CHƯƠNG XII
PHÂN BỐ ĐỊA LÝ (T.T)
Sự phân bố các sinh vật nước ngọt - về các sinh vật trên các đảo ở đại dưcmg - Sự vắng mặt các loài ếch nhái và các loài thú sống trên cạn - về quan hệ của các sinh vật trên các hòn đảo với các sinh vật ở vùng đất liền gần đảo nhất - về sự thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất với sự biến đổi thường xuyên - Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước
Con người hẳn đã từng nghĩ rằng, bởi vì hồ và các hệ thống sông bị ngăn cách với nhau bởi các dải đất, nên các loài nước ngọt sẽ không thể biến đổi nhiều trong cùng một nước, và bởi vì biển rõ ràng là một rào cản khó có thể vượt qua, nên các loài này không thể vươn tới các đất nước xa xôi được. Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Chủng ta không chỉ có các loài nước ngọt, thuộc những lớp hoàn toàn khác nhau, với vô số chủng loại, mà những loài cùng họ còn xuất hiện rất nhiều trên khắp thế giới. Tôi nhớ rất rõ ràng, khi lần đầu tiên thu thập các loài sinh vật tại các vùng nước ngọt ở Braxin, tôi đã hết sức ngạc nhiên vì sự tương đồng của các loài côn trùng nước ngọt, các mảnh vỏ sò... cũng như sự khác biệt của các sinh vật sống trên cạn ở xung quanh so với các loài này của nước Anh.
Nhưng khả năng biến đổi mạnh mẽ này của các loài nước ngọt, mặc dù hết sức đáng ngạc nhiên, song tôi nghĩ, trong hầu hết các trường hợp, vẫn có thể giải thích bằng việc các loài ngày càng biến đổi để phù hợp hơn, theo hướng có ích, cho những cuộc di cư ngắn và thường xuyên từ ao này sang ao khác, hoặc từ dòng suối này sang dòng suối khác; và khả năng phân tán rộng rãi gần như là hậu quả tất yếu của năng lực này. Ở đây, chúng ta có thể xem xét một vài trường hợp. Liên quan đến cá, tôi nghĩ rằng, những loài giống nhau không bao giờ xuất hiện trong những thủy vực ở những lục địa xa xôi. Nhưng trên cùng một lục địa, các loài biến đổi rất nhiều và gần như không theo quy luật nào; vì vậy, hai hệ thống sông sẽ có một số loài cá giống nhau và một số loài cá khác nhau. Có một số bằng chứng thực tế thiên về khả năng cho rằng, các loài này đôi khi có thể được phát tán một cách tình cờ, giống như việc loài cá live đôi khi bị những cơn gió cuốn theo ở Ấn Độ, cũng như khả năng tồn tại trứng của các loài này khi bị tách khỏi môi trường nước. Tuy nhiên, cá nhân tôi lại tin rằng, sự phát tán các loài cá nước ngọt chủ yếu là do những thay đổi nhỏ của đất liền trong thời kỳ gần đây, làm cho các con sông chảy vào nhau. Cũng vậy, có thể đưa ra những ví dụ cho thấy hiện tượng này đã xảy ra trong các cơn lũ, mà không có sự thay đổi nào trong đất liền. Chúng ta đã có được những bằng chứng trong hoàng thổ của sông Rhine về những thay đổi đáng kể trong mực đất liền trong phạm vi một thời kỳ địa chất rất gần đây, và khi bề mặt trái đất có đầy rẫy những vỏ sò nước ngọt và sò trên cạn. Sự khác biệt rõ rệt giữa những loài cá ở hai sườn của những dãy núi liên tiếp có vẻ cũng đưa đến cùng một kết luận. Những dãy núi này hẳn đã chia rẽ các hệ thống sông và ngăn hoàn toàn không cho các hệ thống sông này nối với nhau, về sự tồn tại của các loài cá nước ngọt có cùng họ ở những nơi rất xa trên thế giới, rõ ràng là có rất nhiều trường hợp mà hiện tại chúng ta không thể giải thích được; nhưng một số loài cá nước ngọt nào đó thuộc về một dạng rất cổ, và trong những trường họp đó, hẳn sẽ có nhiều thời gian cho những biếấn động địa chất mạnh mẽ, và kết quả là thời gian và cả phương tiện để cho các loài đó có thể di cư. Tiếp theo, cá nước mặn có thể dần dần quen với việc sống trong môi trường nước ngọt; và, theo Valenciennes, hiếm có một nhóm các loài cá duy nhất nào chỉ có thể sống trong môi trường nước ngọt, và vì vậy, chúng ta có thể tưởng tượng rằng, một loài cá biển của nhóm cá nước ngọt có thể di chuyển đi dọc bờ biển, dần dần biến đổi và thích nghi với những vùng nước ngọt ở một mảnh đất xa xôi nào đó.
Một số loài sinh vật biển có vỏ bảo vệ bên ngoài sống ở vùng nước ngọt có phạm vi phân bố rất rộng, và các loài cùng họ, mà theo thuyết của tôi phải có chung bố mẹ và phải tiến hóa từ một nguồn duy nhất, xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Sự phân bố của các loài này ban đầu rất khó hiểu vì các con chim không thể vận chuyển trứng của các loài này, và loại trứng này sẽ bị nước biển làm hỏng ngay tức khắc, giống như những con trưởng thành. Thậm chí tôi đã không thể hiểu làm thế nào mà một số loài đã được thích nghi lại có thể phát triển nhanh đến vậy trên cùng một đất nước. Song có hai thực tế mà tôi quan sát được - và không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn còn nhiều sự kiện nữa cần được quan sát - đã giúp làm sáng tỏ phần nào vấn đề này. Khi một con vịt đột ngột xuất hiện ở một cái ao phủ đầy bèo tấm, tôi đã hai lần nhìn thấy những thực vật bé nhỏ này dính chặt vào lưng con vịt; và tôi ngẫu nhiên phát hiện ra rằng, mặc dù không chủ tâm song con vịt đã mang đến một ít sinh vật nước ngọt từ một cái ao khác khi con vịt cố gắng rũ bỏ một chút bèo tấm khi đi từ ao này sang ao kia. Nhưng một tác nhân trung gian khác có lẽ còn hữu hiệu hơn: Lấy một chú vịt làm đại diện cho một trong những con chim đang ngủ trong một cái ao tự nhiên, hay trong một bể nuôi thủy sinh, nơi có rất nhiều trứng của sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài nước ngọt đang nở. Tôi treo chân của một con vịt lên và thấy rằng, có vô số những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài bé tí xíu và vừa mới nở đang bò trên chân con vịt, và bám chặt vào chúng đến mức mà khi nhấc chân vịt ra khỏi nước thì những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này cũng không thể rơi ra, nhưng nếu những con sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này lớn hơn một chút thì chúng sẽ tự nguyện rời khỏi chân con vịt. Những động vật thân mềm vừa mới nở này, mặc dù đã hoàn chỉnh về bản chất, chỉ sổng được trên chân con vịt, trong điều kiện không khí ẩm ướt, từ mười hai đến hai mươi giờ; và trong khoảng thời gian này, một con vịt hay con diệc có thể bay được ít nhất sáu đến bảy trăm dặm, và chắc chắn sẽ phải đậu xuống một cái ao hay một dòng suối nhỏ, nếu nó định bay qua biển đến một hòn đảo trên đại dương hay đến một nơi xa xôi nào đó. Ngài Charles Lyell cũng báo cho tôi biết rằng, người ta đã bắt được một con Dyticus, mà trên người nó có một con Ancylus (một con Shell nước ngọt giống con sao sao) đang bám chặt; và một con bọ cánh cứng water cùng họ đó, một con Colymbetes, từng đậu trên boong tàu Beagle, khi con tàu này đang ở cách xa vùng đất liền đến bốn mươi dặm: không ai có thể biết được, con Ancylus này có thể bay được bao xa nữa khi có một cơn gió thuận chiều.
Về các loài thực vật, từ lâu người ta đã biết rằng, nhiều loài nước ngọt và ngay cả những loài sinh sống ở đầm lầy xuất hiện ở những môi trường sống ở rộng lớn, kể từ các lục địa cho đến những hòn đảo xa xôi nhất trên đại dương. Như ông Alph De Candolle đã nhận xét, đáng chú ý nhất là điều này được tìm thấy ở những nhóm lớn cac loài thực vật trên cạn, vốn chỉ có một số ít thành phần sống được trong môi trường nước; vì những thành phần này dường như ngay lập tức có được những phạm vi sống rất rộng, cứ như thể đó là một kết quả tất yếu. Tôi nghĩ, những phương tiện phát tán thuận lợi giúp giải thích được thực tế này. Trước đây, tôi đã từng nói đến việc là, đất, một đôi khi, tuy hiếm, bám một chút vào chân hoặc mỏ của những con chim. Những con chim đang ngụp lặn trong nước, thường hay kiếm ăn ở những rìa ao đầy bùn, nếu bỗng nhiên bị xua bay đi, chắc chắn chân chúng sẽ dính đầy bùn. Tôi có thể chỉ ra rằng, những con chim thuộc bộ này là những con vật hoang dã nhất, đôi khi được tìm thấy ở những hòn đảo hoang xa xôi nhất trên đại dương. Những con chim này khó có thể đậu trên mặt biển, vì thế mà bùn trên chân chúng khó có thể được rửa sạch, khi những con chim này trông thấy đất liền, chẳc chan chúng sẽ bay đến những bãi nước ngọt tự nhiên kiếm ăn. Tôi không tin rằng, các nhà thực vật biết rõ ràng, bùn chứa bao nhiêu hạt giống trong nó. Tôi đã làm thử vài thí nghiệm nhỏ, nhưng sẽ chỉ dẫn ra đây thí nghiệm đáng chú ý nhất: Vào tháng 2, tôi lấy 3 thìa cà phê đầy bùn từ ba điểm khác nhau, dưới nước, trên bờ của một cái ao nhỏ, lượng bùn này khi khô chỉ nặng có 6,75 aoxơ. Tôi giữ nó để nghiên cứu trong vòng 6 tháng, nhổ ra và đếm từng loài thực vật khi chúng lớn lên; những loài thực vật này thuộc rất nhiều loại, con số cuối cùng lên đến 537 loài; vậy mà tất cả chỗ bùn lỏng đó chỉ được chứa vỏn vẹn trong có một cái chén cà phê dùng để ăn sáng! Xem xét những sự kiện này tôi cho rằng, chúng ta sẽ không thể giải thích nổi nếu những con chim biển không mang những hạt giống của các loài thực vật nước ngọt đi đến những nơi cực kỳ xa xôi, và do đó, số lượng những loài thực vật này không lớn đến như vậy. Có thể cũng chính trung gian này giúp chuyên chở trứng của một số loài động vật nước ngọt nhỏ hơn.
Các trung gian khác có thể chưa được biết đến cũng có vai trò nhất định. Tôi đã chỉ ra rằng, các loài cá nước ngọt ăn một số loại hạt, mặc dù sau đó chúng thải ra nhiều loại khác; ngay cả những con cá nhỏ cũng nuốt các hạt cỡ vừa, như hạt của cây súng và cây Potamogeton. Con diệc và những con chim khác, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã ăn các loài cá, sau đó chúng bay đi và đến những vùng nước khác; hoặc bị cuốn bay qua biển, và chúng ta đã thấy rằng, những hạt cây đó vẫn có thể nảy mầm, khi được thải ra trong phân của chim nhiều giờ sau đó. Khi tôi nhìn thấy hạt của những cây súng, Nelumbium, có kích thước rất to,và nhớ đến lời nhận xét của ông Alph De Candolle về loài thực vật này, tôi đã nghĩ rằng, sự phân bố của loài này vẫn không thể giải thích được. Nhưng Audubon tuyên bố, ông đã tim thấy hạt của cây súng miền nam loại lớn (có lẽ theo tiến sỹ Hooker, là cây Nelumbium luteum) trong dạ dày của một con diệc, cho dù tôi không được biết sự thực, song phép loại suy khiến tôi tin rằng, một con diệc bay đến một cái ao khác và ăn một bữa cá lớn ở đó, rồi sau đó có thể đã thải phân có chứa hạt của cây Nelubium chưa tiêu ra ngoài; hoặc các hạt cây đó có thể đã bị rơi khi con chim mẹ mớm mồi cho chim con, giống như trường hợp cá đôi khi cũng bị rơi mà ta đã biết.
Trong khi xem xét các cách phân tán này, cần phải nhớ rằng, khi lần đầu tiên một cái ao hoặc một dòng suối hình thành, ví dụ, trên một hòn đảo nhỏ đang nổi lên, thì ban đầu chưa có sinh vật nào sinh sống; và một hạt giống hay một cái trứng duy nhất sẽ có nhiều cơ hội sống sót được. Mặc dù sẽ có một cuộc đấu tranh đế giành lấy sự sống giữa các cá thể của các loài, cho dù ít, vốn đã đang cư ngụ trên một cái ao, song do số lượng loài nhỏ, so với số lượng loài trên cạn, nên sự cạnh tranh giữa các loài sống trong nước có lẽ sẽ ít khốc liệt hơn so với những loài sống trên cạn; kết quả là, một loài mới từ vùng nước của một nước khác xâm nhập vào sẽ có nhiều cơ hội chiếm được một chỗ trú ngụ hơn so với một loài trên cạn. Chúng ta cũng nên nhớ rằng, một số, có lẽ rất nhiều loài sinh vật nước ngọt có mức độ tiến hóa thấp, và chúng ta có lý do để tin rằng, những sinh vật tiến hóa thấp đó thay đổi hoặc trở nên thích nghi chậm hơn so với các loài tiến hóa cao; và do đó cần nhiều thời gian hơn so với mức trung bình đế chúng di cư so với các loài cùng thang tiến hóa nhưng sống trong môi trường nước. Chúng ta không nên quên khả năng có nhiều loài mà trước đây đã xuất hiện liên tục như những loài nước ngọt từng xuất hiện ở những khu vực rộng lớn, rồi sau đó lại bị tuyệt chủng ở những vùng trung gian. Nhưng tôi tin rằng, sự phân bố rộng rãi của những loài thực vật nước ngọt và các loài động vật cấp thấp hơn, dù là duy trì đúng dạng sống ban đầu hay đã biến đổi ở một mức độ nào đó, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sự phát tán rộng rãi các hạt hay trứng của chúng nhờ các loài động vật, đặc biệt là nhờ vào các loài chim nước ngọt, là những loài có khả năng bay xa, và thường di chuyển từ nơi này đến nơi kia và thường là đến những vùng nước khác nhau.
Tự nhiên, cũng giống một người làm vườn cẩn thận, vì vậy lấy các hạt giống của mình từ một môi trường tự nhiên cụ thể, sau đó thả chúng ở những nơi khác cũng có những điều kiện phù hợp với chúng như vậy.
Về các loài sinh vật cư trú trên những hòn đảo ở đại dương - Giờ đây chúng ta đến với lớp sự kiện cuối cùng trong ba lớp sự kiện thực tế, mà tôi coi là thể hiện mức độ khó và cao nhất, với quan điểm cho rằng, tất cả mọi cá thể của cùng một loài hoặc các loài cùng họ đều xuất phát từ cùng một bố mẹ duy nhất, và vì vậy tất cả đều xuất phát từ một địa điểm chung, cho dù theo thời gian, chúng đã đến cư trú tại một điểm xa xôi nào đó trên trái đất. Tôi cũng đã chỉ ra rằng, tôi không thế trung thực mà thừa nhận quan điểm của Forbes về sự mở rộng lục địa. Quan điểm này nếu được theo đuổi đến cùng sẽ dẫn đến niềm tin rằng, trong phạm vi thời kỳ gần đây, tất cả các hòn đảo hiện có gần như hoặc thực sự nối với một lục địa nào đó. Quan điểm này sẽ giúp loại bỏ đi khá nhiều khó khăn, song tôi nghĩ, nó lại không giúp giải thích tất cả các sự kiện liên quan đến các sinh vật ở đảo. Trong những nhận xét dưới đây, tôi sẽ không giới hạn mình trong chỉ duy nhất một câu hỏi về sự phát tán, mà sẽ xem xét một số sự kiện khác, có liên quan tới tính đúng đắn của hai học thuyết về sự hình thành độc lập và về nguồn gốc có sự biến thái.
Số lượng tất cả các loài thuộc tất cả các loại sinh sống trên các hòn đảo ở đại dưcmg là rất ít ỏi so với số lượng các loài trên cùng một diện tích tưcmg đưcmg ở lục địa: ông Alph De Candoỉle xác nhận thực tế này đúng với các loài thực vật, và Wollaston đối với các loài côn trùng. Nếu chúng ta xem xét tới yếu tố phạm vi rộng và môi trường biến đổi của Niu Di Lân, trải dài trên một vùng rộng 780 dặm, và so sánh các loài thực vật bậc thấp của chúng, với số lượng chỉ có 750 loài, với các loài đó trên một diện tích tương đương tại mũi Hảo vọng hoặc ở Otxtrâylia, thì tôi nghĩ, chúng ta cũng buộc phải thừa nhận rằng, có một yêu tố nào đó, hoàn toàn độc lập với bất kỳ khác biệt nào về điều kiện tự nhiên đã làm nên sự khác biệt lớn đến như vậy về số lượng các loài. Ngay một hạt Cambridge thôi cũng đã có đến 847 thực vật, và hòn đảo Anglesea nhỏ bé cũng có đến 764 thực vật, song chỉ có một số cây dương xỉ và một số cây nhập nội có trong số các loài này và kết quả so sánh về một số khía cạnh khác cũng không thực sự hợp lý. Chúng ta có bằng chứng cho thấy, hòn đảo hoang Ascension thời nguyên thủy đã từng có một số loài thực vật ra hoa; tuy nhiều loài đã tự thích nghi được, như chúng đã thích nghi ở Niu Di Lân và ở mỗi hòn đảo trên đại dương khác có thể gọi tên được. Ở Saint Helena, chúng ta có lý do để tin rằng, các loài thực vật và động vật đã thích nghi gần như hoặc thực sự đã hủy diệt các loài thực vật bản xứ. Nếu người nào đó thừa nhận học thuyết về sự sáng tạo của từng loài riêng biệt, người đó sẽ phải thừa nhận rằng, một số lượng đủ lớn các loài thực vật và động vật có khả năng thích nghi tốt nhất đã không được tạo ra trên các hòn đảo ở đại dương; bởi vì con người đã vô tình mang chúng đến từ nhiều nguồn khác nhau mà còn lâu mới đầy đủ và hoàn hảo so với tự nhiên.
Mặc dù trên các hòn đảo ở đại dương, số lượng chủng loại các loài sinh sống rất ít ỏi, song tỷ lệ các loài đặc hữu (là những loài không tìm thấy ở một nơi nào khác trên thế giới) thường cực kỳ lớn. Ví dụ, nếu chúng ta so sánh số lượng các loài sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài trên cạn đặc hữu ở Madeira hoặc số lượng loài chim đặc hữu trên quần đảo Galapagos với số lượng các loài đặc hữu tìm thấy trên bất kỳ lục địa nào, và sau đó so sánh diện tích của các hòn đảo với diện tích của lục địa, thì ta đều sẽ thấy điều này là hoàn toàn đúng. Theo lý thuyết của tôi thì điều này hoàn toàn có thể xảy ra, vì như đã giải thích, các loài, đôi khi đến được một nơi sau nhiều chặng hành trình ở những vùng mới và cô lập, và buộc phải cạnh tranh với những sinh vật khác, rõ ràng sẽ có khả năng tiến hóa, và sẽ tạo ra một nhóm các thế hệ sau đã tiến hóa. Song vì trong một hòn đảo, gần như tất cả các loài thuộc cùng một lớp nào đó là đặc hữu mà các loài của một lớp khác hoặc của một bộ phận khác trong cùng một lớp cũng phải là đặc hữu, và sự khác biệt này dường như phụ thuộc vào những loài không trở nên thích nghi được đã du nhập vào với những điều kiện thuận lợi và theo một nhóm, vì thế mà mối quan hệ qua lại giữa các loài đó không bị thay đổi nhiều. Vì vậy, trên các hòn đảo Galapagos, gần như mỗi loài chim đất liền, chỉ có hai trong số 11 loài chim biển là đặc hữu; và rõ ràng là các con chim biển có thể đến các hòn đảo này dễ hơn nhiều chim đất liền. Mặt khác, Bermuda, cũng cách xa Bắc Mỹ tương tự như từ quần đảo Galapagos đến Nam Mỹ, và có điều kiện đất đai riêng biệt, song lại không có một loài chim đất liền đặc hữu nào; và qua sự miêu tả tài tình của ngài J.M. Jones về hòn đảo Bermuda, chúng ta biết rằng, rất nhiều loài chim Bắc Mỹ, trong suốt những chuyến di cư hàng năm của mình, thường xuyên hoặc đôi khi dừng chân ở hòn đảo này. Madeira cũng không có một loài chim riêng biệt nào, song rất nhiều loài chim châu âu hoặc châu Phi gần như mỗi năm đều bay qua đây, như ngài E.v. Harcout thông báo cho tôi. Như vậy, hai hòn đảo Bermuda và Madeira đều có nhưng loài chim, mà qua những thời kỳ dài đã đấu tranh cùng nhau ở quê hương cũ của chúng, và sau đó đã tự thích nghi lẫn nhau, đến khi định cư ở quê hương mới của mình, mỗi loài sẽ được những loài khác giúp chúng giữ đúng những đặc điếm cũng như thói quen của mình, và kết quả là gần như không biến hóa gì. Lại lấy ví dụ của Madeira. Hòn đảo này có một số lượng lớn các loài Shell trên cạn riêng biệt, trong khi không có được dù chỉ 1 loài sò biển nào: giờ đây, mặc dù chúng ta không biết rằng sò biển đã được phát tán như thế nào, song chúng ta có thể thấy rằng, trứng hoặc ấu trùng của sò biến có lẽ bám vào rong biển hoặc những tấm gỗ trôi nổi, hoặc vào chân của những con chim lội, có thể sẽ được mang đi xa hơn nhiều so với sò đất, xa 3 đến 400 dặm trên biển. Các bộ khác nhau của các loài côn trùng ở Madeira minh chứng rõ ràng những thực tế giống nhau.
