũng mang đến một khó khăn đặc biệt; chúng ta hầu như không thể hình dung ra những bước mà qua đó những bộ phận tuyệt vời này đã được tạo ra; nhưng như ông Owen và những người khác đã nhận định, cấu trúc quan hệ mật thiết của chúng rất giống với cấu trúc của các cơ thông thường; và như sau này người ta cho thấy rằng những con cá đuối có bộ phận rất giống với một bộ máy sản sinh điện năng nhưng, như ông Matteuuchi khẳng định, lại không hề phát sinh điện; chúng ta phải công nhận là chúng ta hiểu biết còn quá ít để có thể lập luận rằng không có sự chuyển đối của bất kỳ dạng nào là có thể. Những bộ phận phát điện là một khó khăn khác, thậm chí còn khó khăn hơn; bởi vì chúng chỉ xuất hiện trong khoảng mười hai loài cá, mà một số trong đó hoàn toàn xa cách về mặt quan hệ họ hàng. Bình thường thì khi cùng một bộ phận mà xuất hiện trong vài thành viên thuộc cùng lớp, nhất là trong những thành viên mà có thói quen cuộc sống khác biệt, chúng ta thường cho là sự xuất hiện của bộ phận này là do được di truyền từ cùng một cha mẹ chung; và sự không xuất hiện của nó trên cơ thể của một số thành viên là do sự không sử dụng hoặc do sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng nếu các bộ phận phát điện được di truyền lại từ một cá thể gốc nào đó như trường hợp di truyền, chúng ta đã có thể trông đợi tất cả các loài cá có bộ phận phát điện có quan hệ rất mật thiết với nhau. Nhưng những ghi chép địa chất không hề dẫn chúng ta tới niềm tin là trước kia tất cả các loài cá có bộ phận phát điện, mà hầu hết con cháu kế tục của chúng đã bị mất. Sự xuất hiện của các bộ phận phát quang trong vài con côn trùng, thuộc các họ và nhóm khác nhau, mang tới một khó khăn tương tự. Tôi có thể dưa ra những trường hợp khác; chẳng hạn như bộ máy hết sức lạ kỳ của hàng loạt pollengrains, mọc trên một footstalk với một gland mọc ở phía cuối là tương tự như trong Orchis và Asclepỉas - những họ mà xét về moi quan hệ giữa các loài cây mọc hoa thì chúng là xa nhất. Trong tất cả các trường hợp của hai loài hoàn toàn khác biệt lại có những bộ phận tương đồng, mọi người nên nhớ rằng mặc dù bề ngoài và chức năng tổng thể của bộ phận này có thể là giống nhau nhưng chúng ta vẫn có thể phát hiện ra những khác nhau cơ bản giữa chúng. Tôi có khuynh hướng tin rằng nó cũng gần giống như cách mà hai người hoàn toàn độc lập ngẫu nhiên cùng đi tới một phát minh, và cũng như vậy đối với sự lựa chọn của tự nhiên, mang lại lợi ích cho mồi cá thể và tận dụng các biến đổi tương đồng, đôi khi chỉnh sửa hai phần hoặc bộ phận trong hai thực thể hữu cơ theo cách gần như tương tự nhau. Hai bộ phận này chỉ có diêm chung nhưng không đáng kê là từ cha mẹ chung. 
Mặc dù trong rất nhiều trường hợp điều khó khăn nhất là hình dung được các bước chuyển đổi mà qua đó một bộ phận hình thành như ngày nay; nhưng do số lượng loài đang sống và đã được biết đến ít hơn nhiều so với loài bị tuyệt chủng và chưa được biết tới, tôi cảm thấy vô cùng ngạc nhiên là rất hiếm khi một bộ phận có thể được đặt tên mà người ta không biết bất cứ cấp chuyển đổi nào dẫn tới nó. Tính xác thực của nhận xét này được chứng minh bởi tư tưởng cô trong lịch sừ tự nhiên của Natura non facỉt saỉtum. Chúng ta thấy sự chấp nhận này trong hầu hết các tác phẩm của các nhà tự nhiên học nhiều kinh nghiệm; hay như ông Milne Edwards đã diễn đạt rõ ràng nó, tự nhiên là rất phong phú trong tỉnh biến đổi nhưng lại rất nghèo nàn trong đổi mới. Tại sao nó lại là như vậy nếu xét trên quan điểm Đấng sáng tạo? Tại sao tất cả các phần và bộ phận của nhiều cá thể độc lập, mỗi cá thể coi là được tạo ra độc lập thích hợp với riêng nơi ở của chúng, lại có liên kết chặt chẽ với nhau như vậy thông qua các bước chuyển đổi? Tại sao tự nhiên không có bước nhảy từ cấu trúc này sang cấu trúc khác? Nếu dựa vào lý thuyết của sự lựa chọn tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng hiểu tại sao tự nhiên lại không như thế; bởi vì sự lựa chọn của tự nhiên chỉ gây tác động có lợi thông qua những biến đổi nhỏ kế tiếp nhau; Tự nhiên không bao giờ có thể tạo ra bước nhảy vọt, mà chỉ tiến với các bước ngắn nhất và chậm nhất. 
Các bộ phận kém quan trọng - Do sự lựa chọn của tự nhiên chỉ lựa chọn giữa sự sống và cái chết - bằng việc duy trì các cá thể mà có bất kỳ biến đổi thuận lợi nào, và loại bỏ đi những cá thể mà không có sai khác có lợi trong cấu trúc - Tôi đã đôi khi cảm thấy rất khó khăn để hiểu xuất xứ của những bộ phận đơn giản mà tầm quan trọng của chúng là không đủ lớn để khiến cho sự duy trì của các cá thể biến đổi kế tiếp nhau. Tôi đôi khi cũng cảm thấy khó khăn như thế, mặc dù là khó khăn kiểu khác, về chủ đề này, giống như trường hợp của một bộ phận hoàn hoàn và phức tạp như đôi mắt.
Hiện tại chúng ta còn quá thiếu hiểu biết về toàn bộ cấu trúc của bất kỳ cá thể hữu cơ nào để nói rằng những chỉnh sừa nhỏ nào là quan trọng và cái nào thì không. Trong một chương trước tôi đã đưa ra các ví dụ về những bộ phận không quan trọng, chẳng hạn như lông tơ trên quả và màu của phần bên trong quả, mà, quyết định cuộc tấn công của côn trùng hay có mối quan hệ qua lại với các khác biệt thể trạng, có thể chắc chắn là chịu sự ảnh hưởng của lựa chọn tự nhiên. Cái đuôi của con hươu cao cổ trông giống như một cái vỉ ruồi nhân tạo; và ban đầu mọi người khó mà tin rằng nó đã có lẽ được cấu tạo như hiện nay cho mục đích đó thông qua các biến đổi nhỏ liên tiếp nhau, cái sau tốt hơn cái trước, bởi vì nó là một bộ phận đuổi ruồi không hề quan trọng gì. Tuy thế chúng ta nên dừng lại một chút trước khi quá thừa nhận trong trường hợp này do chúng ta biết rằng sự phân bố và tồn tại của gia súc và các động vật khác ở Nam Mỹ đặc biệt hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của chúng chống lại các cuộc tan công của côn trùng; tức là các cá thể mà bằng cách nào đó bảo được bản thân trước các cuộc tấn công của những kẻ thù bé nhỏ này thì sẽ có thể phát triển rộng ra trên các khu vực đồng cỏ mới và do đó có thu được lợi thế lớn. Thực tế không phải là loài vật bốn chân lớn bị tiêu diệt (loại trừ các trường hợp hiếm nhất) bởi các con ruồi, mà chúng liên tục bị quấy nhiễu làm phiền và sức mạnh của chúng giảm dần khiến cho chúng không chống đỡ được các căn bệnh hoặc không đủ sức để kiếm được thức ăn trong thời gian khan hiếm, hay thoát khỏi thú săn mồi.
Những bộ phận mà bây giờ không quan trọng gì có lẽ trong một số trường hợp là rất quan trọng đối với các con ban đầu, và, sau khi đã được hoàn thiện một cách chậm chạp tại một giai đoạn nào trước đó, đã được truyền lại trong tình trạng gần như không đổi, mặc dù bây giờ chúng ít khi được dùng tới; và bất cứ sai lệch có hại nào trong cấu trúc của chúng sẽ được kiểm soát bởi sự lựa chọn của tự nhiên. Khi nhận ra tầm quan trọng vô cùng của một bộ phận của sự di động như đuôi trên cơ thể những con vật hay sống dưới nước nhất, sự xuất hiện và sử dụng thông thường của nó cho nhiều mục đích ở rất nhiều loài vật trên cạn, mà trong lá phổi hay bóng bơi của chúng phủ nhận nguồn gốc dưới nước của chúng, có lẽ nhờ đó được giải thích. Một cái đuôi phát triển hoàn hảo đã được hình thành trong một động vật sống dưới nước, nó có thể sau đó thực hiện cho nhiều mục đích, như là để đuổi ruồi, một bộ phận để nắm, hay một dụng cụ hỗ trợ quay hướng, như của con chó, mặc dù sự hỗ trợ này chắc chắn không nhiều, do con thỏ rừng, hầu như không có đuôi, có thể gấp đôi nhanh chóng. 
Sau này, chúng ta đôi khi gán tầm quan trọng cho các đặc điểm mà thực sự không hề quan trọng gì, và những cái mà bắt nguồn từ những nguyên nhân hoàn toàn thứ cấp; không có mối quan hệ với sự lựa chọn của tự nhiên. Chúng ta nên nhớ rằng thức ăn, khí hậu... có ảnh hưởng trực tiếp không lớn lên toàn bộ tổ chức; những đặc điểm tái xuất hiện theo như các quy luật của sự quay trở lại, sự quan hệ qua lại trong tăng trưởng sẽ có ảnh hưởng lớn nhất trong việc chinh đổi các cấu trúc khác nhau; và cuối cùng chính sự lựa chọn giao phối sẽ phần lớn thay đổi các đặc điểm bên ngoài của các con vật, mang tới cho con này lợi thế trong chiến đấu so với con khác hay trong khả năng quyến rũ con cái. Hơn nữa, khi một biến đổi trong cấu trúc nổi lên chủ yếu từ những nguyên nhân trên hay từ nguyên nhân chưa được biết tới, nó ban đầu có thể chẳng có lợi gì đối với loài cả nhưng dần dần sau này được tận dụng bởi con cháu trong điều kiện sống mới và có những thói quen mới hình thành. 
Tôi xin đưa ra vài ví dụ minh họa cho những nhận xét vừa xong. Nếu chỉ có những con chim gõ kiến màu xanh tồn tại, và chúng ta đã không biết là có nhiều con màu đen và màu pha trộn, tôi mạnh dạn xin nói rằng chủng ta chắc đã sẽ nghĩ màu xanh tươi đẹp đó là để giúp cho chúng ẩn mình trong màu xanh của lá tránh sự săn đuổi của kẻ thù, và như thế thì đó là đặc điểm quan trọng đối với chúng và đã có thể thu được từ sự lựa chọn của tự nhiên; và nó là như thế; tôi không hư nghi ngờ màu xanh đó là gây ra do nguyên nhân xác định, có lẽ là do sự lựa chọn giới tính. Một cây tre cao ở quần đảo Malay trèo những cây cao nhất với sự trợ giúp đắc lực của các cái móc tập hợp xung quanh những phần cuối của các nhánh, và công cụ này không hề nghi ngờ gì cả là bộ phận quan trọng nhất đối với cây; nhưng chúng ta cũng thấy những cái móc tương tự trên nhiều cây mà không có con trèo, cái móc của cây bamboo có thể xuất hiện do các quy luật tăng trưởng chưa được biết tới, và đã được các cây có sự thay đổi sau này tận dụng và trở thành cây leo. Phần da trần trên đầu của một vulture thông thường được coi như là một sự thích nghi trực tiếp với việc đầm mình trong chất thải; và do đó nó có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của các chất liệu phế thải; nhưng chúng ta phải hết sức thận trọng khi rút ra những suy luận như vậy, khi chúng ta nhìn thấy mảng da trần trên đầu của con gà tây đực được nuôi sạch sẽ cũng tương tự như thế. Những vết rãnh trên hộp sọ của các coấn động vật có vú khi còn bé đã trở nên thích nghi hoàn hảo cho việc hỗ trợ quá trình sinh sản, và chắc chắn chúng làm dễ dàng hơn, hoặc có thể là không thể thiếu cho hoạt động này; nhưng khi những đường rãnh đó xuất hiện trong hộp sọ của các con chim và bò sát con, những con mà chỉ phải phá vỡ vỏ trứng để chui ra, chúng ta có thể suy luận rằng cấu trúc này hình thành từ quy luật của sự tăng trưởng, và đã được tận dụng trong quá trình sinh đẻ của các loài động vật cao cấp hơn. 
Chúng ta hoàn toàn không biết gì về các nguyên nhân gây ra các biến đổi nhỏ và không quan trọng; và chúng ta ngay lập tức nhận thức ra điều này khi suy nghĩ về các điểm khác biệt trong các con giống của động vật thuần hóa nước khác nhau - nhất là trong các nước kém văn minh hơn, nơi có rất ít sự lựa chọn nhân tạo. Những người quan quát kỹ lưỡng tin rằng khí hậu ẩm thấp có ảnh hưởng tới sự phát triển của bộ lông và rằng bộ lông đó có liên quan đến cái sừng. Những con giống sống trên núi lúc nào cũng khác so với con giống ở vùng thấp; và một đất nước có nhiều đồi núi sẽ ảnh hưởng tới các chi sau vì phải sử dụng chúng nhiều hơn, và thậm chí có thể là ảnh hưởng tới cả hình dạng khung xương chậu; và do đó thông qua quy luật của sự biến đổi tương đồng, ảnh hưởng tới cả chi trước, và thậm chí đầu cũng có khi bị tác động tới. Hình dạng của khung xương chậu có thể bị ảnh hưởng bởi áp lực của sức nặng của đầu đứa con trong từ cung. Việc thở nhiều cần thiết ở những vùng cao, chúng ta có lý do để tin như thế, sẽ tăng kích cỡ của ngực và một lần nữa mối quan hệ qua lại lại đóng vai trò ở đây. Những con vật được nuôi bởi những người chưa phát triển đến trình độ cao trong các nước khác nhau sẽ thường phải đấu tranh cho sự sinh tồn của chính chúng, và trong một chừng mực nào đó chịu sự ảnh hưởng của lựa chọn của tự nhiên, và các cá thể với điều kiện thể trạng khác biệt có thể thích nghi tốt nhất với khí hậu khác biệt; và chúng ta có lý do để tin là thể trạng và màu sắc có quan hệ qua lại với nhau. Những người quan sát tốt cũng phát biểu rằng trong những con gia súc, khả năng dễ bị tấn công bởi các con ruồi cũng có quan hệ với màu sắc của chúng, cũng như khả năng dễ bị các loài cây tiêm chất độc; như thế tức là màu sắc cũng chịu sự chi phối của sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng chúng ta còn quá ít kiến thức để phỏng đoán về tầm quan trọng tương đối của vài quy luật đã được biết và chưa được biết của sự biến đổi; và ở đây khi tôi nói đến chúng là chỉ để cho thấy nếu chúng ta không thể giải thích những điểm khác biệt trong đặc điểm của các con giống thuần hóa của chúng ta, những cái mà chủng ta thường thừa nhận là xuất hiện thông qua thế hệ thông thường, chúng ta phải không được nhấn mạnh quá nhiều vào sự thiếu hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân chính xác của những điểm khác biệt nhỏ tương đồng giữa các loài. Tôi đã có thể cung cấp nhũng bằng chứng, với mục đích tương tự, cho các điểm khác biệt giữa các chủng tộc người mà có đặc điểm hết sức cụ thể; tôi xin nói thêm là chúng ta có thể biết rõ thêm đôi chút về nguồn gốc của các điểm khác biệt này, chủ yếu thông qua sự lựa chọn giới tính của một loài cụ thể, nhưng nếu không đi vào quá chi tiết thì lý lẽ của tôi sẽ trở nên không có giá trị. 
Những nhận xét trên đã khiến tôi muốn nói đôi điều về sự phản đối gần đây được một số nhà tự nhiên học đưa ra chống lại học thuyết vị lợi rằng mọi chi tiết của cấu trúc được tạo thành đều có lợi cho cơ thể chủ. Họ tin rằng rất nhiều cấu trúc được tạo ra để làm đẹp trong con mắt của con người hoặc chỉ là biến thể. Nếu học thuyết này nếu đúng thì nó sẽ làm cho lý thuyết của tôi sụp đổ. Nhưng tôi hoàn toàn tin rằng nhiều cấu trúc không có mục đích sử dụng trực tiếp đối với cơ thể chủ. Điều kiện sống bên ngoài có thể có một chút ít ảnh hưởng tới cấu trúc, hoàn toàn không quan hệ gì với những lợi ích mà nhờ đó có được. Mối quan hệ tăng trưởng không nghi ngờ gì cả có vai trò quan trọng nhất, và một sự biến đổi có ích của một bộ phận sẽ thường khiến cho các bộ phận khác có những thay đổi đa dạng nhưng không có ích. Như thế, những đặc điểm mà trước đây có ích, hoặc đã từng hình thành thông qua mối quan hệ của tăng trưởng, hay do các nguyên nhân nào đó chưa được biết tới, có thể xuất hiện tuân theo quy luật của sự quay trở lại, mặc dù bây giờ không có tác dụng gì. Ảnh hưởng của sự lựa chọn giới tính, khi được thể hiện trong vẻ đẹp để quyến rũ các con cái, có thể được gọi là có ích trong ngữ cảnh khá gượng ép. Nhưng cho đến nay điểm xem xét quan ừọng nhất là phần chủ đạo của tổ chức của mọi cá thể đều đơn thuần là do sự kế thừa; và như thế, cho dù mỗi cá thể chắc chắn là sẽ thích hợp tốt với nơi sinh sống của chúng trong tự nhiên, rất nhiều cấu trúc hiện tại không có mối quan hệ trực tiếp với thói quen cuộc sống của mỗi loài. Do đó chúng ta khó có thể tin rằng chân có màng của các con ngỗng sống ở trên cao hay của các con chim chiến là có công dụng đặc biết đối với các con chim này; chúng ta không thể tin rằng xương tương tự trong cánh tay của con khỉ, trong chân trước của con ngựa, trong cánh của con doi, và trong chân chèo của con hải cẩu, là hữu dụng đối với các con vật này. Chúng ta có thể khẳng định một cách chính xác là những cấu trúc này là do sự di truyền. Nhưng đối với các con tổ tiên của loài ngỗng sống trên vùng đất cao và của chim chiến, chân có màng đã từng có ích như là chúng có ích đối với các chim sống dựa vào nước hiện đang tồn tại. Như thế chúng ta có thể tin rằng tổ tiên của hải cẩu không có chân chèo mà có chân với năm ngón thích hợp cho việc đi lại và cầm nắm;và chúng ta có thể dám đi xa hơn nữa khi tin có vài đoạn xưomg trong các chi của con khỉ, ngựa, và doi đã được di truyền lại từ cùng một tổ tiên chung, đã từng có tác dụng đặc biệt đối với chúng, những con tổ tiên, hơn là đối với những con đang tồn tại hiện nay có các thói quen hết sức đa dạng. Chính vì thế chúng ta có thể suy luận rằng những đoạn xưomg này có lẽ đã được hình thành thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, trước đó đã chịu ảnh hưởng, như hiện nay, của vài quy luật của di truyền, sự quay trở lại, quan hệ của tăng trưởng... Do vậy mọi chi tiết trong cấu trúc của mọi sinh vật sống (chịu ít tác động của điều kiện sống bên ngoài) có thể được quan niệm, hoặc là đã có công dụng đặc biệt đối với loài tổ tiên, hoặc là có công dụng đặc biệt như hiện nay đối với con cháu - hoặc là trực tiếp hay gián tiếp thông qua các quy luật phức tạp của tăng trưởng.
Sự lựa chọn của tự nhiên không thể nào tạo ra bất cứ chỉnh đổi nào trong bất kỳ một loài nào chỉ có lợi cho loài khác; mặc dù nhờ có tự nhiên một loài liên tục tận dụng được, và có lợi từ cấu trúc của loài khác. Nhưng sự lựa chọn của tự nhiên có thể và đang thường tạo ra những cấu trúc có hại trực tiếp tới các loài khác, như chúng ta thấy cái răng nanh của con rắấn độc, và cơ quan đẻ trứng của con tò vò, mà nhờ nó các trứng được đặt trong cơ thể sống của các con côn trùng khác. Nếu ai đó có thể chứng minh rằng bất cử phần nào của của cấu trúc của bất cứ loài nào được hình thành chỉ cho lợi ích của loài khác, điều này sẽ làm sụp đổ lý thuyết của tôi, bởi vì những bộ phận kiểu đó không thể tạo ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên. Mặc dù nhiều lời phát biểu về ảnh hưởng này có thể tìm thấy trong các tác phẩm về lịch sừ tự nhiên, nhưng tôi không hề tìm thấy một lời phát biểu nào cảm thấy có trọng lượng cả. Một thừa nhận là những con rắn chuông có răng nanh độc để bảo vệ bản thân nó và giết chết con mồi; nhưng có một số học giả cho rằng cũng trong thời điểm đó, cái chuông của con rắn này cũng gây hại cho nó, nó báo hiệu cho con mồi phải trốn đi. Tôi cũng sẽ hầu như tin ngay rang con mèo cong phần sau của đuôi nó khi chuẩn bị vồ, nhằm cảnh báo con chuột khốn khổ. Nhưng tôi không có thời gian và khoảng trống ở đây để đi vào cụ thể trường hợp này hay trường hợp khác. 
Sự lựa chọn của tự nhiên sẽ không bao giờ tạo ra trong cơ thể nó bất cứ thứ gì có hại cho bản thân nó, bởi vì sự lựa chọn của tự nhiên chỉ ảnh hưởng thông qua và để cho có lợi cho mỗi cá thể. Như ông Paley đã nhận xét không một cơ quan nào được hình thành để gây ra đau đớn hay gây hại cho cơ thể chủ. Nếu chúng ta so sánh điểm tốt và xấu trong toàn bộ cấu trúc cơ thể, thì cán cân sẽ nghiêng về bên có lợi. Khi thời gian trôi đi và điều kiện sống thay đổi, nếu bất cứ bộ phận nào trở nên có hại, nó sẽ bị biến chỉnh, còn nếu không thì nó sẽ bị tuyệt chủng, như hàng triệu con đã bị tuyệt chủng. 
Sự lựa chọn của tự nhiên chỉ có xu hướng biến mỗi cá thể sống trở nên hoàn thiện như, hoặc hơn một chút các cư dân khác của cùng một nước mà canh tranh với nó trong cuộc đấu tranh cho sự sống. Và chúng ta thấy là đây chính là mức độ hoàn thiện đạt được trong điều kiện tự nhiên. Chẳng hạn như những cây cối con vật bản địa của Niu Di Lân nếu so sánh với nhau thì chúng khá hoàn thiện nhưng chúng lại phải nhanh chóng nhường bước cho các cá thể đến từ châu âu. Sự lựa chọn của tự nhiên không sản sinh ra sự toàn mỹ tuyệt đối, và chúng ta cũng không thường gặp sự toàn mỹ này với tiêu chuẩn cao trong điều kiện tự nhiên. Sự điều chỉnh ánh sáng, theo nhận định của những người nhiều kinh nghiệm và uyên bác, thậm chí là không hoàn hảo trong cơ quan gần như hoàn hảo, như của con mắt. Nếu như lý lẽ khiến chúng ta ngưỡng mộ vô số những bộ máy không thể bắt chước được do tự nhiên tạo ra, chính lý lẽ đó, mặc dù chúng ta có thể dễ dàng mắc lồi ở hai phía, nói với chúng ta rằng vài bộ máy khác kém hoàn hảo hơn. Liệu chúng ta có thể coi cái vòi của ong bắp cày hay của ong là hoàn thiện, khi được sử dụng để chống lại sự tấn công của nhiều con thú, không thể thu lại được do răng cưa nhỏ ở đằng sau, và chắc chắn sẽ làm cho con côn trùng bị chết do tiết ra trong cơ quan nội tạng của nó? 
Nếu chủng ta nghĩ cái vòi của con ong, lúc đầu tồn tại trong loài tổ tiên xa xôi là không có ích và là dụng cụ kiểu răng cưa, giống như cái vòi của rất nhiều thành viên thuộc nhóm lớn, đã được điều chỉnh nhưng chưa được hoàn thiện cho mục đích hiện tại, với chất độc ban đầu làm cho mẩn ngứa trên da sau đó, chúng ta có lẽ có thể hiểu như thế nào mà việc sử dụng cái vòi lại hay gây ra cái chết của bản thân con côn trùng đó: vì nếu trên tổng thể mà cái vòi có ích cho cộng đồng, nó sẽ đáp ứng đầy đủ điều kiện của sự lựa chọn của tự nhiên, mặc dù nó có thể gây ra cái chết của một vài thành viên. Nếu chúng ta thật sự ngưỡng mộ sức mạnh của mùi hưomg thơm tuyệt trần mà nhờ đó nhiều con côn trùng đực tìm được con cái, liệu chúng ta có thể ngưỡng mộ sản phẩm đó chỉ cho mục đích duy nhất này của hàng nghìn tiếng vo ve, mà hoàn toàn không có lợi gì cho cộng đồng xét trên bất kỳ góc độ nào, và cái mà cuối cùng bị tiêu diệt bởi những con ong vô sinh và năng động? Có thể là khó khăn nhưng chúng ta phải ngưỡng mộ tính tàn bạo của con ong chúa, cái thôi thúc nó giết chết những đứa con ong chúa tương lai ngay khi chúng được sinh ra; hoặc tự tiêu diệt mình trong cuộc chiến; bởi vi chắc chắn điều này là có lợi cho cộng đồng: tình cảm của mẹ hay tính tàn nhẫn của mẹ, may mắn là cái sau hiếm thấy, tất cả là đều là như nhau trước sự lựa chọn của tự nhiên tàn khốc. Nếu chúng ta ngưỡng mộ những bộ máy tuyệt vời này, nhờ chúng mà các bông hoa của orchis và nhiều cây khác có được khả năng sinh sản thông qua tác nhân côn trùng, liệu chúng ta có thể coi sự phát tán bụi phấn hoa dày đặc bởi các cây thông của chúng ta cũng hoàn hảo như thế, để sao cho một vài hạt nhỏ may mắn có thể được gió cuốn đi đến các noãn?