Các đảo trên đại dương đôi khi thiếu đi một số lớp nhất định, và chỗ của những lớp này rõ ràng sẽ bị những loài sinh vật khác chiếm lấy; trên quần đảo Galapagos, các loài bò sát, và ở Niu Di Lân là các loài chim không có cánh khống lồ đã chiếm chỗ của các động vật có vú. Trong hệ thực vật của quần đảo Galapagos, tiến sĩ. Hooker đã chỉ ra rằng, một số lượng lớn các lớp khác nhau khác hẳn so với chúng song sống ở nơi khác. Những trường hợp như vậy thường được giải thích là do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của đảo; nhưng cách giải thích này đối với tôi dường như còn chưa thỏa đáng. Tôi tin rằng, phương thức du nhập ít nhất cũng có tầm quan trọng như tính chất của các điều kiện tự nhiên.
Có thể đưa ra những sự kiện nhỏ nổi bật về các sinh vật sinh sống trên các hòn đảo xa xôi. Ví dụ, ở một số hòn đảo nhất định không có động vật có vú sinh sống, một số thực vật đặc hữu với các hạt có móc rất đẹp, tuy nhiên gần như không có quan hệ nào đáng chú ý hơn là sự thích nghi của các hạt có móc để có thể mang đi nhờ da và lông của các loài động vật bốn chân. Theo quan điểm của tôi, trường hợp này không khó giải thích, vì một hạt có móc có thể được mang đến một hòn đảo nhờ một số cách; và loài cây sau này có thể được biến đổi đi một ít, nhưng vẫn giữ các hạt có móc của mình, sẽ hình thành nên một loài đặc hữu, có thêm một bộ phận phụ vô dụng như bất kỳ một cơ quan thô sơ nào - ví dụ, như những cái cánh bị teo lại từ cánh trước của nhiều loài bọ cánh cứng trên đảo. Lại nữa, các hòn đảo thường có nhiều cây hay bụi rậm thuộc những bộ mà ở những nơi khác thường chỉ có các loài thuộc dạng thảo mộc; bởi vì các loài cây, như ông Alph De Candolle đã chỉ ra, cho dù nguyên nhân là gì đi nữa, thường chỉ xuất hiện ở những phạm vi hẹp. Vì thế, các cây khó có thể vươn tới những hòn đảo xa xôi trên đại dương; vả một loài thảo mộc, cho dù không có cơ hội cạnh tranh được về tầm vóc so với một cây đã phát triển hoàn chỉnh, khi đã được đặt vào một hòn đảo và chỉ phải cạnh tranh với các loài cây thảo thôi, thì nó hoàn toàn có thể chiếm được lợi thế bằng cách lớn nhanh hơn và cao hơn so với các thực vật khác. Nếu đúng như vậy, thì chọn lọc tự nhiên thường có xu hướng tăng thêm tầm vóc cho các loài cây thảo khi phát triển trên một hòn đảo, đến bất kỳ bộ nào mà các cây thuộc về, và vì vậy, thường trước tiên biến chúng thành các bụi rậm và cuối cùng thì thành các cây to.
Về sự vắng mặt của toàn bộ các bộ trên các đảo ngoài đại dương, Bory St Vincent từ lâu đã nhận xét rằng, các loài ếch nhái (ếch, cóc, sa giông) chưa bao giờ được tìm thấy trên bất kỳ hòn đảo nào trong rất nhiều hòn đảo rải khắp các đại dương lớn. Tôi đã dồn hết tâm trí để khẳng định nhận định này, và tôi thấy điều này tuyệt đối đúng. Tuy nhiên, tôi cũng cam đoan rằng, thực sự có ếch tồn tại trên những dãy núi của hòn đảo lớn của Niu Di Lân; nhưng tôi nghi ngờ rằng, ngoại lệ này (nếu thông tin này là chính xác) có thể được giải thích nhờ trung gian băng hà. Sự vắng mặt chung của ếch, cóc, và sa giông trên rất nhiều hòn đảo ngoài đại dương không thể là do điều kiện tự nhiên của chúng, thực tế dường như các hòn đảo này lại đặc biệt phù hợp với những động vật này; vì ếch đã được du nhập vào Madeira, Azores, và Mauritus và đã nhân lên gấp bội đến mức trở thành một loài gây hại. Nhưng bởi vì chúng ta biết rằng các động vật này và trứng của chúng không tồn tại được trong môi trường nước biển, nên theo quan điểm của tôi, chúng ta có thể hiểu được tại sao, khó có thể có trường hợp các loài này được vận chuyển qua biển, và vì vậy mà tại sao chúng không tồn tại trên bất kỳ hòn đảo ngoài đại dương nào. Nhưng, khó mà giải thích tại sao, theo lý thuyết sáng tạo, những loài này lại không được tạo ra ở đó. Các loài động vật có vú là một trường hợp khác tương tự. Tôi đã tìm kiếm kỹ càng những chuyến đi từ xa xưa nhất nhưng chưa kết thúc tìm kiếm. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa tìm thấy dù chi một trường hợp duy nhất khiến tôi không nghi ngờ về một loài động vật có vú sống trên cạn (không kể các loài động vật đã được thuần hỏa mà người bản xứ nuôi) sinh sổng trên một hòn đảo cách lục địa hơn 300 dặm hay những hòn đảo thuộc lục địa, và nhiều hòn đảo ở những vị trí gần hơn nhiều cũng hoang vắng như vậy. Quần đảo Falkland, nơi có loài cáo giống sói, gần như là một trường hợp ngoại lệ. Song nhóm này không thể được coi là đảo ngoài đại dương vì nó nằm trên bờ sông nối với đất liền; hơn thế nữa, những núi băng trước đây đã mang các tảng đá đi về phía bờ tây của nó, và các núi băng này có thể trước đây đã mang theo cả những con cáo, như ngày nay chúng ta vẫn thường thấy ở các vùng cực. Tuy nhiên, không thể nói rằng, những hòn đảo nhỏ sẽ không thích hợp cho các loài động vật có vú nhỏ, vì các loài có vú này xuất hiện tại rất nhiều vùng trên thế giới ở những hòn đảo rất nhỏ, nếu gần với một lục địa, và hiếm có thể gọi tên ra một hòn đảo nào có những loài vật bốn chân nhỏ hơn lại không thích nghi và nhân lên gấp bội.
Ngài Windsor Earl đã có một số quan sát đáng chủ ý theo hướng này đối với quần đảo rộng lớn Malay, quần đảo cắt ngang bởi một đại dương lớn gần Celebes; và chính đại dương này đã chia cắt hai hệ động vật có vú hoàn toàn riêng biệt. Ở cả hai phía của đại dương, các hòn đảo đều nằm trên các bờ chìm dưới mặt biển khá sâu, và đều có những loài bốn chân giống hệt hoặc có quan hệ họ hàng khá gần gũi sinh sống.
Không còn nghi ngờ gì nữa, có rất ít điểm khác thường trên quần đảo rộng lớn này, và trong một số trường hợp ta khó có thể đưa ra được một đánh giá do có thể có một quá trình thích nghi của một số động vật có vú thông qua trung gian là con người; nhưng chúng ta sẽ sớm có nhiều điều giúp làm sáng tỏ về lịch sử tự nhiên của quần đảo này nhờ nhiệt huyết đáng khâm phục cùng các nghiên cửu của ngài Wallace. Tuy tôi vẫn chưa có thời gian để nghiên cửu vấn đề này ở tất cả các nơi khác trên thế giới, song như tôi đã tìm hiểu và nhìn chung, mối quan hệ này được giữ vững. Chúng ta thấy rằng, Anh bị ngăn cách với châu âu bởi một kênh hẹp, và các loài động vật có vú có ở cả hai phía; chúng ta bắt gặp những hiện tượng giống thế trên nhiều hòn đảo ngăn cách với Ôtxtrâylia bởi những con kênh tương tự. Quần đảo Tây nam nằm trên một bờ biển gần chìm, sâu gần 1000 sải, và ở đây, chúng ta tìm thấy những dạng sống châu Mỹ, song các loài và thậm chí các chi hoàn toàn khác biệt. Bởi vì mức độ biến đổi trong mọi trường hợp đều phụ thuộc vào khoảng thời gian ở một mức độ nhất định, và theo những thay đổi về độ sâu, rõ ràng là những hòn đảo bị ngăn cách bởi những con kênh hẹp sẽ dễ có khả năng không ngừng hợp lại với đất liền trong một thời gian ngắn so với những hòn đảo bị ngăn cách bởi những con kênh sâu hơn. Vì thế chúng ta cỏ thể hiểu rằng, mối quan hệ thường có giữa độ sâu của biển và mức độ tương đồng về cấu trúc giữa các sinh vật có vú sinh sống trên đảo với các sinh vật đó trên một lục địa láng giềng - đó là một mối quan hệ không thể giải thích nổi trên quan điểm các hành vi độc lập của sự sáng tạo.
Tất cả những nhận xét đã nói ở trên về những sinh vật sinh sống trên những hòn đảo ở đại dương - cụ thể là, sự khan hiếm chủng loại, sự phong phú về các dạng sống đặc hữu ở những lớp hay phần của lớp cụ thể, sự vắng mặt của cả một nhóm, ví dụ nhóm ếch nhái, và của các động vật có vú sống trên cạn không kể sự có mặt của các loài dơi trên không, sự cân xứng khác thường của một số thứ thực vật nhất định, ví dụ các dạng thân thảo đã và đang phát triển thành cây v.v... - đối với thuyết tôi dường như có vẻ phù hợp hơn nếu ta lưu tâm đến các hình thức vận chuyển đặc biệt khá hiệu quả trong suốt một thời gian dài hơn là chú tâm vào vấn đề các hòn đảo trên đại dương trước đây đã từng được nối với những lục địa gần nhất bằng những dải đất liên tục. Vì đối với quan điểm thứ hai thì sự di trú sẽ có thể hoàn chỉnh hơn, và nếu chúng ta thừa nhận có sự biến đổi, thì tất cả các dạng sống sẽ phải được biến hoá đồng đều hơn theo đúng tầm quan trọng bậc nhất của mối quan hệ giữa sinh vật này với sinh vật khác.
Tôi không phủ nhận rằng khó có thể hiểu được làm thế nào mà một số sinh vật sinh sống trên những hòn đảo xa xôi hơn, cho dù vẫn duy trì cùng một dạng sống hay đã biến đổi kể từ khi lần đầu xâm nhập vào đảo, lại có thể đến được những nơi ở hiện nay của chúng. Nhưng chúng ta không nên xem nhẹ khả năng nhiều hòn đảo đã tồn tại như những bến nghỉ chân cho dù bây giờ không còn một bằng chứng nào về vấn đề này. Ở đây, tôi sẽ đưa ra một ví dụ duy nhất cho một trong số rất nhiều trường hợp khó khăn. Đó là, trên gần như tất cả các hòn đảo trên đại dương, ngay cả những hòn đảo nhỏ nhất và bị cô lập nhất đều có những loài giáp xác trên cạn sinh sống, chủ yếu là các loài đặc hữu, nhưng đôi khi cũng có một số loài mà ta có thể tìm thấy ở những nơi khác. Tiến sĩ. Aug. A. Gould đã đưa ra nhiều trường hợp khá thú vị về các loài giáp xác trên cạn trên những hòn đảo của Thái Bình Dương. Ngày nay ai cũng biết rằng, các loài giáp xác trên cạn có thể dễ dàng bị tiêu hủy bởi muối, trứng của các loài này, ít nhất là những quả trứng mà tôi đã thử, khi chìm trong nước biển sẽ bị hỏng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, hẳn phải có một cách chuyên chở nào đó đặc biệt hiệu quả mà chúng ta chưa được biết. Liệu những sinh vật vừa mới nở có khi nào bò lên và bám chặt vào chân của những loài chim đậu trên mặt đất ngủ qua đêm và nhờ thế mà được mang đi không? Tôi đã chợt nảy ra ý nghĩ là, các loài giáp xác trên cạn, có thể trôi trong những khe nứt của những mảnh gỗ vụn trôi nổi đi qua các nhánh biển khá rộng. Và tôi thấy rằng, một số loài đúng là tồn tại trong trạng thái này mà không hề bị hư hỏng khi bị chìm trong nước biển trong suốt 7 ngày: một trong số những loài giáp xác này là loài Helix pomatia, tôi đặt nó vào nước biển trong 20 ngày và nó vẫn hồi phục được hoàn toàn. Do loài này có một lớp vảy bàng đá vôi dày, nên tôi gõ bỏ lớp vảy đó và khi nó hình thành nên một lớp màng mới, tôi lại đặt nó vào nước biển mười bốn ngày nữa, và nó vẫn phục hồi và bò đi; tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tiến hành thêm nhiều thí nghiệm nữa theo hướng này.
Sự kiện đáng chú ý nhất và quan trọng nhất đổi với chúng tôi liên quan đến các sinh vật sinh sống trên đảo là sự giống nhau về cấu trúc giữa những sinh vật này với các sinh vật sống trên vùng đất liền gần đó nhất, mặc dù thực sự không thuộc cùng một loài. Có thể đưa ra vô số các ví dụ về điều này. Tôi sẽ chỉ đưa ra một ví dụ, đó là ví dụ của quần đảo Galapagos, nằm dưới đường xích đạo, cách bờ biển Nam Mỹ khoảng 500-600 dặm ở đây, gần như mỗi sản vật của đất liền và biển đều mang một đặc trưng không thể nhầm lẫn của châu Mỹ. Có hai mươi sáu loài chim trên đất liền, và hai mươi nhăm loài trong số đó được ngài Gould xếp vào các loài đặc hữu, mà người ta giả thiết là được hình thành nên tại quần đảo này; tuy nhiên, sự tương đồng gần gũi của hầu hết các loài chim này với các loài ở châu Mỹ trong từng đặc điểm, trong sự phát triển, dáng vẻ, giọng hót, thì hết sức rõ ràng. Điều này cũng xảy ra tương tự với các loài động vật khác, và với gần như tất cả các loài thực vật, như ngài Hooker đã chỉ ra trong ký sự tuyệt vời của ông về thảm thực vật của quần đảo này. Nhà tự nhiên học này, khi quan sát các sinh vật sinh sống trên những hòn đảo có nguồn gốc từ núi lửa này ở Thái Bình Dương, cách xa đất liền hàng trăm dặm, vẫn có cảm giác như ông đang đứng trên đất Mỹ. Tại sao lại như vậy? Tại sao những loài sinh vật được coi là đã được hình thành nên từ quần đảo Galapagos, và không thể tìm thấy ở một nơi nào khác, lại có thể mang những đặc trưng rõ ràng giống với những loài ở châu Mỹ? Không có gì trong các điều kiện sống, trong đặc điểm địa chất của các hòn đảo, trong độ cao hay khí hậu, hay trong tỷ lệ một số lớp liên quan đến nhau giống với những điều kiện của bờ biển Nam Mỹ: thực tế là giữa hai địa điểm này còn có sự khác biệt đáng kể trên nhiều khía cạnh. Mặt khác, giữa hai quần đảo Galapagos và quần đảo Cape de Verde, sự giống nhau về đặc tính của đất là phát triển từ núi lửa, về khí hậu, độ cao, và quy mô quần đảo lại khá giống nhau: song các loài sinh vật sinh sống trên hai hòn đảo này lại hoàn toàn khác biệt! Các sinh vật trên đảo Cape de Verde giống các sinh vật *của châu Phi, cũng như các sinh vật trên Galapagos giống sinh vật của châu Mỹ. Tôi tin rằng, thực tế rõ ràng này không thể được giải thích bàng quan điểm thông thường về sự sáng tạo độc lập; trong khi trên quan điểm vẫn được duy trì ở đây, thì rõ ràng là quần đảo Galapagos có khà năng tiếp nhận các sinh vật mới, cho dù bằng những phương thức vận chuyển đặc biệt, hay vì trước kia hòn đảo này được nối liền với vùng đất liền thuộc châu Mỹ; còn quần đảo Cape de Verde thì với châu Phi; và những sinh vật mới đó có thể đã biến đổi; tuy nhiên nguyên tắc của di truyền vẫn làm lộ ra nguồn gốc ban đầu của chúng.
Có thể đưa ra rất nhiều hiện tượng tương tự; thực sự thì có một nguyên tắc gần như phổ biến là, các loài sinh vật đặc hữu trên các hòn đảo luôn có sự liên quan đến các sinh vật ở châu lục gần hòn đảo đó nhất, hoặc ở những quần đảo khác gần đó. Có rất ít ngoại lệ, và phần lớn các ngoại lệ này đều có thể giải thích được. Vì vậy mà theo chúng tôi được biết từ báo cáo của tiến sĩ Hooker, các thực vật trên vùng đất Kerguelen, mặc dù có vị trí gần châu Phi hơn châu Mỹ, lại có liên quan, và rất mật thiết với các loài sinh vật ở châu Mỹ. Song trên quan điểm cho rằng, hòn đảo này chủ yếu có các loại hạt do đất và đá trên núi băng do các dòng hải lưu mang đến, thì ta hoàn toàn có thể hiểu được trường hợp ngoại lệ này. Niu Di Lân nếu xét về các loài sinh vật đặc hữu cũng có liên quan chặt chẽ hơn với châu Úc, vùng lục địa gần nhất, so với bất kỳ vùng nào khác; và điều này hoàn toàn có thể thấy trước được; song đất nước này rõ ràng cũng liên quan tới Nam Mỹ, một lục địa, tuy gần Niu Di Lân thứ hai sau úc, song lại quá xa xôi và do đó sự liên quan đó lại trở nên khác thường. Song khó khăn này gần như biến mất khi xét trên quan điểm cho rằng, cả Niu Di Lân, Nam Mỹ và các hòn đảo phía Nam khác từ trước đây rất lâu rồi đều đã xuất phát từ một điểm gần như trung gian mặc dù rất xa xôi, đó là từ các quần đảo nam cực, khi mà chúng được bao phủ bởi một lớp phủ thực vật, trước khi thời kỳ băng hà bắt đầu. Sự giống nhau mà tiến sĩ Hooker đã bảo đảm với tôi là có thực, mặc dù không rõ ràng, giữa thảm thực vật ở góc phía tây nam của Úc và mũi Hảo vọng còn là một trường hợp đáng chú ý hơn nhiều, và hiện tại vẫn không thế giải thích nổi; song sự tương đồng này chỉ hạn chế trong phạm vi các loài thực vật, và tôi tin tưởng rằng, một ngày nào đó chúng ta sẽ giải thích được trường hợp này.
Đôi khi chúng ta quan sát được quy luật nào đó khiến cho các loài sinh vật trên một hòn đảo, mặc dù hoàn toàn khác biệt song vẫn liên kết chặt chẽ với các sinh vật trên lục địa gần nhất, được thể hiện trên quy mô nhỏ, song theo một cách thức thú vị, trong giới hạn của cùng một quần đảo. Vì vậy, như tôi đã chỉ ra, nhiều hòn đảo của quần đảo Galapagos có rất nhiều loài sinh vật có quan hệ chặt chẽ với nhau một cách hết sức kỳ lạ, nên các sinh vật trên mỗi hòn đảo riêng biệt, mặc dù hầu như đặc hữu, lại liên quan tới nhau nhiều hơn tới sinh vật ở bất kỳ nori nào khác trên thế giới. Và điều này theo quan điểm của tôi hoàn toàn có thể xảy ra, vì các hòn đảo ở gần nhau đến mức chúng có thể tiếp nhận các sinh vật nhập cư có cùng một nguồn gốc hoặc tiếp nhận các sinh vật của nhau. Song sự khác biệt giữa các sinh vật đặc hữu trên các đảo lại có thể là một luận cứ chống lại quan điểm của tôi; vì chúng ta hoàn toàn có thể đặt ra câu hỏi: tại sao có những hòn đảo ở rất gần nhau, có cùng một đặc trưng địa chất, cùng độ cao, khí hậu, v.v... lại có nhiều loài sinh vật nhập cư lại bị biến đối đi khác nhau cho dù ở mức độ nhỏ. Trong suốt một thời gian dài, luận cứ này vẫn là một khó khăn lớn đối với tôi; song thực ra, luận cứ này phần lớn bắt nguồn từ một sai lầm ăn sâu vào tiềm thức khi cho rằng điều kiện tự nhiên của một đất nước là yếu tố quan trọng nhất đối với một sinh vật nhập cư; trong khi tôi nghĩ rằng, không phải tranh cãi gì nữa, đặc trưng của các loài sinh vật nhập cư khác, mà môi loài phải cạnh tranh, ít nhât cũng là một nhân tô có tầm quan trọng tưcmg đương, và nhìn chung là hơn quyết định khả năng thành công của sự nhập cư. Bây giờ nếu chúng ta xem xét các khu vực khác trên thế giới (tạm gác sang một bên các loài đặc hữu mà chúng ta chưa thể đưa vào ở đây khi đang xem xét xem làm thế nào mà các loài này lại bị biến đổi từ khi nhập cư vào đảo), chúng ta sẽ tìm thấy ở nhiều hòn đảo vô số sự khác biệt. Sự khác biệt này có thể hiểu được theo quan điểm cho rằng, cây phát triển trên các hòn đảo nhờ các phương tiện vận chuyển, lấy ví dụ có 1 hạt giống của một loài thực vật được mang đến một hòn đảo và một hạt giống của một loài khác được mang đến một hòn đảo khác. Vì vậy, trước đây, một loài nhập cư ở lại sinh sống trên bất kỳ một hay nhiều hòn đảo, hoặc sau đó nó được phát tán từ một hòn đảo sang các hòn đảo khác, nó sẽ phải tồn tại trong những điều kiện sống khác nhau ở những hòn đảo khác nhau, vì nó phải cạnh tranh với những nhóm sinh vật khác nhau: ví dụ, một loài thực vật có thể tìm được điều kiện sống phù hợp nhất, với những loài sinh vật đặc hữu phù hợp hơn trên một hòn đảo so với trên một hòn đảo khác, và nó có thể phải đối mặt với các cuộc tấn công của những kẻ thù phần nào khác nhau. Nếu khi đó nó biến đổi, thì chọn lọc tự nhiên hẳn sẽ nuôi dưỡng những loài khác nhau trên những đảo khác nhau. Tuy nhiên, một số loài sinh vật có thể phát tán và vẫn duy trì những đặc điểm ban đầu của cả nhóm, như chúng ta nhìn thấy trên các lục địa, một số loài sống rải rác rộng khắp song không hề biến đổi gì.
PHÂN BỐ ĐỊA LÝ (T.T)
Sự phân bố các sinh vật nước ngọt - về các sinh vật trên các đảo ở đại dưcmg - Sự vắng mặt các loài ếch nhái và các loài thú sống trên cạn - về quan hệ của các sinh vật trên các hòn đảo với các sinh vật ở vùng đất liền gần đảo nhất - về sự thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất với sự biến đổi thường xuyên - Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước
Con người hẳn đã từng nghĩ rằng, bởi vì hồ và các hệ thống sông bị ngăn cách với nhau bởi các dải đất, nên các loài nước ngọt sẽ không thể biến đổi nhiều trong cùng một nước, và bởi vì biển rõ ràng là một rào cản khó có thể vượt qua, nên các loài này không thể vươn tới các đất nước xa xôi được. Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Chủng ta không chỉ có các loài nước ngọt, thuộc những lớp hoàn toàn khác nhau, với vô số chủng loại, mà những loài cùng họ còn xuất hiện rất nhiều trên khắp thế giới. Tôi nhớ rất rõ ràng, khi lần đầu tiên thu thập các loài sinh vật tại các vùng nước ngọt ở Braxin, tôi đã hết sức ngạc nhiên vì sự tương đồng của các loài côn trùng nước ngọt, các mảnh vỏ sò... cũng như sự khác biệt của các sinh vật sống trên cạn ở xung quanh so với các loài này của nước Anh.
Nhưng khả năng biến đổi mạnh mẽ này của các loài nước ngọt, mặc dù hết sức đáng ngạc nhiên, song tôi nghĩ, trong hầu hết các trường hợp, vẫn có thể giải thích bằng việc các loài ngày càng biến đổi để phù hợp hơn, theo hướng có ích, cho những cuộc di cư ngắn và thường xuyên từ ao này sang ao khác, hoặc từ dòng suối này sang dòng suối khác; và khả năng phân tán rộng rãi gần như là hậu quả tất yếu của năng lực này. Ở đây, chúng ta có thể xem xét một vài trường hợp. Liên quan đến cá, tôi nghĩ rằng, những loài giống nhau không bao giờ xuất hiện trong những thủy vực ở những lục địa xa xôi. Nhưng trên cùng một lục địa, các loài biến đổi rất nhiều và gần như không theo quy luật nào; vì vậy, hai hệ thống sông sẽ có một số loài cá giống nhau và một số loài cá khác nhau. Có một số bằng chứng thực tế thiên về khả năng cho rằng, các loài này đôi khi có thể được phát tán một cách tình cờ, giống như việc loài cá live đôi khi bị những cơn gió cuốn theo ở Ấn Độ, cũng như khả năng tồn tại trứng của các loài này khi bị tách khỏi môi trường nước. Tuy nhiên, cá nhân tôi lại tin rằng, sự phát tán các loài cá nước ngọt chủ yếu là do những thay đổi nhỏ của đất liền trong thời kỳ gần đây, làm cho các con sông chảy vào nhau. Cũng vậy, có thể đưa ra những ví dụ cho thấy hiện tượng này đã xảy ra trong các cơn lũ, mà không có sự thay đổi nào trong đất liền. Chúng ta đã có được những bằng chứng trong hoàng thổ của sông Rhine về những thay đổi đáng kể trong mực đất liền trong phạm vi một thời kỳ địa chất rất gần đây, và khi bề mặt trái đất có đầy rẫy những vỏ sò nước ngọt và sò trên cạn. Sự khác biệt rõ rệt giữa những loài cá ở hai sườn của những dãy núi liên tiếp có vẻ cũng đưa đến cùng một kết luận. Những dãy núi này hẳn đã chia rẽ các hệ thống sông và ngăn hoàn toàn không cho các hệ thống sông này nối với nhau, về sự tồn tại của các loài cá nước ngọt có cùng họ ở những nơi rất xa trên thế giới, rõ ràng là có rất nhiều trường hợp mà hiện tại chúng ta không thể giải thích được; nhưng một số loài cá nước ngọt nào đó thuộc về một dạng rất cổ, và trong những trường họp đó, hẳn sẽ có nhiều thời gian cho những biếấn động địa chất mạnh mẽ, và kết quả là thời gian và cả phương tiện để cho các loài đó có thể di cư. Tiếp theo, cá nước mặn có thể dần dần quen với việc sống trong môi trường nước ngọt; và, theo Valenciennes, hiếm có một nhóm các loài cá duy nhất nào chỉ có thể sống trong môi trường nước ngọt, và vì vậy, chúng ta có thể tưởng tượng rằng, một loài cá biển của nhóm cá nước ngọt có thể di chuyển đi dọc bờ biển, dần dần biến đổi và thích nghi với những vùng nước ngọt ở một mảnh đất xa xôi nào đó.
Một số loài sinh vật biển có vỏ bảo vệ bên ngoài sống ở vùng nước ngọt có phạm vi phân bố rất rộng, và các loài cùng họ, mà theo thuyết của tôi phải có chung bố mẹ và phải tiến hóa từ một nguồn duy nhất, xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Sự phân bố của các loài này ban đầu rất khó hiểu vì các con chim không thể vận chuyển trứng của các loài này, và loại trứng này sẽ bị nước biển làm hỏng ngay tức khắc, giống như những con trưởng thành. Thậm chí tôi đã không thể hiểu làm thế nào mà một số loài đã được thích nghi lại có thể phát triển nhanh đến vậy trên cùng một đất nước. Song có hai thực tế mà tôi quan sát được - và không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn còn nhiều sự kiện nữa cần được quan sát - đã giúp làm sáng tỏ phần nào vấn đề này. Khi một con vịt đột ngột xuất hiện ở một cái ao phủ đầy bèo tấm, tôi đã hai lần nhìn thấy những thực vật bé nhỏ này dính chặt vào lưng con vịt; và tôi ngẫu nhiên phát hiện ra rằng, mặc dù không chủ tâm song con vịt đã mang đến một ít sinh vật nước ngọt từ một cái ao khác khi con vịt cố gắng rũ bỏ một chút bèo tấm khi đi từ ao này sang ao kia. Nhưng một tác nhân trung gian khác có lẽ còn hữu hiệu hơn: Lấy một chú vịt làm đại diện cho một trong những con chim đang ngủ trong một cái ao tự nhiên, hay trong một bể nuôi thủy sinh, nơi có rất nhiều trứng của sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài nước ngọt đang nở. Tôi treo chân của một con vịt lên và thấy rằng, có vô số những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài bé tí xíu và vừa mới nở đang bò trên chân con vịt, và bám chặt vào chúng đến mức mà khi nhấc chân vịt ra khỏi nước thì những sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này cũng không thể rơi ra, nhưng nếu những con sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài này lớn hơn một chút thì chúng sẽ tự nguyện rời khỏi chân con vịt. Những động vật thân mềm vừa mới nở này, mặc dù đã hoàn chỉnh về bản chất, chỉ sổng được trên chân con vịt, trong điều kiện không khí ẩm ướt, từ mười hai đến hai mươi giờ; và trong khoảng thời gian này, một con vịt hay con diệc có thể bay được ít nhất sáu đến bảy trăm dặm, và chắc chắn sẽ phải đậu xuống một cái ao hay một dòng suối nhỏ, nếu nó định bay qua biển đến một hòn đảo trên đại dương hay đến một nơi xa xôi nào đó. Ngài Charles Lyell cũng báo cho tôi biết rằng, người ta đã bắt được một con Dyticus, mà trên người nó có một con Ancylus (một con Shell nước ngọt giống con sao sao) đang bám chặt; và một con bọ cánh cứng water cùng họ đó, một con Colymbetes, từng đậu trên boong tàu Beagle, khi con tàu này đang ở cách xa vùng đất liền đến bốn mươi dặm: không ai có thể biết được, con Ancylus này có thể bay được bao xa nữa khi có một cơn gió thuận chiều.
Về các loài thực vật, từ lâu người ta đã biết rằng, nhiều loài nước ngọt và ngay cả những loài sinh sống ở đầm lầy xuất hiện ở những môi trường sống ở rộng lớn, kể từ các lục địa cho đến những hòn đảo xa xôi nhất trên đại dương. Như ông Alph De Candolle đã nhận xét, đáng chú ý nhất là điều này được tìm thấy ở những nhóm lớn cac loài thực vật trên cạn, vốn chỉ có một số ít thành phần sống được trong môi trường nước; vì những thành phần này dường như ngay lập tức có được những phạm vi sống rất rộng, cứ như thể đó là một kết quả tất yếu. Tôi nghĩ, những phương tiện phát tán thuận lợi giúp giải thích được thực tế này. Trước đây, tôi đã từng nói đến việc là, đất, một đôi khi, tuy hiếm, bám một chút vào chân hoặc mỏ của những con chim. Những con chim đang ngụp lặn trong nước, thường hay kiếm ăn ở những rìa ao đầy bùn, nếu bỗng nhiên bị xua bay đi, chắc chắn chân chúng sẽ dính đầy bùn. Tôi có thể chỉ ra rằng, những con chim thuộc bộ này là những con vật hoang dã nhất, đôi khi được tìm thấy ở những hòn đảo hoang xa xôi nhất trên đại dương. Những con chim này khó có thể đậu trên mặt biển, vì thế mà bùn trên chân chúng khó có thể được rửa sạch, khi những con chim này trông thấy đất liền, chẳc chan chúng sẽ bay đến những bãi nước ngọt tự nhiên kiếm ăn. Tôi không tin rằng, các nhà thực vật biết rõ ràng, bùn chứa bao nhiêu hạt giống trong nó. Tôi đã làm thử vài thí nghiệm nhỏ, nhưng sẽ chỉ dẫn ra đây thí nghiệm đáng chú ý nhất: Vào tháng 2, tôi lấy 3 thìa cà phê đầy bùn từ ba điểm khác nhau, dưới nước, trên bờ của một cái ao nhỏ, lượng bùn này khi khô chỉ nặng có 6,75 aoxơ. Tôi giữ nó để nghiên cứu trong vòng 6 tháng, nhổ ra và đếm từng loài thực vật khi chúng lớn lên; những loài thực vật này thuộc rất nhiều loại, con số cuối cùng lên đến 537 loài; vậy mà tất cả chỗ bùn lỏng đó chỉ được chứa vỏn vẹn trong có một cái chén cà phê dùng để ăn sáng! Xem xét những sự kiện này tôi cho rằng, chúng ta sẽ không thể giải thích nổi nếu những con chim biển không mang những hạt giống của các loài thực vật nước ngọt đi đến những nơi cực kỳ xa xôi, và do đó, số lượng những loài thực vật này không lớn đến như vậy. Có thể cũng chính trung gian này giúp chuyên chở trứng của một số loài động vật nước ngọt nhỏ hơn.
Các trung gian khác có thể chưa được biết đến cũng có vai trò nhất định. Tôi đã chỉ ra rằng, các loài cá nước ngọt ăn một số loại hạt, mặc dù sau đó chúng thải ra nhiều loại khác; ngay cả những con cá nhỏ cũng nuốt các hạt cỡ vừa, như hạt của cây súng và cây Potamogeton. Con diệc và những con chim khác, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã ăn các loài cá, sau đó chúng bay đi và đến những vùng nước khác; hoặc bị cuốn bay qua biển, và chúng ta đã thấy rằng, những hạt cây đó vẫn có thể nảy mầm, khi được thải ra trong phân của chim nhiều giờ sau đó. Khi tôi nhìn thấy hạt của những cây súng, Nelumbium, có kích thước rất to,và nhớ đến lời nhận xét của ông Alph De Candolle về loài thực vật này, tôi đã nghĩ rằng, sự phân bố của loài này vẫn không thể giải thích được. Nhưng Audubon tuyên bố, ông đã tim thấy hạt của cây súng miền nam loại lớn (có lẽ theo tiến sỹ Hooker, là cây Nelumbium luteum) trong dạ dày của một con diệc, cho dù tôi không được biết sự thực, song phép loại suy khiến tôi tin rằng, một con diệc bay đến một cái ao khác và ăn một bữa cá lớn ở đó, rồi sau đó có thể đã thải phân có chứa hạt của cây Nelubium chưa tiêu ra ngoài; hoặc các hạt cây đó có thể đã bị rơi khi con chim mẹ mớm mồi cho chim con, giống như trường hợp cá đôi khi cũng bị rơi mà ta đã biết.
Trong khi xem xét các cách phân tán này, cần phải nhớ rằng, khi lần đầu tiên một cái ao hoặc một dòng suối hình thành, ví dụ, trên một hòn đảo nhỏ đang nổi lên, thì ban đầu chưa có sinh vật nào sinh sống; và một hạt giống hay một cái trứng duy nhất sẽ có nhiều cơ hội sống sót được. Mặc dù sẽ có một cuộc đấu tranh đế giành lấy sự sống giữa các cá thể của các loài, cho dù ít, vốn đã đang cư ngụ trên một cái ao, song do số lượng loài nhỏ, so với số lượng loài trên cạn, nên sự cạnh tranh giữa các loài sống trong nước có lẽ sẽ ít khốc liệt hơn so với những loài sống trên cạn; kết quả là, một loài mới từ vùng nước của một nước khác xâm nhập vào sẽ có nhiều cơ hội chiếm được một chỗ trú ngụ hơn so với một loài trên cạn. Chúng ta cũng nên nhớ rằng, một số, có lẽ rất nhiều loài sinh vật nước ngọt có mức độ tiến hóa thấp, và chúng ta có lý do để tin rằng, những sinh vật tiến hóa thấp đó thay đổi hoặc trở nên thích nghi chậm hơn so với các loài tiến hóa cao; và do đó cần nhiều thời gian hơn so với mức trung bình đế chúng di cư so với các loài cùng thang tiến hóa nhưng sống trong môi trường nước. Chúng ta không nên quên khả năng có nhiều loài mà trước đây đã xuất hiện liên tục như những loài nước ngọt từng xuất hiện ở những khu vực rộng lớn, rồi sau đó lại bị tuyệt chủng ở những vùng trung gian. Nhưng tôi tin rằng, sự phân bố rộng rãi của những loài thực vật nước ngọt và các loài động vật cấp thấp hơn, dù là duy trì đúng dạng sống ban đầu hay đã biến đổi ở một mức độ nào đó, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sự phát tán rộng rãi các hạt hay trứng của chúng nhờ các loài động vật, đặc biệt là nhờ vào các loài chim nước ngọt, là những loài có khả năng bay xa, và thường di chuyển từ nơi này đến nơi kia và thường là đến những vùng nước khác nhau.
Tự nhiên, cũng giống một người làm vườn cẩn thận, vì vậy lấy các hạt giống của mình từ một môi trường tự nhiên cụ thể, sau đó thả chúng ở những nơi khác cũng có những điều kiện phù hợp với chúng như vậy.
Về các loài sinh vật cư trú trên những hòn đảo ở đại dương - Giờ đây chúng ta đến với lớp sự kiện cuối cùng trong ba lớp sự kiện thực tế, mà tôi coi là thể hiện mức độ khó và cao nhất, với quan điểm cho rằng, tất cả mọi cá thể của cùng một loài hoặc các loài cùng họ đều xuất phát từ cùng một bố mẹ duy nhất, và vì vậy tất cả đều xuất phát từ một địa điểm chung, cho dù theo thời gian, chúng đã đến cư trú tại một điểm xa xôi nào đó trên trái đất. Tôi cũng đã chỉ ra rằng, tôi không thế trung thực mà thừa nhận quan điểm của Forbes về sự mở rộng lục địa. Quan điểm này nếu được theo đuổi đến cùng sẽ dẫn đến niềm tin rằng, trong phạm vi thời kỳ gần đây, tất cả các hòn đảo hiện có gần như hoặc thực sự nối với một lục địa nào đó. Quan điểm này sẽ giúp loại bỏ đi khá nhiều khó khăn, song tôi nghĩ, nó lại không giúp giải thích tất cả các sự kiện liên quan đến các sinh vật ở đảo. Trong những nhận xét dưới đây, tôi sẽ không giới hạn mình trong chỉ duy nhất một câu hỏi về sự phát tán, mà sẽ xem xét một số sự kiện khác, có liên quan tới tính đúng đắn của hai học thuyết về sự hình thành độc lập và về nguồn gốc có sự biến thái.
Số lượng tất cả các loài thuộc tất cả các loại sinh sống trên các hòn đảo ở đại dưcmg là rất ít ỏi so với số lượng các loài trên cùng một diện tích tưcmg đưcmg ở lục địa: ông Alph De Candoỉle xác nhận thực tế này đúng với các loài thực vật, và Wollaston đối với các loài côn trùng. Nếu chúng ta xem xét tới yếu tố phạm vi rộng và môi trường biến đổi của Niu Di Lân, trải dài trên một vùng rộng 780 dặm, và so sánh các loài thực vật bậc thấp của chúng, với số lượng chỉ có 750 loài, với các loài đó trên một diện tích tương đương tại mũi Hảo vọng hoặc ở Otxtrâylia, thì tôi nghĩ, chúng ta cũng buộc phải thừa nhận rằng, có một yêu tố nào đó, hoàn toàn độc lập với bất kỳ khác biệt nào về điều kiện tự nhiên đã làm nên sự khác biệt lớn đến như vậy về số lượng các loài. Ngay một hạt Cambridge thôi cũng đã có đến 847 thực vật, và hòn đảo Anglesea nhỏ bé cũng có đến 764 thực vật, song chỉ có một số cây dương xỉ và một số cây nhập nội có trong số các loài này và kết quả so sánh về một số khía cạnh khác cũng không thực sự hợp lý. Chúng ta có bằng chứng cho thấy, hòn đảo hoang Ascension thời nguyên thủy đã từng có một số loài thực vật ra hoa; tuy nhiều loài đã tự thích nghi được, như chúng đã thích nghi ở Niu Di Lân và ở mỗi hòn đảo trên đại dương khác có thể gọi tên được. Ở Saint Helena, chúng ta có lý do để tin rằng, các loài thực vật và động vật đã thích nghi gần như hoặc thực sự đã hủy diệt các loài thực vật bản xứ. Nếu người nào đó thừa nhận học thuyết về sự sáng tạo của từng loài riêng biệt, người đó sẽ phải thừa nhận rằng, một số lượng đủ lớn các loài thực vật và động vật có khả năng thích nghi tốt nhất đã không được tạo ra trên các hòn đảo ở đại dương; bởi vì con người đã vô tình mang chúng đến từ nhiều nguồn khác nhau mà còn lâu mới đầy đủ và hoàn hảo so với tự nhiên.
Mặc dù trên các hòn đảo ở đại dương, số lượng chủng loại các loài sinh sống rất ít ỏi, song tỷ lệ các loài đặc hữu (là những loài không tìm thấy ở một nơi nào khác trên thế giới) thường cực kỳ lớn. Ví dụ, nếu chúng ta so sánh số lượng các loài sinh vật biển có lớp vỏ bảo vệ bên ngoài trên cạn đặc hữu ở Madeira hoặc số lượng loài chim đặc hữu trên quần đảo Galapagos với số lượng các loài đặc hữu tìm thấy trên bất kỳ lục địa nào, và sau đó so sánh diện tích của các hòn đảo với diện tích của lục địa, thì ta đều sẽ thấy điều này là hoàn toàn đúng. Theo lý thuyết của tôi thì điều này hoàn toàn có thể xảy ra, vì như đã giải thích, các loài, đôi khi đến được một nơi sau nhiều chặng hành trình ở những vùng mới và cô lập, và buộc phải cạnh tranh với những sinh vật khác, rõ ràng sẽ có khả năng tiến hóa, và sẽ tạo ra một nhóm các thế hệ sau đã tiến hóa. Song vì trong một hòn đảo, gần như tất cả các loài thuộc cùng một lớp nào đó là đặc hữu mà các loài của một lớp khác hoặc của một bộ phận khác trong cùng một lớp cũng phải là đặc hữu, và sự khác biệt này dường như phụ thuộc vào những loài không trở nên thích nghi được đã du nhập vào với những điều kiện thuận lợi và theo một nhóm, vì thế mà mối quan hệ qua lại giữa các loài đó không bị thay đổi nhiều. Vì vậy, trên các hòn đảo Galapagos, gần như mỗi loài chim đất liền, chỉ có hai trong số 11 loài chim biển là đặc hữu; và rõ ràng là các con chim biển có thể đến các hòn đảo này dễ hơn nhiều chim đất liền. Mặt khác, Bermuda, cũng cách xa Bắc Mỹ tương tự như từ quần đảo Galapagos đến Nam Mỹ, và có điều kiện đất đai riêng biệt, song lại không có một loài chim đất liền đặc hữu nào; và qua sự miêu tả tài tình của ngài J.M. Jones về hòn đảo Bermuda, chúng ta biết rằng, rất nhiều loài chim Bắc Mỹ, trong suốt những chuyến di cư hàng năm của mình, thường xuyên hoặc đôi khi dừng chân ở hòn đảo này. Madeira cũng không có một loài chim riêng biệt nào, song rất nhiều loài chim châu âu hoặc châu Phi gần như mỗi năm đều bay qua đây, như ngài E.v. Harcout thông báo cho tôi. Như vậy, hai hòn đảo Bermuda và Madeira đều có nhưng loài chim, mà qua những thời kỳ dài đã đấu tranh cùng nhau ở quê hương cũ của chúng, và sau đó đã tự thích nghi lẫn nhau, đến khi định cư ở quê hương mới của mình, mỗi loài sẽ được những loài khác giúp chúng giữ đúng những đặc điếm cũng như thói quen của mình, và kết quả là gần như không biến hóa gì. Lại lấy ví dụ của Madeira. Hòn đảo này có một số lượng lớn các loài Shell trên cạn riêng biệt, trong khi không có được dù chỉ 1 loài sò biển nào: giờ đây, mặc dù chúng ta không biết rằng sò biển đã được phát tán như thế nào, song chúng ta có thể thấy rằng, trứng hoặc ấu trùng của sò biến có lẽ bám vào rong biển hoặc những tấm gỗ trôi nổi, hoặc vào chân của những con chim lội, có thể sẽ được mang đi xa hơn nhiều so với sò đất, xa 3 đến 400 dặm trên biển. Các bộ khác nhau của các loài côn trùng ở Madeira minh chứng rõ ràng những thực tế giống nhau.