Tổng kết chương - Chúng ta trong chương này đã thảo luận một vài điểm khó khăn và sự phản đối chống lại lý thuyết của tôi. Nhiều trong số chúng là rất nguy hiểm; nhưng tôi nghĩ qua thảo luận, chúng ta đã làm sáng tỏ được một số vấn đề mà nếu chỉ dựa vào lý thuyết sáng tạo độc lập thì hoàn toàn không thể hiểu nổi. Chúng ta đã nhận thấy rằng các loài ở bất kỳ giai đoạn nào đó không phải là biến thiên không có giới hạn, và không liên hệ với nhau thông qua vô số các chuyển đổi trung gian, một phần là do sự lựa chọn của tự nhiên lúc nào cũng diễn ra chậm chạp, và trong một thời điểm nhất định, chỉ tác động lên một vài dạng thức; và phần nào bởi vì chính quá trình của sự lựa chọn tự nhiên bao hàm sự thay thế và tuyệt chủng liên tục của các trạng thái chuyển hóa trung gian và trước đó. Những loài họ hàng gần gũi hiện đang sống trên khu vực liên tục chắc chắn đã phải được hình thành khi khu \ạrc này bị đứt đoạn, và khi điều kiện sống không chuyển biến trên các phần khác nhau một cách không nhận biết được. Khi hai biến thể hình thành ừên hai vùng khác biệt của một khu vực liên tục, một biến thể trung gian thường được hình thành, thích hợp với vùng trung gian; nhưng dựa vào những lý lẽ đưa ra, biến thể trung gian sẽ thường tồn tại với số lượng ít hơn so với hai dạng thức mà nó liên kết; kết quả là hai dạng thức được liên kết này, với những biến đổi và cải thiện nhiều hơn nữa, và do tồn tại với số lượng nhiều hơn, sẽ chiếm ưu thế lớn so với biến thể trung gian kém đông đúc này, và nhờ đó mà sẽ thành công trong việc thay thế rồi dẫn đến sự tuyệt chủng của cá thể trung gian. 
Chúng ta cũng đã thấy trong chưomg này là chúng ta nên hết sức cẩn thận khi kết luận những thói quen cuộc sống khác biệt nhất không thể chuyển hóa lẫn nhau; chẳng hạn như con doi đã không thể được hình thành nhờ vào sự lựa chọn của tự nhiên từ một con vật mà lúc đầu chỉ có thể lượn trong không trung. 
Chúng ta đã biết một loài trong điều kiện sống mới có thể thay đổi thói quen của nó, hoặc đa dạng hóa thói quen, với vài thói quen không hề giống với của các thành viên cùng loài gần gũi nhất của nó. Vì thế chúng ta có thể hiểu, nhưng phải luôn nhớ mỗi cơ thể sống đều cố gắng tồn tại được ở bất cứ nơi nào nó có thể tồn tại, bằng cách nào mà nó đã xuất hiện: có những con ngỗng cao nguyên với chân có màng, chim gõ kiến sống ở trên mặt đất, chim hét lặn dưới nước, hải âu với thói quen của chim anca. 
Mặc dù niềm tin rằng một bộ phận hoàn hảo như con mắt có thể đã được hình thành thông qua sự lựa chọn của tự nhiên là quá đủ để làm ngạc nhiên bất cứ ai, nhưng trong trường hợp của bất cứ bộ phận nào, nếu chúng ta biết đến các chuồi chuyển hóa dài phức tạp, mỗi cái đều tốt cho cơ thể chủ, thì trong điều kiện sống thay đổi, không hề có sự không thể mang tính logic trong việc hấp thụ được bất cứ mức độ nào có thể hình dung ra của sự hoàn hảo thông qua sự lựa chọn của tự nhiên. Trong trường hợp chúng ta không biết những bước chuyển hóa trung gian, chúng ta phải hết sức cẩn thận khi kết luận không bước trung gian nào đã tồn tại, vì sự tưomg đồng của nhiều phần hoặc bộ phận và các trạng thái trung gian của chúng thể hiện những sự chuyển hóa hoàn toàn trong chức năng ít nhất là có thể xảy ra. Chẳng hạn như bóng cá rõ ràng là đã chuyển hóa thành lá phổi thở khí. Một bộ phận trong cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng rất khác nhau, và sau đó được chuyên môn hóa chỉ thực hiện một chức năng; và hai bộ phận hoàn toàn khác biệt đã thực hiện cùng một chức năng trong cùng một lúc, một cái được hoàn thiện trong khi được hỗ trợ bởi cái còn lại, chắc chắn thường phải chủ yếu tạo điều kiện cho sự chuyển đổi. 
Chúng ta còn quá thiếu hiểu biết, trong hầu hết các trường hợp, để có thể khẳng định chắc rằng bất cứ phần hay bộ phận nào là không hề quan trọng gì đối với đcri sống của một loài, rằng các biến đổi trong cấu trúc của nó đã không thể được tích tụ một cách chậm chạp nhờ vào sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng chúng ta có thể tự tin nói rằng nhiều biến đổi, hoàn toàn là do các quy luật của tăng trưởng, và ban đầu không hề có ích cho loài xét trên mọi góc độ, nhưng sau này đã được con cháu tận dụng. Chúng ta cũng có thể tin một bộ phận trước đây hết sức quan trọng thường được giữ lại (như cái đuôi của một động vật nước được giữ lại bởi con cháu sống trên cạn của nó), mặc dù nó đã trở nên quá không cần thiết tới mức nó không thể, trong tình trạng hiện tại, có được thông qua sự lựa chọn của tự nhiên - sức mạnh chỉ tác động thông qua sự duy trì các biến đổi có lợi trong cuộc đấu tranh sinh tồn. 
Sự lựa chọn của tự nhiên sẽ chẳng sản sinh ra cái gì trong một loài mà chỉ có lợi hay có hại cho loài khác: cho dù nó có thể tạo ra dễ dàng các phần hay bộ phận, và sự thải bỏ rất có ích hoặc thậm chí không thể thiếu, hoặc là rất có hại đối với loài khác, nhưng trong tất cả các trường hợp thì đều có ích cho cơ thể chủ. Sự lựa chọn của tự nhiên trong mồi nước đã chứa nhiều động thực vật phải chủ yếu thông qua sự cạnh tranh của các cư dân này với cư dân khác, và do đó sẽ tạo ra sự hoàn thiện, hay sức mạnh trong cuộc chiến sinh tồn, chỉ theo chuẩn mực của đất nước đó. Chính vì thế, các cư dân của một nước, thông thường là các nước nhỏ, sẽ thường yếu thế, như chúng thấy chúng thực sự yếu thế, trước các cư dân của nước khác lớn hơn. Bởi vì trong các nước lớn hơn sẽ có nhiều cá thể hơn, và nhiều dạng thức đa dạng hơn, và sự cạnh tranh ở đó khốc liệt hơn, và như thế tức là tiêu chuẩn của sự hoàn thiện cũng cao hơn. Sự lựa chọn của tự nhiên không nhất thiết sinh ra sự hoàn mỹ tuyệt đối, và, như chúng ta có thể phán xét từ năng lực hạn chế của mình, sự hoàn mỹ tuyệt đối không thể tìm thấy ở mọi nơi. 
Dựa trên lý thuyết của sự lựa chọn tự nhiên, chúng ta có thể hiểu thấu đáo ý nghĩa của tư tưởng cổ xưa trong lịch sử tự nhiên, Natura non facit saltum. Tư tưởng cổ xưa này, nếu chúng ta chỉ nhìn vào các cá thể hiện tại, không hoàn toàn đúng, nhưng nếu chúng ta để ý đến tất cả các cư dân trong quá khứ, thì lý thuyết của tôi chắc chắn phải đúng.
Mọi người thường công nhận rằng tất cả các cơ thể sống đã được tạo ra nhờ vào hai quy luật vĩ đại - Tính đơn nhất của Kiểu loại, và Các điều kiện của Sự sinh tồn. Khi nói tính đơn nhất của kiểu loại có nghĩa là một sự thống nhất cơ bản trong cấu trúc, mà chúng ta nhìn thấy trong các thực thể hữu cơ của cùng lớp, và cái mà hoàn toàn độc lập với thói quen cuộc sống của chúng. Dựa trên lý thuyết của tôi, tính đơn nhất của kiểu loại được giải thích bằng tính đơn nhất của sự di truyền. Cụm từ các điều kiện của sự sinh tồn, thường được cho rằng bởi Cuvier hình tượng, hoàn toàn phù hợp với sự lựa chọn của tự nhiên. Bởi vì sự lựa chọn của tự nhiên tác động thông qua hoặc là bây giờ thích nghi với các bộ phận thay đổi của mỗi cá thể sống với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ; hoặc bằng cách đã thích nghi chúng trong suốt giai đoạn dài đã qua; sự thích nghi trong một số trường hợp được trợ giúp bởi việc không sử dụng và sử dụng, bị ảnh hưởng trực tiếp yếu ớt của điều kiện sống bên ngoài; và trong tất cả các trường hợp chịu sự chi phối của vài quy luật tăng trưởng. Với lý do này, trên thực tế, quy luật của Các điều kiện của Sự sinh tồn là quy luật cao hơn; do nó bao gồm, thông qua sự di truyền của các sự thích nghi trước, quy luật của Tính đơn nhất của Kiểu loại.
CHƯƠNG VII 
BẢN NĂNG 
Bản năng có thể so sánh được với thói quen, nhưng khác biệt về nguồn gốc - Bản năng đã thay đổi -Các con rệp vừng và kiến - Các bản năng có thể biến đổi - Các bản năng trong điều kiện thuần hóa, nguồn gốc của chúng - Bản năng tự nhiên của chim cu cu, ostrict, và ong nghệ - Kiến thợ - ong, và bản năng xây tổ của nó - Những khó khăn liên quan tới lý thuyết về sự lựa chọn tự nhiên của bản năng - Các con côn trùng vô tính và không có khả năng sinh sản - Tổng kết Chủ đề về bản năng có thể hữu dụng trong các chương trước, nhưng tôi nghĩ là sẽ tốt hơn nếu thảo luận chủ đề này một cách riêng rẽ, đặc biệt là khi bàn về bản năng xây tổ tuyệt vời của các con ong, và bản năng này đối với nhiều bạn đọc có lẽ sẽ là một khó khăn đủ lớn để có thể quang bỏ đi lý thuyết của tôi. Phải nói trước rằng tôi không có liên quan gì tới nguồn gốc của các sức manh tinh thần chủ đạo, hơn là với sức bản thân sức mạnh của cuộc sống. Chúng ta chỉ quan tâm tới tính đa dạng của bản năng và các đặc tính tinh thần khác của các coấn động vật thuộc cùng lớp. 
Tôi không có ý định đưa ra bất cứ định nghĩa nào về bản năng. Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh là vài biểu hiện xúc cảm được xếp vào dạng bản năng; nhưng tất cả mọi người đều hiểu nó có nghĩa là gì, khi người ta nói bản năng thúc đẩy con chim cu cu di cư và đẻ trứng trên tổ của các con chim khác. Một hành động mà bản thân chúng ta cần phải trải qua và có kinh nghiệm mới thực hiện được, khi được thực hiện bởi một con vật, nhất là bởi con con, không có trải nghiệm nào, và khi được thực hiện bởi nhiều con vật theo cùng một cách, không biết với mục đích gì để chúng thực hiện hành động này, thì thường được coi đó là mang tính bản năng. Nhưng tôi có thể chứng minh là không một đặc điểm nào của bản năng là phổ biến. Như ông Pierre Huber phát biểu, một phần nhỏ của phán xét và lý lẽ, thường có vai trò nhất định, thậm chí trong các con vật rất bé nhỏ trong tự nhiên. 
Frederick Cuvier và vài nhà tâm lý học khác đã so sánh thói quen với bản năng. Sự so sánh này, tôi nghĩ, đưa ra một quan niệm chuẩn xác đáng chú ý về khung của tư duy mà trong đó một hành động bản năng được thực hiện, nhưng cho biết nguồn gốc của nó. Có biết bao hành động vô thức theo thói quen được thực hiện, thực sự là có những đối nghịch với mong muốn có ý thức của chúng ta! Nhưng chúng có thể được thay đổi bởi mong muốn và lý lẽ. Các thói quen có thể dễ dàng trở nên liên quan với nhau, và với các khoảng thời gian và tình trạng cơ thể nhất định. Khi đã hình thành, chúng thường không thay đổi trong suốt quá trình tồn tại. Vài điểm giống nhau giữa thói quen và bản năng có thể chỉ ra được. Khi hát lại một bài hát nối tiếng, như thế trong bản năng, một hành động này kế tiếp hành động khác bởi giai điệu; nếu một người bị ngat khi đang hát giữa chừng; hay khi đang lặp lại một điều gì đó theo thói quen, anh ta thông thường buộc phải quay trở lại từ đầu để khôi phục lại chuỗi ý nghĩ quen thuộc: như là ông p. Huber phát hiện ra với một con bướm con, mà tạo ra một cái cái võng rất phức tạp; bởi vì nếu ông lấy một con bướm con đã xây xong cái võng của nó, cứ cho là sáu tầng và đặt nỏ trong một cái cái võng chỉ có ba tầng thì con bướm con này đơn thuần chỉ thực hiện xây lại nốt tầng bốn, năm và sáu. Còn nếu một con bướm con lấy ra khi nó đang xây, cứ cho là ba tầng và đặt nó vào một cái cái võng xây xong sáu tầng sao cho phần lớn công việc đã làm hộ nó, không hề cảm thấy có lợi gì cả, nó cảm thấy xấu hổ và để hoàn thành cái cái võng của mình, nó có vẻ ép bản thân bắt đầu từ tầng thứ ba, nơi mà mà nó đang dang dở, và do đó cố gắng hoàn thành công việc đã được hoàn thành. 
Nếu chúng ta giả định bất cứ hành động theo thói quen nào được di truyền - và tôi nghĩ nó có thể chứng minh thực tế này đã xảy ra - thì sự giống nhau giữa cái ban đầu là một thói quen và một bản năng trở nên rất gần gũi tới mức không thể phân biệt. Nếu thiên tài Mozart, không chơi pianô lúc ba tuổi khi hầu như chưa thực hành gì, mà chơi bản nhạc đúng như kiểu không thực hành, ông ta đã có thể được nói thực sự chơi theo bản năng của mình. Nhưng chúng ta sẽ mắc phải một lỗi nghiêm trọng khi giả định rằng nhiều bản năng hơn có được nhờ vào thói quen trong một thế hệ, và sau đó chuyển lại nhờ vào di truyền cho các thế hệ kế tiếp. Người ta có thể chứng minh rõ ràng những bản năng tuyệt vời nhất mà chúng ta biết tới, những bản năng của con ong và kiến, không thể học được. 
Mọi người đều công nhận bản năng là quan trọng như cấu trúc hiện hữu hình đối với lợi ích của mỗi loài, trong điều kiện sống hiện tại của nó. Trong điều kiện sống thay đổi, ít nhất có thể là các biến đổi nhỏ của bản năng có thể có lợi cho một loài; và nếu người ta chứng minh được các bản năng thực sự thay đổi ít thì tôi không thấy có khó khăn nào để sự lựa chọn của tự nhiên duy trì và tích tụ liên tục các biến đổi của bản năng tới mức độ có lợi. Tôi tin chính như thế mà tất cả các bản năng phức tạp nhất bắt nguồn. Vì các chỉnh đổi của cấu trúc hữu hình xuất hiện, được tăng lên bởi việc sử dụng hay thói quen, và bị làm suy giảm hoặc mất đi bởi sự không sử dụng, tôi không nghi ngờ bản năng cũng tưcmg tự thế. Nhưng tôi tin các ảnh hưởng của thói quen chi là phụ nếu so với các ảnh hưởng của sự lựa chọn tự nhiên của cái có thể được gọi là các biến đổi ngẫu nhiên của bản năng; chính là những biến đối hình thành từ những nguyên nhân chưa biết tới tạo ra các sai lệch nhỏ của cấu trúc cơ thể. Không một bản năng phức tạp nào có thể được tạo ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên, trừ khi bởi sự tích tụ chậm chạp, dần dần, các biến đổi nhỏ bé nhưng có lợi. Do vậy như trong trường hợp của cấu trúc cơ thể, chúng ta phải tìm ra trong tự nhiên, không phải các là các sự chuyển hóa thực sự mà thông qua đó các bản năng phức tạp được hình thành - bởi vì những cái đó chỉ có thể tìm thấy trong các cá thể khai sinh của mồi loài - nhưng chúng ta phải tìm thấy trong các nhánh con cháu sau này vài bằng chứng cho những kiểu chuyển đổi như vậy; hoặc ít nhất chúng ta phải có thể chứng minh những thay đổi của vài dạng loại là có thể xảy ra; và điều này là chúng ta chắc chắn có thể làm được.. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi tìm ra, tính đến cả các bản năng của động vật ít được quan sát trừ ở châu âu và Bắc Mỹ, và cả không bản năng nào được biết tới trong sổ các loài đã bị tuyệt chủng, rất thường xuyên các bước chuyển hóa dẫn tới sự hình thành các bản năng phức tạp nhất có thể tìm ra được. Quan điểm của Natura non facit saltum áp dụng được với độ thích hợp gần như tưorng tự cho các bản năng của các bộ phận cơ thể. Sự thay đổi của bản năng có thể đôi khi được trợ giúp bởi cùng loài có các bản năng khác biệt trong các giai đoạn sống khác nhau, hay trong các mùa khác nhau của năm, hay ở trong các tình huống khác nhau...; trong trường hợp đó hoặc một bản năng này hay bản năng khác được sự lựa chọn của tự nhiên duy trì. Và như thế tính đa dạng của bản năng trong cùng loài có thể được chứng minh xuất hiện trong tự nhiên. 
Một lần nữa như trong trường hợp cấu trúc cơ thế, và khá đúng với lý thuyết của tôi, bản năng của mỗi loài là có ích cho bản thân chúng; nhưng như chúng ta được biết, không bao giờ tạo ra chỉ tốt cho các loài khác. Một trong những ví dụ cụ thể nhất về một động vật thực hiện một hành động chi có lợi cho một con khác, mà tôi quen thuộc, là aphide sằn sàng tiết chất ngọt cho loài kiến: chúng tự nguyện làm việc này như thế nào thì xin mời các bạn xem sự miêu tả này của tôi. Tôi loại ra tất cả các con kiến từ một nhóm khoảng mười hai con aphide trên một phiến lá cây, và không cho chúng tụ họp lại trong vòng vài giờ. Sau khoảng thời gian này, tôi cảm thấy chắc chắn rằng con rệp vừng muốn tiết chất dịch ngọt. Tôi quan sát chúng một lúc qua kính hiển vi, nhưng không con nào tiết dịch cả; tôi sau đó vuốt ve chúng bằng một sợi tóc theo đúng một cách giống nhất như kiểu của con kiến sử dụng ăng ten của nó đối với con rệp vừng; nhưng cũng không con nào tiết dịch. Sau đó, tôi để một con kiến chạy vào chỗ các con rệp vừng, và nó ngay lập tức có vẻ như, thông qua sự phấn khích chạy quanh của nó, nhận biết rõ có một đám rệp vừng rất đông; con kiến bẳt đầu trò chơi ăng ten của nó trên bụng của từng con aphis, và mỗi con rệp vừng, sau khi cảm nhận ăng ten, ngay lập tức nâng bụng của nó và tiết ra một giọt chất lỏng ngọt, mà con kiến vô cùng thích thú khi hút vào. Thậm chí là những con rệp vừng nhỏ cũng làm như vậy, chứng tỏ rằng hành động này là mang tính bản năng, không phải là đúc rút từ kinh nghiệm. Nhưng do chất dịch này vô cùng dính, có lẽ tiện lợi cho con rệp vừng nếu tách bỏ đi chất dịch đó; và có lẽ là con rệp vừng theo bản năng tiết chất dịch không chỉ tốt cho kiến. Mặc dù tôi không tin rằng có bất cứ động vật nào trên thế giới này thực hiện một hành động chỉ tốt cho con khác của loài riêng rẽ; nhưng mỗi loài cố gắng tận dụng các bản năng của con khác, như mỗi con tận dụng cấu trúc cơ thể yếu hơn của các con khác. Do đó một lần nữa, trong vài trường hợp, những bản năng nhất định không thể được coi là hoàn hảo tuyệt đối; nhưng vì chi tiết về các điểm này và điểm khác không phải là không thể thiếu, chúng có thể bỏ qua ở đây. 
Như mức độ nào đó của biến đổi của bản năng trong điều kiện tự nhiên, và sự kế thừa của những biến đổi như vậy, là không thể thiếu đối với tác động của sự lựa chọn tự nhiên, như nhiều ví dụ có thể được đưa ra ở đây; nhưng do thiếu thời gian và giấy bút đã cản trở tôi. Tôi chỉ có thể khẳng định chắc rằng các bản năng thực sự là thay đổi - chẳng hạn như bản năng di trú, trong cả phạm vi và phương hướng, và trong toàn bộ sự mất mát của nó. Tương tự như thế với tổ của các con chim, mà một phần thay đổi phụ thuộc vào các tình huống lựa chọn, và vào thiên nhiên và nhiệt độ của đất nước cư cư trú; nhưng thường do nguyên nhân chúng ta không biết; ông Audubon đã đưa ra một vài trường hợp đáng chú ý về sự khác biệt trong các tổ của cùng loài thuộc miền Bẳc và Nam nước Mỹ. Sự sợ hãi kẻ thù nhất định chắc chắn là một đặc tính của bản năng như có thể tìm thấy trong những con chim non, mặc dù nó mạnh thêm thông qua kinh nghiệm, và bởi sự sợ hãi chính kẻ thù của các con vật khác. Nhưng nồi sợ con người dần dần thu được, như tôi ở đâu đó đã chứng minh, bởi rất nhiều cá thể ngụ cư trên các đảo hoang vắng; và tôi có lẽ đã nhìn thấy một ví dụ như thế, thậm chí ở nước Anh, trong sự hoang dại hơn của tất cả các con chim lớn so với của con chim nhỏ hơn của chúng ta; bởi vì những con chim lớn thường bị con người quấy nhiễu. Chúng ta hoàn toàn có thể coi tính hoang dã hơn của các con chim lớn là do nguyên nhân nêu trên; bởi vì ở trên những đảo không có người ở, những con chim lớn không đáng sợ hơn những con chim nhỏ; con chim ác là, hết sức thận trọng ở nước Anh, được thuần hóa ở Na Uy, giống như con quạ màu ở Ai Cập.
Cấu trúc thông thường của của các cá thể cùng loài, sinh ra trong tế giới tự nhiên, là vô cùng đa dạng có thể chứng minh bằng vô số thực tế. Vài trường hợp về thói quen bất thường của một số loài nhất định có thể đưa, những cái nếu có lợi thì có thể sẽ tạo điều kiện phát triển, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, những bản năng hoàn toàn mới. Nhưng tôi nhận thức đầy đủ rằng những lời tuyên bố chung này, nếu không có các chứng cứ đi kèm, khó có thể làm người đọc tin tưởng. Tôi chỉ có thể lặp lại sự đảm bảo của tôi rằng tôi không nói nếu không có chứng cứ xác thực. Khả năng, thậm chí là xác suất, của các biến đổi được di truyền của bản năng trong điều kiện tự nhiên sẽ được làm mạnh thêm bởi việc xem xét một vài trường hợp trong điều kiện thuần hóa. Chúng ta sẽ không có khả năng đế nhận ra những phần tưomg ứng mà thói quen và sự lựa chọn của cái gọi là các biến đổi ngẫu nhiên đã đóng vai trò trong chỉnh đổi các đặc điểm tư duy của các con vật thuần hóa của chúng ta. Một số vì dụ gây tò mò nhưng đáng tin cậy về sự di truyền tất cả các hình dạng của cấu trúc và sở thích, và tưomg tự như thế những mưu mẹo, mánh khóe kỳ lạ nhất, liên quan đến khung tư duy trong những giai đoạn nhất định có thể được đưa ra. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào các trường hợp tương tự của vài giống chó: người ta không thể nghi ngờ là những con chỏ săn non (chính tôi đã biết một ví dụ đáng kinh ngạc) sẽ đôi khi chỉ thậm chí là hỗ trợ những con chó khác ở những lần đầu tiên được mang ra ngoài; tha mồi về chắc chắn là trong một mức độ nào đó đã được di truyền lại bởi loài chó tha mồi; và khuynh hướng chạy xung quanh, thay vì ở một chỗ, đàn cừu bởi con chó chăn cừu. Tôi không thể biết rằng những hành động này, được thực hiện bởi những con chó non chưa hề tiếp xúc với thế giới bên ngoài, và trong cách gần - như tương tự của mỗi cá thể, được thực hiện với sự sung sướng bởi mỗi giống, và mục đích cũng không được biết - bởi vì con chó săn con không biết hơn là nó đánh hơi tìm mồi để giúp chủ nhân của nó, so với con bướm trắng biết tại sao nó đẻ trứng trên lá của cải bắp - Tôi không thấy rằng những hành động này cơ bản là khác nhau khi xét trên góc độ của bản năng thực sự. Nếu chúng ta bắt gặp một loại sói, khi còn bé và chưa được huấn luyện, ngay khi nó trông thấy con mồi, nó đứng yên một chỗ không động đậy gì như là một bức tượng, và sau đó bò từ từ đến với tư thế lạ lùng; và loại sói khác thì chạy xung quanh đàn hươu, thay vì đứng yên một chỗ, và đưa chúng tới một nơi xa, chúng ta chắc chắn có thể gọi đây là những hành động bản năng. Bản năng thuần hóa, như chúng ta có thể gọi nó, thì kém cố định và kém không thay đổi hơn nhiều như bản năng tự nhiên; nhưng chúng lại bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn kém mãnh liệt hơn nhiều; và đã được truyền lại trong một khoảng thời gian ngắn không gì có thể so sánh được, trong điều kiện sống ít cố định hơn. 