Các đảo trên đại dương đôi khi thiếu đi một số lớp nhất định, và chỗ của những lớp này rõ ràng sẽ bị những loài sinh vật khác chiếm lấy; trên quần đảo Galapagos, các loài bò sát, và ở Niu Di Lân là các loài chim không có cánh khống lồ đã chiếm chỗ của các động vật có vú. Trong hệ thực vật của quần đảo Galapagos, tiến sĩ. Hooker đã chỉ ra rằng, một số lượng lớn các lớp khác nhau khác hẳn so với chúng song sống ở nơi khác. Những trường hợp như vậy thường được giải thích là do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của đảo; nhưng cách giải thích này đối với tôi dường như còn chưa thỏa đáng. Tôi tin rằng, phương thức du nhập ít nhất cũng có tầm quan trọng như tính chất của các điều kiện tự nhiên.
Có thể đưa ra những sự kiện nhỏ nổi bật về các sinh vật sinh sống trên các hòn đảo xa xôi. Ví dụ, ở một số hòn đảo nhất định không có động vật có vú sinh sống, một số thực vật đặc hữu với các hạt có móc rất đẹp, tuy nhiên gần như không có quan hệ nào đáng chú ý hơn là sự thích nghi của các hạt có móc để có thể mang đi nhờ da và lông của các loài động vật bốn chân. Theo quan điểm của tôi, trường hợp này không khó giải thích, vì một hạt có móc có thể được mang đến một hòn đảo nhờ một số cách; và loài cây sau này có thể được biến đổi đi một ít, nhưng vẫn giữ các hạt có móc của mình, sẽ hình thành nên một loài đặc hữu, có thêm một bộ phận phụ vô dụng như bất kỳ một cơ quan thô sơ nào - ví dụ, như những cái cánh bị teo lại từ cánh trước của nhiều loài bọ cánh cứng trên đảo. Lại nữa, các hòn đảo thường có nhiều cây hay bụi rậm thuộc những bộ mà ở những nơi khác thường chỉ có các loài thuộc dạng thảo mộc; bởi vì các loài cây, như ông Alph De Candolle đã chỉ ra, cho dù nguyên nhân là gì đi nữa, thường chỉ xuất hiện ở những phạm vi hẹp. Vì thế, các cây khó có thể vươn tới những hòn đảo xa xôi trên đại dương; vả một loài thảo mộc, cho dù không có cơ hội cạnh tranh được về tầm vóc so với một cây đã phát triển hoàn chỉnh, khi đã được đặt vào một hòn đảo và chỉ phải cạnh tranh với các loài cây thảo thôi, thì nó hoàn toàn có thể chiếm được lợi thế bằng cách lớn nhanh hơn và cao hơn so với các thực vật khác. Nếu đúng như vậy, thì chọn lọc tự nhiên thường có xu hướng tăng thêm tầm vóc cho các loài cây thảo khi phát triển trên một hòn đảo, đến bất kỳ bộ nào mà các cây thuộc về, và vì vậy, thường trước tiên biến chúng thành các bụi rậm và cuối cùng thì thành các cây to.
Về sự vắng mặt của toàn bộ các bộ trên các đảo ngoài đại dương, Bory St Vincent từ lâu đã nhận xét rằng, các loài ếch nhái (ếch, cóc, sa giông) chưa bao giờ được tìm thấy trên bất kỳ hòn đảo nào trong rất nhiều hòn đảo rải khắp các đại dương lớn. Tôi đã dồn hết tâm trí để khẳng định nhận định này, và tôi thấy điều này tuyệt đối đúng. Tuy nhiên, tôi cũng cam đoan rằng, thực sự có ếch tồn tại trên những dãy núi của hòn đảo lớn của Niu Di Lân; nhưng tôi nghi ngờ rằng, ngoại lệ này (nếu thông tin này là chính xác) có thể được giải thích nhờ trung gian băng hà. Sự vắng mặt chung của ếch, cóc, và sa giông trên rất nhiều hòn đảo ngoài đại dương không thể là do điều kiện tự nhiên của chúng, thực tế dường như các hòn đảo này lại đặc biệt phù hợp với những động vật này; vì ếch đã được du nhập vào Madeira, Azores, và Mauritus và đã nhân lên gấp bội đến mức trở thành một loài gây hại. Nhưng bởi vì chúng ta biết rằng các động vật này và trứng của chúng không tồn tại được trong môi trường nước biển, nên theo quan điểm của tôi, chúng ta có thể hiểu được tại sao, khó có thể có trường hợp các loài này được vận chuyển qua biển, và vì vậy mà tại sao chúng không tồn tại trên bất kỳ hòn đảo ngoài đại dương nào. Nhưng, khó mà giải thích tại sao, theo lý thuyết sáng tạo, những loài này lại không được tạo ra ở đó. Các loài động vật có vú là một trường hợp khác tương tự. Tôi đã tìm kiếm kỹ càng những chuyến đi từ xa xưa nhất nhưng chưa kết thúc tìm kiếm. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa tìm thấy dù chi một trường hợp duy nhất khiến tôi không nghi ngờ về một loài động vật có vú sống trên cạn (không kể các loài động vật đã được thuần hỏa mà người bản xứ nuôi) sinh sổng trên một hòn đảo cách lục địa hơn 300 dặm hay những hòn đảo thuộc lục địa, và nhiều hòn đảo ở những vị trí gần hơn nhiều cũng hoang vắng như vậy. Quần đảo Falkland, nơi có loài cáo giống sói, gần như là một trường hợp ngoại lệ. Song nhóm này không thể được coi là đảo ngoài đại dương vì nó nằm trên bờ sông nối với đất liền; hơn thế nữa, những núi băng trước đây đã mang các tảng đá đi về phía bờ tây của nó, và các núi băng này có thể trước đây đã mang theo cả những con cáo, như ngày nay chúng ta vẫn thường thấy ở các vùng cực. Tuy nhiên, không thể nói rằng, những hòn đảo nhỏ sẽ không thích hợp cho các loài động vật có vú nhỏ, vì các loài có vú này xuất hiện tại rất nhiều vùng trên thế giới ở những hòn đảo rất nhỏ, nếu gần với một lục địa, và hiếm có thể gọi tên ra một hòn đảo nào có những loài vật bốn chân nhỏ hơn lại không thích nghi và nhân lên gấp bội.
Ngài Windsor Earl đã có một số quan sát đáng chủ ý theo hướng này đối với quần đảo rộng lớn Malay, quần đảo cắt ngang bởi một đại dương lớn gần Celebes; và chính đại dương này đã chia cắt hai hệ động vật có vú hoàn toàn riêng biệt. Ở cả hai phía của đại dương, các hòn đảo đều nằm trên các bờ chìm dưới mặt biển khá sâu, và đều có những loài bốn chân giống hệt hoặc có quan hệ họ hàng khá gần gũi sinh sống.
Không còn nghi ngờ gì nữa, có rất ít điểm khác thường trên quần đảo rộng lớn này, và trong một số trường hợp ta khó có thể đưa ra được một đánh giá do có thể có một quá trình thích nghi của một số động vật có vú thông qua trung gian là con người; nhưng chúng ta sẽ sớm có nhiều điều giúp làm sáng tỏ về lịch sử tự nhiên của quần đảo này nhờ nhiệt huyết đáng khâm phục cùng các nghiên cửu của ngài Wallace. Tuy tôi vẫn chưa có thời gian để nghiên cửu vấn đề này ở tất cả các nơi khác trên thế giới, song như tôi đã tìm hiểu và nhìn chung, mối quan hệ này được giữ vững. Chúng ta thấy rằng, Anh bị ngăn cách với châu âu bởi một kênh hẹp, và các loài động vật có vú có ở cả hai phía; chúng ta bắt gặp những hiện tượng giống thế trên nhiều hòn đảo ngăn cách với Ôtxtrâylia bởi những con kênh tương tự. Quần đảo Tây nam nằm trên một bờ biển gần chìm, sâu gần 1000 sải, và ở đây, chúng ta tìm thấy những dạng sống châu Mỹ, song các loài và thậm chí các chi hoàn toàn khác biệt. Bởi vì mức độ biến đổi trong mọi trường hợp đều phụ thuộc vào khoảng thời gian ở một mức độ nhất định, và theo những thay đổi về độ sâu, rõ ràng là những hòn đảo bị ngăn cách bởi những con kênh hẹp sẽ dễ có khả năng không ngừng hợp lại với đất liền trong một thời gian ngắn so với những hòn đảo bị ngăn cách bởi những con kênh sâu hơn. Vì thế chúng ta cỏ thể hiểu rằng, mối quan hệ thường có giữa độ sâu của biển và mức độ tương đồng về cấu trúc giữa các sinh vật có vú sinh sống trên đảo với các sinh vật đó trên một lục địa láng giềng - đó là một mối quan hệ không thể giải thích nổi trên quan điểm các hành vi độc lập của sự sáng tạo.
Tất cả những nhận xét đã nói ở trên về những sinh vật sinh sống trên những hòn đảo ở đại dương - cụ thể là, sự khan hiếm chủng loại, sự phong phú về các dạng sống đặc hữu ở những lớp hay phần của lớp cụ thể, sự vắng mặt của cả một nhóm, ví dụ nhóm ếch nhái, và của các động vật có vú sống trên cạn không kể sự có mặt của các loài dơi trên không, sự cân xứng khác thường của một số thứ thực vật nhất định, ví dụ các dạng thân thảo đã và đang phát triển thành cây v.v... - đối với thuyết tôi dường như có vẻ phù hợp hơn nếu ta lưu tâm đến các hình thức vận chuyển đặc biệt khá hiệu quả trong suốt một thời gian dài hơn là chú tâm vào vấn đề các hòn đảo trên đại dương trước đây đã từng được nối với những lục địa gần nhất bằng những dải đất liên tục. Vì đối với quan điểm thứ hai thì sự di trú sẽ có thể hoàn chỉnh hơn, và nếu chúng ta thừa nhận có sự biến đổi, thì tất cả các dạng sống sẽ phải được biến hoá đồng đều hơn theo đúng tầm quan trọng bậc nhất của mối quan hệ giữa sinh vật này với sinh vật khác.
Tôi không phủ nhận rằng khó có thể hiểu được làm thế nào mà một số sinh vật sinh sống trên những hòn đảo xa xôi hơn, cho dù vẫn duy trì cùng một dạng sống hay đã biến đổi kể từ khi lần đầu xâm nhập vào đảo, lại có thể đến được những nơi ở hiện nay của chúng. Nhưng chúng ta không nên xem nhẹ khả năng nhiều hòn đảo đã tồn tại như những bến nghỉ chân cho dù bây giờ không còn một bằng chứng nào về vấn đề này. Ở đây, tôi sẽ đưa ra một ví dụ duy nhất cho một trong số rất nhiều trường hợp khó khăn. Đó là, trên gần như tất cả các hòn đảo trên đại dương, ngay cả những hòn đảo nhỏ nhất và bị cô lập nhất đều có những loài giáp xác trên cạn sinh sống, chủ yếu là các loài đặc hữu, nhưng đôi khi cũng có một số loài mà ta có thể tìm thấy ở những nơi khác. Tiến sĩ. Aug. A. Gould đã đưa ra nhiều trường hợp khá thú vị về các loài giáp xác trên cạn trên những hòn đảo của Thái Bình Dương. Ngày nay ai cũng biết rằng, các loài giáp xác trên cạn có thể dễ dàng bị tiêu hủy bởi muối, trứng của các loài này, ít nhất là những quả trứng mà tôi đã thử, khi chìm trong nước biển sẽ bị hỏng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, hẳn phải có một cách chuyên chở nào đó đặc biệt hiệu quả mà chúng ta chưa được biết. Liệu những sinh vật vừa mới nở có khi nào bò lên và bám chặt vào chân của những loài chim đậu trên mặt đất ngủ qua đêm và nhờ thế mà được mang đi không? Tôi đã chợt nảy ra ý nghĩ là, các loài giáp xác trên cạn, có thể trôi trong những khe nứt của những mảnh gỗ vụn trôi nổi đi qua các nhánh biển khá rộng. Và tôi thấy rằng, một số loài đúng là tồn tại trong trạng thái này mà không hề bị hư hỏng khi bị chìm trong nước biển trong suốt 7 ngày: một trong số những loài giáp xác này là loài Helix pomatia, tôi đặt nó vào nước biển trong 20 ngày và nó vẫn hồi phục được hoàn toàn. Do loài này có một lớp vảy bàng đá vôi dày, nên tôi gõ bỏ lớp vảy đó và khi nó hình thành nên một lớp màng mới, tôi lại đặt nó vào nước biển mười bốn ngày nữa, và nó vẫn phục hồi và bò đi; tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tiến hành thêm nhiều thí nghiệm nữa theo hướng này.
Sự kiện đáng chú ý nhất và quan trọng nhất đổi với chúng tôi liên quan đến các sinh vật sinh sống trên đảo là sự giống nhau về cấu trúc giữa những sinh vật này với các sinh vật sống trên vùng đất liền gần đó nhất, mặc dù thực sự không thuộc cùng một loài. Có thể đưa ra vô số các ví dụ về điều này. Tôi sẽ chỉ đưa ra một ví dụ, đó là ví dụ của quần đảo Galapagos, nằm dưới đường xích đạo, cách bờ biển Nam Mỹ khoảng 500-600 dặm ở đây, gần như mỗi sản vật của đất liền và biển đều mang một đặc trưng không thể nhầm lẫn của châu Mỹ. Có hai mươi sáu loài chim trên đất liền, và hai mươi nhăm loài trong số đó được ngài Gould xếp vào các loài đặc hữu, mà người ta giả thiết là được hình thành nên tại quần đảo này; tuy nhiên, sự tương đồng gần gũi của hầu hết các loài chim này với các loài ở châu Mỹ trong từng đặc điểm, trong sự phát triển, dáng vẻ, giọng hót, thì hết sức rõ ràng. Điều này cũng xảy ra tương tự với các loài động vật khác, và với gần như tất cả các loài thực vật, như ngài Hooker đã chỉ ra trong ký sự tuyệt vời của ông về thảm thực vật của quần đảo này. Nhà tự nhiên học này, khi quan sát các sinh vật sinh sống trên những hòn đảo có nguồn gốc từ núi lửa này ở Thái Bình Dương, cách xa đất liền hàng trăm dặm, vẫn có cảm giác như ông đang đứng trên đất Mỹ. Tại sao lại như vậy? Tại sao những loài sinh vật được coi là đã được hình thành nên từ quần đảo Galapagos, và không thể tìm thấy ở một nơi nào khác, lại có thể mang những đặc trưng rõ ràng giống với những loài ở châu Mỹ? Không có gì trong các điều kiện sống, trong đặc điểm địa chất của các hòn đảo, trong độ cao hay khí hậu, hay trong tỷ lệ một số lớp liên quan đến nhau giống với những điều kiện của bờ biển Nam Mỹ: thực tế là giữa hai địa điểm này còn có sự khác biệt đáng kể trên nhiều khía cạnh. Mặt khác, giữa hai quần đảo Galapagos và quần đảo Cape de Verde, sự giống nhau về đặc tính của đất là phát triển từ núi lửa, về khí hậu, độ cao, và quy mô quần đảo lại khá giống nhau: song các loài sinh vật sinh sống trên hai hòn đảo này lại hoàn toàn khác biệt! Các sinh vật trên đảo Cape de Verde giống các sinh vật *của châu Phi, cũng như các sinh vật trên Galapagos giống sinh vật của châu Mỹ. Tôi tin rằng, thực tế rõ ràng này không thể được giải thích bàng quan điểm thông thường về sự sáng tạo độc lập; trong khi trên quan điểm vẫn được duy trì ở đây, thì rõ ràng là quần đảo Galapagos có khà năng tiếp nhận các sinh vật mới, cho dù bằng những phương thức vận chuyển đặc biệt, hay vì trước kia hòn đảo này được nối liền với vùng đất liền thuộc châu Mỹ; còn quần đảo Cape de Verde thì với châu Phi; và những sinh vật mới đó có thể đã biến đổi; tuy nhiên nguyên tắc của di truyền vẫn làm lộ ra nguồn gốc ban đầu của chúng.
Có thể đưa ra rất nhiều hiện tượng tương tự; thực sự thì có một nguyên tắc gần như phổ biến là, các loài sinh vật đặc hữu trên các hòn đảo luôn có sự liên quan đến các sinh vật ở châu lục gần hòn đảo đó nhất, hoặc ở những quần đảo khác gần đó. Có rất ít ngoại lệ, và phần lớn các ngoại lệ này đều có thể giải thích được. Vì vậy mà theo chúng tôi được biết từ báo cáo của tiến sĩ Hooker, các thực vật trên vùng đất Kerguelen, mặc dù có vị trí gần châu Phi hơn châu Mỹ, lại có liên quan, và rất mật thiết với các loài sinh vật ở châu Mỹ. Song trên quan điểm cho rằng, hòn đảo này chủ yếu có các loại hạt do đất và đá trên núi băng do các dòng hải lưu mang đến, thì ta hoàn toàn có thể hiểu được trường hợp ngoại lệ này. Niu Di Lân nếu xét về các loài sinh vật đặc hữu cũng có liên quan chặt chẽ hơn với châu Úc, vùng lục địa gần nhất, so với bất kỳ vùng nào khác; và điều này hoàn toàn có thể thấy trước được; song đất nước này rõ ràng cũng liên quan tới Nam Mỹ, một lục địa, tuy gần Niu Di Lân thứ hai sau úc, song lại quá xa xôi và do đó sự liên quan đó lại trở nên khác thường. Song khó khăn này gần như biến mất khi xét trên quan điểm cho rằng, cả Niu Di Lân, Nam Mỹ và các hòn đảo phía Nam khác từ trước đây rất lâu rồi đều đã xuất phát từ một điểm gần như trung gian mặc dù rất xa xôi, đó là từ các quần đảo nam cực, khi mà chúng được bao phủ bởi một lớp phủ thực vật, trước khi thời kỳ băng hà bắt đầu. Sự giống nhau mà tiến sĩ Hooker đã bảo đảm với tôi là có thực, mặc dù không rõ ràng, giữa thảm thực vật ở góc phía tây nam của Úc và mũi Hảo vọng còn là một trường hợp đáng chú ý hơn nhiều, và hiện tại vẫn không thế giải thích nổi; song sự tương đồng này chỉ hạn chế trong phạm vi các loài thực vật, và tôi tin tưởng rằng, một ngày nào đó chúng ta sẽ giải thích được trường hợp này.
Đôi khi chúng ta quan sát được quy luật nào đó khiến cho các loài sinh vật trên một hòn đảo, mặc dù hoàn toàn khác biệt song vẫn liên kết chặt chẽ với các sinh vật trên lục địa gần nhất, được thể hiện trên quy mô nhỏ, song theo một cách thức thú vị, trong giới hạn của cùng một quần đảo. Vì vậy, như tôi đã chỉ ra, nhiều hòn đảo của quần đảo Galapagos có rất nhiều loài sinh vật có quan hệ chặt chẽ với nhau một cách hết sức kỳ lạ, nên các sinh vật trên mỗi hòn đảo riêng biệt, mặc dù hầu như đặc hữu, lại liên quan tới nhau nhiều hơn tới sinh vật ở bất kỳ nori nào khác trên thế giới. Và điều này theo quan điểm của tôi hoàn toàn có thể xảy ra, vì các hòn đảo ở gần nhau đến mức chúng có thể tiếp nhận các sinh vật nhập cư có cùng một nguồn gốc hoặc tiếp nhận các sinh vật của nhau. Song sự khác biệt giữa các sinh vật đặc hữu trên các đảo lại có thể là một luận cứ chống lại quan điểm của tôi; vì chúng ta hoàn toàn có thể đặt ra câu hỏi: tại sao có những hòn đảo ở rất gần nhau, có cùng một đặc trưng địa chất, cùng độ cao, khí hậu, v.v... lại có nhiều loài sinh vật nhập cư lại bị biến đối đi khác nhau cho dù ở mức độ nhỏ. Trong suốt một thời gian dài, luận cứ này vẫn là một khó khăn lớn đối với tôi; song thực ra, luận cứ này phần lớn bắt nguồn từ một sai lầm ăn sâu vào tiềm thức khi cho rằng điều kiện tự nhiên của một đất nước là yếu tố quan trọng nhất đối với một sinh vật nhập cư; trong khi tôi nghĩ rằng, không phải tranh cãi gì nữa, đặc trưng của các loài sinh vật nhập cư khác, mà môi loài phải cạnh tranh, ít nhât cũng là một nhân tô có tầm quan trọng tưcmg đương, và nhìn chung là hơn quyết định khả năng thành công của sự nhập cư. Bây giờ nếu chúng ta xem xét các khu vực khác trên thế giới (tạm gác sang một bên các loài đặc hữu mà chúng ta chưa thể đưa vào ở đây khi đang xem xét xem làm thế nào mà các loài này lại bị biến đổi từ khi nhập cư vào đảo), chúng ta sẽ tìm thấy ở nhiều hòn đảo vô số sự khác biệt. Sự khác biệt này có thể hiểu được theo quan điểm cho rằng, cây phát triển trên các hòn đảo nhờ các phương tiện vận chuyển, lấy ví dụ có 1 hạt giống của một loài thực vật được mang đến một hòn đảo và một hạt giống của một loài khác được mang đến một hòn đảo khác. Vì vậy, trước đây, một loài nhập cư ở lại sinh sống trên bất kỳ một hay nhiều hòn đảo, hoặc sau đó nó được phát tán từ một hòn đảo sang các hòn đảo khác, nó sẽ phải tồn tại trong những điều kiện sống khác nhau ở những hòn đảo khác nhau, vì nó phải cạnh tranh với những nhóm sinh vật khác nhau: ví dụ, một loài thực vật có thể tìm được điều kiện sống phù hợp nhất, với những loài sinh vật đặc hữu phù hợp hơn trên một hòn đảo so với trên một hòn đảo khác, và nó có thể phải đối mặt với các cuộc tấn công của những kẻ thù phần nào khác nhau. Nếu khi đó nó biến đổi, thì chọn lọc tự nhiên hẳn sẽ nuôi dưỡng những loài khác nhau trên những đảo khác nhau. Tuy nhiên, một số loài sinh vật có thể phát tán và vẫn duy trì những đặc điểm ban đầu của cả nhóm, như chúng ta nhìn thấy trên các lục địa, một số loài sống rải rác rộng khắp song không hề biến đổi gì.