Những bản năng thuần hóa, thói quen và cấu trúc này được di truyền mạnh mẽ như thế nào và chúng trờ nên hòa lẫn vào nhau một cách đáng tò mò như thế nào, được thể hiện đầy đủ khi những giống chó khác biệt được lai với nhau. Mọi người biết rằng một sự lai ghép với chó bun đã ảnh hưởng tới sự dũng cảm và cứng rắn của chó săn thỏ qua nhiều thế hệ; một sự lai ghép với chó săn thỏ đã mang tới cho toàn bọ họ nhà chó chăn cừu xu hướng săn thỏ "rừng. Những bản năng thuần hóa, được thử nghiệm bằng cách lai ghép, giống với bản năng tự nhiên, mà trong cách tuông tự trở nên hòa trộn vào với nhau một cách thú vị nhưng khó hiểu, và trong một thời gian dài thể hiện dấu vết của bản năng bố hoặc của mẹ: ví dụ như, ông Le Roy miêu tả một con chó, mà cụ của nó là chó sói, và con chó này chỉ thể hiện tính hoang dã của bố mẹ chúng theo đúng một cách, không đi theo đường thẳng tới chủ nhân khi được gọi. Bản năng thuần hóa đôi khi được nhắc tới như là các hành động đã di truyền từ lâu chỉ từ thói quen ép buộc và lâu dài liên tục, nhưng tôi nghĩ điều này không đúng. Không ai từng nghĩ đến việc dạy, hoặc có lẽ đã dạy chim bồ câu nhào lộn cách nhào lộn - một hành động, như tôi đã từng chứng kiến, được con chim non thực hiện, nhưng con mà chưa bao giờ nhìn một con chim bồ câu nhào lộn. Chúng ta có thể tin rằng một con chim bồ câu nào đó đã thể hiện xu hướng yếu tới thói quen kỳ lạ này; và rằng sự Iựa chọn lâu dài liên tục những cá thể tốt nhất trong các thế hệ kế tiếp nhau đã biến những con chim nhào lộn trở thành như hiện nay; và ở gần vùng Glasgow có các con house-tumbler, như tôi nghe từ ông Brent, những con không thể bay cao quá bốn mươi centmét mà đầu không vượt quá chân sau. Một điều đáng nghi ngờ là liệu đã từng có ai có ý định dạy con chó đánh hơi, nếu như không có con chó nào một cách tự nhiên thể hiện xu hướng kiểu này, và điều này đôi khi được biết là xảy ra, như tôi đã từng thấy một con chó sục thuần chủng. Khi xu hướng đầu tiên đã biểu hiện, sự lựa chọn có chọn lọc và các ảnh hưởng di truyền của sự huấn luyện ép buộc trong mỗi thế hệ kế tiếp nhau sẽ sớm hoàn thành công việc; và sự lựa chọn vô thức vẫn còn làm việc, do mỗi người đều cố mua được, không hề có ý định cải thiện con giống, những con chó đánh hơi và đi săn tốt nhất; mặt khác, trong một vài trường hợp chỉ cần thói quen không là đủ; huấn luyện con thỏ non là khó nhất trong tất cả các con vật; hầu như không có bất cứ con vật nào lại thuần hóa hơn con thỏ nhưng tôi không cho rằng con thỏ đã từng được lựa chọn vì tính thuần hóa của nó; tôi coi chúng ta phải gán toàn bộ sự thay đổi từ tính hoang dã vô cùng tới tính thuần hóa vô cùng, đơn thuần là do thói quen và sự giam hãm lâu dài và kín. Bản năng tự nhiên mất đi trong điều kiện thuần hóa: ví dụ cụ thể về tình trạng này biểu hiện trong những con giống của gà mà hiếm khi thậm chí là không bao giờ "gà ấp trứng", tức là không bao giờ muốn ngồi trên trứng của chúng. Chi tính quen thuộc thôi khiến mọi người không nhìn ra cách tư duy suy nghĩ của các động vật thuần chủng của chúng ta đã bị chỉnh sửa phổ biến và nhiều như thế nào bởi sự thuần hóa. Mọi người khó có thể ngờ tình yêu con người đã trở thành bản năng trong con chó. Tất cả chó sói, cáo, chó rừng và các loài thuộc họ mèo, khi được thuần hóa, hầu như đều rất thích tấn công gia cầm, cừu và lợn; và xu hướng này đã thấy là không thể thay đổi được trong loài chó được mang về nhà khi còn bé từ các nước như Tierra del Fuego và úc, noi những người kém phát triển không giữ các con vật thuần hóa này. Mặt khác, những con chó được huấn luyện của chúng ta, thậm chí là khi con rất bé, cần được dạy là không tấn công gia cầm, cừu và lợn! Một điều chắc chắn là đôi khi chúng cũng tấn công, và sau đó bị đánh; và nếu không dạy được, chúng sẽ bị tiêu diệt; và như thế thói quen, với mức độ nhất định của sự lựa chọn, có lẽ đã phối hợp thông qua sự di truyền trong việc huấn luyện loài chó của chúng ta. Trong khi đó những con gà con đã mất đi, hoàn toàn là do thói quen, sự sợ hãi các con chó và mèo mà chắc chắn là nỗi sợ này trước đây là bản năng của chúng, theo cách tưomg tự như là nó rõ ràng là bản năng của con gà lôi non, mặc dù được nuôi nấng bởi gà mái. Không phải là gà con mất đi toàn bộ nỗi sợ hãi, mà chỉ là nỗi sợ mèo và chó, vỉ khi gà mái kêu cục tác báo hiệu nguy hiểm, chúng sẽ chạy (nhất là đối với con gà tây non) từ chỗ nam dưới con gà mái, ẩn mình trong đám cỏ hay bụi cây xung quanh đấy; và hành động này chắc chán là do bản năng, như chúng ta thấy trong những con chim đất, con chim mẹ của chúng bay mất. 
Nhưng bản năng này được giữ lại trong các con gà bé đã trở nên vô dụng trong điều kiện thuần hóa, bởi vì con gà mái mẹ đã hầu như mất khả năng bay do không sử dụng đến. 
Với lý do này, chúng ta có thể kết luận rằng bản năng thuần hóa đã thu được và bản năng tự nhiên bị mất đi một phần do thói quen, và một phần bởi do sự lựa chọn của con người và sự tích tụ, trong suốt các thế hệ, thói quen và hành động tư duy lạ lùng, mà ban đầu do không hiểu biết nên chúng ta gợi chúng xuất hiện do ngẫu nhiên. Trong vài trường hợp, chỉ thói quen bắt buộc đã đủ đế tạo ra những thay đổi trí óc dược di truyền lại như vậy; trong những trường hợp khác thì thói quen ép buộc không có ảnh hưởng gì, và tất cả đều là kết quả của sự lựa chọn, theo đuổi một cách có phương pháp và không ý thức, nhưng trong hầu hết các trường hợp thì cả sự lựa chọn và thói quen cùng tác động. 
Có lẽ chủng ta sẽ hiểu thấu đáo nhất những bản năng trong thế giới tự nhiên được chỉnh đổi như thế nào bởi sự lựa chọn, bằng cách xem xét vài trường hợp. Tôi chỉ chọn ra ba trong vài trường hợp mà tôi thu thập được. Tôi sẽ để những trường hợp còn lại cho các tác phẩm sau này của mình - chủng là bản năng khiến con chim cu cu đẻ trứng trên tổ của các con chim khác; bản năng làm nô lệ của vài loại kiến nhất định, và khả năng làm lược của ong: hai bản năng sau cùng đã và hiện tại được các nhà tự nhiên học coi là hai bản năng tuyệt vời nhất trong số tất cả các bản năng được biết tới. 
Mọi người hiện tại đều thừa nhận nguyên nhân trung gian và cuối cùng của bản năng của chim cu cu, là con mái đẻ trứng, không phải hàng ngày, mà hai hay ba ngàv một lần; tức là nếu mà con mài này định làm tổ cho chính nó và ngồi trên những quả trứng của nó thỉ những quả ra đầu tiên sẽ không được ấp trong một thời gian nhất định, hoặc là sẽ có những quả trứng và con chim non có tuối khác nhau trong cùng một tổ. Nếu đúng là như thể thì quá trình đẻ và ấp trứng có thể là quá dài, không thuận tiện, nhất là khi chim mái phải di cư rẩt sớm; và những con chim nở sớm sẽ có thẻ chỉ được chim bô cho ăn. Nhưng con chim cu cu Mỹ đúng là đang gặp tình cảnh khó khăn này; con mái tự làm tố cho mình roi lần lượt ấp các quả trứng của nó, tất cả việc làm cùng lúc. Có người khẳng định đôi khi con chim cu cu Mỹ cũng đẻ trứng trên tô của các con chim khác; nhưng theo như tiên sỳ Brewer, một người giàu kinh nghiệm và hiểu biết sâu, thì lời khắng định đó là sai lầm. Tuy nhiên tôi có thể đưa ra vài ví dụ về các loại chim khác nhau mà người ta biết là đôi khi đẻ trứng trên tổ của cảc con chim khác. Bây giờ chúng ta hãy giả thiết những con tổ tiên của loài chim cu cu châu âu của chúng ta có thói quen của loài chim cu cu Mỳ; nhưng con mái đôi khi đẻ trứng trên tổ của các con chim khác. Nếu nhũng con chim hưởng lợi từ thói quen không thường xuyên này, hay nếu những con non trở nên mạnh mẽ hơn nhờ lợi thế được tận dụng bản năng cha mẹ lâm lẫn của chim khác, hơn là của chính cha mẹ chúng nó, con mái có gánh nặng nhung không thể làm nó suy sụp bằng cách sinh ra những đứa con và quả trứng có tuôí khác nhau trong cùng một thời điểm, thì con chim già và con chim non được nuôi nấng sẽ thu được một lợi thế.
Và sự so sánh dẫn tôi tin rằng con chim non nhờ đó được chăm sóc sẽ, thông qua sự di truyền rất dễ theo thói quen không thường xuyên và kỳ lạ của mẹ đẻ chúng, và đến lượt mình chúng sẽ có xu hướng đẻ trứng lên tổ của các con chim khác, và nhờ đó thành công trong việc nuôi con. Thông qua quá trình liên tục của tự nhiên này, tôi tin rằng bản năng kỳ lạ của con chim cu cu của chúng ta có thể, và đã, được tạo ra. Tôi xin nói thêm rằng, theo như tiến sỹ Gray và vài người quan sát khác, con chim cu cu châu âu không hoàn toàn mất đi tình yêu cha mẹ đối với con cái. Thói quen không thường xuyên của của các con chim đẻ trứng trên tổ của con chim khác hoặc là của cùng loài hay khác loài, không phải là hiếm đối với loài Gallinaceae; và điều này có lẽ giải thích nguồn gốc của một bản năng kỳ lạ trong nhóm họ hàng của ostrict. Đối với vài con mái ostrict, ít nhất là trong trường họp của loài nước Mỹ, giao phối rồi đẻ ra những quả trứng đầu tiên trong một tố và sau đó trong tổ khác; và những quả trứng này được con đực ấp. Bản năng này có thể được giải thích bằng thực tế là những con mái đẻ số lượng trứng lớn; nhưng như trong trường họp của con cuckoo, trong khoảng thời gian hai hoặc ba ngày. Tuy nhiên bản năng này của loài ostrict Mỹ vẫn chưa được hoàn thiện; vì một số lượng lớn đáng ngạc nhiên trứng nằm rải rác khắp các cánh đồng đến mức trong một ngày đi tìm kiếm tôi nhặt được không ít hơn hai mươi quả trứng bị thất lạc và lãng phí. 
Nhiều con ong là dạng sống nhờ ở đợ, và luôn luôn đẻ trứng trên tổ của con ong khác loại. Trường hợp này còn đáng chú ý hơn là trường hợp của con chim cu cu; bởi vì loài ong không chỉ có bản năng mà còn có cả cấu trúc được điều chỉnh cho phù hợp với thói quen tầm gửi của chúng; vì chúng không sở hữu cơ quan thụ phấn hoa cáí mà có thể sẽ cần thiết nếu chúng muốn chứa thức ăn cho con ong con của chính chúng. Tương tự vậy, vài loài của sphegidae (các con côn trùng giống như con rệp vừng) sống ãn bám trên các loài khác; và ông Fabre mới đây đã trinh bày những lý do thuyết phục để tin rằng mặc dù Tachytes nigra thông thường làm tố cho chính nó và chứa trong đó các con mồi đã bị tẻ liệt để những con ấu trùng của nó sau này có thức ăn, nhưng khi loài côn trùng này tìm thấy một tổ đã được đào sẵn và có chứa thức ăn của con khác, nó tận dụng phần thưởng này, và trong tình huống này trở thành con vật ăn bám. Trong trường hợp này, giống như trường hợp của con cuckoo, tôi biết chác là sự lựa chọn của tự nhiên đã biến một thói quen không thường xuyên trở thành thường xuyên, nếu là có lợi cho loài, và nếu con côn trùng mà tổ và thức ãn chứa trong đó của nó bị chiếm đoạt trắng trợn, không bị tuyệt chủng.
Bản năng làm nô lệ - Bản năng đáng chú ý này lần đầu tiên được phát hiện ra trong Formica (Polyerges) rufescens của ông Pierre Huber, một nhà quan sát tốt hơn, thậm chí là cả người bố nổi tiếng của ông ta. Những con kiên này hoàn toàn phụ thuộc vào những kẻ nô lệ của nó; nếu không có sự trợ giúp của những tên nô lệ, thì loài kiến này sẽ bị tuyệt chủng ngay trong vòng một năm. Những con đực và con cái có khả năng sinh sản không làm việc. Những con kiến thợ và con cái không cỏ khả năng sinh sàn, mặc đù đa số chúng đều đầy năng lượng và mạnh mẽ trong việc bắt giữ các con nô lệ, không hề làm việc gì khác. Chúng không thể tự làm tổ cho mình, hay cho con ấu trùng của chúng ăn. Khi cái tổ cũ trở nên không còn tiện dụng nữa, và chúng buộc phải di cư, chính là nhừng con nô lệ quyết định sự di cư, và thực tế là trở thành những chủ nhân của nó bàng hàm của chúng. Những chủ nhân này hoàn toàn vô tích sự đến mức mà khi ông Huber nhốt ba mươi con không có bất cứ con nô lệ kèm theo, nhưng lại có rất nhiều thức ăn mà con chủ thích nhất, và cùng với con ấu trùng và con kén để khiến chúng làm việc, nhưne những con kiến này chang làm gì cả, thậm chí chúng còn không tự ăn nổi, và nhiều con đã bị chết vì đói. Ông Huber sau đó đưa vào duy nhất một con nô lệ (F. fusca), và con này ngay lập tức làm việc, cho ãn và cứu sống những con chủ còn sống sót; làm vài cái tô, chăm sóc ấu trùng; và làm mọi thử trở nên bình thường. Điều gì có thể kỳ diệu hơn là những thực tế rõ ràng này? Nếu chúng ta đã không biết bất cứ một con kiến sinh ra để làm nô lệ nào khác, sẽ là vô vọng để tiên đoán một bản năng tuyệt vời như vậy đã được hoàn thiện. 
Formica sanguinea, tương tự như vậy, lần đầu tiên được phát hiện bởi ông p. Huber là một loại kiến nô lệ. Loài này được tìm thấy ở vùng phía nam nước Anh, và ông F. Smith đã quan sát nghiên cứu những thói quen của chúng. Trong viện bảo tàng nước Anh mà tôi mang nợ nhiều với những thône tin quý báu mà tôi được cung cấp về chủ đề này và các chủ đề khác. Mặc dù hoàn toàn tin vào những phát hiện của ông Huber và ông Smith, tôi đà cố gắng tiếp cận chủ đề với sự nghi ngờ, vỉ bất cứ ai cũng đều có lý do xác đáng để nghi ngờ tính đúng đan của một bản năng phi thường và khỏ hiểu như là tự biến mình thành kẻ nô lệ. Do đó ở đây tôi xin đưa ra sự quan sát mà tự chính tôi thực hiện, ít chi tiết hơn một chút. Tôi mở mười bổn tổ của F. sanguima, và trong tất cả các tổ tìm thấy vài con nô lệ. Những con đực và con cái sinh nở được của loài nô lệ chỉ được tìm thấy trong những cộng đồng chuẩn mực và chưa bao giờ được nhìn thấy trong các tổ của F. sanguinea. Những con nô lệ màu đen và không quá nửa cỡ của con kiến chủ màu đỏ, khiến cho sự tương phản bề ngoài của chúng là rất lớn. Khi các tổ có xáo động nhỏ, con nô lệ đôi khi đưa ra, và giống như chủ nhân của chúng, rất tức giận và bảo vệ cái tổ: khi tổ bị xáo động nhiều ấu trùng và kén có nguy cơ gặp nguy hiểm, các con nô lệ làm việc tích cực cùng với chủ nhân để mang những âu trùng này đi tới một nơi an toàn. Như vậy thì chúng ta thây rõ là những con nô lệ cảm thấy hoàn toàn như ở nhà. Trong suốt tháng sáu và tháng bảy, ba năm liên tiếp, tôi đã quan sát nhiều giờ các tổ kiến ở Suưeỵ và Sussex, không bao giờ nhìn thấy một con nô lệ hoặc là rời hoặc vào một cái tô. Do trong những tháng này, con nô lệ có số lượng rât ít, tôi nghĩ chúng có thể cư xử khác đì nếu số lượng đông đúc; nhưng ông Smith đã cho tôi biết rằng ông đã quan sát những cái tổ đó vào tháng năm, sáu và tám, ở cả Surrey và Hampshire, và không bao giờ nhìn thấy một con nô lệ, cho dù số lượng của chúng là lớn ở tháng tám, ra khỏi hoặc đi vào tổ. Vì thế ông ta coi chúng là các con nô lệ trong nhà tuyệt đối. Trong khi đó, thì các con chủ được trông thấy thường xuyên mang chất liệu vào tố, và tất cả thức ăn kiểu loại. Tuy nhiên trong tháng bảy năm nay, tôi bắt gặp một cộng đồng có số lượng các con nô lệ lớn bất bình thường, và tôi trông thấy một số con nô lệ trà trộn lẫn vào với các con chủ rời khỏi tổ và đi dọc cùng con đường tới một cây thông Scotch cao, cách tổ gần hai mươi nhăm centimet. Chúng trèo lên cây này cùng nhau, có lẽ là đê tìm con aphide hay cocci. Theo như ông Huber, người có rất nhiều cơ hội để quan sát, trong nước Thụy Sỳ, các con nô lệ thường xuyên làm việc xây tổ cùng với con chủ, và chỉ mình chúng mở và đóng cửa vào buổi sáng và buổi toi; và như ông Huber diễn đạt rõ, nhiệm vụ chính của nó là đế tìm ra các con aphide. Điểm khác biệt trong các thói quen thường xuyên của con nô lệ và con chủ trong hai nước có lẽ chỉ tùy thuộc vào việc con nô lệ bị bắt với số lượng lớn hơn ở Thụy Sỹ hơn là ở Anh.
Một ngày tôi may mắn có cơ hội chứng kiến sự di cư từ tổ này sang tổ khác, và nó là một trong những cảnh thú vị nhất để chứng kiến các con chủ thận trọng, như ông Huber đã tuyên bố, những con nô lệ của nó bằng quai hàm. Một ngày khác tôi vô cùng ngạc nhiên bởi một so lượng lớn các con nô lệ bâu xung quanh một chồ. chàc chắn là không để tìm thức ăn; chúng tiến tới và bị đuối đi quyết liệt bởi một cộng đồng độc lập của một loài nô lệ (F. fusca)\ và đôi khi tới tận ba trong số này bám vào chân của của loài nô lệ F. sanguinea. Con sau một cách tàn nhẫn giết chết các đối thủ nhỏ hơn, và mang xác chết của những con này tới tổ của chúng làm thức ăn, cách đẩy khoảng hai mươi bảy centimet; và chúng bị cản không để cho nuôi con ấu trùng như là nô lệ. Sau đó tôi đào một nhóm các con ấu trùng của F. ỷusca từ tổ khác, và đặt chúng xuống ở một nơi gần nơi xảy ra đụng độ; chúng bị bắt giữ ngay, và mang đi bởi những con bạo chúa, những con thích làm điều này vô cùng, rốt cuộc thì chúng là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến. 
Cùng lúc đó, tôi đặt trên cùng một nơi một hộp nhỏ các con ấu trùng của loài khác, F. flava, với một số ít các con kiến nhỏ màu vàng vẫn bám vào khu vực tổ như thế. Loài này đôi khi, mặc dù khi hiếm, bị biến thành nô lệ, như đã được ông Smith miêu tả. Mặc dù loài này vô cùng nhỏ bé nhưng chúng lại rất dũng cảm và tôi đã thấy chúng tấn công ác liệt các con kiến khác. Trong một ví dụ, tôi thấy hết sức ngạc nhiên khi tìm ra một cộng đồng kiến F. flava độc lập dưới một tảng đá nằm phía dưới tổ của loài F. sanguinea nô lệ, và khi tôi vô tình dẫm phải hai tổ này, các con kiến nhỏ tấn công các con kiến lớn với sức dũng cảm phi thường. Bây giờ tôi tò mò là liệu F. sanguinea có thể phân biệt con ấu trùng của F. fusca, con thường biến thành nô lệ, với những con của loài F.flava nhỏ nhưng mãnh liệt, mà chúng không bao giờ bắt; và tôi có bằng chứng là chúng đã ngay lập tức phân biệt được; chúng không vui mừng ngay lập tức bắt giữ con ấu trùng F. fusca, trái lại chúng rất sợ hãi khi chúng bắt gặp con ấu trùng, hay thậm chí đất từ tổ của F.flava và ngay lập tức bỏ chạy; nhưng trong khoảng mười lăm phút, ngay sau khi tất cả các con kiến vàng nhỏ đã bỏ đi, chúng lấy lại can đảm và mang con ấu trùng đi. Một buổi tối tôi đã thăm một cộng đồng khác của F. sanguinea, và tìm thấy một số các con kiến này vào tổ của chúng, mang xác chết của F. fusca (cho thấy rằng nó không phải lậ một sự di cư) và nhiều con ấu trùng. Tôi theo dấu vết của chúng khoảng ba mươi nhăm centimet tới một bụi cây rậm rạp, cho tới khi con F. sanguinea cuối cùng đi ra, mang theo một con ấu trùng, nhưng tôi không thể tìm ra cái tổ cô lập này trong bụi cây. Tuy nhiên cái tổ chắc đã phải ở đâu đó, bơi vì hai hay ba con F. fusca đã chạy xung quanh với sự kích động mạnh mẽ và một con đứng nguyên không nhúc nhích với con ấu trùng của nó trên mồm, gần ngôi nhà hoang tàn của chúng.
Đây chính là những thực tế như vậy, cho dù không cần tôi khẳng định lại, đối với bản năng tuyệt vời của việc trở thành nô lệ. Chúng ta đã thấy sự tương phản cực lớn giữa thói quen bản năng của F. sanguinea với của F. rufescens. Con sau không tự xây tổ cho mình, không tự quyết định sự di cư, không thu lượm thức ăn cho bản thân và cho con cái, thậm chí còn không tự ăn được: nó tuyệt đối phụ thuộc vào những con nô lệ đông đúc. Trong khi đó, Formìca sanguinea, sở hữu ít nô lệ hơn nhiều, và càng ít hơn vào thời gian đầu và hè. Các con chủ quyết định xem khi nào và ở đâu thì sẽ xây tô, và khi chúng di cư, chúng mang theo con nô lệ. Cả ở Thụy Sĩ và Anh, con nô lệ có vẻ như rất chăm lo tới con ấu trùng, còn con chủ thì tự nó đi tìm kiếm, săn bắt các con nô lệ. Ớ Thụy Sĩ, những con chủ và nô lệ làm việc cùng nhau, cùng xây và mang thức ăn về tổ: cả hai, nhưng chủ yếu là nô lệ có xu hướng chăm lo, như nó có thể được gọi là như thế, con aphide của chúng; và do vậy cả hai cùng thu lượm thức ăn cho cộng đồng. Tại nước Anh, con chủ thường một mình đi ra ngoài để tìm kiếm vật liệu làm tổ và thức ăn cho bản thân chúng, các con nô lệ và con ấu trùng. Tức là con chủ ở nước Anh thì ít được nô lệ phục vụ hơn nhiều so với con chủ ở Thụy Sĩ. Thông qua những bước nào mà F. sanguinea bắt nguồn, tôi không đủ kiến thức để tiên đoán. Nhưng như những con kiến, mà không phải là nô lệ, sẽ, như tôi thấy, mang đi những con ấu trùng của loài khác, nếu đặt rải rác xung quanh tổ của chúng.
Có thể là những con ấu trùng này ban đầu định để làm thức ăn có thể đã phát triển; và các con kiến đó không hề có ý định nuôi nấng theo bản năng đó, và làm công việc mà chúng sẽ làm. Nếu sự xuất hiện của chúng chứng tỏ có ích cho loài đã bắt chúng -nếu nó có ích hơn nữa đối với loài để bắt giữ các con kiến thợ hơn là nuôi nấng chúng - thói quen thu thập con ấu trùng để làm thức ăn có lẽ thông qua sự lựa chọn của tự nhiên đã được làm mạnh mẽ thêm và trở thành cố định cho mục đích khác biệt là nuôi nấng nô lệ. Một khi bản năng này được hình thành, nếu được triển khai trong chừng mực nhỏ hơn nhiều thậm chí là nhỏ hơn so với F. sanguinea của nước Anh, mà như chúng ta biết ít được trợ giúp từ các con nô lệ hơn so với loài cùng loại tại Thụy Sĩ, tôi không thấy có bất cứ khó khăn nào sự lựa chọn của tự nhiên tăng và biến đổi bản năng - luôn giả định rằng mỗi biến đổi là có ích đối với loài - cho tới khi một con kiến được hình thành hoàn toàn phụ thuộc vào các con nô lệ của nó như loài Formica rufescens. 
Bản năng xây tổ của đàn ong - Tôi ở đây sẽ không đi vào chi tiết nhỏ nhặt của chủ đề này, mà chỉ trình bày phần cơ bản của các kết luận mà tôi đã rút ra. Ai đó chắc chắn phải là vô cảm và ngu ngốc khi mà xem xét cấu trúc hoàn mỹ của một con ong, cực kỳ thích hợp với các mục đích của nó, mà không cảm thấy thán phục, trầm trồ. Chúng ta nghe từ các nhà toán học cho biết các con ong trên thực tế đã giải quyết được một vấn đề hết sức phức tạp và khó hiểu, xây nên cái tổ với hình dáng chuẩn xác để giữ lại được nhiều mật ong nhất có thể, với sự tiêu tốn ít nhất có thể của sáp ong quý báu trong việc xây dựng. Người ta nói rằng kể cả một người thợ thủ công khéo tay, với các dụng cụ và phương pháp thích họp, cũng khó có thể tạo ra được ô trên tổ ong như thực mà một đàn ong xây nên. Nếu được ban cho bất cứ bản năng nào mà bạn muốn, và đầu tiên là không thể hình dung nổi làm cách nào mà chúng tạo ra được tất cả các góc và cái bào cần thiết như thế, hoặc thậm chí hình dung ra khi nào chúng được làm hoàn chỉnh. Nhưng sự khó khăn không lớn như là ban đầu nó có vẻ như thế: Tôi nghĩ tất cả các công việc đẹp đẽ này có thể được làm rõ dựa vào vài bản năng rất đơn giản. 
Tôi được ông Waterhouse hướng dẫn điều tra chủ đề này, người mà đã chứng minh hình dáng của các ô có mối quan hệ gần gũi với sự xuất hiện của các các ô xung quanh; và quan điểm dưới đây có lẽ chỉ nên coi là một sự điều chỉnh lý thuyết của ông ta thôi. Chúng ta hãy nhìn vào nguyên tắc vĩ đại của sự chuyển hóa, và xem liệu Tự nhiên có để lộ cho chúng ta biết phương pháp làm việc của bà hay không. Ở phía bên kia của chùm sêri ngắn, chúng ta có đàn ong nghệ sử dụng cái kén để giữ mật của chúng, đôi khi thêm vào chúng các ống sáp, và tương tự thế tạo nên những ô tròn kỳ lạ và khác biệt của sáp ong. Ở đầu bên kia của chuỗi, chúng ta có thể có các ô lỗ ong của ong hive, đặt trên một lớp đôi: mọi người đều biết mỗi ô này là hình lục lăng đều với các cánh bên của sáu mặt luôn vuông góc với nhau và hợp với nhau thành kim tự tháp, tạo thành bởi ba hình thoi. Ba hình thoi này cỏ các góc nhất định và ba góc mà tạo thành đế hình kim tự tháp của một ô đơn ở một mặt của lỗ tổ ong, đi vào hợp thành nền móng của ba ô liên kết bên mặt đối diện. Trong cái chuỗi giữa sự cực kỳ hoàn hảo của các ô của ong hive và tính đơn giản của ô của những con ong nghệ, chúng ta có các ô của Melipona domestica Mê-xi-cô, được miêu tả và vẽ ra bởi một cách cẩn thận bởi ông Pierre Huber. Chính loài Melipona là có cấu trúc trung gian giữa ong nghệ và ong hive, nhưng giống với con sau hơn: nó tạo ra một cái lỗ sáp ong gần như thông thường của các ô hình trụ, trong đó các con non được ấp và ngoài ra vài ô to của sáp ong để giữ mật. Những cái ô sau này có dạng gần như hình cầu và kích cỡ gần bằng nhau, và gộp lại thành khối lớn dị thường. Nhưng điểm quan trọng cần chú ý là những ô này luôn được tạo thành theo mức độ tương đồng với nhau khiến chúng có thể đặt hoặc vỡ vào nhau, nếu hình cầu không hoàn thành; nhưng tình trạng này không bao giờ được phép xảy ra, những con ong xây các bức tường sáp phang giữa các quả cầu có xu hướng lắp ghép với nhau. Do vậy mỗi ô tạo thành bởi phần cầu bên ngoài và hai, ba, hoặc hơn các mặt phẳng tuyệt đối, theo như ô kết nối hai, ba, hoặc hơn nữa các ô khác. Một ô tiếp xúc với ba ô khác, mà, từ khối cấu có kích thước gần như tương tự, rất hay xảy ra, ba mặt phẳng kết hợp thành một kim tự tháp; và kim tự tháp này, như ông Huber đã nhận xét, là một sự bắt chước như in của bệ hình kim tự tháp ba mặt của ô của ong hive. Giống như trong ô của con ong hive, như thế ở đây, ba mặt phẳng trong bất cứ ô nào cần thiết đi vào sự xây dựng của ba ô gắn với nhau. rõ ràng là loài Melipona tiết kiệm sáp ong bằng cách xây dựng này; bởi vì các bức tường phang giữa những ô gắn với nhau không nhân đôi, nhưng có độ dày giống như phần cầu bên ngoài, và mỗi phần phẳng tạo một phần của hai ô. 
Suy nghĩ về trường hợp này, tôi cảm thấy là nếu Melipona tạo hình cầu của nó ở một khoảng cách cho trước giữa mồi khối và tạo chúng có kích cỡ giống nhau và đã sắp xếp chúng theo trục đối xứng trên một lớp đôi, cấu trúc được tạo thành có lẽ đã hoàn hảo như là của lỗ to ong của ong hive. Theo đó tôi viết cho giáo sư Miller của trường đại học Cambridge, và nhà hình học này đã dành thời gian quý báu của ông để đọc qua lời nhận định của tôi, và dựa trên thông tin của ông, nói với tôi rằng điều này hoàn toàn chính xác: 
Nếu một số các hình cầu giống nhau được tạo thành với tâm của chúng đặt trên hai lớp song song, với tâm của mỗi quả cầu cách khoảng bán kính nhân với căn bậc 2 hay bán kính nhân với 1,41421 (hoặc ở khoảng cách ngắn hơn), từ các tâm của sáu quả cầu bao quanh trong cùng lớp; và ở cùng khoảng cách từ tâm của các quả cầu gắn với nhau trong lớp khác song song; thì nếu mặt phẳng của các khu vực giao nhau giữa vài hình cầu trong cả hai lớp đều được hình thành; điều này sẽ hình thành nên một lớp đôi của lăng trụ sáu cạnh liên kết với nhau bởi ba nền hình kim tự tháp tạo thành bởi ba hình thoi; và các hình thoi màu và các mặt của hình lục lăng sẽ có mọi góc bằng nhau với các kích thước tốt nhất được tạo ra từ các ô của ong hive. 
Với lý do đó chúng ta có thể kết luận chắc chắn là nếu chúng ta có thể thay đổi chút ít bản năng mà loài Melipona đã có sẵn, và trong chúng không tuyệt hảo cho lắm, loài ong này sẽ tạo ra những cấu trúc tuyệt vời như của loài ong hive. Chúng ta phải thừa nhận loài Meỉipona tạo ra những cái ô có hình cầu tuyệt đối và có kích thước giống nhau; và chúng ta không nên ngạc nhiên khi nhìn thấy các con ong này đã đã làm như vậy trong chừng mực nào đó; cũng như khi nhìn thấy những hang hình trụ hoàn hào mà những con côn trùng khác đã xây ở trên các thân cây, thông qua cách xoay vòng quanh một điểm cố định. Chúng ta phải thừa nhận loài Melipona sắp xếp các ô của chúng theo tầng lớp như chúng làm với các ô hình trụ của chúng. Và chúng ta còn phải tiến xa hơn nữa để thừa nhận, điều này là khó khăn lớn nhất, chúng bằng cách nào đó phán đoán chính xác ở khoảng cách nào đứng cách những con ong thợ bạn bè của chúng khi vài con đang làm tổ hình cầu; nhưng cho đến này các con Melỉpona là có khả năng phán đoán khoảng cách, chúng luôn xây tổ của mình sao cho phần lớn giao nhau; như thế sau đó chúng sẽ tập hợp các điểm giao nhau lại trên một mặt phẳng tuyệt đối. Chúng ta vẫn tiếp tục phải thừa nhận, nhưng trái với sự thừa nhận ngay trước đó, sự thừa nhận này không hề có khó khăn gì, là sau khi các hình lục lăng được tạo thành bởi các phần giao nhau của các hình cầu gắn liền nhau trong cùng một mặt, các con ong có thể kéo dài những hình sáu cạnh đó tới bất kỳ độ dài cần thiết nào để giữ khối lượng mật; theo đúng như cách mà các con ong nghệ thô sơ thêm những trục xoay sáp ong vào các miệng tròn của cái kén cũ kỹ. Thông qua những biến chỉnh như vậy các bản năng chưa hoàn hảo trong chúng - khó có thể nói là hoàn chỉnh hơn bản năng xây tổ của các con chim - Tôi tin rằng loài ong hive đã thu được, nhờ vào sự lựa chọn của tự nhiên, khả năng kiến trúc không thể bắt chước được. 
Nhưng lý thuyết này cỏ thể được kiểm chứng thông qua thí nghiệm. Theo mẫu của ông Tegetmeier, tôi tách riêng hai lỗ tổ ong, đặt giữa chúng một một miếng sáp ong hình vuông dày, các con ong ngay lập tức đào những cái hố bé hình tròn trên đó; và khi chúng đào sâu những cái hố bé này, chúng làm các lỗ ngày một rộng ra cho tới khi cho tới khi các cái lỗ chuyển thành những lòng chảo nông, mà chúng ta thấy như là một hình cầu hoặc một phần của hình cầu tròn thật sự và khoảng đường kính của một ô. Đối với tôi điều thú vị nhất là khi quan sát vài con ong bắt đầu đào những cái lòng chảo gần nhau, chúng bắt đầu công việc ở những khoảng cách cố định so với nhau, và cho tới khi các lòng chảo đã đạt được độ rộng như nêu ở trên (chẳng hạn như khoảng độ rộng của một ô bình thường), và ở độ sâu khoảng sáu lần đường kính của hình tròn mà chúng tạo thành một phần, các vành lòng chảo giao nhau hoặc chạm vào nhau. Ngay khi tình hình này xuất hiện, các con ong thôi không đào nữa, và bắt đầu xây những bức tường sáp phẳng trên các đường của sự giao nhau giữa các lòng chảo sao cho mỗi hình lục lăng được xây trên các cạnh trang trí bàng hoa của một lòng chảo mịn, thay vì trên những đường thẳng của kim tự tháp ba mặt như trong trường hợp của các ô tổ ong bình thường. 
Sau đó tôi đặt các con ong hive này vào, thay vì một mảng sáp hình vuông dày, mà là một miếng mỏng như lưỡi dao, hẹp và bé, có màu som đỏ. Các con ong ngay lập tức trên mỗi bên đào những lòng chảo bé gần nhau theo giống như cách trước đó; nhưng miếng sáp quá mỏng đến nỗi đáy của các lòng chảo, nếu như chúng đã đào tới cùng một độ sâu như trong thí nghiệm trước sẽ chạm vào nhau từ hai phía đối lập. Nhưng các con ong không muốn để điều này xảy ra, và chúng dừng sự đào bới của mình đúng lúc, ngay khi chúng đã đào sâu một chút và lòng chảo trở nên phang; và những lòng chảo phẳng này, được tạo thành bởi các cái đĩa nhỏ có màu sáp đỏ có vị trí, như là con mắt chúng ta cảm nhận, ở chính xác mặt phang của phần giao nhau tưởng tượng giữa các lòng chảo trên hai mặt đối nhau của miếng sáp. Trong các phần, chỉ một ít, tỷ lệ lớn đĩa hình thoi được để giữa hai lòng chảo đối diện, nhưng tác phẩm, từ tình trạng không tự nhiên của các thứ, không được thực hiện cẩn thận. Những con ong chắc đã phải làm việc với cùng một tốc độ gần như nhau trên hai mặt đối diện của miếng sáp ong mỏng màu som đỏ, vì chúng gặm theo hình tròn và làm sau lòng chảo ở cả hai mặt, với mục đích để có được những cái đĩa phẳng như thế giữa các lòng chảo; bằng cách dừng làm việc trên mặt phảng trung gian hay mặt phẳng của sự giao nhau. 
Xem miếng sáp ong mỏng rất mềm và linh động, tôi không thấy có bất cứ khó khăn nào đối với các con ong, trong khi làm việc ở hai mặt của miếng sáp mỏng, hình dung khi chúng đã gặm dần miếng sáp tới độ mỏng thích hợp, và sau đó dừng làm việc. Trong những lỗ ong bình thường, tôi cảm thấy là các con ong không phải lúc nào cũng làm việc thành công với cùng một tốc độ như nhau từ hai mặt đối lập, bởi vì tôi đã để ý những hình thoi hoàn thiện nửa chừng tại đáy của một ô vừa mới bắt đầu, mà hơi lõm ở một mặt, nơi tôi cho rằng những con ong đã đào quá nhanh; và lồi về phía đối diện, nơi mà những con ong làm việc chậm hơn.
Trong một ví dụ điển hình, tôi đặt cái lỗ vào lại tổ ong, và để cho bọn ong tiếp tục làm việc trên đó trong khoảng thời gian ngắn, và kiểm tra lại ô này, tôi nhận thấy những cái đĩa hình thoi đã được hoàn thành, chúng trở nên cực kỳ phang: điều này tuyệt đối là không thể, nếu tính đến sự độ mỏng dính của những cái đĩa hình thoi bé, rằng chúng đã có thể tạo ra điều này bằng cách gặm dần phần lồi ra; thế là tôi nghi ngờ là trong trường họp này con ong đứng ở phía đối diện của lỗ tổ ong này để đẩy và bẻ cong miếng sáp mỏng và ấm này (tôi đã thử và điều này dễ dàng thực hiện được) thành một mặt phang trung gian hoàn chỉnh và, đó làm phẳng nó. 
Từ thí nghiệm trên miếng sáp ong mỏng sơn màu đỏ, chúng ta nhận thấy rõ ràng là nếu những con ong muốn xây cho bản thân chúng một bức tường sáp mỏng, chúng có thể tạo các ô tổ ong thành các hình phù hợp bằng cách đứng ở những khoảng cách thích họp so với nhau; và bằng cách đào với cùng tốc độ; cũng như bằng cách gặm nhấm để làm ra những lỗ hình cầu có kích thước bằng nhau, nhưng không bao giờ để các hình cầu vỡ vào nhau. Bây giờ các con ong, có thể nhận thấy rõ bằng cách xem xét cạnh của một lỗ đang lớn dần, thật sự tạo được một bức tường cứng và điều chỉnh được theo hoàn cảnh cụ thể hoặc làm viền xung quanh cho cái lồ đó; và chúng gặm nhấm dần từ mặt đối diện vào, luôn đào sâu theo hình tròn. Chúng không làm hoàn toàn đáy ba mặt hình kim tự tháp của bất cứ một ô nào trong cùng một thời điểm, mà chỉ là một đĩa hình thoi đứng trên phần ngoài cùng mép đang lớn, hoặc hai đĩa, như trường họp có thể xảy ra; và chúng không bao giờ hoàn thành phần mép trên của đĩa hình thoi, cho tới khi tường hình lục lăng bắt đầu được xây. Vài nhận xét trên là khác biệt đối với nhà tiền bối sinh học nổi tiếng ở giai đoạn gần đây, ông Huber, nhưng tôi tin vào tỉnh chính xác của chúng, và nếu có thời gian và giấy bút, tôi sẽ chứng minh chúng phù hợp với lý thuyết của tôi.
Lời nhận định của ông Huber là chính cái ô đầu tiên được đào ngoài một bức tường mặt song song, là không, hoàn toàn đúng; sự bắt đầu đầu tiên thường là một phần đầu nhỏ của sáp; nhưng ở đây tôi sẽ không đi vào chi tiết. Chúng ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của việc đào trong cấu trúc của ô; nhưng sẽ là sai lầm lớn khi ai đó giả thiết rằng những con ong không thể xây nên một bức sáp ong tường cứng ở vị trí thích hợp - tức là dọc theo mặt phẳng của phần giao nhau giữa hai hình cầu liền nhau. Tôi có một vài mẫu chứng minh là chúng có thể làm được. Thậm chí là trong cái vành tròn hay bức tường xung quanh một cái lỗ đang lớn, đôi khi chúng ta cũng nhìn thấy cả sự uốn cong, tương ứng với vị trí của mặt phang của đĩa hình thoi nằm dưới các ô sau này. Nhưng một bức tường sáp ong cứng trong mọi trường hợp được hoàn thành phần cuối cùng, chủ yếu bằng cách gặm nhẩm từ hai phía. Cách mà con ong xây tổ là khá kỳ lạ; chúng luôn xây bức tường sáp đầu tiên với độ dày hơn hai mươi hoặc ba mươi lần những tường hoàn chỉnh quá là mỏng của các ô, mà cuối cùng thì cũng chỉ để đấy không dùng. Tôi có thể hiểu chúng làm việc như thế nào bằng cách coi là những người thợ xây đầu tiên trát đầy một lớp xi măng, và sau đó bắt đầu cắt chúng đi một cách đều nhau từ hai phía, cho tới khi một bức tường rất mỏng và mượt nằm ở giữa được hoàn thành; những người thợ xây luôn chất đống lại những phần xi măng bị cắt bỏ đi, và thêm xi măng mới vào đỉnh của tường mỏng đó. Và như thế chúng ta sẽ có một bức tường mỏng ngày một dày, nhưng luôn được bao quanh bởi một mái tường khổng lồ. Từ tất cả các ô, những ô mới bắt đầu và những ô đã hoàn thành. Do đó được bao quanh bởi mái tường sáp cứng chắc, và các con ong có thể tụ hợp và bò trên những ô mà không làm tổ thường những bức tường lục lăng tinh tế yếu ớt mà chỉ là một phần bốn trăm của một inch [1] về độ dày; các đĩa của nền mỏng hình kim tự tháp có độ dày gấp đôi. Bằng cách xây dựng kỳ lạ này, độ cứng chắc tiếp tục được truyền cho các ô với việc tiết kiệm sáp ong tối đa. 
[1] 1 Một inch tương đương với 2,54 cm 
Đầu tiên có vẻ như điều này thêm vào những khó khăn để hiểu một ô được tạo ra như thế nào, rằng vô số các con ong làm việc cùng nhau; một con sau khi làm việc trong khoảng thời gian ngắn trên một ô sẽ chuyển sang ô khác; sao cho như ông Huber nói nhiều cá thể thậm chí làm việc ngay lúc bắt đầu xây ô đầu tiên. Trên thực tế tôi có thể minh chứng điều này, bằng cách che các phần rìa của các bức tường hình lục lăng của duy nhất một ô, hoặc lề bên ngoài tận cùng của một vành hình tròn, với một lớp sáp ong lỏng màu son đỏ vô cùng mỏng; và tôi lúc nào cùng nhận thấy rằng màu được khuyếch tán tinh tế nhất bởi các con ong - tinh tế như một họa sĩ có thể làm với cây cọ của anh ta - bởi các nguyên tử màu được lấy từ điểm mà chúng được đặt trên đó và tới trong các rìa mép đang lớn dần của tất cả các ô xung quanh. Công việc xây dựng dường như là một sự cân bằng tạo ra giữa nhiều con ong, tất cả đều theo bản năng đứng cách xa một khoảng nhất định bàng nhau, tẩt cả đều cố bao trùm các hình cầu và sau đó xây đắp lên hay để không, mặt phẳng của phần giao nhau giữa các quả cầu. Thật là tò mò khi ghi chú trong các trường họp của khó khăn, khi hai lỗ ong gặp nhau ở một góc độ, các con ong thường phá vỡ hoàn toàn và xây lại theo cách khác các ô đó, đôi khi lặp lại hình dáng đầu tiên chúng đã không chấp nhận. Khi mà các con ong tìm ra vị trí đứng làm việc thích họp - chẳng hạn như trên cành của một thân gỗ, đặt ngay dưới phần giữa của một lỗ đang phình ra về phía dưới sao cho lỗ đó phải được xây trên một mặt của cành - trong trường họp này con ong có thể xây nền mỏng của một trong các bức tường của một lục lăng mới, tại nơi hoàn toàn thích họp của nó, đặt trên những ô đã được hoàn thành khác. Các con ong có khả năng đứng tại vị trí cách nhau thích họp so với nhau và so với các bức tường cửa những ô hoàn thành cuối cùng, rồi sau đó bằng cách đập vào các hình cầu tưởng tượng, chúng cỏ thể xây một bức tường trung gian giữa hai quả cầu gắn với nhau; nhưng như tôi đã thấy, chúng không bao giờ gặm đi và hoàn thành phần cuối cùng các góc của một ô cho tới khi phần lớn của cả ô đó và các ô xung quanh đã được xây. Khả năng này của các con ong trong những hoàn cảnh nhất định nằm dưới một cái tường cứng ở vị trí thích hợp của nó giữa hai ô mới bẳt đầu xây dựng, là quan trọng và vì nó chứa đựng thực té, mà ban đầu có vẻ như rất trái ngược với lý thuyết trên của tôi; tức là những ô trên lề ngoài cùng của những con ong bắp cày đôi khi hoàn toàn có dạng hình lục lăng; nhưng tôi không có điều kiện để đi vào chi tiết về chủ đề này. Tôi cũng không gặp khó khăn gì trong trường hợp có một con côn trùng duy nhất (như trong trường hợp của con ong chúa) tạo ra những ô hình lục lăng, nếu nó làm việc một cách khác từ bên trong và bên ngoài của hai hoặc ba ô cùng bắt đầu xây dựng, luôn đứng ở khoảng cách tưomg đối thích hợp từ các phần của các ô mới được bất đầu, tràn qua các hình cầu và hình trụ, và xây nên mặt phang trung gian. Người ta thậm chí còn hình dung là một con côn trùng có thể, bằng cách cố định trên một điểm mà tại đó bắt đầu một ô, và sau đó tiến ra bên ngoài, đầu tiên tới một điểm và sau đó tới năm điểm khác, tại các khoảng cách thích hợp tương đối từ điểm trung tâm và từ các điểm khác với nhau, đập vào mặt phang của phần tương giao do đó tạo nên một hình lục lăng tách biệt; nhưng tôi không biết là trường hợp như thế đã trông thấy chưa; và có điều gì tốt mang lại từ việc xây một hình lục lăng duy nhất, vì trong quá trình xây dựng của nó thì cần nhiều vật liệu hơn là so với một hình trụ. 
Do sự lựa chọn của tự nhiên chỉ tác động thông qua sự tích tụ các biến đổi nhỏ bé trong cấu trúc hay bản năng, mỗi cái đều có lợi cho cá thể trong điều kiện sống, ai đó có lý khi hỏi làm thế nào mà một sự kế tiếp dài và nhiều bước của các bản năng kiến tạo được chỉnh đổi, tất cả đều có xu hướng tiến tới kế hoạch hoàn hảo hiện tại của việc xây dựng, có thể có lợi cho con tổ tiên của ong hive? Tôi nghĩ câu trả lời không khó khăn gì: mọi người đều biết rằng các con ong luôn cố gắng lấy đủ mật hoa; và ông Tegetmeier đã nói với tôi qua thí nghiệm người ta tim ra một con ong hive tiêu tốn không ít hơn từ sáu đến bảy cân đường cát để tạo ra nửa cân sáp ong; tức là những con ong phải hút và tiêu thụ một khối lượng khổng lồ mật hoa trong một cái tố để đủ sản sinh ra khối lượng sáp cần thiết cho xây dựng tổ. Hom nữa, nhiều con ong phải nghỉ không làm việc trong nhiều ngày trong suốt quá trình tiết sáp. Một sự tích trữ khối lượng mật ong lớn là không thể thiếu để duy trì sự tồn tại số lượng lớn các con ong trong mùa đông; và độ an toàn của tổ ong thì như mọi người biết là dựa chủ yếu vào số lượng ong có thể sống được dựa vào khối lượng mật ong đó. Do đó sự tiết kiệm sáp phần lớn là nhờ tích kiệm mật chắc chắn phải là nhân tố quan trọng nhất cho sự thành công của bất kỳ họ nhà ong nào. Tất nhiên là sự phát triển của bất kỳ loài ong nào cũng sẽ phụ thuộc vào các con vật sống ký sinh trên chúng và kẻ thù của chúng, hoặc vào những nguyên nhân khác biệt khác, như thế có nghĩa là tất cả chúng đều không phụ thuộc vào khối lượng mật ong mà chúng có thể thu thập. Nhưng chúng ta hãy giả định rằng các tác nhân sau quyết định, như chúng có lẽ đãthường quyết định trong thực tế, số lượng của ong nghệ có thể tồn tại trong một đất nước; và chúng ta hãy tiếp tục giả định cộng đồng ong đó sống qua được mùa đông, và như vậy sẽ cần phải có mật ong: trong trường họp này không ai có thể nghi ngờ rằng ong nghệ sẽ có một lợi thế nếu một sự chỉnh đổi nhỏ trong bản năng của chủng khiến chúng xây những cái ô sáp ong gần nhau để giao nhau một chút; bởi vì bức tường chung, thậm chí là của hai ô kề nhau, có thể tiết kiệm chút sáp. Chính vì thế nó sẽ càng có lợi cho các con ong nghệ của chúng ta nếu chúng làm những ô chuẩn mực hơn và gần nhau hơn và kết hợp lại thành một khối lớn giống như là ô của loài Melipona; bởi trong trường hợp này, một phần lớn của bề mặt bao bọc của mỗi ô sẽ có đóng vai trò như là bề mặt bao bọc của ô khác, và nhờ đó khối lượng lớn sáp ong sẽ được tiết kiệm. Một lần nữa, cũng với nguyên nhân tưorng tự, loài Melipona sẽ được hưởng lợi ích nếu chúng làm các ô gần nhau hơn; và đồng đều hơn theo mọi hướng so với như hiện tại; vì sau đó, như chúng ta đã thấy những mặt cầu sẽ hoàn toàn biến mất, và chúng sẽ được thay thế bằng các mặt phang; và loài Melipona sẽ xây được những cái tổ hoàn hảo như là tổ của ong hive. Ngoài sự hoàn hảo trong kiến trúc, sự lựa chọn của tự nhiên không thể làm được; vì tổ của ong hive, như chúng ta thấy, là hoàn toàn hoàn mỹ trong việc tiết kiệm sáp. 