Điều thực sự đáng ngạc nhiên trong trường hợp của quần đảo Galapagos, và ít
ngạc nhiên hơn một chút trong một số trường hợp tương tự, là, những loài mới
hình thành trên những hòn đảo riêng biệt không nhanh chóng phát tán đi những
hòn đảo khác. Song các hòn đảo này, mặc dù có vị trí cực kỳ gần nhau, lại bị
ngăn cách bởi các eo biển sâu, hầu hết các eo này đều rộng hơn eo biển Anh và
vì vậy không có lý do gì để chúng ta cho rằng, vào thời điểm bất kỳ nào đó trước
đây, các hòn đảo này nối liên tục với nhau. Các dòng hải lưu của biển mạnh và
chảy ngang qua quần đảo, và hiếm khi có các cơn gió mạnh ở những hòn đảo này.
Vì vậy, các hòn đảo thực sự bị ngăn cách với nhau nhiều hơn so với những gì cho
thấy trên bản đồ. Tuy thế có rất nhiều loài, kể cả những loài tìm thấy ở những
nơi khác trên thế giới, và những loài chỉ có riêng ở quần đảo hiện rất phổ biến
ở nhiều quần đảo, và chúng ta, dựa trên những sự kiện nhất định có thể suy luận
ra rằng, những loài này có lẽ đã phát tán từ đảo này sang đảo khác. Nhưng chúng
ta thường có một quan điểm sai lầm về khả năng các loài có họ gần với nhau xâm
chiếm lãnh thổ của nhau, khi các lãnh thổ thông với nhau. Điều ấy cho thấy, nếu
một loài sinh vật có được một lợi thế nào đó so với một loài khác, trong một thời
gian rất ngấn, nó sẽ thay thế toàn bộ hay một phần loài kia; song nếu cả hai
loài đều thích nghi tốt với nơi ở của riêng mình trong tự nhiên, thì có lẽ
chúng sẽ duy tri lãnh thổ riêng đó, và giữ riêng cho mình lâu dài. Đã quen với
thực tế là, nhiều loài, nhập cư thông qua vật trung gian là con người, đã phát
tán nhanh một cách đáng ngạc nhiên sang những nước mới, chúng ta dễ suy đoán rằng,
vì thế mà các loài sinh vật sẽ phát tán, song chúng ta cũng nên nhớ rằng, các dạng
sống đã nhập cư vào những nước mới, thường không có quan hệ họ hàng gần gũi với
các loài sinh vật bản địa, song là những loài hết sức riêng biệt của một giống
riêng, chiếm một tỷ lệ lớn trong rất nhiều trường hợp, như Alph De Candolle đã
chỉ ra. Tại quần đảo Galapagos, rất nhiều loài, thậm chí các loài chim, mặc dù
đã thích nghi tốt với điều kiện sống liên tục bay từ hòn đảo nọ sang hòn đảo
kia, song vẫn hoàn toàn khác nhau; vì vậy, ở đó có 3 loài chim nhại tiếng có
quan hệ họ hàng gần gũi, mỗi loài chỉ sinh sống trên một hòn đảo của riêng nó.
Bây giờ hãy giả sử rằng, loài chim nhạn của đảo Chatham bị gió mang đến đảo
Charles, nơi cũng có một loài chim nhạn riêng: nếu như vậy, tại sao loài chim
này lại có thể phát triển được ở đây? Chúng ta có thể suy luận rằng, trên đảo
Charles đã có đầy những loài riêng biệt của mình, vì mỗi năm, số trứng được
sinh ra là rất lớn và các loài trên đảo Charles có chung những đặc điểm giống
như trên đảo Chatham. Ngài c. Lyell và ông Wollaston đã nói chuyện với tôi về một
sự kiện nổi bật về chủ đề này, cụ thể là: Madeira và hòn đảo nhỏ Porto Santo tiếp
giáp với Madeira có rất nhiều lòài giáp xác trên cạn đặc hữu song mang tính đại
diện, một số sống trong những khe đá; và mặc dù có rất nhiều đá hàng năm được vận
chuyển từ Porto Santo đến Madeira, song các loài của đảo Porto Santo vẫn chưa
xâm chiếm đảo Madeira; tuy nhiên, cả hai hòn đảo đều có một số loài giáp xác của
châu âu. Những loài này rõ ràng có lợi thế so với các loài bản địa. Từ các cân
nhắc này, tôi nghĩ rằng chúng ta không cần phải quá ngạc nhiên về vấn đề tại
sao các loài đại diện và các loài đặc hữu cư trú ở các hòn đảo trong quần đảo Galapagos
lại không phát triển rộng khắp từ đảo này sang đảo khác. Trong nhiều trường hợp
khác, giống như các vùng trên cùng một lục địa, cần phải đặc biệt quan tâm đến
việc kiểm tra sự tương đồng của các loài trong cùng một điều kiện sống. Vì vậy,
mặc dù các vùng đông nam và tây nam của úc có cùng điều kiện tự nhiên,và lại được
hợp thành một khối nhờ đất liền liên tục, song chúng vẫn có vô số các loài thực
vật, chim và động vật có vú đặc hữu.
Những nguyên lý quy định tính chất chung của quần thể động vật và quần thể thực vật trên các đảo đại dương có thể được áp dụng trên diện rộng lớn nhất. Nguyên lý đó chính là những sinh vật khi không giống nhau hoàn toàn, nhưng rõ ràng có quan hệ với những sinh vật ngụ cư vùng mà từ đó những sinh vật xâm chiếm lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện - những kẻ xâm chiếm này sau đó biến đổi theo chiều hướng tích cực và trở nên thích nghi hơn với nơi ở mới của chúng. Chúng ta nhìn thấy nó trên tất cả các ngọn núi. ở trên tất cả các hồ và trong tất cả các đầm lầy. Đối với loài sống ở núi Alpơ, trừ ra trong những dạng thực vật 'ương tự nhau cho đến nay, chủ yếu là cây cối, đã lan rộng xhăp thế giới trong kỷ nguyên Băng hà, có mối quan hệ với những cây cối bao mọc trên vùng đất thấp lân cận; do vậy ở vùng Nam Mỹ có các con chim bắt ruồi Alpơ, loài gặm nhấm Alpơ, các cây cối Alpơ... tất cả đều là dạng của nước Mỹ; và hiển nhiên là một quả núi khi đang trong quá trình trồi chậm chạp lên thì một cách tự nhiên những sinh vật từ các vùng đồng bằng xung quanh sẽ chiếm cứ quả núi đó. Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với các sinh vật sống ở hồ và đầm lầy, chỉ trừ ra một điều là những phưomg thức giúp vận chuyển dễ dàng đã góp phần thúc đẩy sự lan tỏa rộng khắp của cùng những hình thái như nhau trên nhiều nơi của trái đất. Những đặc tính của đa số các động vật mù sống trong hang vùng châu Mỹ và châu âu, và nhiều trường hợp tương tự khác cung cấp các thí dụ cho sự áp dụng của cùng nguyên lý ấy. Khi mà trong hai vùng, dù ở cách xa nhau thế nào đi chăng nữa, người ta bao giờ cũng gặp những dạng loài rất giống nhau hay tiêu biểu; bất cứ ở đâu khi con người bắt gặp những loài có quan hệ gần gũi với nhau, thì họ cũng thấy ở đấy có nhiều hình thái mà một số nhà tự nhiên học coi là những loài khác biệt và những nhà tự nhiên học khác lại coi chúng là biến thể; đó là hai điểm mà theo tôi là không thể chối cãi được; vậy mà các loại hình mập mờ đó lại chứa đựng những bước chuyển tiếp trong qua trình tiến hóa dần dần chậm chạp.
Người ta có thể chứng minh bằng cách này hay cách khác mối quan hệ giữa sức manh và tầm di cư của một loài, hoặc là tại thời điểm hiện tại hoặc là ở một thời điểm trước đó trong các điều kiện sống thay đổi; và sự tồn tại một loài họ hàng với chúng ở một nơi xa xôi nào đó trên quả đất này. Ông Gould cách đây đã lâu nói với tôi rằng trong những chi họ chim mà trải rộng khẳp thế giới, rất nhiều loài trong số chúng có tầm hoạt động rất rộng. Tôi cho rằng quy luật này nói chung là đúng, mặc dù rất khó để có thể chứng minh. Trong số các loài động vật có vú, chúng ta chứng kiến điều này được thể hiện hết sức rõ nét ở những con dơi, và ở mức độ thấp hơn là ở Felidae và Calnidae. Chúng ta sẽ nhận ra nó nếu đem so sánh những con bướm và con bọ cánh cứng. Và cũng như vậy đối với đa số sinh vật nước ngọt, mà vô số chi của chúng xuất hiện khắp trên thế giới, cũng như rất nhiều cá thể có tầm hoạt động rất lớn. Điều này không có nghĩa là trong thế giới của những chi tầm xa, tất cả các loài đều có tầm hoạt động rộng, và thậm chí là chúng có mức độ rộng trung bình mà chỉ có thể là vài loài lan rất rộng; vì những sự hỗ trợ mà nhờ đó các loài tầm rộng biến đổi và tạo ra những dạng thức mới sẽ chủ yếu quyết định tầm trung bình của chúng. Chẳng hạn hai biến thể của cùng một loài cư ngụ ở châu âu và châu Mỹ, và như thế tức là loài này có tầm hoạt động cực xa; nhưng nếu sự biến đổi mạnh hơn rnột chút, thì hai biến thể này đã có thể được xếp vào dạng loài, và tầm hoạt động chung do vậy sẽ bị giảm đáng kể. Nó vẫn còn hàm chứa một điều, mặc dù ít rõ ràng, là nếu một loài có khả năng vượt qua các rào cản dễ dàng và xuất hiện nhiều nơi, chẳng hạn như trường hợp của những con chim có đôi cánh khỏe mạnh, nhất định sẽ có tầm hoạt động lớn vì chúng ta không nên quên để có tầm hoạt động rộng không chỉ hàm ý sức mạnh đê vượt qua các chưởng ngại vật, mà quan trọng hơn đó là sức mạnh để chiến thắng trong cuộc đấu tranh sinh tồn với những kẻ cạnh tranh trên những vùng đất xa xôi. Nhưng khi đứng trên quan điểm tất cả các sinh vật đều bắt nguồn từ một cặp cha mẹ chung duy nhất, mặc dù bất giờ đã bị mang đến những điểm hẻo lánh nhất của trái đất, chúng ta phải tìm thấy và đó là quy luật chung cho thấy ít nhất vài loài có tầm hoat động rất rộng; vì nó là cần thiết cá thể gốc không biến đoi phân bố rộng khắp, trải qua sự biến chuyển trong quá trình phát tán, và đã sống trong nhưng trong điều kiện đa dạng phong phú thích hợp cho việc chuyển đổi con cháu của chúng, đầu tiên thành các biến thể mói và cuối cùng thành loài mới.
Khi xem xét sự phân bố rộng lớn của một số chi nhất định, chúng ta nên luôn nhớ một số chi là cực kỳ co đại, và chắc đã phải tách nhánh khỏi bố mẹ chung tại một thời điểm xa xưa; để cho trong những trường hợp như thế, có vô khối thời gian cho những thay đổi khi hậu và địa chất mạnh mẽ và cho những tai nạn trong quá trình vận chuyên; kết quả là đối với sự di trú của một vài loài tới tất các vùng trên thế giới, những nơi mà chúng có thể đã bị sửa đổi ít theo mối quan hệ của nó với điều kiện mới của chúng. Chủng ta cũng có vài lý do để tin rằng, dựa vào các bằng chứng địa chất học rằng những sinh vật bé trong mỗi lớp lớn; thông thường thay đổi với tốc độ chậm hơn so với dạng thức cao hơn; và kết quả là các dạng thức thấp hơn có cơ hội tốt hơn để lan tỏa rộng mà vẫn giữa lại được đặc điểm cụ thể tương tự. Thực tế này, cùng với hạt giống và trứng của nhiều dạng thức thấp rất bé và thích nghi tốt hơn cho sự vận chuyển đi xa có lẽ sẽ giải thích cho một quy luật mà lâu nay con người đã quan sát thấy và sau này được ông Alph de Candolle thảo luận đặc biệt liên quan đến cây cối, tức là bất cứ nhóm sinh vật nào càng thấp thì chúng càng dễ dàng lan tỏa rộng.
Mối quan hệ mà chúng ta vừa mới bàn tới - Các sinh vật thấp và chậm biến đổi trải khắp rộng lớn hơn các sinh vật cao; vài loài thuộc chi có tầm hoạt động rộng bản thân chúng là hoạt động rộng; những thực tế như các sinh vật sống trên núi cao, ở hồ và trên đầm lầy có liên hệ (với những ngoại lệ trước đó đã nêu ra) với những cá thể sổng tại vùng đất thấp và khô xung quanh, mặc dù điều kiện của những vùng đất này là rất khác biệt; mối quan hệ hết sức gần gũi của các loài đặc hữu mà sống trên các đảo thuộc cùng một quần đảo; và nhất là mối quan hệ đáng chú ý của những cư dân của toàn bộ mỗi quần đảo hay đảo với những cá thể trên vùng đất liền gần nhất, theo tôi nghĩ - là không thể giải thích được nếu dựa trên quan điểm hiện tại về sự sáng tạo riêng rẽ mồi loài. Nhưng chúng ta có thể giải thích tốt các mối quan hệ này nếu dựa vào quan điểm về quá trình thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất và sẵn sàng nhất, cùng với biến đổi và sự thích nghi tốt hơn sau này của các cá thể định cư mới với ngôi nhà mới của chúng.
Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước - Trong những chưomg này tôi đã cố gắng chứng minh rằng nếu chúng ta chấp nhận trong chừng mực có thể sự hiểu biết của chúng ta về toàn bộ ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và độ cao vùng đất, mà chắc chắn đã xuất hiện trong giai đoạn gần đây, và của những thay đổi khác mà có lẽ đã xuất hiện trong cùng thời gian đó; nếu chúng ta nhớ là chúng ta rất ít kiến thức về nhiều phương cách kỳ lạ của sự vận chuyển không thuờng xuyên - một chủ đề mà từ trước tới nay vẫn chưa được kiểm chứng nghiêm túc; nếu chúng ta không quên là một loài có thể đã thường hay trải khắp liên tục trên một khu vực rộng lớn, và sau đó bị tuyệt chủng trong những miền đất trung gian thì tôi nghĩ khó để tin rằng tất cả các cá thể thuộc cùng một loài, cho dù ở nơi đâu, là con của cùng cha mẹ, là không thể không giải thích được. Và chúng ta đi tới kết luận này, mà nhiều nhà tự nhiên học đã rút ra trong sự chỉ định của những trung tâm đơn lẻ của sự sáng tạo, bởi một vài suy xét chung, nhất là từ tầm quan trọng của các rào cản và từ sự phân bố tương đồng của những tiểu chi và họ.
Khi nói đến các loài riêng biệt thuộc cùng một chi, mà theo lý thuết của tôi chúng đã phải trải ra từ một nguồn bố mẹ; nếu như chúng ta trong chừng mực cho phép chấp nhận sự thiểu hiểu biết của mình như trước, và nhớ rằng một vài dạng sống thay đổi chậm nhất, và thời gian chúng di cư là vô cùng dài thì tôi không nghĩ rằng những khó khăn là không thể vượt qua; cho dù những khó khăn đó trong trường hợp này và trường hợp của các cá thê thuộc cùng một loài là rất đáng sợ.
Những nguyên lý quy định tính chất chung của quần thể động vật và quần thể thực vật trên các đảo đại dương có thể được áp dụng trên diện rộng lớn nhất. Nguyên lý đó chính là những sinh vật khi không giống nhau hoàn toàn, nhưng rõ ràng có quan hệ với những sinh vật ngụ cư vùng mà từ đó những sinh vật xâm chiếm lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện - những kẻ xâm chiếm này sau đó biến đổi theo chiều hướng tích cực và trở nên thích nghi hơn với nơi ở mới của chúng. Chúng ta nhìn thấy nó trên tất cả các ngọn núi. ở trên tất cả các hồ và trong tất cả các đầm lầy. Đối với loài sống ở núi Alpơ, trừ ra trong những dạng thực vật 'ương tự nhau cho đến nay, chủ yếu là cây cối, đã lan rộng xhăp thế giới trong kỷ nguyên Băng hà, có mối quan hệ với những cây cối bao mọc trên vùng đất thấp lân cận; do vậy ở vùng Nam Mỹ có các con chim bắt ruồi Alpơ, loài gặm nhấm Alpơ, các cây cối Alpơ... tất cả đều là dạng của nước Mỹ; và hiển nhiên là một quả núi khi đang trong quá trình trồi chậm chạp lên thì một cách tự nhiên những sinh vật từ các vùng đồng bằng xung quanh sẽ chiếm cứ quả núi đó. Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với các sinh vật sống ở hồ và đầm lầy, chỉ trừ ra một điều là những phưomg thức giúp vận chuyển dễ dàng đã góp phần thúc đẩy sự lan tỏa rộng khắp của cùng những hình thái như nhau trên nhiều nơi của trái đất. Những đặc tính của đa số các động vật mù sống trong hang vùng châu Mỹ và châu âu, và nhiều trường hợp tương tự khác cung cấp các thí dụ cho sự áp dụng của cùng nguyên lý ấy. Khi mà trong hai vùng, dù ở cách xa nhau thế nào đi chăng nữa, người ta bao giờ cũng gặp những dạng loài rất giống nhau hay tiêu biểu; bất cứ ở đâu khi con người bắt gặp những loài có quan hệ gần gũi với nhau, thì họ cũng thấy ở đấy có nhiều hình thái mà một số nhà tự nhiên học coi là những loài khác biệt và những nhà tự nhiên học khác lại coi chúng là biến thể; đó là hai điểm mà theo tôi là không thể chối cãi được; vậy mà các loại hình mập mờ đó lại chứa đựng những bước chuyển tiếp trong qua trình tiến hóa dần dần chậm chạp.
Người ta có thể chứng minh bằng cách này hay cách khác mối quan hệ giữa sức manh và tầm di cư của một loài, hoặc là tại thời điểm hiện tại hoặc là ở một thời điểm trước đó trong các điều kiện sống thay đổi; và sự tồn tại một loài họ hàng với chúng ở một nơi xa xôi nào đó trên quả đất này. Ông Gould cách đây đã lâu nói với tôi rằng trong những chi họ chim mà trải rộng khẳp thế giới, rất nhiều loài trong số chúng có tầm hoạt động rất rộng. Tôi cho rằng quy luật này nói chung là đúng, mặc dù rất khó để có thể chứng minh. Trong số các loài động vật có vú, chúng ta chứng kiến điều này được thể hiện hết sức rõ nét ở những con dơi, và ở mức độ thấp hơn là ở Felidae và Calnidae. Chúng ta sẽ nhận ra nó nếu đem so sánh những con bướm và con bọ cánh cứng. Và cũng như vậy đối với đa số sinh vật nước ngọt, mà vô số chi của chúng xuất hiện khắp trên thế giới, cũng như rất nhiều cá thể có tầm hoạt động rất lớn. Điều này không có nghĩa là trong thế giới của những chi tầm xa, tất cả các loài đều có tầm hoạt động rộng, và thậm chí là chúng có mức độ rộng trung bình mà chỉ có thể là vài loài lan rất rộng; vì những sự hỗ trợ mà nhờ đó các loài tầm rộng biến đổi và tạo ra những dạng thức mới sẽ chủ yếu quyết định tầm trung bình của chúng. Chẳng hạn hai biến thể của cùng một loài cư ngụ ở châu âu và châu Mỹ, và như thế tức là loài này có tầm hoạt động cực xa; nhưng nếu sự biến đổi mạnh hơn rnột chút, thì hai biến thể này đã có thể được xếp vào dạng loài, và tầm hoạt động chung do vậy sẽ bị giảm đáng kể. Nó vẫn còn hàm chứa một điều, mặc dù ít rõ ràng, là nếu một loài có khả năng vượt qua các rào cản dễ dàng và xuất hiện nhiều nơi, chẳng hạn như trường hợp của những con chim có đôi cánh khỏe mạnh, nhất định sẽ có tầm hoạt động lớn vì chúng ta không nên quên để có tầm hoạt động rộng không chỉ hàm ý sức mạnh đê vượt qua các chưởng ngại vật, mà quan trọng hơn đó là sức mạnh để chiến thắng trong cuộc đấu tranh sinh tồn với những kẻ cạnh tranh trên những vùng đất xa xôi. Nhưng khi đứng trên quan điểm tất cả các sinh vật đều bắt nguồn từ một cặp cha mẹ chung duy nhất, mặc dù bất giờ đã bị mang đến những điểm hẻo lánh nhất của trái đất, chúng ta phải tìm thấy và đó là quy luật chung cho thấy ít nhất vài loài có tầm hoat động rất rộng; vì nó là cần thiết cá thể gốc không biến đoi phân bố rộng khắp, trải qua sự biến chuyển trong quá trình phát tán, và đã sống trong nhưng trong điều kiện đa dạng phong phú thích hợp cho việc chuyển đổi con cháu của chúng, đầu tiên thành các biến thể mói và cuối cùng thành loài mới.