Vì thế, như tôi tin tưởng, bản năng tuyệt vời nhất trong tất cả các bản năng được biết đến, bản năng của ong hive, có thể được giải thích bàng sự lựa chọn của tự nhiên đã tận dụng hàng loạt các chỉnh đổi nhỏ liên tục, kế tiếp nhau của những bản năng đơn giản hơn; sự lựa chọn của tự nhiên, chậm chạp từ từ, ngày càng hoàn thiện, đã điều khiển những con ong tràn qua những hình cầu bằng nhau tại một khoảng cách cho trước trong một lớp đôi; xây nên và đào sáp dọc mặt phẳng của phần giao nhau. Tất nhiên là những con ong không biết chúng đang tràn qua những quả cầu với khoảng cách xa nhau cho trước hơn là chúng biết về vài góc của hình lục lăng và của các đĩa hình thoi đáy là gì. Động lực của quá trình lựa chọn tự nhiên tiết kiệm sáp ong; những đàn ong nào lãng phí ít sáp ong nhất, thành công nhất, và đã truyền lại thông qua sự di truyền bản năng tiết kiệm sáp thì mới thu được cho con cháu sau này, cơ hội tốt nhất để tồn tại trong cuộc đấu tranh cho sự sinh tồn. 
Chắc chắn là nhiều bản năng rất khỏ giải thích có thể trái ngược với lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên - những trường họp trong đó chúng ta không thể hiểu một bản năng có thể bắt nguồn như thế nào; những trường hợp mà trong đó các bước chuyển hóa trung gian không hề được biết tới hay tìm thấy; những trường hợp bản năng không hề quan trọng gì khiến chúng khó có thể được nói là chịu ảnh hưởng của sự lựa chọn của tự nhiên; những trường hợp mà bản năng hoàn toàn giống nhau trong các con vật rất cách biệt trong tự nhiên đến mức mà chúng ta không thể lý giải được sự tương đồng của nó bàng hiện tượng di truyền từ một cha mẹ chung, và như thế phải tin là chúng thu được bản năng nhờ vào các tác động độc lập của của sự lựa chọn của tự nhiên.
Tôi ở đây sẽ không bàn về các trường họp này, nhưng sẽ chỉ quan tâm đến một khó khăn đặc biệt, mà ban đầu tôi cảm thấy không thể vượt qua. Tôi muốn nói đến nhũng con cái vô sinh hoặc vô tính trong cộng đồng các loài côn trùng: vì các cá thể vô tính này thường khác nhau rõ nét trong bản năng và trong cấu trúc so với cả con đực và con cái có khả năng sinh sản, và do không thể sinh sản, chúng không thể để lại con cháu cho đời sau. Chủ đề này rất đáng được thảo luận kỹ nhưng tôi ở đây chỉ xin bàn tới một trường hợp duy nhất, đó là của những con kiến thợ hay còn gọi là kiến vô sinh. Tại sao những con kiến thợ lại không sinh sản được là một điều khó khăn để giải thích; nhưng cũng không lớn hơn khó khăn để giải thích của bất cứ biến đổi đáng chú nào của cấu trúc; vì người ta có thể chứng minh vài loài côn trùng và những động vật có đốt khác trong tự nhiên đôi khi trở nên vô sinh; và nếu các con côn trùng đó có xu hướng xã hội chúng có lợi cho cộng đồng tức là một số lượng chúng được sinh ra hằng năm để làm việc nhưng số này không thể đẻ con, tôi thấy không khó lắm để nhận ra ảnh hưởng của sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng tôi phải bỏ qua khỏ khăn ban đầu này. Khó khăn lớn nhất nằm ở chỗ những con kiến thợ khác hẳn so với cả các con kiến đực và kiến cái sinh đẻ được trong cấu trúc, cũng như trong hình dáng của phần chính giữa và tình trạng mất cánh và đôi khi là cả mẳt nữa, và trong bản năng. Chỉ xét đến bản năng thôi, sự khác biệt lớn giữa con kiến thợ và con kiến cái hoàn chỉnh sẽ có thể tốt hơn nhiều minh họa bằng ong hive. Nếu một con kiến thợ hay một con côn trùng đơn tính nào khác có thể trạng bình thường, tôi sẽ không chần chừ gì khi thừa nhận ngay tất cả các đặc điểm của nó có được thông qua tác động lâu dài chậm chạp của sự lựa chọn của tự nhiên; tức là một có thể sinh ra với sự biến chỉnh nhỏ có lợi trong cấu trúc; biến đổi này được di truyền lại cho đứa con, mà một lần nữa lại biến đổi và lại được lựa chọn, và cứ như thế mãi; nhưng trong trường hợp của con kiến thợ, chúng ta có một con côn trùng khác biệt hẳn so với cha mẹ của nó, nhưng hoàn toàn vô sinh; tức là nó không bao giờ có thể truyền lại những biến đổi cấu trúc thu được liên tục cho con cháu. Ai đó sẽ hỏi làm cách nào để có thể giậi thích trường hợp này thích ứng với lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên?
Đầu tiên hãy nhớ lại rằng chúng ta có vô số ví dụ, cả ở trong các loài thuần chủng của chúng ta và cả ở trong tự nhiên, của tất cả các loại khác biệt của cấu trúc mà đã trở thành tương quan với nhau về các độ tuổi nhất định và với một trong giới tính. Chúng ta có những điểm khác nhau không chỉ tương quan trong giới tính, mà còn cả với giai đoạn ngắn khi hệ thống sinh sản đang hoạt động, như là bộ lông cước của nhiều con chim, và trong cái hàm móc câu của cá hồi đực; của những con bò đực thiến, những giống nhất định có sừng dài hơn các loài bò giống khác, so với sừng của con bò đực hay bò cái của cùng giống đó. Do đó không có khó khăn thực sự nào trong bất cứ đặc điểm nào trờ nên tương quan với tình trạng vô sinh của những thành viên nhất định của cộng đồng côn trùng: sự khó khăn nằm ở việc hiểu bằng cách nào những thay đổi tương quan như thế trong cấu trúc có thể được tích tụ một cách chậm chạp bằng sự lựa chọn của tự nhiên. 
Khó khăn này, mặc dù có vẻ như không thể vượtqua nổi, nhưng đã được làm giảm nhẹ, hay như tôi tin tưởng, đã biến mất khi chúng ta nhớ lại rằng sự lựa chọn có thể tác động tới cả một họ, cũng như tới cá thể và như vậy có thể đạt được mục đích mong muốn. Như thế, một loại rau ưa chuộng đem đi nấu, và cá thể đó bị tiêu diệt; nhưng những người làm vườn đã gieo giống nhiều cá thể như thế, và tự tin sẽ có được biến thể gần giống vậy; những người nhân giống gia súc thích thịt béo và tươi ngon cùng nhau; con vật bị đem đi giết mổ, nhưng người nhân giống vẫn tiếp tục tạo ra các con khác cùng với họ đó. Tôi cũng có niềm tin tương tự vào sức mạnh của sự lựa chọn, tôi không nghi ngờ một giống bò luôn cho ra con bò thiến với cái sừng rất dài, có thể được tạo ra bằng cách chăm sóc kỹ lưỡng những cá thể bò đực và bò cái, khi đem giao phối cho ra con bò với cái sừng dài nhất; và không một con bò thiến nào có thể đã từng sinh ra giống của mình. Như thế tôi tin điều này cũng xảy ra với các con côn trùng có thiên hướng xã hội: một sự biến chỉnh nhỏ của cấu trúc hoặc của bản năng, có mối quan hệ tương tác với tình trạng vô sinh của những thành viên nhất định của cộng đồng, là cỏ lợi cho cộng đồng đó: kết quả là các con cái có khả năng sinh sản và các con đực của cùng cộng đồng đó phát triển mạnh mẽ, và truyền lại cho những đứa con của chúng xu hướng sinh ra các thành viên vô sinh có cùng biến đổi. Và tôi tin quá trình này đã được lặp đi lặp lại cho tới khi khối lượng khác biệt rất lớn giữa con cái có khả năng sinh sản và con cái vô sinh của cùng loài nổi lên. 
Nhưng chúng ta vẫn chưa tới đỉnh điểm của sự khó khăn: thực tế là những con vô sinh của vài loài kiến khác không chỉ so với con cái có khả năng sinh sản và con đực mà còn khác nhau tới mức độ khó tin là được chia thành hai hoặc thậm chí ba đẳng cấp. Nhưng cấp độ này nói chung không chuyển hóa lẫn nhau, mà có thể được định nghĩa rành mạch; khác nhau hẳn hoi; như là của hai loài thuộc cùng một chi, hoặc hơn là hai chi thuộc cùng một họ. Như thế trong Eciton, có các con kiến thợ và kiến lính, với cái hàm và bản năng khác nhau hoàn toàn: trong Cryptocerus, con kiến thợ của riêng chỉ một đẳng cấp mang một kiểu lá chắn tuyệt vời trên đầu của chúng,tác dụng của nó vẫn chưa được biết; trong Myrmecocystus Mêxicô, con kiến thợ của đẳng cấp không bao giờ rời khỏi tổ của nó; chúng được cho ăn bởi các con kiến thợ thuộc đẳng cấp khác và chúng có một cái bụng cực kỳ to để tiết chất dịch dạng mật ong, thay thế chỗ của chất tiết ra bởi các con rệp vừng, hay bởi vài gia súc thuần hóa như chúng có thể được gọi như vậy, mà các con kiến châu âu của chúng ta canh giữ hay cầm tù. 
Ai đó có thể sẽ nghĩ tôi đã quá tự tin vào nguyên lý về sự lựa chọn của tự nhiên, khi tôi không thừa nhận những thực tế tuyệt vời và rõ ràng như thế ngay lập tức làm lý thuyết của tôi đổ vỡ hoàn toàn. Trong trường hợp đơn giản hơn đối với con côn trùng đơn tính, tất cả trong một đẳng cấp hay trong cùng loại, mà do sự lựa chọn của tự nhiên, như tôi tin là hoàn toàn có thể, là cho khác biệt so với con cái sinh sản và con đực - trong trường hợp này chúng ta có thể tự tin kết luận thông qua sự so sánh các biến đổi bình thường rằng mỗi biến đổi nhỏ, liên tục, và có lợi ban đầu có lẽ không xuất hiện trong tất cả các con vô sinh của cùng một tổ, mà chỉ một vài con thôi; và rằng thông qua sự lựa chọn lâu dài liên tục của bố mẹ có khả năng sinh sản mà sinh ra những con đơn tính với các biến đổi có lợi, tất cả các con đơn tính cuối cùng cũng sẽ có những đặc điểm mong muổn. Dựa trên quan điểm này, chúng ta đôi khi phải tìm thấy trong những con côn trùng đơn tính của cùng loài, trong cùng tổ cho thấy sự chuyển hóa của cấu trúc; và điều này chúng ta tìm thấy, thậm chí là thường xuyên, khi xem xét vài con côn trùng đơn tính trong số ít các con côn trùng châu âu được nghiên cứu của chúng ta. Ông F. Smith đã cho mọi người thấy rằng những con đơn tính của vài loài kiến nước Anh khác nhau về kích thước và đôi khi về màu sắc; và rằng những dạng thực hoàn toàn trái ngược đôi khi có thể có mối liên kết hoàn hảo bởi các cá thể trong cùng một tổ: Bản thân tôi đã từng so sánh sự chuyển hóa tuyệt vời của kiểu này. Thường thì những con kiến thợ to hơn hoặc bé hơn sẽ có số lượng đông đảo nhất; và rằng cả con to lẫn con nhỏ đều đông, trong khi những con có kích cỡ trung gian là ít. Formica ílava có kiến thợ to và nhỏ hơn, với vài con có kích cỡ trung gian; và trong loài này như ông F. Smith đã quan sát những con kiến thợ to hơn có mắt đơn giản (ocelli), mặc dù nhỏ những dễ dàng nhận ra, trái lại những con kiến thợ bé hơn có ocelli của chúng thô sơ. cẩn thận lấy ra vài mẫu của những con kiến thợ này, tôi có thể khẳng định chắc rằng đôi mắt của các con kiến bé hơn thô sơ hơn nhiều và điều đó chỉ có thể được giải thích là do kích cỡ của chúng bé hơn, và tôi hoàn toàn tin tưởng, mặc dù không dám khẳng định những con kiến có kích cỡ trung bình thì cũng có đôi mắt to trung bình. Ở đây chúng ta có hai cơ thể của những con kiến vô sinh trong cùng một tổ, khác nhau không chỉ về kích cỡ mà còn trong cơ quan thị giác, nhưng lại được liên kết bởi vài thành viên trung gian. Tôi xin nói thêm rằng nếu những con kiến thợ nhỏ hơn là có ích nhất đối với cộng đồng, và những con đực và con cái đã được lựa chọn liên tục, mà ngày càng cho ra nhiều con kiến thợ bé hơn, cho đến khi tất cả các con kiến thợ trở nên tình trạng hiện nay, thì chúng ta sẽ có một loài kiến vô sinh gần giống như những con của Myrmica. Vì những con kiến thợ của Myrmica thậm chí ;òn không có ocelli thô sơ, mặc dù những con đực và con cái của chi này có ocelli phát triển đầy đủ.
Tôi có thể đưa ra một trường hợp nữa: tôi tự tin nói rằng tôi đã tìm thấy những bước chuyển hóa trong các bộ phận quan trọng của cấu trúc giữa những đẳng cấp của các con vô sinh trong cùng một loài, và tôi đã được ông F. Smith cung cấp nhiều mẫu từ cùng một tổ của con kiến dẫn đường (Anomma) khu vực Tây Phi. Bạn đọc có lẽ sẽ đánh giá cao khối lượng khác biệt trong các con kiến thợ này, bằng cách không đưa ra những đo đạc thực tế của tôi, mà bằng ví dụ minh họa cụ thể: sự khác biệt là giống như những gì chúng ta thấy một tập hợp những người thợ đang xây một ngôi nhà trong đó có nhiều người thợ lm60, và nhiều người cao tầm lm80; nhưng chúng ta phải giả định những người công nhân to lớn có đầu to gấp bốn thay vì ba lần so với đầu của những công nhân bé, và quai hàm to gấp 5 lần. Hơn nữa phần hàm của các con kiến thợ mà kích thước khác nhau thì khác biệt to lớn trong kiểu dáng, và trong hình dạng và số lượng của răng. Nhưng thực tế quan trọng đối với chúng ta là mặc dù những con kiến thợ có thể được chia vào các đẳng cấp của các kích cỡ khác nhau, nhưng chúng chuyển hóa lẫn nhau một cách không cảm nhận được, như là cấu trúc khác nhau lớn trong hàm của chúng. 
Với những thực tế trước mặt, tôi tin rằng sự lựa chọn của tự nhiên, bằng cách tác động lên những bố mẹ sinh sản được, có thể sẽ tạo ra một loài mà thường sinh ra các con đơn tính, hoặc là tất cả có kích cỡ to hơn với một dạng của quai hàm, hoặc là tất cả các kích cỡ nhỏ với các hàm hoàn toàn khác nhau; hay cuối cùng, đây là điểm khó khăn nhất của chúng ta, một bộ các con kiến thợ của một cấu trúc và một kích cỡ; cùng một bộ các con kiến thợ với kích thước và cấu trúc khác nhau; một loạt các dạng chuyển đổi đầu tiên đã được hình thành, như trong trường hợp của con kiến dẫn đường, và sau đó là các dạng đối lập, từ có ích nhất đối với cộng đồng, sinh ra với số lượng ngày một nhiều thông qua sự lựa chọn của tự nhiên của cha mẹ mà sinh ra chúng; cho tới khi không con nào có cấu trúc trung gian được sinh ra. 
Do đó tôi tin rằng thực tế tuyệt vời của hai đẳng cấp khác biệt rõ ràng của các con kiến thợ vô sinh sống trong cùng một tổ, cả hai đều có khác biệt lớn so với nhau và so với cha mẹ chúng, đã hình thành. Chúng ta có thể thấy chúng có ích như thế nào cho một cộng đồng xã hội của các con côn trùng, dựa trên nguyên lý phân công lao động là có ích đối với con người văn minh. 
Vì các con kiến làm việc theo bản năng được di truyền lại với các công cụ và vũ khí được di truyền, và không phải bởi kiến thức thu lượm được và các công cụ mới được hình thành, một sự phân chia lao động hoàn hảo có thể ảnh hưởng tới chúng chi vì các con kiến thợ bị vô sinh; vì nếu chúng đã không bị vô sinh, chúng đã giao phối với nhau, bản năng và cấu trúc của chúng đã hòa lẫn vào nhau.
Tôi tin tự nhiên đã gây ra sự phân chia lao động đáng ngưỡng mộ của cộng đồng các con kiến, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng tôi buộc phải thú nhận là, với tất cả sự tin tưởng của mình vào nguyên lý này, tôi không bao giờ nên tiên đoán sự lựa chọn của tự nhiên đạt tới mức độ cao như vậy, nếu trường hợp của những con vô sinh này không thuyết phục tôi. Do vậy tôi đã thảo luận trường hợp này một chút nhưng không thể đủ dài, nhằm cho thấy sức mạnh của sự lựa chọn của tự nhiên, và tưcmg tự như vậy cho tới nay điều này là khó khăn lớn nhất đối với lý thuyết của tôi. Trường hợp cũng rất thú vị vì thấy rằng với động vật, cũng như với thực vật, bất kỳ khối lượng thay đổi nào trong cấu trúc có thể bị tác động của sự tích tụ hàng loạt các biến đổi nhỏ và như chúng ta phải gọi chúng là mang tính ngẫu nhiên, mà xét trên bất cứ góc độ nào đều có ích, không cần đến sự tác động của luyện tập và thói quen. Vì không sự luyện tập thói quen hay volition, trong các thành viên hoàn toàn bị vô sinh của một cộng đồng có thể đã ảnh hưởng tới cấu trúc hay bản năng của các thành viên sinh sản được, và chỉ những con này mới đế lại con cháu. Tôi ngạc nhiên là không ai phát triển trường hợp này điển hình của các con côn trùng đơn tính này, chống lại học thuyết nối tiếng của Lamarck. 
Kết luận - Tôi đã cố gắng hết sức trong chương này để ngắn gọn chứng minh những đặc điểm trí óc của các con vật thuần chủng của chúng ta là thay đổi, và rằng những thay đổi đó được di truyền lại. Và còn ngắn gọn hơn cho thấy các bản năng thực sự biến đổi nhỏ trong môi trường tự nhiên. Sẽ không có ai tranh cãi bản năng là quan trọng nhất đổi với mỗi con vật. Vì vậy tôi không gặp khó khăn gì đối với sự lựa chọn của tự nhiên, trong điều kiện sống thay đổi, để tích tụ các biến đổi nhỏ của bản năng tới bất cứ mức độ nào, trong bất cứ chiều hướng nào có ích. Trong một số trường hợp thói quen hoặc sự sử dụng và không sử dụng có lẽ đã phát huy tác dụng của chúng. Tôi không cố ý nói rằng những thực tế cung cấp trong chương này càng khẳng định thêm tính đúng đắn của lý thuyết tôi đưa ra; nhưng không trường hợp khó khăn nào, theo như tôi thấy, là chống lại nó. Mặt khác, thực tế là những bản năng không phải lúc nào cũng tuyệt đối hoàn hảo và dễ bị nhầm tưởng; rằng không bản năng nào xuất hiện mà chỉ mang lại lợi ích cho các động vật khác, nhưng rằng mỗi con vật đều tận dụng bản năng của các con vật khác; rằng chuẩn mực trong lịch sử tự nhiên của Natuara non facit saltum là có thể áp dụng được cho cả bản năng và cấu trúc vật thể, và nó có thể được giải thích một cách dễ dàng dựa vào quan điểm đã nêu, chứ nếu không thì không thể giải thích được - tất cả có xu hướng khẳng định tính chuẩn xác của lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên. 
Lý thuyết này cũng được một số ít các thực tế khác liên quan đến bản năng ủng hộ; như bằng trường hợp phổ biến của các loài họ hàng gần gũi nhưng chắc chắn riêng biệt, khi sống tại các vùng cách xa nhau trên trái đất và trong điều kiện sống khác biệt đáng kể, nhưng lại thường giữ lại các bản nàng giống hệt nhau. Chẳng hạn chúng ta có thể hiểu dựa trên nguyên lý của sự di truyền, như thế nào mà con chim hét tại vùng Nam Mỹ xây tổ của chúng trên bùn, giống như cách kỳ lạ của chim hét nước Anh; như thế nào mà những con chim hồng tước đực Ợrogỉodytes) của vùng Bắc Mỹ xây tổ giống như gà trống để ngủ giống như các con chim hồng tước đực Kitty - một thói quen hoàn toàn khác lạ so với thói quen của bất cứ loài chim nào khác được biết đến. Cuối cùng, nó có thể không phải là một sự suy luận logic cho lắm, nhưng với trí tưởng tượng của tôi, nó là rất đáng hài lòng khi coi những bản năng kiểu là con chim cu cu đẩy những con chim anh em của chúng, các con kiến chuyên làm nô lệ, các ấu trùng của Ichneumonidae ăn trong vòng đời sâu của chúng - không phải là các bản năng được Chúa đặc biệt ban cho hay tạo ra, mà là những hệ quả nối tiếp nhau của một quy luật chung, dẫn đến sự tiến hóa của tất cả các thực thể sống, đó là, sinh sôi nảy nở, biến đổi, giữ lại những con khỏe nhất và tiêu diệt những khỏe nhất và loại đi những con yếu nhất.
CHƯƠNG VIII 
SỰ LAI GHÉP GIỮA HAI LOÀI RIÊNG BIỆT 
Sự phân biệt giữa tính vô sinh của những con lai giữa các giống và giữa các loài thế hệ đầu tiên - Tính vô sinh thay đổi theo mức độ, không phổ biến, chịu ảnh hưởng của lai giống chéo giữa các loài - Các quy luật điều chỉnh tính vô sinh của cá thể lai ghép khác loài - Sự vô sinh không phải là sản phẩm của Chúa trời mà là do Tự nhiên - Các nguyên nhân của sự vô sinh của những con lai giữa các giống và giữa các loài thế hệ đầu tiên - Sự tương đồng giữa các ảnh hưởng của điều kiện sống thay đổi và của lai ghép giống - Khả năng sinh sản của các biến thể khi lai giống và của những đứa con không phải là biến thể - Cá thể lai giữa các loài và cá thể lai giữa hai giống được so sánh không phụ thuộc vào khả năng sinh sản của chúng - Tổng kết 
Đa số các nhà tự nhiên học đều nhất trí là các loài, khi được đem lai với nhau, sẽ không có khả năng sinh sản, với mục đích là để tránh tình trạng lẫn lộn giữa giữa tất cả các dạng sống hữu cơ. Hiển nhiên là lúc đầu quan điểm này có vẻ như khá họp lý, bởi vì các loài trong cùng một nước khó có thể phân biệt được nếu chúng có khả năng lai dễ dàng. Tôi nghĩ, tầm quan trọng của thực tế là những con lai giữa các loài khác nhau thông thường không thể sinh đẻ được đã bị một số nhà nghiên cứu nhận thức đúng đắn. Theo lý thuyết sự lựa chọn của tự nhiên, trường hợp này là đặc biệt quan trọng, nhất là khi tính vô sinh của con lai giữa các loài không thể là có lợi đối với chúng, và do đó sẽ không có được nhờ vào sự duy trì liên tục các mức độ có lợi của tính vô sinh. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng có thể cho các bạn thấy tính vô sinh không phải là thu được theo cách đặc biệt hay là do Chúa sinh ra, mà là do ngẫu nhiên mà có từ các sai biệt thu được khác. 
Để trình bày chủ đề này, tôi gộp hai phân lớp thực tế minh họa, xét ở mức độ lớn chúng khác nhau về co bản. Đó là tính vô sinh của hai loài khi lần đầu tiên cấy ghép, và tính vô sinh của những cá thể lai sinh ra bởi chúng. 