Khi xem xét sự phân bố rộng lớn của một số chi nhất định, chúng ta nên luôn nhớ một số chi là cực kỳ co đại, và chắc đã phải tách nhánh khỏi bố mẹ chung tại một thời điểm xa xưa; để cho trong những trường hợp như thế, có vô khối thời gian cho những thay đổi khi hậu và địa chất mạnh mẽ và cho những tai nạn trong quá trình vận chuyên; kết quả là đối với sự di trú của một vài loài tới tất các vùng trên thế giới, những nơi mà chúng có thể đã bị sửa đổi ít theo mối quan hệ của nó với điều kiện mới của chúng. Chủng ta cũng có vài lý do để tin rằng, dựa vào các bằng chứng địa chất học rằng những sinh vật bé trong mỗi lớp lớn; thông thường thay đổi với tốc độ chậm hơn so với dạng thức cao hơn; và kết quả là các dạng thức thấp hơn có cơ hội tốt hơn để lan tỏa rộng mà vẫn giữa lại được đặc điểm cụ thể tương tự. Thực tế này, cùng với hạt giống và trứng của nhiều dạng thức thấp rất bé và thích nghi tốt hơn cho sự vận chuyển đi xa có lẽ sẽ giải thích cho một quy luật mà lâu nay con người đã quan sát thấy và sau này được ông Alph de Candolle thảo luận đặc biệt liên quan đến cây cối, tức là bất cứ nhóm sinh vật nào càng thấp thì chúng càng dễ dàng lan tỏa rộng.
Mối quan hệ mà chúng ta vừa mới bàn tới - Các sinh vật thấp và chậm biến đổi trải khắp rộng lớn hơn các sinh vật cao; vài loài thuộc chi có tầm hoạt động rộng bản thân chúng là hoạt động rộng; những thực tế như các sinh vật sống trên núi cao, ở hồ và trên đầm lầy có liên hệ (với những ngoại lệ trước đó đã nêu ra) với những cá thể sổng tại vùng đất thấp và khô xung quanh, mặc dù điều kiện của những vùng đất này là rất khác biệt; mối quan hệ hết sức gần gũi của các loài đặc hữu mà sống trên các đảo thuộc cùng một quần đảo; và nhất là mối quan hệ đáng chú ý của những cư dân của toàn bộ mỗi quần đảo hay đảo với những cá thể trên vùng đất liền gần nhất, theo tôi nghĩ - là không thể giải thích được nếu dựa trên quan điểm hiện tại về sự sáng tạo riêng rẽ mồi loài. Nhưng chúng ta có thể giải thích tốt các mối quan hệ này nếu dựa vào quan điểm về quá trình thuộc địa hóa từ nguồn gần nhất và sẵn sàng nhất, cùng với biến đổi và sự thích nghi tốt hơn sau này của các cá thể định cư mới với ngôi nhà mới của chúng.
Tóm tắt chương hiện tại và các chương trước - Trong những chưomg này tôi đã cố gắng chứng minh rằng nếu chúng ta chấp nhận trong chừng mực có thể sự hiểu biết của chúng ta về toàn bộ ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và độ cao vùng đất, mà chắc chắn đã xuất hiện trong giai đoạn gần đây, và của những thay đổi khác mà có lẽ đã xuất hiện trong cùng thời gian đó; nếu chúng ta nhớ là chúng ta rất ít kiến thức về nhiều phương cách kỳ lạ của sự vận chuyển không thuờng xuyên - một chủ đề mà từ trước tới nay vẫn chưa được kiểm chứng nghiêm túc; nếu chúng ta không quên là một loài có thể đã thường hay trải khắp liên tục trên một khu vực rộng lớn, và sau đó bị tuyệt chủng trong những miền đất trung gian thì tôi nghĩ khó để tin rằng tất cả các cá thể thuộc cùng một loài, cho dù ở nơi đâu, là con của cùng cha mẹ, là không thể không giải thích được. Và chúng ta đi tới kết luận này, mà nhiều nhà tự nhiên học đã rút ra trong sự chỉ định của những trung tâm đơn lẻ của sự sáng tạo, bởi một vài suy xét chung, nhất là từ tầm quan trọng của các rào cản và từ sự phân bố tương đồng của những tiểu chi và họ.
Khi nói đến các loài riêng biệt thuộc cùng một chi, mà theo lý thuết của tôi chúng đã phải trải ra từ một nguồn bố mẹ; nếu như chúng ta trong chừng mực cho phép chấp nhận sự thiểu hiểu biết của mình như trước, và nhớ rằng một vài dạng sống thay đổi chậm nhất, và thời gian chúng di cư là vô cùng dài thì tôi không nghĩ rằng những khó khăn là không thể vượt qua; cho dù những khó khăn đó trong trường hợp này và trường hợp của các cá thê thuộc cùng một loài là rất đáng sợ.
Khi đưa ra ví dụ minh họa về các ảnh hưởng của thay đổi khí hậu đến sự phân bố,
tôi đã cố thử nêu ra tầm quan trọng vô cùng của ảnh hưởng của kỷ Băng hà, mà
tôi hoàn toàn tin rằng nó đã ảnh hưởng cùng lúc tới toàn bộ trái đất hay ít nhất
là tới vành đai phía nam. Như chúng ta đã thấy, phương cách vận chuyển không
thường xuyên đa dạng như thế nào, tôi đã thảo luận khá dài về phương cách phân
tán các sinh vật nước ngọt. Nếu như những khó khăn không phải là không thể vượt
qua trong việc thừa nhận theo thời gian dài các cá thể của cùng một loài, và
tương tự như thế của các loài họ hàng, đã phát triển từ cùng một nguồn; thì tôi
nghĩ tất cả các thực tế quan trọng nhất của sự phân bố địa lý có thể giải thích
được dựa vào lý thuyết về sự di cư (thông thường của nhiều dạng thức sống nổi
trội hơn), cùng với sự biến đổi và nhân bản các dạng sống mới sau đó. Chúng ta
nhờ đó có thể hiểu được tầm quan trọng đặc biệt của những rào cản, là nước hay
đất liền, mà cách ly vài thảm động vật và thực vật. Chúng ta nhờ đó có thể hiểu
sự địa phương hóa của những tiểu chi, chi và họ; và như thế nào mà ở những độ
cao khác nhau, chẳng hạn như vùng Nam Mỹ, các sinh vật sống trên đồng bằng và
cao nguyên, trong rừng, hồ và trên đầm lầy, sa mạc lại liên hệ một cách vô cùng
bí hiểm với các thực thể tuyệt chủng mà trước đó đã cư ngụ trên cùng một lục địa
. Khi nhớ là mối quan hệ tương tác của các sinh vật là quan trọng nhất, chúng
ta có thể hiểu tại sao hai vùng cỏ điều kiện tự nhiên gần như giống nhau lại
thường có những dạng sống rất khác nhau tồn tại trên đó; bởi vì theo dòng thời
gian kể từ khi các sinh vật mới tới một vùng; theo bản năng tự nhiên cho phép
những dạng nhất định nhưng không cho phép những dạng khác xâm nhập vào với số
lượng ít hoặc nhiều. Đúng hay không những sinh vật xâm nhập vào lại phải ít nhiều
cạnh tranh trực tiếp với nhau và với sinh vật bản địa; và tùy thuộc vào khả
năng của những sinh vật di cư biến đổi ít hay nhiều, có thể xảy ra trong các
vùng khác nhau, độc lập về điều kiện tự nhiên, những điều kiện sống vô cùng đa
dạng - có thể có vô số những tác động và phản ứng hữu cơ - chúng ta phải tìm thấy,
như chúng ta đã tìm thấy, một số nhóm các cơ thể sống thay đổi rất nhiều và
nhóm khác lại thay đổi rất ít - một số phát triển vô cùng mạnh mẽ, một số cực kỳ
ít ỏi - trong những vùng địa lý rất khác biệt trên thế giới.
Dựa vào chính những
nguyên lý này, chúng ta có thể hiểu, như tôi đã cố gắng chứng minh, tại sao các
đảo ngoài đại dương lại chỉ có ít sinh vật tồn tại nhưng đa phần chúng là có
tính chất địa phương và đặc biệt; và tại sao, trong mối quan hệ với phương cách
di cư, một nhóm cơ thế sống, thậm chí trong cùng một lớp, toàn bộ loài của nó lại
có tính địa phương cục bộ, và các loài của nhóm khác lại phổ biến trên các vùng
khác của thế giới. Chúng ta có thể thấy tại sao toàn bộ nhóm của các sinh vật,
như các động vật có vú trên cạn và dạng ếch nhái, lại vang mặt trên các đảo đại
dương, trong khi những hòn đảo cách ly nhất lại có những loài động vật có vú
bay được kỳ lạ của riêng chúng hay các con dơi. Chúng ta có thể hiểu tại sao phải
có những mối quan hệ nhất định giữa sự xuất hiện của các động vật có vú, trong
điều kiện biến đổi ít hay nhiều, với độ sâu của vùng biển giữa một hòn đảo và đẩt
liền. Chúng ta có thể hiểu rõ tại sao tất cả các cư dân trên một quần đảo, mặc
dù tồn tại trên các hòn đảo khác biệt, lại có moi quan hệ gần gũi với nhau, và
tương tự vậy, có quan hệ nhưng kém gần gũi hơn với những sinh vật sống ở lục địa
gẩn nhất hay từ các nguồn khác mà từ đó những sinh vật di cư bất nguồn. Chúng
ta có thể hiểu tại sao trong hai khu vực, cho dù cách rất xa nhau, lại có sự
tương tác, trong sự xuất hiện của các loài giống nhau, giữa các biến thể, giữa
các loài đang bị nghi ngờ, và giữa những loài đặc hữu và điển hình.
Như ông
Edward Forbes khi còn sống thường khăng định là có một sự tương đồng trong các
quy luật cúa sự sống khắp không gian và thời gian: các quy luật điều chính sự kế
thừa của các dạng thức trong quá khứ gần giống như những quy luật điều chỉnh
trong gian đoạn hiện tại nhưng khác biệt trong những khu vực khác nhau. Chúng
ta nhìn thấy nó trong nhiều thực tế. Sự tồn tại của mỗi loài và nhóm loài là
liên tục theo thời gian; vì ngoại lệ đối với quy luật này ít đến mức mà chúng
được coi là do chúng ta chưa phát hiện ra trong các dạng trung gian ở đây,
nhưng xuất hiện trước và sau: tương tự như thế trong không gian, một quy luật
chung là khu vực chỉ có một loài duy nhất sinh sống, hay một nhóm loài, là liên
tục; và những ngoại lệ, không phải là hiếm, như tôi đã cố thử làm rõ, được giải
thích nhờ vào sự di cư tại một giai đoạn nào trước đó trong các điều kiện khác
nhau hoặc nhờ vào các phương cách vận chuyển đặc biệt, và nhờ vào những loài đã
bị tuyệt chủng trên vùng đất trung gian. Xét cả về mặt không gian và thời gian,
loài và nhóm loài có các điểm mà tại đó chúng phát triển mạnh nhất. Nhóm loài,
thuộc về hoặc là một giai đoạn thời gian nhất định, hay vào một khu vực nhất định,
thường hay có những đặc điểm tiểu biểu là các đặc điểm không quan trọng, như là
màu sắc của đường vân. Khi xét tới các giai đoạn kế thế thừa lâu dài, như là
xét đến các vùng xa xôi trên khắp thế giới, chúng ta nhận thấy vài sinh vật
khác biệt ít, trong khi đó những sinh vật thuộc về một lớp khác, hay một bộ
khác, hay thậm chí chỉ thuộc về một họ khác của cùng bộ, lại khác nhau rất nhiều.
Trong cả không gian và thời gian những thành viên thấp hơn của mỗi lớp thường
thay đổi ít hơn là những thành viên cao hơn; nhưng trong cả hai trường hợp đều
cỏ ngoại lệ đáng chú ý. Đứng trên quan điểm của tôi thì những mối quan hệ này
trên khắp không gian và thời gian là có thể giải thích được; vì cho dù chúng ta
nhìn vào các dạng thức sống thay đổi qua các thế hệ kế tiếp nhau trên cùng một
khu vực của thế giới, hay nhìn vào những dạng có sự thay đổi sau khi di cư tới
những vùng đất xa xôi, trong cả hai trường hợp các dạng trong mồi lớp đã liên kết
với nhau bởi sự ràng buộc của thế hệ thống thường; và nếu hai dạng thức càng gần
nhau về huyết thống, thì chúng càng gần nhau hơn theo thời gian và không gian;
trong cả hai trường hợp, các quy luật của sự biến đổi là như nhau, và các sự chỉnh
sửa đã được tích tụ bởi cùng sức mạnh của sự lựa chọn tự nhiên.
CHƯƠNG XIII
SỰ TƯƠNG ĐỒNG LẪN NHAU CỦA CÁC THỂ HỮU CƠ
HÌNH THÁI HỌC: PHÔI SINH HỌC: CÁC CƠ QUAN BAN ĐẦU
Sự phân loại, các nhóm nhỏ trong các nhóm sinh vật - Các quy luật của hệ thống tự nhiên và những khó khăn trong việc phân loại, giải thích theo lý thuyết di truyền cùng với tiến hoá- Sự phân loại các biến dị - Di truyền thường được sử dụng trong phân loại - Các đặc tính tương đồng hoặc được chấp nhận - Các liên kết chung, phức tạp và phân kỳ - Các nhóm tuyệt chủng riêng biệt - Hình thái học giữa các thành viên trong cùng một lớp, giữa các bộ phận trong một cá thể - Phôi sinh học, quy luật của nó giải thích bởi việc các biến dị xuất hiện khi sinh vật còn nhỏ, và được thừa kế vào cùng độ tuổi tương đồng - Các cơ quan sơ khai và giải thích nguồn gốc của chúng - Tóm tắt Từ thuở ban đầu của sự sống, tất cả các thể hữu cơ giống nhau về mức độ di truyền các độ, do đó chúng có thể được xếp vào các nhóm nhỏ trong các nhóm. Sự phân loại này rõ ràng không giống nhóm lại các ngôi sao trong các chòm sao. Sự tồn tại của các nhóm có của ý nghĩa đơn giản, nếu một nhóm chỉ phù hợp với cuộc sống trên mặt đất, và nhóm khác lại chỉ sống trong nước; một nhóm ăn thịt, nhóm khác lại chỉ ăn rau quan trọng, vân vân; các trường họp rất khác nhau trong tự nhiên; cho mọi người đều biết rằng các thành viên trong cùng một nhóm con cũng có các thói quen khác nhau. Trong chương II và chương IV về Biến dị và Quá trình chọn lọc tự nhiên, tôi đã thử chứng minh biến dị, rộng lớn và phố biến của các loài thuộc các chủng lớn. Các biến dị, hoặc phôi thai của các loài, sau đó tiến hoá lên thành các loài khác và mới; và các loài đó, theo nguyên tác về thừa kế, có xu hướng tạo ra các loài trội và mới khác. Và các nhóm lớn, mà nói chung thường bao gồm nhiều loài trội, sẽ tăng thêm vô tận. Tôi cũng đã thử chứng minh biến dị và thống trị của con cháu các loài đó trong tự nhiên, có một xu hướng các đặc tính không thay đổi trong của họ sẽ được phân tán rộng rãi. Kết luận này còn được hỗ trợ bởi ý kiến về tính đa dạng lớn của các sinh vật, trong bất kỳ vùng nhỏ nào, tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt nhất bằng cách nhìn vào các dẫn chứng nhất định của quá trình tự nhiên hoá.
Tôi cũng đã cố gắng chỉ ra rằng có một xu hướng không thay đổi là các loài đang ngày càng tăng về số lượng và các đặc tính được phân tán rộng, tiêu diệt và thay thế các loài ít nổi bật hơn, ít tiến hoá hơn, và các loài ban đầu. Người đọc có thể xem lại sơ đồ minh họa hoạt động, như đã giải thích, của các nguyên lý này; và anh ta sẽ thấy kết quả tất yếu là sự biến đổi trong các thế hệ con cháu, từ một tổ tiên trở thành nhiều nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Trong sơ đồ mỗi chữ cái trên hàng trên cùng có thể đại diện cho một giống bao gồm vài loài; và tất cả chủng trên hàng này cùng nhau tạo thành một lớp, và vì tất cả đều từ một cha mẹ cổ xưa nên đều có cái gì đó chung. Nhưng ba chủng trên ở phía bên trái, cũng theo nguyên tắc này, có nhiều điểm chung, và tạo ra một mức dưới nữa -họ, chi khác với hai chủng tiếp theo bên tay phải, cũng rẽ ra từ một cha mẹ chung ở giai đoạn (thứ) năm của chuỗi quan hệ. Năm chủng này, có thể nhiều hoặc ít hơn, có các điểm chung; và chúng hình thành họ khác gồm ba chủng nữa ở phía tay phải, vốn đã rẽ nhánh từ trước. Tất cả các chủng này, xuất phát từ một loài (A) và khác hẳn so với loài (I). Như vậy có nhiều loài cùng có chung một tổ tiên duy nhất được nhóm lại vào trong chủng; và chủng bao gồm nhiều chi, họ, bộ ... tất cả gọi chung là một lớp. Nhờ vậy, các dẫn chứng quan trọng trong lịch sử tự nhiên về sự lệ thuộc của nhóm nhỏ với nhóm lại không phải lúc nào cũng khiến chúng ta bất ngờ, nếu theo giải thích của tôi.
Các nhà tự nhiên học đã cố gắng xếp các loài, chủng, họ, chi trong mỗi lớp, trong cái gì được gọi là Hệ thong tự nhiên. Nhưng hệ thống này mang ý nghĩa gì? Một vài tác giả xem nó đơn thuần chỉ là một sơ đồ sắp xếp các đối tượng sống mà đa số là giống nhau, và từ đó phân ra các đối tượng phần lớn là không giống; hoặc nói một cách tóm tắt, là các mệnh đề chung, trong đó gồm các câu có một đặc tính chung, ví dụ, tất cả các động vật có vú khác với động vật ăn thịt, giữa loài chó thường và chó giống, và sau đó bàng việc thêm một câu đơn, sẽ mô tả đầy đủ các đặc tính của mỗi loại chó. Sự linh hoạt và hữu ích của hệ thống này là không thể bàn cãi. Nhưng nhiều nhà tự nhiên học nghĩ rằng Hệ thống Tự nhiên còn có nhiều ý nghĩa hơn thế; họ tin rằng hệ thống này sẽ giúp hé mở các kế hoạch của Thượng đế; nhưng không xác định cách sắp đặt về thời gian và không gian, hoặc thực vật cso ý nghĩa thế nào trong kế hoạch của Thượng đế, đối với tôi các điều này không mấy ý nghĩa trong việc tích lũy kiến thức.
Các cách diễn giải ấy là của ông Linnaeus, và chúng ta thường bắt gặp một hai nhiều dạng ẩn có các đặc tính không tạo nên giống mà là được hưởng các đặc tính của một giống, cho thấy các cá thể trong các nhóm phân ra không giống nhau hoàn toàn, chúng chỉ có các điểm chung mà thôi. Tôi tin rằng nó còn hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn; sự gần gũi đó của các thế hệ con cháu, điều duy nhất được biết là nguyên nhân của sự giống nhau của các thể hữu cơ, là mối ràng buộc ẩn do có nhiều cấp độ tiến hoá mà phần nào đã để lộ ra sự phân loại.
Chúng ta sẽ xem xét các quy luật theo sau sự phân loại, và các khó khăn của quan điểm rằng sự phân loại không chỉ giúp chúng ta biết những kế hoạch bí mật cúa tạo vật mà còn là một sơ đồ trong đó đặt các mệnh đề chung và các câu vào thành các nhóm tương tự nhau. Người ta có thể nghĩ rằng (giống như trong thời cổ đại), các bộ phận của cấu trúc quyết định các thói quen của cuộc sống, và vị trí của mỗi thế hữu cơ trong tự nhiên là điều quan trọng rất cao trong sự phân loại. Điều này hoàn toàn đúng. Không ai chú ý đến sự giống nhau bề ngoài của một con chuột cống và một con chuột chù, của con cá nược và con cá voi, của con cá voi và các loài cá khác. Tuy nhiên sự giống nhau này có quan hệ mật thiết tới toàn bộ cuộc sống của thể hữu cơ, vẫn chỉ đơn giản được xếp là “Những đặc tỉnh đơn thuần được chấp nhận hoặc các đặc tính tương tự”; Nhưng nếu xem xét các giống nhau này chúng ta sẽ phải suy nghĩ lại. Nó có thể thậm chí đã trở thành một quy luật chung, rằng nếu bất cứ nào trong một tổ chức có một thói quen đặc biệt, nó sẽ tạo ra sự phân loại. Ví dụ : ông Owen, khi nói chuyện về cá nược, đã nói: “Các cơ quan khả năng sinh sản thường có liên quan tới các thói quen và thức ăn của một động vật, tôi đã rất chú ý về mối quan hệ này. Chúng thường cho rằng những biến đổi của cơ quan này đơn thuần chỉ là để có một đặc tính cần thiết nào đỏ”. Như vậy với các thực vật, điều đáng chú ý là cơ quan của cây cỏ, mà toàn bộ cuộc sống của chúng phụ thuộc vào đó, có ý nghĩa rất nhỏ bé, trong khi các cơ quan sinh sản, với sản phẩm là các hạt giống, lại là quan trọng nhất!