Tất nhiên là các loài thuần chủng có bộ phận sinh sản tốt, nhưng khi đem lai, chúng sinh ra hoặc là ít con hoặc không sinh nở gì. Những con lai lại có bộ phận sinh sản không hoạt động, như chúng ta có thể nhận ra rõ trong nhân tố của con đực của cả động và thực vật; mặc dù các co quan có cấu trúc hoàn hảo, theo như kính hiển vi cho biết. Trong trường hợp đầu tiên, hai yếu tố giới tính cùng nhau tạo ra bào thai là hoàn hảo; trong trường hợp thứ hai, chúng hoặc là không phát triển hoặc phát triển lệch lạc. Sự phân biệt này là quan trọng, khi mà nguyên nhân của tính vô sinh, khá phổ biến trong cả hai trường hợp, phải được xem xét. Sự phân biệt này có lẽ đã bị hiểu sai do tính vô sinh trong cả hai trường hợp đều bị coi đó là sản phẩm của Chúa trời, chúng ta không thể giải thích được tình trạng này. 
Khả năng sinh sản tốt của các biến thể, mà người ta biết chúng bắt nguồn từ bố mẹ chung, khi đem lai ghép, và tương tự như khả năng sinh sản của các đứa con lai của chúng, theo lý thuyết của tôi, quan trọng tương đương với tính vô sinh của các loài; vì dường như nó cung cấp một sự phân biệt khái quát rõ ràng giữa biến thể và loài. Thứ nhất, đối với tính vô sinh của loài khi lai ghép và của những con cháu lai của chúng. Tôi không thể nghiên cứu các bản ghi chép và tác phẩm của hai nhà quan sát tỷ mỷ và đáng ngưỡng mộ, Kolreuter và Gartner, những người đã cống hiến gần như trọn đời mình cho chủ đề này, mà không cảm thấy thực sự bị ấn tượng sâu đậm về tính phổ biến của sự vô sinh. Ông Kolreuter biến quy luật này mang tính rộng rãi; nhưng sau đó cũng đưa ra ngoại lệ, vì trong mười trường hợp trong đó ông tìm ra hai dạng, mà theo như đại đa số các học giả là hai loài riêng biệt, có khả năng sinh sản tốt, ông ngay lập tức xếp chúng vào biến thể. Ông Gartner cũng khiến quy luật trở thành phổ biến với mức độ tương đương; và ông phản bác lại khả năng sinh sản tốt trong mười trường hợp của ông Kolreuter. Nhưng trong những trường hợp này và rất nhiều trường hợp khác, ông Gartner buộc phải cẩn thận đếm các hạt giống, nhàm để chứng minh xem có bất kỳ mức độ nào của sự vô sinh không. Ông luôn so sánh số lượng lớn nhất của các hạt giống tạo ra bởi hai loài khi đem lai ghép với nhau và bởi con cháu của chúng với số lượng trung bình sinh ra bởi bố mẹ thuần chủng trong tự nhiên. Nhưng một một nguyên nhân chính gây ra sai sót mà tôi thấy cần phải được trình bày ở đây: một cây khi đem đi lai ghép phải bị phá bỏ cơ quan sinh dục, và cái quan trọng hơn là phải bị cách ly nhằm tránh việc phấn hoa được các con côn trùng mang tới hoa khác. Hầu hết tất cả các cây ông Gartner thí nghiệm đều trồng trong chậu, và chắc chắn là giữ trong một phòng nhà ông. Việc các quá trình này thường gây hại đối với tính sinh sản của một cây là không thể bị nghi ngờ, vì ông Gartner đưa ra trong bảng của ông nhiều trường hợp cây bị ông phá bỏ cơ quan sinh sản của chúng, tự cấy thêm khả năng sinh sản với phấn hoa của bản thân chúng, và (ngoại trừ tất cả các trường hợp như loài Leguminosae, mà chúng ta khó có thể biến cải chúng) nửa trong số hai mươi cây này có cơ quan sinh sản bị tổn thương ở mức độ nhất định. Hơn nữa, như ông Gartner trong nhiều năm qua đã liên tục cấy ghép hoa anh thảo và hoa anh thảo vàng, những cây mà chúng ta có lý do chính đáng đê tin chúng là các biến thể, và chỉ một hoặc hai cây là có khả năng sinh hạt giống; như ông tìm thấy ở cây hổ người xanh và đỏ phổ biến (Anagallis, arvensis và coerulea) mà những nhà thực vật học danh tiếng nhất xếp chúng vào biến thể, hoàn toàn là vô sinh cùng nhau; và như ông ta cũng đi tới kết luận tương tự trong vài trường hợp giống như the; tôi cảm thấy rằng những thực tế đó cho phép chúng ta nghi ngờ xem liệu nhiều loài khác thực sự là vô sinh, khi lai ghép giữa các loài, như ông Gartner tin thế. 
Một mặt, rõ ràng là tính vô sinh của nhiều loài khi đem lai ghép là vô cùng khác biệt trong mức độ và tiến triển dần dần không cảm nhận được. Mặt khác, khả năng sinh sản của các loài thuần chủng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau. Với tất cả các mục đích thực tiễn, điểm khó khăn nhất là để nói khi nào khả năng sinh sản hoàn hảo kết thúc và khi nào thì sự vô sinh bắt đầu. Tôi nghĩ không có bằng chứng nào tổt hơn, cần thiết hơn là hai nhà quan sát danh tiếng nhất của mọi thời đại, Kolreuter và Gartner, đã đi tới hai kết luận trái ngược hẳn nhau đối với cùng một loài. Điều hữu ích nhất là so sánh -nhưng tôi không có chỗ ở đây để đi vào chi tiết - bằng chứng đưa ra bởi các nhà thực vật học giỏi nhất về câu hỏi liệu những dạng nghi ngờ nhất định nên được xếp vào loài hay biến thể, với bằng chứng về sự vô sinh cung cấp bởi các nhà lai ghép loài khác nhau, hoặc bởi chính học giả đó, dựa vào các thí nghiệm tiến hành trong vài năm qua. Do vậy người ta có thể chứng minh không phải tính vô sinh cũng không phải khả năng sinh sản cung cẩp bất kỳ sự phân biệt rành mạch giữa loài và biến thể; mà bằng chứng từ nguồn này là chuyển hóa dần dần, và cũng đáng nghi ngờ với mức độ tưomg đưomg như là bằng chứng rút ra từ các khác biệt mang tính thể trạng và cấu trúc. 
Xét về tính vô sinh của các con lai trong các thế hệ kế tiếp nhau; mặc dù ông Gartner có thể nuôi vài con lai ghép giữa loài; cẩn thận không cho chúng lai với hoặc là bộ mẹ thuần chủng, trong sáu hoặc bảy, và ở một trường hợp lên tới mười thế hệ, nhưng ông ta khẳng định chắc chắn rằng khả năng sinh sản của chúng không bao giờ tăng cả mà trái lại giảm mạnh. Tôi không nghi ngờ về tính đúng đắn của kết luận này, và khả năng sinh sản của chúng đột ngột giảm trong vài thế hệ đầu.
Tuy nhiên tôi tín là trong mọi trường hợp khả năng sinh sản suy giảm vì một lý do độc lập, chính là lý do lai ghép chéo gần. Tôi đã thu thập được số lượng lớn các bằng chứng cho thấy việc lai ghép gần sẽ làm giảm khả năng sinh sản, và một lần lai ghép ngẫu nhiên với một cá thể hay biến thể khác biệt sẽ tăng khả năng sinh sản. Tôi không thể nghi ngờ tính đúng đắn của niềm tin của hầu hết giới nhân giống. Các con lai giữa loài ít khi được tạo ra bởi các nhà thí nghiệm với số lượng lớn; và do loài bố mẹ hoặc loài lai gần gũi khác, thường sống chung trong mảnh vườn; việc tiếp xúc với các con côn trùng phải bị ngăn cấm hoàn toàn trong suốt mùa ra hoa: như thế các con lai loài nói chung sẽ tăng khả năng sinh sản qua mỗi thế hệ phấn hoa của bản thân chúng; và tôi tin chắc điều này sẽ gây hại tới khả năng sinh nở của chúng, khả năng đó đã bị giảm đi bởi nguồn gốc lai rồi. Luận chứng của tôi càng có cơ sở vững chắc hơn dựa vào một lời phát biểu đáng chú ý liên tục được ông Gartner nhắc lại rằng thậm chí là những con lai kém sinh nở được cấy ghép bởi phấn hoa lai của cùng loại, khả năng sinh sản của chúng, bất chấp những ảnh hưởng xấu của tiểu xảo, đôi khi tăng mạnh, và tiêp tục gia tăng. Bây giờ, trong quá trình cấy ghép khả năng sinh sản nhân tạo, phấn hoa thường được lựa chọn ngẫu nhiên (như tôi được biết dựa vào kinh nghiệm bản thân) từ các bao phấn của một loài hoa, như từ các bao phấn của chính hoa dùng để cấy ghép khả năng sinh sản nhân tạo; để cho sự lai ghép giữa hai hoa, mặc dù trên cùng một cây, nhờ đó thành công. Hơn nữa, mỗi khi những thí nghiệm phức tạp đang trong giai đoạn triển khai, một nhà thí nghiệm hết sức cẩn trọng, như ông Gartner, đã có thể loại đi bộ phận sinh sản của đứa con lai. Điều này chắc sẽ đảm bảo trong mỗi thế hệ lai ghép với phấn từ một cây hoa khác riêng biệt, hoặc là từ cùng một cây hoặc là từ một cây khác của cùng cá thể lai cấy. Do vậy tôi tin tưởng rằng thực tế lạ lùng về sự gia tăng của tính sinh sản qua các thế hệ kế tiếp của những con lai loài được cay ghép khả năng sinh sản nhân tạo có thể được giải thích thông qua thực tế là người ta tránh các trường hợp lai loài gần nhau. 
Bây giờ chúng ta hãy xem đến kết quả của thu được của người quan sát giỏi thứ ba, Hon. và Rev. w. Herbert. Ông khẳng định rõ ràng trong kết luận của mình là vài con lai loài hoàn toàn sinh nở tốt - có khả năng sinh sản giống như loài cha mẹ - như là của ông Kolreuter và Gartner trong một chừng mực nào đấy về sự vô sinh của giữa các loài riêng rẽ là một quy luật tất yếu. Ông này cũng thí nghiệm trên các cây gần giống như của ông Gartner đã làm. Tôi nghĩ sự khác biệt trong kết quả của họ có thể do kỹ năng và nhà kính của ông ta. Trong số nhiều lời phát biểu quan trọng của ông, tôi chỉ đưa ra ở đây một lời phát biểu, đó là "mọi noãn trong một quả đậu Crinum capense được cấy tạo khả năng sinh sản bởi c. revolutum sinh ra một cây, mà ông nói tôi không bao giờ nhìn thấy xuất hiện trong một trường hợp của sự thụ tinh tự nhiên của nó". Như thế ở đây chúng có khả năng sinh sản hoàn hảo, thậm chí còn hơn cả sự hoàn hảo thông thường trong một cá thể lai thế hệ đầu tiên giữa hai loài khác nhau. 
Trường hợp này của Crinum khiến tôi nhớ đến một thực tế khá lạ kỳ: có các cá thể cây với những loài nhất định của Lobelỉa, và với tất cả các loài của chi Hìppeastrum mà dễ dàng thu được khả năng sinh sản hơn nhiều bằng phấn hoa của loài khác riêng biệt. Vì người ta tìm thấy những cây này đẻ hạt giống vào phấn hoa của một loài khác biệt, mặc dù hoàn toàn vô sinh đối với phấn của bản thân chúng, bất chấp thực tế là phấn hoa của chúng rất tốt, vì chúng giúp loài khác sinh sản được. Tức là những cây cá thể nhất định và tất cả các cá thể của loài nhất định trên thực tế có thể đem lai dễ dàng hơn so với việc chúng tự sinh sản! Ví dụ, củ hành của Hỉppeasstrum aulicum cho ra bốn bông hoa; ba bông được ông Herbert giúp có thể sinh sản với phấn hoa của chính chúng, và sau đó bông thứ tư tiếp nhận phấn hoa của một cá thể lai hỗn hợp có nguồn gốc từ ba loài khác biệt. Kết quả là "buồng nhụy của ba hoa đầu tiên ngay lập tức ngừng phát triển, và sau vài ngày thì bị chết hoàn toàn, trái lại bông hoa được thụ phấn bởi phấn hoa của cá thể lai hỗn hợp có bầu nhụy tăng trưởng nhanh và manh mẽ và cho ra hạt giống khỏe mạnh, mọc dễ dàng". Trong một bức thư gửi cho tôi vào năm 1839, ông Herbert nói sau đó ông đã cố gắng thử làm thí nghiệm trong suốt 5 năm, và ông tiếp tục làm thí nghiệm đó sau vài năm tiếp đó, và kết quả luôn luôn không thay đổi. Kết quả này cũng đã được những nhà quan sát khác khẳng định trong trường hợp của Hippeastrum với tiêu chí của nó, và trong những trường hợp của các chi khác, như Lobelia, Oassiýìora và Verbascum. Mặc dù những cây mang thí nghiệm này chắc chắn là khỏe mạnh, và mặc dù cả noãn lẫn phấn của cùng một hoa là tốt đối với các loài khác, nhưng chúng là không hoàn hảo về mặt chức năng trong việc tự động chung, chúng ta phải suy ra rằng cây không ở trong tình trạng tự nhiên bình thường. Tuy nhiên, thực tế này cho thấy đôi lúc dựa vào những nguyên nhân khó hiểu và kém quan trọng thì khả năng sinh sản dễ dàng hay khó khăn của loài khi đem lai, so với chính loài đấy khi tự thụ tinh. 
Các thí nghiệm của thực tiễn của những người làm vườn, dù không diễn ra với độ chuẩn xác khoa học, song, cũng đáng để xem xét. Nhiều người biết tính phức tạp vô cùng của cách thức của loài Pelargonium. Fuchsia, Calceolaria, Petunia, Rhododendron... đã được lai ghép, nhưng nhiều cá thể lai từ chúng vẫn cho hạt giống đều đều. Ví dụ ông Herbert khẳng định rằng cá thể lai từ Calceolaria integri/ oỉia và plantaginea, những loài hoàn toàn xa lạ, về tính cách "sinh đẻ ra con cháu cứ như thể nó là một loài tự nhiên từ nhiều ngọn núi ở Chile". Tôi đã trải qua một vài khó khăn để biết rõ mức độ của khả năng sinh nở của vài cá thể lai phức tạp Rhododendron. Tôi khẳng định là nhiều cá thể trong số chúng sinh đẻ tốt. Chẳng hạn như ông c. Noble cho tôi biết ông đang trồng một số lượng cây để lai ghép tạo ra một cá thể lai giữa Rhod Pontisum và Catawbiense, và cá thể lai này "sinh sản cực kỳ dễ dàng, khó ai có thể tưởng tượng được". Nếu các cá thể lai giữa các loài, khi được chăm sóc tốt, vẫn tiếp tục suy giảm khả năng sinh sản qua các thế hệ kế tiếp nhau, như ông Gartner cho là như thế, thực tế này chắc đã phải được nhiều người làm vướng nhắc tới. Những người làm vườn trồng nhiều cây của các cá thể lai tương tự nhau và được chăm sóc tốt, vì nhờ tác nhân côn trùng, vài cá thể của cùng một biến thể lai được cho phép lai ghép tự do với nhau, và do đó ảnh hưởng có hại tới việc lai ghép họ hàng vì sẽ không phát huy tác dụng. Bất kỳ ai ngay lập tức đồng ý về tính hiệu quả của tác nhân côn trùng bằng cách đem những bông hoa của loại kém sinh nở hơn của rhododendron lai, những cây không có phấn hoa thì anh ta sẽ tìm thấy trên các đầu nhụy nhiều phấn mang đến từ các hoa khác. 
Đối với động vật, người ta tiến hành ít thí nghiệm cẩn thận trên chúng hơn nhiều so với thực vật. Nếu những sắp xếp hệ thống của chúng ta là đáng tin tưởng, tức là nếu các chi động vật riêng biết giống như là các chi thực vật, thì chúng ta có thể suy luận rằng động vật bị tách biệt ở mức độ lớn hơn trong tự nhiên có thể dễ dàng lai ghép với nhau hơn là cây cối; nhung tôi nghĩ những con vật sinh ra từ sự lai ghép như thế sẽ kém khả năng sinh sàn hơn. Tôi nghi ngờ liệu có bất kỳ trường hợp động vật nào được xem xét cẩn thận rõ ràng hay không. Song chúng ta nên nhớ rằng, do có ít con vật lai ghép dễ dàng trong điều kiện bị giam hãm, ít thí nghiệm chính xác được tiến hành: ví dụ chim hoàng yến cho lai ghép với chín loài chim họ sẻ, nhưng do không một loại chim họ sẻ nào trong chín loài trên sinh sản thoải mái trong điều kiện bị giam cầm, chúng ta không có quyền trông đợi những con lai thế hệ đầu tiên giữa chúng và chim hoàng yến, hay các con lai của chúng, sẽ sinh nở tốt. Một lần nữa, khi xét về khả năng sinh sản trong các thế hệ kế tiếp của các con vật lai loài với khả năng sinh sản tốt hơn, tôi không biết một ví dụ nào cho thấy trong đó hai họ của cùng cá thể lai đã được nuôi cùng thời điểm nhưng khác bố mẹ, nhằm tránh ảnh hưởng xấu của việc lai giống các con họ hàng. Đối lập lại, anh chị em thường được cho giao phối với nhau qua mỗi thế hệ kế tiếp, đi ngược lại lời cảnh báo liên tục của mọi nhà nhân giống. Và trường họp này, không có gì đáng ngạc nhiên về sự vô sinh không thể thiếu của các con vật lai ngày một tăng. Nếu chúng ta hành động như thế, và từng cặp anh chị em trong trường họp các con vật thuần chủng, mà do nguyên nhân nào đi chăng nữa, có xu hướng vô sinh ít nhất, con lai sẽ chắc chắn bị mất trong một vài thế hệ. 
Cho dù tôi không biết bất cứ trường hợp rõ ràng nào về các con vật lai loài sinh nở tốt, tôi có vài lý do để tin rằng con lai từ Cervulus vaginalis và Reevesii, và từ Phasianus colchicus với p. torquatus và với p. versicolor là hoàn toàn sinh nở được. Những con lai của loài ngỗng Trung Quốc thông thường (Ắ. cygnoides), những loài khác biệt nhau tới mức chúng thường được xếp vào chi khác nhau, thường sinh sản trong đất nước này với cha mẹ thuần chủng, chúng đã sinh sản trong chính nhóm. Hiện tượng này đã được ông Eyton chứng thực, người nuôi hai cá thể lai từ cùng cha mẹ nhưng ấp khác nhau; và từ hai con chim này, ông có thêm không ít hơn tám con chim lai (cháu của ngỗng thuần chủng) từ một cái tổ. Tuy thế ở Ấn Độ, những con ngỗng lai này chắc chắn sinh đẻ dễ dàng hơn nhiều vì tôi đảm bảo chắc, dựa trên hai nhà nghiên cứu khoa học tài năng, ông Blyth và đại tá Hutton, toàn bộ đàn của những con ngỗng lai này được nuôi ở nhiều phần khác trên thế giới; và do chúng được giữ lại vì có lợi trong khi bố mẹ thuần chủng của chúng không tồn tại, chúng chắc chắn phải đã đẻ nhiều. 
Một học thuyết khởi xướng bởi ông Pallas, được đa số các nhà tự nhiên học đương đại tán thành. Đó là hầu hết các con vật thuần chủng của chúng ta đều bắt nguồn từ hai hay nhiều hơn các loài nguyên thủy, do hòa lẫn với nhau bởi quan hệ giao phối họ hàng gần gũi. Đứng trên quan điểm này, những loài nguyên thủy chắc phải hoặc là ban đầu đẻ ra các cá thể lai sinh nở tốt hoặc là những cả thể lai sau đó trở nên sinh sản dễ dàng trong điều kiện thuần hóa. Sự giải thích thứ hai này đối với tôi có vẻ như là có khả năng nhất, và tôi tin vào tính xác thực của nó, cho dù nó không có bằng chứng trực tiếp nào ủng hộ. Chẳng hạn như tôi nghĩ loài chó nhà của chúng ta có nguồn gốc từ vài loại vật hoang dã, nhưng loại trừ các trường hợp kiểu loài chó nhà thuần bản địa của Nam Mỹ, tẩt cả là sinh nở được; và sự so sánh khiến tôi rất nghi ngờ liệu vài loài gốc nguyên thủy có cùng sinh sản không và sinh ra những cá thể lai có thể sinh sản tốt. Do vậy một lần nữa chúng ta có lý do tin rằng những con gia súc có bướu Ấn Độ sinh nở tốt; nhưng dựa trên những thực tế mà ông Blyth đưa cho tôi, chúng phải được coi là các loài khác nhau. Xét trên quan điểm về nguồn gốc loài của các con vật thuần dưỡng của chúng ta, chúng ta phải hoặc là từ bỏ niềm tin vào sự vô sinh phổ biến của các loài khác nhau khi đem lai; hoặc là chúng ta phải coi tính vô sinh, không phải là đặc điểm cố định, mà là một đặc điểm có thể loại bỏ khỏi bởi sự thuần dưỡng. 
Cuối cùng, xem xét đến tất cả các thực tế rõ ràng về sự lai ghép của các động vật và thực vật, chúng ta có thể rút ra kết luận mức độ nhất định của tính vô sinh, cả trong những thế hệ lai giống và trong cả các cá thể lai loài thế hệ đầu tiên, là một kết quả cực kỳ thông thường, nhưng với kiến thức hiện tại của chúng ta, điều này không thể được coi là đúng tuyệt đối.
Các quy luật điều chỉnh tính vô sinh của các cá thể lai giống và loài đầu tiên - Chúng ta bây giờ sẽ xem xét chi tiết hơn một chút các hoàn cảnh và quy luật điều chỉnh tính vô sinh của các cá thể lai giống và loài đầu tiên. Mục tiêu chính của chúng ta sẽ là xem liệu có hay không các quy luật ám chi các loài được ban tặng đặc biệt đặc điểm này, nhằm tránh sự lai ghép của chúng khi hòa lẫn vào với nhau dẫn đến trạng thái lẫn lộn. Những quy luật và kết luận sau chủ yếu được rút ra từ công trình nghiên cứu đáng khâm phục của ông Gartner về quá trình lai loài của các cây. Tôi gặp vài khó khăn để biết xem tầm áp dụng của quy luật này đến đâu đối với các con vật, và xem kiến thức của chúng ta biết đến đâu trong lĩnh vực động vật lai loài, tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện là quy luật nói chung đúng với cả hai vưomg quốc động vật và thực vật.
Các nhà khoa học đã nhận xét rằng mức độ sinh đẻ, cả của cá thể lai giống và lai loài, chuyển hóa hoàn toàn từ vô sinh tới khả năng sinh sản tốt. Mọi người chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết có nhiều cách kỳ lạ sự chuyển hóa này có thể được chứng minh tồn tại; nhưng ở đây tôi chi bàn đến những điều cơ bản nhất. Khi phấn hoa của một cây trong một họ được đặt trên đầu nhụy hoa của cây trong một họ khác biệt, nó không hoàn toàn giống như những hạt bụi vô cơ, không hề có ảnh hưởng gì. Từ tính vô sinh hoàn toàn, phấn hoa của loài khác trong cùng chi đặt trên đầu nhụy hoa của loài khác nào đó, thì lai cho ra vài hạt giống tốt, chuyển sang mức có khả năng sinh đẻ hoàn hảo, và như chúng ta thấy, trong vài trường hợp đặc biệt, thậm chí là quá mắn đẻ là đằng khác, trên cả những gì mà phấn hoa của bản thân cây sẽ sinh ra. Trong chính những cá thể lai loài, có vài cá thể đã không bao giờ sinh nở và có lẽ sẽ không bao giờ sinh sản, thậm chí là với phấn của bố mẹ thuần chủng, một hạt giống sinh sản duy nhất thôi: nhưng trong một số trường hợp kiểu này, dấu vết đầu tiên về khả năng sinh sản có thể được phát hiện ra, bởi phấn hoa của một trong hai bố mẹ thuần chủng khiến hoa của cá thể lai héo sớm hơn nó trong khi đáng ra phải sống lâu hơn; và hiện tượng héo sớm như thế là dấu hiện phổ biến cho biết quá trình sinh sản hóa bắt đầu. Từ mức độ cực điểm của tính vô sinh chúng ta có các cá thể lai tự sinh sản cho ra ngày càng lớn số lượng các hạt giống tới khả năng sinh sản hoàn hảo. 
Các cá thể lai từ hai loài khó kết hợp với nhau; và hiếm khi đẻ ra con cái, thông thường có khả năng vô sinh rất cao; nhưng tình trạng tương đương giữa khó khăn tạo ra cá thể lai đầu tiên, và sự vô sinh của các cá thể lai loài mà do đó được sinh ra - hai nhóm hiện tượng thường gây sự khó hiểu - không hề chặt chẽ xét trên mọi góc cạnh. Chúng ta có nhiều trường hợp trong đó hai loài thuần chủng dễ dàng kết hợp được với nhau bởi tác nhân trợ giúp bất thường, và tạo ra khá nhiều cá thể lai; song những cá thể lai này đáng chủ ý là bị vô sinh. Mặt khác, có những loài hiếm khi lai, hoặc cực kỳ khó để làm như thế, nhưng cuối cùng vẫn lai được thì lại có khả năng sinh sản tốt. Thậm chí trong giới hạn của một chi, ví dụ như chi Dianthus, hai trường hợp đối lập này dã xuất hiện. 