Do đó, trong việc phân loại, chúng ta không được chỉ tin vào sự giống nhau của các bộ phận bên trong, dù chúng có quan trọng như thế nào đối với thế giới bên ngoài. Có lẽ từ nguyên nhân này mà gần như tất cả các nhà tự nhiên học đã nhấn mạnh nhiều nhất vào sự giống nhau giữa các cơ thể có tầm quan trọng sống còn hoặc về sinh lý học cao. Rõ ràng quan điếm này có sự quan trọng của các cơ quan trong phân loại là chung nhất, nhưng không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Tầm quan trọng của chúng trong sự phân loại, tôi tin rằng, phụ thuộc vào tính không thay đổi của chúng trong tất cả các nhóm của các loài; và sự không thay đổi này phụ thuộc vào các cơ quan ít thay đổi trong quá thích nghi của các loài với các điêu kiện sông. Chỉ có tầm quan trọng sinh lý học của một cơ quan là không có giá trị xác định trong sự phân loại, có thể thấy rõ qua dẫn chứng duy nhất đó là trong các nhóm liên quan, ở cùng một cơ quan, chúng ta có lý do để giả sử rằng, có cùng giá trị sinh lý học, giá trị phân loại của nó lại rất khác nhau. Không nhà tự nhiên học nào có thể nghiên cứu với những dẫn chứng này; và nó hoàn toàn được thừa nhận trong các ghi chép của hầu hết các tác giả. Tôi xin trích ra đây câu nói của một nhà tự nhiên học có uy tín nhất, ông Robert Brown, nói về một sổ cơ quan bên trong loài Proteaceae, về tầm quan trọng chung của chúng như sau: “Như tất cả các bộ phận của chúng, không phải chỉ trong trường hợp này, tôi e là trong tất cả các họ đều không bàng nhau, và trong vài trường hợp có vẻ như còn thiếu”. Trong một công trình khác ông nói về chủng Connaraceae: ”Khác nhau trong việc cỏ một hoặc nhiều buồng trứng, có hoặc không có chất albumin. Các đặc tính nào quan trọng hơn nhiều đặc tính về gen, dù tất cả chúng đã đủ giúp ta phân biệt giữa Cnestis và Connarus”. Có thể lấy một ví dụ trong loài sâu bọ, trong nhánh Hymenoptera, Antennae, như Westwood đã nhận xét, đa số là giống nhau trong cấu trúc; những trong các bộ phận khác chúng khác nhau nhiều, và sự khác nhau lại khá phụ thuộc vào sự phân loại; tuy thế không nói rằng mà hai bộ phận này trong antennae có tầm quan trọng sinh lý học không bằng nhau. Bất kỳ ví dụ nào đưa ra cũng cho thấy sự khác nhau về tầm quan trọng trong phân loại cùng một cơ quan quan trọng trong cùng một nhóm của các thê hữu cơ.
Một lần nữa, không ai có thể nói rằng các cơ quan nguyên thuỷ và yếu ớt là các cơ quan có tầm quan trọng sinh lý học hoặc sống còn cao nhất; vậy mà, chắc chắn, các cơ quan trong điều kiện này thường có giá trị cao trong sự phân loại. Không ai có thể bàn cãi rằng những chiếc răng ban đầu trong quai hàm trên của các con thuộc loài nhai lại sơ sinh, hoặc một sổ xương ban đầu nhất định của bàn chân, rất có ích trong việc thể hiện sự tương đồng giữa loài nhai lại và các loài vật da dày. Ông Robert Brown đã cố đưa ra những dẫn chứng rằng hoa nhó sơ khai là quan trọng nhất trong phân loại các loài cỏ.
Nhiều ví dụ có thề đã cho của các đặc tính bắt nguồn từ các phần được xem là có tầm quan trọng sinh lý rất nhỏ, nhưng thường được cho là rất có ích trong việc nhận dạng tất cả các nhóm. Ví dụ, theo Owen, việc có hay không đường thông lỗ mũi đến miệng, là đặc tính duy nhất giúp phân biệt cá và các loài bò sát, giống như độ uốn của góc quai hàm của các thú có túi, cách gấp cánh của các loài sâu bọ, màu của một số loài tảo nhất định, lông tơ của cỏ tự nhiên, các lông chim. Nếu loài Ornithorhynchus chỉ có lông vũ thay vì tóc. đặc điểm bên ngoài rất nhỏ này đã được các nhà tự nhiên học coi là rất quan trọng trong việc xác định độ tương đồng của tạo vật kỳ lạ này với chim và các loài bò sát, như một cách tiếp cận cấu trúc trong bất kỳ một cơ quan quan trọng bên trong nào.
Sự quan trọng, đối với sự phân loại, của các đặc tính bình thường, chủ yếu phụ thuộc vào mối tương quan giữa chúng với các đặc tính khác ít quan trọng hoặc quan trọng hơn. Giá trị thực của tổng thể các đặc tính là rất rõ ràng trong lịch sử tự nhiên. Do đó, như đã nhận xét ở trên, một loài có thể tách khỏi các mối liên kết của nó do một vài đặc tính, của tầm quan trọng về mặt sinh lý học vừa về mức độ phổ biến, và giúp chúng ta không khó khăn gì khi xếp hạng các loài đó. Từ đây, đồng thời, người ta cũng nhận thấy, nếu sự phân loại được thực hiện do bất kỳ đặc tính đơn nào, dù tầm quan trọng của nó ra sao, đều sai lầm; vì không bộ phận nào của các cơ thể lại không thay đổi. Tầm quan trọng của một tổng thế của các đặc tính, thậm chí là không quan trọng, như cách nói của Linnaeus, là các đặc tính đó không tạo ra các giống, nhưững giống có các đặc tính chung; có nghĩa là những điểm chúng đó có thể rất nhỏ. Một số thực vật nhất định, thuộc họ Malpighiaceae, có hoa hoàn hảo; như .lussieu đã từng nói: “Số lượng lợn các tính cách phù hợp với các loài, giống, chủng, họ, chi, và phù hợp với ự phân loại của chúng ta.
Thực tế khi các nhà tự nhiên học nghiên cứu, họ không tự quấy rầy mình về giá trị sinh lý học của các đặc tính mà họ sử dụng để định nghĩa một nhóm, hoặc trong việc phân loại các loài. Nếu họ tìm thấy một đồng dạng gần như đặc tính, và chung cho một số lớn các loài, và không chung cho các loài khác, thì họ sử dụng chúng là đặc tính duy nhất có giá trị cao; còn các đặc tính khác ít chung hơn thì chúng sử dụng nó như giá trị phụi thuộc. Nguyên lý này đã được chấp nhận bởi nhiều nhà tự nhiên học. Nếu một số đặc tính nhất định, tuy luôn được tìm thấy được sự tương quan với các loài khác, dù không phát hiện ra mối ràng buộc hiển nhiên nào, chúng sẽ trở thành giá trị đặc biệt của nhóm. Trong khi trong đa số các nhóm của các động vật, các cơ quan quan trọng, ví dụ như máu... được coi là có ích nhất trong sự phân loại; nhưng trong vài nhóm động vật thì các cơ quan sống còn quan trọng nhất, được phát hiện nhờ các đặc tính của giá trị khá phụ thuộc.
Chúng ta có thể thấy tại sao các đặc tính bắt nguồn từ phôi thai có sự quan trọng bằng với các đặc tính bắt nguồn từ động vật trưởng thành, vì sự phân loại tất nhiên bao gồm tất cả các giai đoạn của mỗi loài. Nhưng nó rõ ràng, dựa trên quan điểm bình thường, tại sao cấu trúc của phôi thai lại quan trọng hơn cấu trúc này của động vật trưởng thành, vì nó đóng vai trò quan trọng trong tự nhiên. Vậy mà các nhà tự nhiên học lớn như Milne Edwards, Agassiz đã cho rằng các đặc tính phôi thai là quan trọng nhất trong bất kỳ sự phân loại động vật nào; và học thuyết này đã được chấp nhận. Cùng dẫn chứng đó cũng đúng với các cây có hoa, trong đó hai đặc tính chính đều bắt nguồn từ phôi thai vị trí của noãn rụng hoặc các từ diệp, và trên cách phát triển của đọt cây non (lông tơ) và rễ mầm. Theo ý kiến của chúng tôi về phôi sinh học, chúng ta sẽ thấy tại sao các đặc tính như vậy lại rất quý, theo quan điểm của sự phân loại ngầm bao gồm cả sự di truyền.
Sự phân loại rõ ràng thường bị ảnh hưởng bởi các chuỗi tương đồng. Không gì có thể dễ hơn việc định nghĩa một số đặc ffilh chung của tát cả các loài chim; nhưng trong trường hợp của loài giáp xác, định nghĩa như vậy không thể đạt được. Có loài giáp xác khó có đặc tính chung; tuy thế chúng có quan hệ rõ ràng với các loài khác, và với các loài trước nó.
Phân bố địa lý, tuy đã được sử dụng không hợp lý, trong sự phân loại, đặc biệt trong các nhóm lớn có quan hệ với nhau. Temminck đã nhấn manh vào tính có ích hoặc thậm chí nhu cầu thực tế của các nhóm chim; và nó đã được một số nhà côn trùng học và các nhà thực vật học học tập.
Cuối cùng, trong việc so sánh giá trị những khác nhau giữa nhóm các loài, như các chi, họ, chủng. Vài nhà thực vật học tốt nhất, ví dụ như ngài Bentham và những người khác, nhấn mạnh vào giá trị chuyên quyền của họ. Ví dụ như trong số các cây và các sâu bọ, có một nhóm của các loài, trước hết được các nhà tự nhiên học xếp vào một giống duy nhất, và sau đó nâng tới mức chi, họ không phải vì họ nghiên cứu thêm và phát hiện cấu trúc quan trọng của các khác biệt, trước hết giám sát, nhưng vì nhiều liên minh các loài, với các thứ bậc hơi khác nhau của sự khác nhau, đã sau này được khám phá.
Tẩt cả các quy luật và các sự giúp đỡ và các khó khăn đã đề cập trước về sự phân loại được giải thích, nếu tôi không rất lừa dối mình, thì dựa trên quan điểm rằng hệ thống tự nhiên có được là do di truyền của các biến dị; các đặc tính mà các nhà tự nhiên học xem xét cho thấy sự tương đồng thật sự giữa các hai loài hoặc nhiều hơn bất kỳ nào, vốn được thừa kế từ một cha mẹ chung, và cho đến lúc này tất cả sự phân loại đều mang tính phả hệ; cộng đồng các di truyền che giấu các mối ràng buộc mà các nhà tự nhiên học nào vô tình tìm thấy, và không phải là kế hoạch bí mật của Thượng đế, hoặc việc phát biểu của các mệnh đề chung, mà là sự phân ra các nhóm ít nhiều giống nhau.
Nhưng tôi phải giải thích rõ ràng hơn quan điểm của mình. Tôi tin rằng rằng sự sắp đặt của các nhóm bên trong mỗi lớp trong sự lệ thuộc trực tiếp và quan hệ tới các nhóm khác, phải mang tính phả hệ chính xác về bản chất tự nhiên; nếu không, có thể số lượng những biến dị trong vài nhánh hoặc các nhóm liên kết có cùng một cấp, nhưng so với tổ tiên, có thể khác nhiều, vì các độ khác nhau của các biến đổi mà chúng trải qua; và điều này được biểu thị qua cách xếp hạng các thể hữu cơ khác nhau vào các chủng, chi, họ. Chúng ta sẽ giả thiết các chữ cái từ A đến L đại diện cho liên minh chủng, sống trong kỷ nguyên Silurian, và thừa kế từ một loài tồn tại ở một thời kỳ trước. Các loài của ba của chủng này (A, F, Và I) có con cháu mang các biến dị, thể hiện bởi mười lăm chủng nhỏ (từ a14 tới z14) nằm trên hàng ngang. Bây giờ tất cả con cháu tiến hóa từ các một loài đơn, được đại diện có liên quan trong máu hoặc cùng mức độ di truyền; chúng có thể được gọi các anh em họ; vậy mà chúng rất khác nhau, mức độ tiến hoá cũng khác nhau.
Các loài tiếp nối của A, phát triển thành hai hoặc ba họ, cấu thành khác hẳn với những dạng phát sinh từ thừa kế từ I, cũng phát triển thành hai họ. Một số loài, phát sinh từ A, được xếp trong cùng giống với cha mẹ A; hoặc các dạng từ I, với cha mẹ I. Nhưng giống F14 có thể giả định là có mang những biến dị nhỏ và nó sẽ xếp cùng với cha mẹ giống F; giống như thể hữu cơ hữu cơ vẫn còn sống nào đó thuộc về chủng thuộc kỷ Silurian. Như vậy số lượng hoặc giá trị của các biến dị giữa các thể hữu cơ tất cả liên quan đến nhau và cũng có rất nhiều điểm khác nhau. Tuy vậy sự sắp đặt phả hệ của họ còn lại rất chính xác, không phải chỉ về thời gian hiện hữu, mà còn ở các thời kỳ liên tiếp của di truyền. Các con cháu đã tiến hoá từ A sẽ thừa kế cái gì đó chung từ cha mẹ chung của họ, giống như các con cháu của I. Nhưng dường như các thế hệ con cháu sau này còn mang rất ít đặc điểm chung của các thế hệ trước. Tất cả các con cháu của giống F, theo phả hệ, giả định là có những biến dị nhỏ bé, nhưng chúng vẫn là một loài duy nhất nhưng bị cô lập và là loài trung gian giữa I và A; do F trước đấy là trung gian về đặc tính giữa A và I, và các chủng sau của hai chủng sẽ thừa kế một số đặc tính nhất định của chúng. Nếu rẽ nhánh của A bị đào thải, tên các nhóm được điền thêm theo một đường thẳng, số loài trong sơ đồ sẽ ít đi và chúng ta sẽ thấy sự tương đồng giữa các nhóm giảm dần. Do đó, dựa trên quan điểm hệ thống tự nhiên sắp đặt theo phả hệ, mức độ biến dị của các nhóm phải được biếu thị bàng việc xếp hạng chúng vào các nhóm có cấp bậc khác nhau.
SỰ TƯƠNG ĐỒNG LẪN NHAU CỦA CÁC THỂ HỮU CƠ
HÌNH THÁI HỌC: PHÔI SINH HỌC: CÁC CƠ QUAN BAN ĐẦU
Sự phân loại, các nhóm nhỏ trong các nhóm sinh vật - Các quy luật của hệ thống tự nhiên và những khó khăn trong việc phân loại, giải thích theo lý thuyết di truyền cùng với tiến hoá- Sự phân loại các biến dị - Di truyền thường được sử dụng trong phân loại - Các đặc tính tương đồng hoặc được chấp nhận - Các liên kết chung, phức tạp và phân kỳ - Các nhóm tuyệt chủng riêng biệt - Hình thái học giữa các thành viên trong cùng một lớp, giữa các bộ phận trong một cá thể - Phôi sinh học, quy luật của nó giải thích bởi việc các biến dị xuất hiện khi sinh vật còn nhỏ, và được thừa kế vào cùng độ tuổi tương đồng - Các cơ quan sơ khai và giải thích nguồn gốc của chúng - Tóm tắt Từ thuở ban đầu của sự sống, tất cả các thể hữu cơ giống nhau về mức độ di truyền các độ, do đó chúng có thể được xếp vào các nhóm nhỏ trong các nhóm. Sự phân loại này rõ ràng không giống nhóm lại các ngôi sao trong các chòm sao. Sự tồn tại của các nhóm có của ý nghĩa đơn giản, nếu một nhóm chỉ phù hợp với cuộc sống trên mặt đất, và nhóm khác lại chỉ sống trong nước; một nhóm ăn thịt, nhóm khác lại chỉ ăn rau quan trọng, vân vân; các trường họp rất khác nhau trong tự nhiên; cho mọi người đều biết rằng các thành viên trong cùng một nhóm con cũng có các thói quen khác nhau. Trong chương II và chương IV về Biến dị và Quá trình chọn lọc tự nhiên, tôi đã thử chứng minh biến dị, rộng lớn và phố biến của các loài thuộc các chủng lớn. Các biến dị, hoặc phôi thai của các loài, sau đó tiến hoá lên thành các loài khác và mới; và các loài đó, theo nguyên tác về thừa kế, có xu hướng tạo ra các loài trội và mới khác. Và các nhóm lớn, mà nói chung thường bao gồm nhiều loài trội, sẽ tăng thêm vô tận. Tôi cũng đã thử chứng minh biến dị và thống trị của con cháu các loài đó trong tự nhiên, có một xu hướng các đặc tính không thay đổi trong của họ sẽ được phân tán rộng rãi. Kết luận này còn được hỗ trợ bởi ý kiến về tính đa dạng lớn của các sinh vật, trong bất kỳ vùng nhỏ nào, tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt nhất bằng cách nhìn vào các dẫn chứng nhất định của quá trình tự nhiên hoá.
Tôi cũng đã cố gắng chỉ ra rằng có một xu hướng không thay đổi là các loài đang ngày càng tăng về số lượng và các đặc tính được phân tán rộng, tiêu diệt và thay thế các loài ít nổi bật hơn, ít tiến hoá hơn, và các loài ban đầu. Người đọc có thể xem lại sơ đồ minh họa hoạt động, như đã giải thích, của các nguyên lý này; và anh ta sẽ thấy kết quả tất yếu là sự biến đổi trong các thế hệ con cháu, từ một tổ tiên trở thành nhiều nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Trong sơ đồ mỗi chữ cái trên hàng trên cùng có thể đại diện cho một giống bao gồm vài loài; và tất cả chủng trên hàng này cùng nhau tạo thành một lớp, và vì tất cả đều từ một cha mẹ cổ xưa nên đều có cái gì đó chung. Nhưng ba chủng trên ở phía bên trái, cũng theo nguyên tắc này, có nhiều điểm chung, và tạo ra một mức dưới nữa -họ, chi khác với hai chủng tiếp theo bên tay phải, cũng rẽ ra từ một cha mẹ chung ở giai đoạn (thứ) năm của chuỗi quan hệ. Năm chủng này, có thể nhiều hoặc ít hơn, có các điểm chung; và chúng hình thành họ khác gồm ba chủng nữa ở phía tay phải, vốn đã rẽ nhánh từ trước. Tất cả các chủng này, xuất phát từ một loài (A) và khác hẳn so với loài (I). Như vậy có nhiều loài cùng có chung một tổ tiên duy nhất được nhóm lại vào trong chủng; và chủng bao gồm nhiều chi, họ, bộ ... tất cả gọi chung là một lớp. Nhờ vậy, các dẫn chứng quan trọng trong lịch sử tự nhiên về sự lệ thuộc của nhóm nhỏ với nhóm lại không phải lúc nào cũng khiến chúng ta bất ngờ, nếu theo giải thích của tôi.
Các nhà tự nhiên học đã cố gắng xếp các loài, chủng, họ, chi trong mỗi lớp, trong cái gì được gọi là Hệ thong tự nhiên. Nhưng hệ thống này mang ý nghĩa gì? Một vài tác giả xem nó đơn thuần chỉ là một sơ đồ sắp xếp các đối tượng sống mà đa số là giống nhau, và từ đó phân ra các đối tượng phần lớn là không giống; hoặc nói một cách tóm tắt, là các mệnh đề chung, trong đó gồm các câu có một đặc tính chung, ví dụ, tất cả các động vật có vú khác với động vật ăn thịt, giữa loài chó thường và chó giống, và sau đó bàng việc thêm một câu đơn, sẽ mô tả đầy đủ các đặc tính của mỗi loại chó. Sự linh hoạt và hữu ích của hệ thống này là không thể bàn cãi. Nhưng nhiều nhà tự nhiên học nghĩ rằng Hệ thống Tự nhiên còn có nhiều ý nghĩa hơn thế; họ tin rằng hệ thống này sẽ giúp hé mở các kế hoạch của Thượng đế; nhưng không xác định cách sắp đặt về thời gian và không gian, hoặc thực vật cso ý nghĩa thế nào trong kế hoạch của Thượng đế, đối với tôi các điều này không mấy ý nghĩa trong việc tích lũy kiến thức.
Các cách diễn giải ấy là của ông Linnaeus, và chúng ta thường bắt gặp một hai nhiều dạng ẩn có các đặc tính không tạo nên giống mà là được hưởng các đặc tính của một giống, cho thấy các cá thể trong các nhóm phân ra không giống nhau hoàn toàn, chúng chỉ có các điểm chung mà thôi. Tôi tin rằng nó còn hàm chứa nhiều ý nghĩa hơn; sự gần gũi đó của các thế hệ con cháu, điều duy nhất được biết là nguyên nhân của sự giống nhau của các thể hữu cơ, là mối ràng buộc ẩn do có nhiều cấp độ tiến hoá mà phần nào đã để lộ ra sự phân loại.
Chúng ta sẽ xem xét các quy luật theo sau sự phân loại, và các khó khăn của quan điểm rằng sự phân loại không chỉ giúp chúng ta biết những kế hoạch bí mật cúa tạo vật mà còn là một sơ đồ trong đó đặt các mệnh đề chung và các câu vào thành các nhóm tương tự nhau. Người ta có thể nghĩ rằng (giống như trong thời cổ đại), các bộ phận của cấu trúc quyết định các thói quen của cuộc sống, và vị trí của mỗi thế hữu cơ trong tự nhiên là điều quan trọng rất cao trong sự phân loại. Điều này hoàn toàn đúng. Không ai chú ý đến sự giống nhau bề ngoài của một con chuột cống và một con chuột chù, của con cá nược và con cá voi, của con cá voi và các loài cá khác. Tuy nhiên sự giống nhau này có quan hệ mật thiết tới toàn bộ cuộc sống của thể hữu cơ, vẫn chỉ đơn giản được xếp là “Những đặc tỉnh đơn thuần được chấp nhận hoặc các đặc tính tương tự”; Nhưng nếu xem xét các giống nhau này chúng ta sẽ phải suy nghĩ lại. Nó có thể thậm chí đã trở thành một quy luật chung, rằng nếu bất cứ nào trong một tổ chức có một thói quen đặc biệt, nó sẽ tạo ra sự phân loại. Ví dụ : ông Owen, khi nói chuyện về cá nược, đã nói: “Các cơ quan khả năng sinh sản thường có liên quan tới các thói quen và thức ăn của một động vật, tôi đã rất chú ý về mối quan hệ này. Chúng thường cho rằng những biến đổi của cơ quan này đơn thuần chỉ là để có một đặc tính cần thiết nào đỏ”. Như vậy với các thực vật, điều đáng chú ý là cơ quan của cây cỏ, mà toàn bộ cuộc sống của chúng phụ thuộc vào đó, có ý nghĩa rất nhỏ bé, trong khi các cơ quan sinh sản, với sản phẩm là các hạt giống, lại là quan trọng nhất!