Khả năng sinh sản, của cả cá thể lai giống và cá thể lai loài, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện xấu hơn so với khả năng sinh sản của các cá thể thuần chủng. Tương tự thế mức độ khả năng sinh sản về bản chất là biến thiên; vì nó không bao giờ giữ nguyên khi hai loài lai ghép trong cùng điều kiện hoàn cảnh, nhưng một phần dựa vào thể trạng của các cá thể đã được lựa chọn ngẫu nhiên để thí nghiệm. Do vậy chính là với các cá thể lai loài, do mức độ sinh sản của chúng thường khác nhau nhiều trong vài cá thể trồng từ các hạt lấy ra từ một quả nang và trồng trong cùng điều kiện như nhau. 
Cụm từ mối quan hệ hệ thống có nghĩa là sự giống nhau giữa các loài trong cấu trúc và thể trạng, nhất là trong các bộ phận cấu trúc quan trọng về mặt sinh lý khác nhau ít trong các loài họ hàng. Hiện giờ khả năng sinh sản của các cá thể lai loài đầu tiên; và của các cá thể lai sinh ra bởi chúng, chủ yếu bị điều chỉnh bởi mối quan hệ hệ thống. Chúng ta chứng minh tốt điều này dựa vào thực tế là các cá thể lai sinh ra bởi nhiều loài được các nhà hệ thống học xếp vào những họ riêng rẽ. Những sự tưomg ứng mối quan hệ hệ thống và yếu tố hỗ trợ lai ghép không có sự chặt chẽ xét trên mọi mặt. Vô số trường hợp về các loài họ hàng gần gũi có thể được đưa ra. Những loài họ hàng này sẽ không kết hợp với nhau, hoặc nếu có thì vô cùng khó khăn; và mặt khác những loài hoàn toàn khác biết kết hợp với nhau thực sự dễ dàng. Trong cùng một họ có thể có chi, như Dianthus, mà nhiều loài sẵn sàng cho sự lai ghép; chi khác như Silene, người ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thể tạo ra một cá thể lai giữa các loài cực kỳ gần gũi. Thậm chí chỉ trong một chi thôi, chúng ta cũng gặp sự khác biệt đó; ví dụ, nhiều loài của chi Nicotiana đã được lai hơn là loài thuộc bất cứ chi nào. Nhưng ông Gartner tìm thấy rằng N. acuminata, không là một loài riêng biệt điển hình luôn không thể sinh nở được, hay làm cho chúng sinh nở bởi không ít hơn tám loài của Nicotiana khác. Rất nhiều thực tế tương tự có thể được dẫn ra. 
Không ai có thể chỉ ra loại nào hay mức độ khác nhau nào trong bất cứ đặc điểm có thể nhận thấy nào là đủ để cản trở hai loài lai với nhau. Người ta có thể chứng minh cây thường khác nhau trong thói quen và đặc điểm chung bên ngoài, và nhận ra sự khác nhau trong mọi phần của cây hoa, thậm chí trong cả quả và trong phấn, trong lá mầm, có thể lai được. Nhưng cây hàng năm và cây lâu năm, những cây sẽ khô héo sau một khoảng thời gian và những cây xanh mãi mãi, sống ở những khu vực địa lý khác nhau, và thích hợp với các điều kiện khí hậu hoàn toàn trái ngược, thường dễ dàng lai ghép được. 
Thông qua sự lai ghép trao đổi giữa hai loài, ví dụ như ngựa giống lần đầu tiên được lai ghép với một con lừa cái, và sau đó một con lừa đực với một con lừa cái: thì hai loài này được gọi là lai ghép trao đổi. Những sự khác biệt khó hiểu nhất trong nhân tố hỗ trợ việc lai ghép trao đổi thường xuất hiện. 
Những trường hợp như thế là rất quan trọng, vì chúng chứng tỏ khả năng trong bất cứ hai loài lai ghép nào thường hoàn toàn không phụ thuộc vào mối quan hệ hệ thống của chúng, hay vào bất cứ đặc điểm có thể nhận ra nào trong toàn bộ tổ chức của chúng. Mặt khác, trường hợp này rõ ràng cho thấy khả năng lai ghép liên quan đến những khác biệt thể trạng không thể cảm nhận được bởi chúng, và chỉ nằm trong hệ thống sinh sản. Ông Kolreuter đã quan sát sự khác biệt trong kết quả của các cuộc lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định. Tôi xin đưa ra một ví dụ: Mirabilis jalappa có thể dễ dàng lai sinh sản được với phấn của M. longỷlora, và cá thể lai do đó có khả năng sinh sản tốt. Ông Kolreuter đã thử hơn hai trăm lần, trong suốt tám năm, để lai tạo giữa M. longỷlora với phấn của M. jalappa, nhưng cuối cùng vẫn không thành công. Vài trường hợp đáng ngạc nhiên như thế có thể được dẫn ra. Ông Thuret cũng biết một số thực tế dạng đó xuất hiện ở các loài rong biển hay Fuci. Hom nữa, ông Gartner tìm thấy rằng sự khác biệt này của yếu tố hỗ trợ tiến hành lai ghép trao đổi là rất phổ biến trong một mức độ thấp hơn. Ông đã quan sát nó thậm chí trong các dạng thức cực kỳ gần gũi (như Matthiola annua và glabra) tới mức nhiều nhà thực vật học xếp chúng vào chỉ là các biến thể. Một thực tế đáng chú ý nữa là các cá thể lai sinh ra từ lai ghép trao đổi, mặc dù chắc chắn là phức tạp đối với hai loài cố định, loài mà lúc đầu được dùng làm con bố sau đó dùng làm con mẹ, thông thường khác biệt trong khả năng sinh sản ở mức độ nhỏ, và đôi khi ở mức độ lớn hơn. 
Ông Gartner có thể đưa ra vài quy luật kỳ lạ khác. Ví dụ như vài loài có khả năng đặc biệt lai với loài khác; những loài khác trong cùng một chi có khả năng đặc biệt di truyền phần lớn lại những đặc điểm của chúng cho con cháu lai; nhưng hai khả năng đặc biệt này không nhất thiết phải đi cùng nhau. Chúng ta cũng có những cá thể lai nhất định mà bình thường thay vì có đặc diêm trung gian của hai bố mẹ, lại chỉ rất giống một trong hai; và các cá thể lai như thế, mặc dù bề ngoài giống với một trong hai bố mẹ thuần chủng, rất hiếm khi có thể sinh sản được. Như thế, một lần nữa, trong số các cá thể lai có đặc điểm cấu trúc trung gian, ngoại trừ các cá thể đặc biệt khác thường đôi khi được sinh ra rất giống với chỉ bổ hoặc mẹ thuần chủng; và những dạng lai như thế thường cuối cùng sẽ vô sinh, thậm chí các cá thê lai khác phát triên trong cùng một nhóm có khả năng sinh sản tốt. Những thực tế này chứng minh rằng khả năng sinh sản hoàn toàn không phục thuộc vào sự giống nhau bên ngoài so với cha mẹ thuần chủng của chủng. 
Xem xét những quy luật vừa nêu ra, mà chi phối khả năng sinh sản của các cá thể lai đầu tiên và của các cá thể lai sinh ra bởi chúng, chúng ta nhận thấy khi các dạng thức, mà được coi là loài riêng biệt rõ ràng, giao phối với nhau, khả năng sinh sản của chúng chuyển từ vô sinh tới mức độ sinh sản hoàn hảo, thậm chí là quá hoàn hảo trong những điều kiên môi trường nhất định. Việc khả năng sinh sản của chúng, bên cạnh việc rất nhạy cảm với điều kiện thuận lợi và không thuận lợi, về bản chất là luôn thay đổi. Điều này không phải lúc nào cũng giống nhau trong mức độ trong các cá thể lai đầu tiên và các cá thể lai được sinh ra sau đó bởi chúng. Khả năng sinh sản của các cá thể lai thế hệ sau không liên quan đến mức độ mà chúng giống bề ngoài với bố hoặc mẹ chúng. Và cuối cùng yếu tổ hồ trợ của việc tạo ra các cá thể lai thế hệ đầu giữa hai loài bất kỷ không phải lúc nào cũng bị chi phối bởi mối quan hệ hệ thống hay mức độ giống nhau giữa chúng. Lời phát biểu sau này hiển nhiên được chứng minh bởi quá trình lai trao đổi giữa hai loài cố định, bởi vì lần lượt một loài được sử dụng làm con bố sau đó là con mẹ, thì thường có khác biệt nhất định, và đôi khi những khác biệt kỳ lạ nhất có thể hình dung ra, trong yếu tố hỗ trợ sự giao hợp. Hơn nữa, những cá thể lai thế hệ sau sinh ra từ việc lai ghép trao đổi thường khác biệt trong khả năng sinh sản. 
Bây giờ liệu những quy luật phức tạp và kỳ lạ này hàm ý rằng các loài đã được chúa tạo ra không sinh sản được đơn thuần chỉ là để ngăn cản chúng không hòa lẫn vào nhau trong tự nhiên? Tôi không nghĩ như vậy. Bởi vì tại sao tính vô sinh lại biến đổi mạnh như thế khi nhiều loài đem lai ghép, mà tất cả trong đó chúng ta đều coi có tầm quan trọng như nhau trong việc tránh không cho chúng pha trộn lẫn lộn? Tại sao mức độ vô sinh xét về bản chất luôn biến đổi trong các cá thể thuộc cùng loài? Tại sao vài loại dễ dàng lai ghép có sự trợ giúp của nhân tố hồ trợ, nhưng sinh ra các cá thể lai vô sinh; và những loài khác cực kỳ khó để lai ghép nhưng khi thành công lại đẻ ra cá thể lai sinh sản tốt? Tại sao chúng ta lại thu được những kết quả khác xa nhau khi lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định? Người ta thậm chí còn hỏi tại sao sản phẩm của các cá thể lai thế hệ sau lại được cho phép? Để ban cho các loài khả năng đặc biệt sinh ra các cá thể lai thế hệ sau, và sau đó dừng sự sinh sản của chúng lại với mức độ khác nhau của sự vô sinh, không liên hệ chặt chẽ với tác nhân hỗ trợ của sự lai ghép lần đầu tiên giữa cha mẹ chúng, có vẻ như là một sự sắp xếp lạ kỳ.
Mặc khác, những quy luật và thực tế kể trên đối với tôi rõ ràng hàm ý tính vô sinh của cả con lai thế hệ đầu và thế hệ sau đơn giản chỉ phụ thuộc vào những khác biệt chưa được biết đến, chủ yếu trong hệ thống sinh sản, của những loài mà đem lai ghép. Những khác biệt này rất kỳ lạ và hạn chế trong tự nhiên, rằng, trong sự lai ghép trao đổi giữa hai loài nhân tố giống đực của một loài sẽ thường ảnh hưởng thoải mái lên nhân tố giống cái của loài kia, nhưng không có chiều hướng ngược lại xảy ra. Chúng ta nên giải thích kỹ càng hơn một chút bằng một ví dụ mà tôi khi nói tính vô sinh do phụ thuộc vào các điểm khác nhau khác và không phải là Chúa sinh ra với sự đặc biệt gì cả.
Vì khả năng một cây có thể lai ghép với cây khác là hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả đối với lợi ích của nó trong cuộc sống tự nhiên, tôi mặc định không ai cho rằng khả năng này là một đặc điểm có lợi được Chúa ban cho, mà thừa nhận nó phụ thuộc vào các sự khác biệt trong quy luật của sự tăng trưởng của hai cây. Chúng ta đôi khi có thể hiểu tại sao một cây này không lai ghép với cây khác, do tốc độ tăng trưởng khác nhau của chúng, trong độ cứng của thân cây, trong thời gian tiết nhựa cây... Nhưng trong phần lớn các trường họp, chúng ta không thể chỉ rõ ra nguyên nhân này. Tính đa dạng phong phú trong kích thước của hai loại cây, một cây dạng gồ, một cây dạng thảo mộc, một cây xanh mãi và một cây xanh một thời gian, và sự thích nghi với các loại thời tiết khí hậu khác nhau nhiều, không phải lúc nào cũng cản trở hai loại cây lai ghép với nhau. Như trong quá trình lai ghép thế hệ sau, việc này bị hạn chế bởi mối quan hệ hệ thống, bởi vì không ai có thể lai ghép các cây thuộc về những họ hoàn toàn xa lạ; và mặt khác những loài gần gũi hay biến thể thuộc cùng một loài không gặp khó khăn gì để lai ghép với nhau. Nhưng khả năng này, trong quá trình lai ghép thế hệ sau không hoàn toàn bị chi phối bởi mối quan hệ hệ thống. Mặc dù đã có nhiều chi khác biệt thuộc cùng một họ lai ghép với nhau, trong các trường họp khác, loài thuộc cùng một họ không lai với nhau. Cây lẽ lai ghép dễ hơn nhiều với cây mộc qua, mà được xếp vào chi khác biệt, hơn so với táo, thành viên của cùng một chi. Thậm chí các biến thể khác nhau của lê cũng có mức độ dễ dàng khác nhau với cây mộc qua, và tương tự như thế với các biến thể của cây mơ lai ghép với các biến thể nhất định của cây mận. 
Như ông Gartner phát hiện ra đôi khi có những khác biệt về bản chất trong các cá thể khác nhau của cùng hai loài khi lai ghép; vì thế ông Sagaret tin điều này đúng với những cá thể khác biệt của hai loài cố định khi đem lai với nhau. Như trong các lai ghép trao đổi, yếu tố hỗ trợ thường rất không đồng đều, như đôi khi nó trong lai ghép thường, ví dụ cây lý gai phổ biến không thể ghép với cây lý chua, trong khi đó thì cây lý chua lại có thể, mặc dù khó khăn, ghép với cây lý gai. 
Chúng ta đã thấy tính vô sinh của cá thể lai thế hệ sau, mà có hệ thống sinh sản không hoàn thiện, là một trường hợp rất khác biệt so với sự khó khăn của việc giao phối hai loài thuần chủng, mà có bộ phận sinh sản hoàn hảo; song hai trường hợp khác biệt này trong một chừng mực nào đó là song song. Có cái gì đó xuất hiện trong sự lai ghép; vì ông Thouin đã tìm thấy ba loài của Robinia, sinh hạt giống dễ dàng trên các rễ cây của chúng, và có thể lai ghép không có gì khó khăn đáng kể với loài khác, vì thế khi chiết ghép thì trở nên vô sinh. Mặt khác, một loài của Sorbus, khi chiết ghép với loài khác thì cho ra quả nhiều gấp hai lần so với khi tự ra quả bằng rễ của chúng. Hiện tượng này giúp chúng ta nhớ lại trường hợp vô cùng khác thường của Hippeastrum, Lobelia... cho hạt giống dễ dàng hơn khi thụ phấn với loài khác hơn là khi thụ phấn của bản thân nó. 
Do vậy chúng ta nhận thấy rằng mặc dù có một khác biệt rõ ràng và cơ bản giữa khả năng bám dính đơn thuần của các cá thể lai ghép, và sự kết hợp của nhân tố giống đực và giống cái trong quá trình sinh sản, và rằng có một mức độ thô của sự tương quan trong kết quả chiết cành và lai loài khác biệt. Và do chúng ta phải nghiên coi các quy luật phức tạp điều chỉnh yếu tố hỗ trợ giúp các cây có thể chiết ghép với nhau nhưng là phụ thuộc vào các điểm khác biệt được biết đến trong hệ thống dinh dưỡng của chúng. Tôi tin các quy luật điều chỉnh yếu tố hỗ trợ của các cá thể lai thệ hệ đầu là phụ thuộc vào các khác biệt không biết tới, chủ yếu là trong hệ thống sinh sản của chúng. Những điểm khác biệt, trong cả hai trường hợp, tuân theo ở mức độ nào đấy, như có thể đã đươc người ta mong đợi, mối quan hệ hệ thống, qua đó người ta cố thể hiện mọi dạng giống nhau và khác nhau giữa cá cơ thể sống hữu cơ. Những thực tế đối với tôi không hẳn ám chỉ mức độ khó khăn ít nhiều của hoặc là chiết ghép hoặc là lai ghép cùng nhau nhiều loài là một món quà tặng đặc biệt của Chúa; mặc dù trong trường hợp của lai ghép, sự khó khăn là quan trọng cho sự kéo dài và ổn định của các dạng thức nhất định, như trong trường hợp của chiết ghép, nó không quan trọng đối với cuộc sống của chúng. 
Những nguyên nhân của sự vô sinh của thế hệ lai đầu tiên và thế hệ lai sau đỏ. Hai trường hợp này là khác nhau cơ bản, bởi vì như vừa nhận xét, trong sự giao hợp của hai loài thuần chủng có nhân tố giống đực và giống cái hoàn chỉnh, trái lại trong các cá thể lai thế hệ sau là không hoàn chỉnh. Thậm chí trong các cá thể lai thế hệ đầu, những khó khăn trong việc tạo ra được sự kết hợp chắc chắn phụ thuộc vào vài nguyên nhân khác biệt. Chắc chắn đôi khi tồn tại những cái phi vật chất trong nhân tố giống đực tiến tới tế bào trứng, như trong trường hợp cây có nhụy hoa quá dài đối với những ống phấn để chạm tới bầu nhụy hoa. Người ta cũng quan sát thấy rằng khi phấn của một loài được đặt trên đầu nhụy của một loài họ hàng xa, mặc dù những ổng phấn nhô ra, chúng không chạm tới bề mặt của đầu nhụy. Một lần nữa, nhân tố giống đực có thể tiếp xúc với nhân tố giống cái nhưng không có khả năng khiến bào thai phát triển, giống như là trường hợp của vài thí nghiệm của ông Thuret trên Fuci. Không một sự giải thích nào có thể được đưa ra cho những thực tế này, hơn là tại sao nhừng cây nhất định không thể chiết ghép với nhau. Cuối cùng, một bào thai có thể phát triển, và sau đó bị tiêu diệt ở giai đoạn đầu. Tình trạng giai đoạn sau này vẫn chưa được chú ý đến đầy đủ; nhưng tôi tin, dựa vào bằng chứng mà ông Hewitt cung cấp, người có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về lai ghép các con chim họ gà, rằng cái chết sớm của bào thai là nguyên nhân thường xuyên gây ra tính vô sinh của những cá thể lai đầu tiên. Ban đầu tôi cảm thấy khó mà chấp nhận được quan điểm này; do các cá thể lai thế hệ sau, khi đã được sinh ra, thường là khỏe mạnh và sống lâu, như chúng ta đã thấy trong trường hợp của con la thông thường. Song những cá thể lai thế hệ sau lại sống trong nhũng môi trường khác nhau trước và sau khi sinh: khi được sinh ra và sống trong một nước mà hai bố mẹ chúng có thể tồn tại, chúng thường được đặt trong điều kiện sống thích hợp. Nhưng một cá thể lai chỉ thừa hưởng một nửa tính cách và thể trạng của con mẹ, và như vậy trước khi sinh ra, cho tới khi nó được nuôi dưỡng trong vỏ bọc của mẹ hay trong trứng hoặc hạt giống sinh ra bởi cá thề mẹ, nó có thể tiếp xúc với các điều kiện không thuận lợi và do đó rất có thể bị chết sớm; nhất là khi các cá thể non rất nhạy cảm với điều kiện sống bất lợi, nguy hiểm. 
Nói đến tính vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau, trong đỏ các nhân tố giới tính không phát triển hoàn hảo, trường họp này sẽ rất khác biệt. Tôi đã từng nhắc đến một khối lượng lớn các thực tế mà tôi đã thu thập được cho thấy khi các con vật và cây cối bị mang đi khỏi điều kiện sống tự nhiên quen thuộc của chúng, cơ quan sinh sản của chúng rất dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trên thực tế điều này là một cản trở lớn đối với các loài động vật thuần hóa. Giữa tính vô sinh lại được thêm vào vài đặc điểm của các cá thể lai thế hệ sau, có rất nhiều điểm tương đồng. Trong cả hai trường hợp, tính vô sinh không hề phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe chung, và thường đi kèm với sự quá khổ hoặc nhiều chất dinh dưỡng. Trong cả hai trường hợp, tình trạng vô sinh xuất hiện với các mức độ khác nhau; trong cả hai trường họp, nhân tố giống đực dễ bị ảnh hưởng nhất; nhưng đôi khi nhân tố giống cái lại bị ảnh hưởng nhiều hơn nhân tố giống đực. Trong cả hai trường họp, xu hướng tiến tới ở một chừng mực nhất định với mối quan hệ hệ thống, vì toàn bộ các nhóm động thực vật không có khả năng sinh sản do sống trong điều kiện môi trường tự nhiên không quen thuộc như nhau có xu hướng sinh ra những cá thể lai thế hệ sau vô sinh. Mặt khác, một loài trong nhóm có thể chống lại sự thay đổi mạnh mẽ của điều kiện sống với khả năng sinh sản không bị tổn thương; và có loài nào đó trong nhóm khá kỳ lạ khi sinh ra những cá thể lai có khả năng sinh sản. Không ai có thể nói, cho tới khi thử làm, liệu bất kỳ con vật nhất định nào sẽ sinh sản trong điều kiện giam hãm hay bất cứ loài cây nào đẻ hạt giống trong điều kiện nuôi trồng. Và không ai có thể nói, cho đến khi thử làm, liệu hai loài của một chi có sản sinh ra các cá thể lai có khả năng sinh sản kém hay tốt. Cuối cùng khi các thực thể hữu cơ sống trong điều kiện không tự nhiên đối với chúng qua vài thế hệ, chúng sẽ cực kỳ dễ có xu hướng biến đoi. Tôi nghĩ điều này là do hệ thống sinh sản của chúng bị ảnh hưởng đặc biệt, cho dù ở mức độ thấp hơn so với khi sự vô sinh xảy ra. Như vậy chính là với các cá thể lai đời sau, bởi vì các cá thể lai đời sau này trong các thế hệ kế tiếp nhau là rất dễ có xu hướng biến đổi như những thí nghiệm đã chỉ ra.
Do vậy chúng ta thấy rằng khi các thực thể hữu cơ bị đặt trong điều kiến sống không quen thuộc, và khi các cá thể lai được sinh ra bởi sự lai ghép phi tự nhiên giữa hai loài, hệ thống sinh sản, độc lập với tình trạng sức khỏe chung, bị ảnh hưởng bởi tính vô sinh theo cách rất giống nhau. Trong trường họp này, khi điều kiện sống có biểấn động, cho dù thường ở mức độ nhỏ tới mức mà chúng ta không để ý đến; trong trường họp khác, các cá thể lai thế hệ sau, điều kiện sống bên ngoài không biểấn động, nhưng tổ chức bị xáo trộn bởi hai cấu trúc và thể trạng khác nhau bị hòa vào thành một. Do hiếm có khả năng xảy ra là hai tổ chức trở thành một, mà không xuất hiện những xáo trộn trong quá trình phát triển, hay ảnh hưởng giai đoạn, hay mối quan hệ qua lại của các bộ phận khác nhau và các phần với nhau, hay tới điều kiện sống. Khi các cá thể lai có thể sinh sản nội tại, chúng truyền lại cho con cháu thế hệ này qua thế hệ khác cấu trúc hợp nhất đó, và như thế chắc chúng ta sẽ không ngạc nhiên gì khi biết tính vô sinh của chúng, mặc dù biến đổi đôi chút, hiếm khi suy giảm. 
Tuy nhiên chúng ta phải thừa nhận chúng ta không thể hiểu, ngoài những giả thiết mù mờ, vài thực tế liên quan đến tính vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau; chẳng hạn như khả năng sinh sản không đồng đều giữa các cá thể lai tạo ra từ những lai ghép trao đổi; hay tính vô sinh gia tăng của các cá thể lai mà đôi khi rất giống với bố hoặc mẹ thuần chủng. Tôi cũng không có ý nói các nhận định nêu trên là bản chất sâu xa của vấn đề: tôi không đưa ra bất cứ một sự giải thích nào tại sao một cơ thể, khi đặt trong điều kiện không quen thuộc, lại bị vô sinh. Tất cả những gì mà tôi muốn nói, ở trong hai trường họp, trong một số khía cạnh gần gũi, là sự vô sinh là kết quả thường thấy - trong một trường họp do điều kiện sống bị xáo động, trong trường hợp kia là do tổ chức cơ thể bị biếấn động khi hai tổ chức cơ thể trở thành một. 
Nó dường như là một sự tưởng tượng quá mức, nhưng tôi nghi ngờ rằng điều tương đương cũng đúng với một tập hợp các thực tế khá gần gũi mặc dù rất khác nhau. Tôi nghĩ chính là một niềm tin lỗi thời nhưng cực kỳ phổ biến xét trên một số lượng các bằng chứng đáng kể, rằng biến đổi nhỏ trong điều kiện sống là có lợi cho tất cả các cơ thể sống. Chúng ta thấy nhận định này đúng khi các nhà nông và người làm vườn thường xuyên trao đổi hạt giống, mầm cây..., từ mảnh đất hay khí hậu này sang mảnh đất khí hậu khác và ngược trở lại. Sau khi tìm hiểu các động vật, chúng ta nhận rõ lợi ích lớn đến từ hầu hết tất cả thay đổi trong thói quen cuộc sống. Một lần nữa, cả với cây cối và con vật, có vô số bàng chửng rằng sự lai ghép giữa các cá thể rất khác nhau trong cùng một loài, tức là giữa các thành viên của các giống hay tiểu giống khác nhau, sẽ sinh ra những cá thể khỏe mạnh và sinh sản tốt. Tôi thực sự tin, dựa trên các thực tế đã được nêu ra trong chương bốn, rằng số lượng lai ghép nhất định là không thể thiếu, thậm chí đối với những cá thể lưỡng tính; và rằng việc lai ghép các cá thể họ hàng gần gũi trong suốt vài thế hệ liên tục giữa mối quan hệ gần nhất, đặt biệt khi các cá thế này bị giữ trong cùng điều kiện sống, luôn luôn cho ra các cá thể yếu ớt và vô sinh.
Do vậy nó có vẻ là, một mặt, những biến đổi nhỏ trong điều kiện sổng có lợi cho tất cả các thực thể sống, và mặt khác những sự lai ghép nhẹ, tức là lai ghép giữa cá thể đực và cá thể cái của cùng một loài mà đã biến đổi và trở nên đôi chút khác biệt, sinh ra những con cháu mạnh khỏe sinh sản tốt. Nhưng chủng ta đã thấy rằng những thay đổi lớn hơn hoặc thay đổi của bản chất đặc biệt, thường khiến cho các thực thể hữu cơ bị vô sinh ở mức độ nhất định; và những lai ghép lớn, tức là giữa các cá thể đực và cá thể cái của loài đã trở nên khác biệt lớn, thường đẻ ra những cá thể lai bị vô sinh ở mức độ nhất định. Tôi không thể thuyết phục bản thân là sự song song này là ngẫu nhiên hoặc một ảo ảnh. Cả hai tập hợp thực tế có vẻ như liên kết với nhau bởi một mối quan hệ chung nhưng chưa được biết tới, mà cơ bản liên quan đến nguyên lý sống. 
Khả năng sinh sản của các biến thể khi lai, và của các con cháu lai của chúng - Người ta có thể khẳng định, như một lập luận chặt chẽ nhất, rằng chắc chắn phải có một sự khác biệt cơ bản giữa biến thể và loài, và rằng chắc chắn phải có lồi trong những nhận định nêu trên, giống như là các biến thể, tuy chúng khác biệt nhau nhiều trong hình dáng bên ngoài, lai ghép với nhau dễ dàng và đẻ ra các cá thể sinh sản hoàn hảo. Tôi hoàn toàn công nhận rằng điều này lúc nào cũng đúng. Nhưng khi chúng ta xem xét các biến thể sinh ra trong tự nhiên, chúng ta ngay lập tức phải đối mặt với những khó khăn có hy vọng giải quyết được; bởi vì nếu hai biến thể giả định được tìm thấy trong bất cứ mức độ vô sinh nào cùng nhau; chúng ngay lập tức được các nhà tự nhiên học xếp vào dạng loài. Chẳng hạn như cây hổ người xanh và đỏ, cây hoa anh thảo và cây hoa anh thảo vàng, những cây mà được nhiều nhà thực vật học giỏi nhất của chúng ta coi là biến thể, thì theo ông Gartner lại không hoàn toàn sinh sản tốt khi đem lai, và do vậy ông ta, không hề nghi ngờ gì cả, xếp chúng vào loài. Nếu chúng ta lập luận theo một vòng tròn, khả năng sinh sản của tất cả các biến thế sinh ra trong điều kiện tự nhiên sẽ chắc chắn phải có được. 
Nếu xét đến các biến thể được sinh ra hay cho là sinh ra trong điều kiện thuần hóa, chúng ta vẫn có nghi ngờ. Chẳng hạn như có người nói giống chó Spitz Đức giao hợp dễ dàng với cáo hơn các giống chó khác, hay vài giống chó bản địa ở vùng Nam Mỹ không sẵn sàng giao hợp với các giống chó châu âu. Lời giải thích mà mọi người sẽ đưa ra và có lẽ là chuẩn xác chính là những con chó này có nguồn gốc từ vài loài nguyên thủy khác nhau. Tuy nhiên khả năng sinh sản tốt của quá nhiều biến thể thuần hóa, khác nhau lớn trong hình dáng bên ngoài, chẳng hạn như của chim bồ câu hay cải bắp, là một thực tế đáng quan tâm; nhất là khi nó phản ánh có rất nhiều loài, mặc dù rất giống nhau bên ngoài, lại cuối cùng bị vô sinh khi đem lai giống. Tuy thế, vài xem xét cho rằng khả năng sinh sản của các biến thể thuần hóa là ít đặc biệt hơn là như ban đầu người ta tưởng. Người ta có thể chứng minh chỉ những sự khác nhau bên ngoài giữa hai loài không quyết định mức độ vô sinh khi đem lai. Và chúng ta có thể áp dụng quy luật tương tự cho các biến thể thuần hóa. Một số nhà tự nhiên học nổi tiếng tin rằng quá trình thuần hóa lâu dài sẽ có xu hướng xóa bỏ sự vô sinh trong các thế hệ liên tiếp của cá thể lai, mà ban đầu chỉ hơi bị vô sinh; và nếu là như vậy, chúng ta chắc chắn không thể trông đợi tìm thấy được sự vô sinh xuất hiện và biến mất trong điều kiện sống giống nhau. Cuối cùng, và điều này đối với tôi cho đến giờ là xem xét quan trọng nhất, những giống động thực vật mới sinh ra trong điều kiện thuần hóa bởi sự lựa chọn có phương pháp và vô thức của con người, phục vụ mục đích và ý thích của anh ta, anh ta không mong muốn cũng không thể lựa chọn, những biến đổi nhỏ trong hệ thống sinh sản, hay những khác biệt khác trong thế trạng liên quan đến hệ thống sinh sản. Anh ta cho các biến thể của mình ăn cùng loại thức ăn; đối xử với chúng gần như nhau, và không mong muốn thay đổi thói quen cuộc sống của chúng. Tự nhiên tác động đồng bộ và chậm chạp trong suốt những quãng thời gian dài lên toàn bộ cơ thể cấu trúc, trong bất cứ phương cách có thể tốt cho sinh vật và như vật tự nhiên hoặc là trực tiếp, mà có lẽ là gián tiếp nhiều hơn, thay đổi hệ thống sinh sản của một vài con cháu của bất cứ loài nào. Thấy được sự khác biệt trong quá trình lựa chọn, thực hiện bởi con người và tự nhiên, chúng ta chắc sẽ không ngạc nhiên khi biết có vài sự khác biệt trong kết quả. 
Tôi đã nói như thế các biến thể của cùng loài lúc nào cũng sinh sản tốt khi đem lai. Nhưng tôi cảm thấy không thể chống lại được bằng chứng của sự tồn tại một mức độ nhất định tính vô sinh trong một số ít các trường hợp sau, mà tôi sẽ trình bày ngắn gọn. Bằng chứng có sức mạnh mà dựa vào đó tôi tin vào tính vô sinh của nhiều loài. Bằng chứng này cũng có được từ những người quan sát chống lại quan điểm của tôi, những người coi trọng tất cả các trường hợp khác khả năng sinh sản và sự vô sinh. Nhà sinh vật học Gartner đã để cho một loại ngô lùn có hạt màu vàng và một loại có hạt màu đỏ phát triển cùng nhau trong vườn của ông trong vài năm, và mặc dù những cây ngô này không cùng giới, chúng không hề thụ phấn cho nhau. Sau đó, ông thụ phấn cho mười ba cây hoa một loại ngô từ phấn của loại còn lại, nhưng chỉ có một cây cho mầm, và mầm này chỉ cho ra năm hạt ngô. Sự ép buộc giao phấn trong trường hợp này không hề gây tổn hại cho cây bởi đây là những cây ngô khác giới. Tôi cho rằng không ai nghi ngờ đây là hai cây ngô khác loài, và điều quan trọng đáng nói ở đây là những cây con được nuôi dưỡng sau quá trình tự thụ phấn hoàn toàn có khả năng sinh sản, do vậy Gartner không hề nghi ngờ rằng đây là hai loài ngô khác nhau. 
Giro de Buzareingues lai ba loại bí khác nhau, và ông kết luận rằng sự thụ phấn lẫn nhau càng khó nếu sự khác biệt giữa các loại càng lớn... nhưng các dạng thức mà được dùng làm thì nghiệm thì theo ông Sagaret, người kiểm tra tính vô sinh để đưa ra sự phân loại của mình, nên xếp chúng vào dạng biến thể. 
Trường hợp sau còn đáng chú ý hơn; và dường như mới xem qua thì không thể tin được. Nhưng đó là kết quả của số lần thí nghiệm khổng lồ trong nhiều năm qua trên chín loài Verbascum bởi một nhà quan sát đầy kinh nghiệm nhưng rất phản đối quan niệm của tôi, như ông Gartner. Đó là các biến thể vàng và trắng thuộc cùng loài Verbascum khi lai nội bộ đẻ ra ít hạt giống hơn so với một trong hai biến thể màu khi sinh sản dựa vào phấn của chính hoa cùng màu của nó. Hơn nữa ông ta khẳng định rằng khi các biến thể vàng và trắng của cùng một loài lai ghép với biến thể vàng và trắng của một loài riêng biệt khác, thì nhiều hạt giống được sinh ra hơn giữa sự lai ghép của các hoa cùng màu so với những hoa khác màu. Nhưng những biến thể của Verbascum không cho thấy bất cứ sự khác biệt nào ngoài màu hoa ra; và đôi khi một biến thể có thể mọc ra từ hạt giống của biến thể khác. 
Dựa vào sự quan sát của tôi đối với cây hoa thục quỳ, tôi có nghi ngờ chúng thể hiện những thực tế tuông tự. 
Ông Kolrueter, người sự chính xác trong công việc được mọi nhà quan sát đều công nhận, đã chứng minh được một điều đáng lưu tâm, là một biến thể của cây thuốc lá man đẻ hơn, khi đem lai với một loài hoang dã khác biệt, so với các biến thể khác. Ông làm thí nghiệm trên năm dạng thức mà thường được công nhận là các biến thể, và đã được ông ta kiểm tra chặt chẽ nhất, tức là bằng sự lai ghép trao đổi, và ông ta nhận thấy cá thể lai sinh ra hoàn toàn sinh sản tốt. Nhưng một trong năm biến thể, khi được sừ dụng là bố và mẹ, và đem lai với Nicotiana glutinosa, luôn sinh ra các cá thể lai với mức độ vô sinh không cao như những cá thể lai từ bốn biến thể khác khi chúng đem lai với N. glutinosa. Do vậy hệ thống sinh sản của biến thể này chắc chan phải thay đổi theo cách và ở mức độ nào đó. 
Dựa vào các thực tế này và sự khó khăn lớn trong việc công nhận tính vô sinh của cách biến thể trong tự nhiên, đối với một biến thể được thừa nhận nếu sự vô sinh trong bất cứ mực độ nào cũng được xếp vào dạng loài; do con người chỉ lựa chọn các đặc điểm bên ngoài khi tạo ra các biến thể thuần hóa khác biệt nhất; và do không mong muốn hoặc không có khả năng tạo ra những khác biệt chức năng và tính kỳ quặc trong hệ thống sinh sản; dựa vào các thực tế và sự quan sát trên của tôi, tôi không nghĩ rằng khả năng sinh sản phổ biến của các biến thể có thể được chứng minh là lúc nào cũng xảy ra, hay hình thành sự khác biệt cơ bản giữa các biến thể và loài. Đối với tôi, khả năng sinh sản rộng rãi của các biến thể là không đủ để bác bỏ quan điểm mà tôi ủng hộ khi nói đến tính vô sinh phổ biến nhưng không phải lúc nào cũng thế của các cá thể lai thế hệ đầu tiên và của con cháu chúng. Đó là nó không phải là do chúa tạo ra, mà là phụ thuộc vào các biến đổi lâu ngày thu được, nhất là trong hệ thống sinh sản của các dạng thức được đem đi lai. 
Các cá thể lai loài và biến thể so sánh, không phụ thuộc vào khả năng sinh sản của chúng - Không liên quan đến câu hỏi về khả năng sinh sản, con cháu của loài khi được lai và của cá thể khi được lai có thể so sánh với nhau trong vài khía cạnh khác. Ông Gartner, người rất mong muốn tìm ra được sự phân biệt rạch ròi giữa loài và biến thể, chỉ có thể tìm thấy rất ít, như tôi cảm nhận, những khác biệt không quan trọng mấy giữa những cá thể gọi là con cháu lai của các loài, và cá thể gọi là con cháu lai của biến thể. Và trong khi đó chúng khá giống nhau về nhiều mặt.
Ở đây tôi chỉ thảo luận chủ đề này hết sức ngắn gọn. Điểm khác biệt quan trọng nhất là, trong thế hệ lai biến thể đầu tiên thay đổi nhiều hơn so với cá thể lai loài; nhưng ông Gartner thừa nhận rằng những cá thể lai loài đã được thuần hóa từ lâu thường hay biến đổi trong thế hệ đầu tiên; và bản thân tôi đã từng gặp những ví dụ đáng ngạc nhiên về thực tế này. Ông Gartner còn thừa nhận là những cá thể lai giữa các loài họ hàng gần gũi biến đổi nhiều hơn so với các cá thể lai giữa các loài riêng biệt; và điều này cho thấy là sự khác biệt trong mức độ tính biến đổi chuyển hóa dần dần. Khi các cá thể lai giữa các biến thế và các cá thể sinh sản tốt hơn lai giữa các loài được nhân rộng qua vài thế hệ, một khối lượng cực lớn của tính biến đối trong con cháu của chúng là phổ biến; nhưng chúng ta có thể thấy vẫn tồn tại một vài trường hợp của cả cá thể lai loài và cá thể lai biến thể từ lâu vẫn giữ lại được tính đồng đều của đặc điểm.Tuy nhiên có lẽ tính biến đổi qua vài thế hệ liên tiếp của các cá thể lai biến thể là lớn hơn so với cá thể lai loài. 
Tính biến đổi lớn hơn của các cá thể lai biến thể so với các cá thể lai loài đối với tôi là không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi vì cha mẹ của các cá thể lai biến thể là biến thể, và đa số các biến thể thuần chủng (rất ít thí nghiệm được tiến hành trên các biến thể tự nhiên), và điều này trong hầu hết các trường hợp hàm ý gần đây có tính biến đổi; do đó chúng ta có thể trông đợi tính biến đổi như thế sẽ tiếp tục và sẽ được thêm nhiều vào cái trội lên từ hoạt động lai ghép. Mức độ biến đổi ít trong các cá thể lai loài từ lần lai ghép đầu tiên hay trong thế hệ đầu tiên, đối lập với tính biến đối cực độ của chúng trong các thế hệ kế tiếp, là một điều gây tò mò và đáng đế quan tâm.
Bởi vì nó chứa đựng và cung cấp bằng chứng ủng hộ quan điểm mà tôi đã cho là nguyên nhân của tính biến đổi thông thường; đó là do hệ thống sinh sản vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi điều kiện sống, do đó hay trở nên vô dụng hoặc ít nhất là không thực hiện tốt chức năng sinh sản ra con giống với dạng bố mẹ. Bây giờ các cá thể lai loài của thế hệ đầu tiên là con cháu của các loài (loại trừ những dạng đã được thuần hóa từ lâu) mà cơ quan sinh sản của chúng vẫn chưa hề bị ảnh hưởng gì, và chúng không biến đổi; nhưng bản thân các cá thể lai loài lại có hệ thống sinh sản bị ảnh hưởng nặng nề và con cháu của chúng biến đổi rất mạnh mẽ. 
Nhưng quay trở lại sự so sánh giữa các cá thể lai loài và cá thể lai biến thể: ông Gartner tuyên bố rằng các cá thể lai biến thể dễ có xu hướng quay trở lại các đặc điếm dạng bố mẹ hơn là các cá thể lai loài; nhưng điều này, nếu đúng, thì chắc chắn chỉ là một sự khác biệt trong mức độ. Ông Gartner còn đi xa hơn khi lai loài, mặc dù hết sức gần gũi, lai với một loài thứ ba, các cá thể lai sinh ra sẽ rất khác biệt so với nhau; trái lại, nếu hai biến thể hoàn toàn khác biệt của một loài được lai với một loài khác, cá thế lai sinh ra không khác biệt nhiều lắm. Nhưng theo tôi được biết, kết luận này chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất do ông Kolreuter tiến hành. 
Chỉ một mình những điều này là những điểm khác biệt không quan trọng mà ông Gartner có thể chỉ ra, giữa các cây lai loài và cây lai biến thể. Trong khi đó, sự giống nhau trong các cá thể lai biến thể và trong các cá thể lai loài với cha mẹ tương ứng của chúng, nhất là trong các cá thể lai loài sinh ra từ các loài có quan hệ gần gũi với nhau, theo ông Gartner, tuân theo những quy luật tương tự. Khi hai loài lai ghép với nhau, một loài đôi khi có sức mạnh đặc biệt ấn định các đặc điểm của chúng cho các cá thể lai sinh ra; và tôi tin điều tương tự cũng xảy ra với các biến thể của cây. Với động vật chắc chắn là một biến thể thường có sức manh đặc biệt hơn so với biến thể khác. 
Các cây ra đời từ những lai ghép trao đổi, thông thường rất giống nhau; và tương tự như vậy với các cá thể lai biến thế từ một lai ghép trao đổi. Cả cá thể lai loài và lai biến thể đều có thể bị giảm xuống dạng thức bố mẹ, thông qua các lần lai lặp lại trong các thế hệ kế tiếp nhau với dạng bố mẹ thuần chủng. 
Vài nhận định này chắc chắn có thể áp dụng được cho động vật; nhưng chủ đề này vô cùng phức tạp, một phần là do sự tồn tại của các đặc điểm giới tính thứ cấp, nhưng quan trọng hơn là do sức mạnh đặc biệt trong việc di truyền lại các đặc điếm xuất hiện ở trong một giới tính nhiều hơn là ở giới tính kia, khi một loài lai với một loài khác, và khi một loài lai với một biến thể khác. Chẳng hạn, tôi nghĩ những học giả đó đúng, nhưng người ta khẳng định loài lừa có sức mạnh đặc biệt hơn loài ngựa khiến cho cả con la sinh ra từ ngựa cái và lừa đực và con la sinh ra từ ngựa đực và lừa cái, giống con lừa hơn là ngựa; nhưng rằng sức mạnh đó mạnh hơn trong con lừa đực so với con lừa cái, khiến cho con la sinh ra từ ngựa cái và lừa đực, thì giống con lừa hơn so với con la được sinh ra từ ngựa đực và lừa cái. 
Các học giả khác nhấn mạnh nhiều vào trực tế thừa nhận là chỉ các động vật lai cá thể được sinh ra rất giống với một trong hai bố mẹ chúng; nhưng người ta đôi khi lại tìm thấy điều này cũng xảy ra với các cá thể lai loài; nhưng tôi tiếp xúc ít với các cá thể lai loài hơn nhiều so với các cá thể lai biến thế. Xem xét các trường hợp mà tôi thu thập được từ các động vật lai chéo rất giống với cha mẹ, những sự giống nhau này dường như chủ yếu chỉ nằm ở các đặc điểm hầu như dị thường trong bản chất của chúng và đã đột nhiên biến mất - chẳng hạn như chứng bạch tạng, chứng nhiễm sắc tố, thiếu đuôi hay sừng, hay có thêm những ngón tay hoặc ngón chân, và không liên quan đến các đặc điểm mà dần dần có được thông qua sự lựa chọn. Kết quả là sự trở lại đột nhiên các đặc điểm bình thường của cha mẹ thường hay xuất hiện ở những cá thể lai biến thể mà bắt nguồn từ các biến thể đột nhiên sinh ra và bán dị thường trong các đặc điểm, so với các cá thể lai loài có nguồn gốc từ những loài hình thành một cách tự nhiên và chậm chạp. Xét trên tổng thể, tôi hoàn toàn đồng ý với tiến sỹ Prosper Lucas, người sau khi đã sẳp xếp một khối lượng khổng lồ các bằng chứng về động vật lại với nhau, đã rút ra kết luận những quy luật của sự giống nhau giữa đứa con với cha mẹ là như nhau, cho dù bố mẹ có khác nhau ít hay nhiều, tức là trong sự giao hợp giữa các cá thể cùng biến thể hay giữa các cá thể khác biến thể, hoặc là giữa các loài riêng rẽ. 
Tạm không bàn đến những câu hỏi về tính vô sinh và khả năng sinh sản, trong tất cả các khía cạnh khác thì chúng ta hình như có sự tương đồng chung giữa con cháu của các loài lai ghép, và của các biến thể lai ghép. Nếu chúng ta nghĩ những loài được đặc biệt tạo ra, và các biến thể tạo ra do các quy luật thứ cấp, sự tương đồng này sẽ thực sự là ngạc nhiên, khó hiểu. Nhưng nó lại hoàn toàn phù họp nếu ta đứng trên quan điểm là không có sự khác biệt cơ bản giữa loài và biến thể. 
Tổng kết chương - Những lai ghép đầu tiên giữa những dạng đủ điều kiện để xếp vào loài, và các cá thể lai sinh ra bởi chúng, rất thường hay, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, bị vô sinh. Tính vô sinh ở tất cả các mức độ, và thường nhỏ bé tới mức mà hai nhà thí nghiệm học tài năng và cẩn thận nhất từ trước tới giờ, đã đi tới những kết luận đối ngược trong việc xếp loại các dạng thức thông qua các thừ nghiệm này. Tính vô sinh về bản chất là biến đổi trong các cá thể của cùng một loài, và nó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi điều kiện sống thuận lợi hoặc không. Mức độ vô sinh không hoàn toàn tuân theo mối quan hệ hệ thống, mà bị điều chỉnh bởi một vài quy luật phức tạp khó hiểu. Thông thường thì có sự khác biệt, đôi khi là khác biệt lớn trong các lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định. Nó không phải lúc nào cùng có mức độ ngang bằng trong một cá thể lai thế hệ đầu và trong các cá thể lai thế hệ sau. 
Theo cách tương tự như chiết ghép cây, khả năng một loài hay biến thể giao kết với loài hay biến thể khác nói chung là phụ thuộc vào những điểm khác biệt chưa được biết tới trong hệ thống sinh dưỡng của chúng, như trong sự lai ghép, hồ trợ ít hay nhiều để một loài giao phối với một loài khác, là do những khác nhau chưa biết tới trong hệ thống sinh sản của chúng. Chúng ta không còn có lý do gi nữa để tin rằng các loài được Chúa ban tặng cho mức độ vô sinh khác nhau để tránh tình trạng chúng hòa lẫn với nhau trong tự nhiên, hơn là nghĩ thực vật cũng được Chúa tạo ra với các mức độ khó khăn tương đưomg trong việc chiết ghép với nhau để tránh, chúng trở thành ghép áp trong các khu rừng của chúng ta. 
Sự vô sinh của các cá thể lai đầu tiên giữa hai loài thuần chủng, mà hệ thống sinh sản của chúng hoàn toàn tốt, có vẻ như phụ thuộc vào một vài điều kiện hoàn cảnh nhất định; ở một số trường hợp thì chủ yếu là do phôi thai chết sớm. Sự vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau, có hệ thống sinh sản không hoàn thiện, cả cấu trúc và hệ thống này của chúng bị xáo động do hai cấu trúc trở thành một của hai loài khác, có vẻ như quan hệ mật thiết với sự vô sinh mà rất thường hay ảnh hưởng tới những loài thuần chủng, khi điều kiện sống tự nhiên của chúng bị xáo động. Quan điểm này được ủng hộ bởi sự song song của loại khác; đó là sự lai ghép của các dạng thức chỉ khác nhau ít là có lợi cho sức khỏe và khả năng sinh sản của con cháu của chúng; và rằng những thay đổi nhỏ trong cuộc sống rõ ràng có lợi cho sức khỏe và khả năng sinh sản của tất cả các cơ thể sống hữu cơ. Không có gì phải ngạc nhiên là mức độ khó khăn để giao hợp hai loài, và mức độ vô sinh của các con cháu lai thế hệ ba là thường tương ứng, cho dù là do những nguyên nhân khác nhau; do cả hai đều phụ thuộc vào khối lượng khác biệt của một dạng nhất định giữa các loài mà được đem lai cấy. Và chúng ta cũng không phải lấy làm ngạc nhiên sự hỗ trợ thực hiện lai ghép thế hệ đầu tiên, khả năng sinh sản của thế hệ lai thứ hai được sinh ra, khả năng có thể chiết ghép với nhau - mặc dù khả năng chiết ghép này là phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh điều kiện khác biệt - tất cả sẽ chạy, ở một mức độ nhất định, song song với mối quan hệ hệ thống của các dạng thức đem đi thí nghiệm; vì mối quan hệ hệ thống cổ hình thành tất cả thể loại những đặc điểm giống nhau giữa tất cả các loài. Những cá thể lai đời đầu giữa các dạng mà mọi người đều cho là biến thể, hay đủ điều kiện để xếp vào dạng biến thể, và con cháu lai của chúng, thường rất hay, nhưng không phải lúc nào cũng thế, sinh sản tốt. Khả năng sinh sản gần như là phổ biến vả hoàn hảo này không làm chúng ta ngạc nhiên khi nhớ lại rằng chúng ta hay có xu hướng lập luận vòng quanh liên quan đến các biến thể trong tự nhiên; và khi chúng ta nhớ rằng số lượng các biến thể thuần chủng nhiều hơn bởi sự lựa chọn chỉ các đặc điểm bề ngoài, và không bởi các đặc điểm khác biệt trong hệ thống sinh sản. Trong tất cả các mặt khác, loài trừ khả năng sinh sản, hầu như có sự giống nhau lớn giữa cá thể lai loài và cá thể lai biến thể. Và cuối cùng những bằng chứng được đưa ra ở trong chưomg này đối với tôi có vẻ như không đi ngược lại với, thậm chí là còn ủng hộ, quan điểm không có sự khác biệt cơ bản nào giữa loài và biến thể.
CHARLES DARWIN
Ngọc Linh dịch 
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh 
"The origin of species" Darwin, London 1933
Theo http://darwin-online.org.uk/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...