Do đó, trong việc phân loại, chúng ta không được chỉ tin vào sự giống nhau của các bộ phận bên trong, dù chúng có quan trọng như thế nào đối với thế giới bên ngoài. Có lẽ từ nguyên nhân này mà gần như tất cả các nhà tự nhiên học đã nhấn mạnh nhiều nhất vào sự giống nhau giữa các cơ thể có tầm quan trọng sống còn hoặc về sinh lý học cao. Rõ ràng quan điếm này có sự quan trọng của các cơ quan trong phân loại là chung nhất, nhưng không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Tầm quan trọng của chúng trong sự phân loại, tôi tin rằng, phụ thuộc vào tính không thay đổi của chúng trong tất cả các nhóm của các loài; và sự không thay đổi này phụ thuộc vào các cơ quan ít thay đổi trong quá thích nghi của các loài với các điêu kiện sông. Chỉ có tầm quan trọng sinh lý học của một cơ quan là không có giá trị xác định trong sự phân loại, có thể thấy rõ qua dẫn chứng duy nhất đó là trong các nhóm liên quan, ở cùng một cơ quan, chúng ta có lý do để giả sử rằng, có cùng giá trị sinh lý học, giá trị phân loại của nó lại rất khác nhau. Không nhà tự nhiên học nào có thể nghiên cứu với những dẫn chứng này; và nó hoàn toàn được thừa nhận trong các ghi chép của hầu hết các tác giả. Tôi xin trích ra đây câu nói của một nhà tự nhiên học có uy tín nhất, ông Robert Brown, nói về một sổ cơ quan bên trong loài Proteaceae, về tầm quan trọng chung của chúng như sau: “Như tất cả các bộ phận của chúng, không phải chỉ trong trường hợp này, tôi e là trong tất cả các họ đều không bàng nhau, và trong vài trường hợp có vẻ như còn thiếu”. Trong một công trình khác ông nói về chủng Connaraceae: ”Khác nhau trong việc cỏ một hoặc nhiều buồng trứng, có hoặc không có chất albumin. Các đặc tính nào quan trọng hơn nhiều đặc tính về gen, dù tất cả chúng đã đủ giúp ta phân biệt giữa Cnestis và Connarus”. Có thể lấy một ví dụ trong loài sâu bọ, trong nhánh Hymenoptera, Antennae, như Westwood đã nhận xét, đa số là giống nhau trong cấu trúc; những trong các bộ phận khác chúng khác nhau nhiều, và sự khác nhau lại khá phụ thuộc vào sự phân loại; tuy thế không nói rằng mà hai bộ phận này trong antennae có tầm quan trọng sinh lý học không bằng nhau. Bất kỳ ví dụ nào đưa ra cũng cho thấy sự khác nhau về tầm quan trọng trong phân loại cùng một cơ quan quan trọng trong cùng một nhóm của các thê hữu cơ.
Một lần nữa, không ai có thể nói rằng các cơ quan nguyên thuỷ và yếu ớt là các cơ quan có tầm quan trọng sinh lý học hoặc sống còn cao nhất; vậy mà, chắc chắn, các cơ quan trong điều kiện này thường có giá trị cao trong sự phân loại. Không ai có thể bàn cãi rằng những chiếc răng ban đầu trong quai hàm trên của các con thuộc loài nhai lại sơ sinh, hoặc một sổ xương ban đầu nhất định của bàn chân, rất có ích trong việc thể hiện sự tương đồng giữa loài nhai lại và các loài vật da dày. Ông Robert Brown đã cố đưa ra những dẫn chứng rằng hoa nhó sơ khai là quan trọng nhất trong phân loại các loài cỏ.
Nhiều ví dụ có thề đã cho của các đặc tính bắt nguồn từ các phần được xem là có tầm quan trọng sinh lý rất nhỏ, nhưng thường được cho là rất có ích trong việc nhận dạng tất cả các nhóm. Ví dụ, theo Owen, việc có hay không đường thông lỗ mũi đến miệng, là đặc tính duy nhất giúp phân biệt cá và các loài bò sát, giống như độ uốn của góc quai hàm của các thú có túi, cách gấp cánh của các loài sâu bọ, màu của một số loài tảo nhất định, lông tơ của cỏ tự nhiên, các lông chim. Nếu loài Ornithorhynchus chỉ có lông vũ thay vì tóc. đặc điểm bên ngoài rất nhỏ này đã được các nhà tự nhiên học coi là rất quan trọng trong việc xác định độ tương đồng của tạo vật kỳ lạ này với chim và các loài bò sát, như một cách tiếp cận cấu trúc trong bất kỳ một cơ quan quan trọng bên trong nào.
Sự quan trọng, đối với sự phân loại, của các đặc tính bình thường, chủ yếu phụ thuộc vào mối tương quan giữa chúng với các đặc tính khác ít quan trọng hoặc quan trọng hơn. Giá trị thực của tổng thể các đặc tính là rất rõ ràng trong lịch sử tự nhiên. Do đó, như đã nhận xét ở trên, một loài có thể tách khỏi các mối liên kết của nó do một vài đặc tính, của tầm quan trọng về mặt sinh lý học vừa về mức độ phổ biến, và giúp chúng ta không khó khăn gì khi xếp hạng các loài đó. Từ đây, đồng thời, người ta cũng nhận thấy, nếu sự phân loại được thực hiện do bất kỳ đặc tính đơn nào, dù tầm quan trọng của nó ra sao, đều sai lầm; vì không bộ phận nào của các cơ thể lại không thay đổi. Tầm quan trọng của một tổng thế của các đặc tính, thậm chí là không quan trọng, như cách nói của Linnaeus, là các đặc tính đó không tạo ra các giống, nhưững giống có các đặc tính chung; có nghĩa là những điểm chúng đó có thể rất nhỏ. Một số thực vật nhất định, thuộc họ Malpighiaceae, có hoa hoàn hảo; như .lussieu đã từng nói: “Số lượng lợn các tính cách phù hợp với các loài, giống, chủng, họ, chi, và phù hợp với ự phân loại của chúng ta.
Thực tế khi các nhà tự nhiên học nghiên cứu, họ không tự quấy rầy mình về giá trị sinh lý học của các đặc tính mà họ sử dụng để định nghĩa một nhóm, hoặc trong việc phân loại các loài. Nếu họ tìm thấy một đồng dạng gần như đặc tính, và chung cho một số lớn các loài, và không chung cho các loài khác, thì họ sử dụng chúng là đặc tính duy nhất có giá trị cao; còn các đặc tính khác ít chung hơn thì chúng sử dụng nó như giá trị phụi thuộc. Nguyên lý này đã được chấp nhận bởi nhiều nhà tự nhiên học. Nếu một số đặc tính nhất định, tuy luôn được tìm thấy được sự tương quan với các loài khác, dù không phát hiện ra mối ràng buộc hiển nhiên nào, chúng sẽ trở thành giá trị đặc biệt của nhóm. Trong khi trong đa số các nhóm của các động vật, các cơ quan quan trọng, ví dụ như máu... được coi là có ích nhất trong sự phân loại; nhưng trong vài nhóm động vật thì các cơ quan sống còn quan trọng nhất, được phát hiện nhờ các đặc tính của giá trị khá phụ thuộc.
Chúng ta có thể thấy tại sao các đặc tính bắt nguồn từ phôi thai có sự quan trọng bằng với các đặc tính bắt nguồn từ động vật trưởng thành, vì sự phân loại tất nhiên bao gồm tất cả các giai đoạn của mỗi loài. Nhưng nó rõ ràng, dựa trên quan điểm bình thường, tại sao cấu trúc của phôi thai lại quan trọng hơn cấu trúc này của động vật trưởng thành, vì nó đóng vai trò quan trọng trong tự nhiên. Vậy mà các nhà tự nhiên học lớn như Milne Edwards, Agassiz đã cho rằng các đặc tính phôi thai là quan trọng nhất trong bất kỳ sự phân loại động vật nào; và học thuyết này đã được chấp nhận. Cùng dẫn chứng đó cũng đúng với các cây có hoa, trong đó hai đặc tính chính đều bắt nguồn từ phôi thai vị trí của noãn rụng hoặc các từ diệp, và trên cách phát triển của đọt cây non (lông tơ) và rễ mầm. Theo ý kiến của chúng tôi về phôi sinh học, chúng ta sẽ thấy tại sao các đặc tính như vậy lại rất quý, theo quan điểm của sự phân loại ngầm bao gồm cả sự di truyền.
Sự phân loại rõ ràng thường bị ảnh hưởng bởi các chuỗi tương đồng. Không gì có thể dễ hơn việc định nghĩa một số đặc ffilh chung của tát cả các loài chim; nhưng trong trường hợp của loài giáp xác, định nghĩa như vậy không thể đạt được. Có loài giáp xác khó có đặc tính chung; tuy thế chúng có quan hệ rõ ràng với các loài khác, và với các loài trước nó.
Phân bố địa lý, tuy đã được sử dụng không hợp lý, trong sự phân loại, đặc biệt trong các nhóm lớn có quan hệ với nhau. Temminck đã nhấn manh vào tính có ích hoặc thậm chí nhu cầu thực tế của các nhóm chim; và nó đã được một số nhà côn trùng học và các nhà thực vật học học tập.
Cuối cùng, trong việc so sánh giá trị những khác nhau giữa nhóm các loài, như các chi, họ, chủng. Vài nhà thực vật học tốt nhất, ví dụ như ngài Bentham và những người khác, nhấn mạnh vào giá trị chuyên quyền của họ. Ví dụ như trong số các cây và các sâu bọ, có một nhóm của các loài, trước hết được các nhà tự nhiên học xếp vào một giống duy nhất, và sau đó nâng tới mức chi, họ không phải vì họ nghiên cứu thêm và phát hiện cấu trúc quan trọng của các khác biệt, trước hết giám sát, nhưng vì nhiều liên minh các loài, với các thứ bậc hơi khác nhau của sự khác nhau, đã sau này được khám phá.
Tẩt cả các quy luật và các sự giúp đỡ và các khó khăn đã đề cập trước về sự phân loại được giải thích, nếu tôi không rất lừa dối mình, thì dựa trên quan điểm rằng hệ thống tự nhiên có được là do di truyền của các biến dị; các đặc tính mà các nhà tự nhiên học xem xét cho thấy sự tương đồng thật sự giữa các hai loài hoặc nhiều hơn bất kỳ nào, vốn được thừa kế từ một cha mẹ chung, và cho đến lúc này tất cả sự phân loại đều mang tính phả hệ; cộng đồng các di truyền che giấu các mối ràng buộc mà các nhà tự nhiên học nào vô tình tìm thấy, và không phải là kế hoạch bí mật của Thượng đế, hoặc việc phát biểu của các mệnh đề chung, mà là sự phân ra các nhóm ít nhiều giống nhau.
Nhưng tôi phải giải thích rõ ràng hơn quan điểm của mình. Tôi tin rằng rằng sự sắp đặt của các nhóm bên trong mỗi lớp trong sự lệ thuộc trực tiếp và quan hệ tới các nhóm khác, phải mang tính phả hệ chính xác về bản chất tự nhiên; nếu không, có thể số lượng những biến dị trong vài nhánh hoặc các nhóm liên kết có cùng một cấp, nhưng so với tổ tiên, có thể khác nhiều, vì các độ khác nhau của các biến đổi mà chúng trải qua; và điều này được biểu thị qua cách xếp hạng các thể hữu cơ khác nhau vào các chủng, chi, họ. Chúng ta sẽ giả thiết các chữ cái từ A đến L đại diện cho liên minh chủng, sống trong kỷ nguyên Silurian, và thừa kế từ một loài tồn tại ở một thời kỳ trước. Các loài của ba của chủng này (A, F, Và I) có con cháu mang các biến dị, thể hiện bởi mười lăm chủng nhỏ (từ a14 tới z14) nằm trên hàng ngang. Bây giờ tất cả con cháu tiến hóa từ các một loài đơn, được đại diện có liên quan trong máu hoặc cùng mức độ di truyền; chúng có thể được gọi các anh em họ; vậy mà chúng rất khác nhau, mức độ tiến hoá cũng khác nhau.
Các loài tiếp nối của A, phát triển thành hai hoặc ba họ, cấu thành khác hẳn với những dạng phát sinh từ thừa kế từ I, cũng phát triển thành hai họ. Một số loài, phát sinh từ A, được xếp trong cùng giống với cha mẹ A; hoặc các dạng từ I, với cha mẹ I. Nhưng giống F14 có thể giả định là có mang những biến dị nhỏ và nó sẽ xếp cùng với cha mẹ giống F; giống như thể hữu cơ hữu cơ vẫn còn sống nào đó thuộc về chủng thuộc kỷ Silurian. Như vậy số lượng hoặc giá trị của các biến dị giữa các thể hữu cơ tất cả liên quan đến nhau và cũng có rất nhiều điểm khác nhau. Tuy vậy sự sắp đặt phả hệ của họ còn lại rất chính xác, không phải chỉ về thời gian hiện hữu, mà còn ở các thời kỳ liên tiếp của di truyền. Các con cháu đã tiến hoá từ A sẽ thừa kế cái gì đó chung từ cha mẹ chung của họ, giống như các con cháu của I. Nhưng dường như các thế hệ con cháu sau này còn mang rất ít đặc điểm chung của các thế hệ trước. Tất cả các con cháu của giống F, theo phả hệ, giả định là có những biến dị nhỏ bé, nhưng chúng vẫn là một loài duy nhất nhưng bị cô lập và là loài trung gian giữa I và A; do F trước đấy là trung gian về đặc tính giữa A và I, và các chủng sau của hai chủng sẽ thừa kế một số đặc tính nhất định của chúng. Nếu rẽ nhánh của A bị đào thải, tên các nhóm được điền thêm theo một đường thẳng, số loài trong sơ đồ sẽ ít đi và chúng ta sẽ thấy sự tương đồng giữa các nhóm giảm dần. Do đó, dựa trên quan điểm hệ thống tự nhiên sắp đặt theo phả hệ, mức độ biến dị của các nhóm phải được biếu thị bàng việc xếp hạng chúng vào các nhóm có cấp bậc khác nhau.
Sẽ dễ hiểu điều này hơn thông qua minh hoạ bằng các câu chữ. Nếu
loài người chúng ta là một nòi giống hoàn hảo, thì một sự sắp đặt phả hệ của chủng
người có thể đưa ra sự phân loại tốt nhất về các ngôn ngữ đang được nói trên thế
giới; và nếu tất cả các ngôn ngữ bị tuyệt chủng, và tiếng địa phương và các
ngôn ngữ trung gian chậm chạp thay đổi, phải là kể cả, chỉ có thể là xuất hiện
một số ngôn ngữ vượt trội và làm giảm đi số lượng các ngôn ngữ. Do việc phổ biến
các nền văn minh của các tộc người, thường từ một chủng người có nhiều biến dị,
và làm xuất hiện nhiều ngôn ngữ và các tiếng địa phương, cấp độ khác nhau trong
các ngôn ngữ cũng vậy cũng do sự tồn tại và suy vong của các tộc người. Nhưng tất
cả các ngôn ngữ trên thế giới đều vẫn có điểm chung là vẫn sử dụng đến lưỡi.
Để
xác nhận quan điểm này, hãy liếc qua sự phân loại của các biến dị, được thừa kế
từ một loài. Chúng nhóm lại dưới các loài, với mức biến dị nhỏ trong số các biến
dị; và trong các vật nuôi cây trồng cuả chúng ta, chúng ta cũng thấy được các cấp
độ khác nhau. Thử lấy ví dụ từ loài bồ câu. Nguồn gốc sự tồn tại của các nhóm
làm các nhóm phụ thuộc lẫn nhau, biến dị của các loài cũng vậy, tức là mức độ
di truyền của các biến dị cũng tương tự nhau. Quy luật này cũng đúng trong việc
phân loại các biến dị, giống như với các loài. Các tác giả nhấn mạnh đến sự cần
thiết của việc phân loại các biến dị trong tự nhiên thay vì theo một hệ thống
nhân tạo.Trong việc phân loại các biến dị, tôi e rằng nếu chúng ta có các giống
thực tế, thì một sự phân loại phả hệ phổ biến sẽ thuận lợi hơn; và thực tế là
vài tác già đã thử làm việc này.
Với các loài trong một trạng thái tự nhiên, mỗi
nhà tự nhiên học thật ra mang yếu tố di truyền vào trong sự phân loại của anh ấy;
anh ta cho vào đó thứ bậc thấp nhất của anh ấy, hoặc thứ bậc thấp nhất của một
loài, hai giới tính; và đôi khi sự khác biệt trong các đặc tính quan trọng nhất
to lớn tùy theo ý kiến của mỗi nhà tự nhiên học: một dẫn chứng đơn lẻ như việc
xác định con đực và con cái của loài hà trưởng thành, điều này là rất khó. Nhà
tự nhiên học gộp cả những ấu trùng đ ơ n lẻ trong giai đoạn ban đầu của các cá
thể riêng lẻ, dù chúng có thể rất khác nhau và kh á c với thể trưởng thành; nh
ư ng anh ta xung gộp các thế hệ thay thế của loài Steenstrupvốn chỉ được coi là
cá thể Về mặt kỹ thuật. Anh ta gộp cả các quái vật; biến dị, không chỉ vì
chúng gần giống với cha mẹ mà vì chúng được sinh ra từ dạng bố mẹ đó. Anh ta
tin rằng cây hoa ngọc trâm được thừa kế từ cây hoa anh thảo vàng, và thế nên xếp
chúng vào cùng các một loài đơn, đưa ra một định nghĩa duy nhất. Ngay khi ba
loài lan Orchidean (Monochanthus, Myanthus, và Catasetum), vốn được xếp vào ba
chủng khác nhau, nhưng được biết là đôi khi được tạo ra từ cây oải hưomg, ngay
lập tức chúng được gộp vào thành một loài đơn. Câu hỏi đặt ra có thể là làm sao
chúng ta có thể chứng minh được rằng loài canguru đã được sinh ra, qua quá
trình tiến hoá từ loài gấu? Liệu chúng ta có nên xếp chúng vào cùng một loài với
gấu hay không ? Sự phỏng đoán này tất nhiên là phi lý; và tôi có thể trả lời bằng
cách hỏi ngược lại là chúng ta sẽ làm gì nếu thấy một con canguru hoàn hảo được
một con gấu sinh ra? Theo suy luận, nó sẽ được xếp ngang hàng với gấu; nhưng chắc
chắn là tất cả các loài khác thuộc họ canguru sẽ phải được phân loại dưới giống
gấu. Như vậy là phi lý, do sự di truyền nói chung nên những nét tưomg đồng là
có thể hiểu được.
Vì di truyền thường được sử dụng trong việc phân loại các cá
thể của cùng một loài, mặc dù các con đực và cái hay lưỡng tính thì rất khác
nhau; và vì nó đã được sừ dụng trong việc phân loại các biến dị, với một lượng
nhất định, đôi khi là một số lượng đáng kể các cải biến, chưa chắc các yếu tố
này đã được sử dụng để phân biệt các loài dưới chủng, và các chủng dưới, dù
trong các trường hợp này những biến dị là rất nhiều, và mất rất nhiều thời gian
mới hoàn thành? Tôi tin rằng nó đã được sử dụng một cách vô tình; và chỉ có thể
tôi mới có thể hiểu các quy luật và các hướng dẫn mà các nhà hệ thong giỏi nhất
của chúng ta đã áp dụng. Chúng ta không có các phả hệ giống bằng văn bản; chúng
ta phải dựng lên tính di truyền bởi các đặc giống nhau của bất kỳ loại nào. Bởi
vậy chúng ta chọn các đặc tính bé nhất có vẻ đã được sửa đổi trong quan hệ với
các điều kiện sống của mỗi loài. Các cấu trúc sơ khai được cho là tốt, thậm chí
đôi khi tốt hơn các bộ phận khác của tổ chức. Chúng ta quan tâm không chỉ là một
đặc tính có thể nhỏ đến mức nào - được thế hiện qua sự uốn của góc quai hàm,
cách gấp cánh của sâu bọ, da chim được bao trùm bởi tóc hoặc lông - nếu chúng
đúng với nhiều loài khác nhau, đặc biệt những loài có thói quen sống khác nhau,
nó sẽ có giá trị cao; chúng ta có thể tính toán được sự có mặt của nó trong nhiều
loài có các thói quen khác nhau, chỉ bởi sự thừa kế của nó từ một cha mẹ chung.
Chúng ta cũng nên lưu tâm tới các điểm đơn của cấu trúc, nhưng khi một vài đặc
tính dù nhỏ xuất hiện ở một nhóm lớn các thể hữu cơ có các thói quen khác nhau,
thì chúng ta có thể chắc chắn rằng, theo lý thuyết về di truyền, các đặc tính
này đó đã được thừa kế từ một tổ tiên chung. Và chúng ta biết rằng sự tương đồng
đó hoặc tập hợp các đặc tính đó có giá trị đặc biệt trong sự phân loại.
Chúng
ta có thể hiểu tại sao các loài hoặc một nhóm các loài có thể không có một số đặc
trưng quan trọng nhất giống các họ hàng nó, mà vẫn được an toàn xếp cùng loại với
nhau. Đó là do các đặc tính đó không quan trọng hoặc chúng là các đặc tính lặn
trong quá trình di truyền. Thử liên kết hai dạng không có các đặc tính đơn
chung bởi một chuỗi các nhóm trung gian, chúng ta có thể ngay lập tức suy ra rằng
chủng thuộc một nhóm di truyền, và xếp chúng tất cả vào trong cùng lớp đó. Do
chúng ta cho rằng sinh lý học rất quan trọng trong việc duy trì cuộc sống nói
chung là không thay đổi nhất, chúng ta gắn cho chúng giá trị đặc biệt; nhưng nếu
cùng các cơ quan đó, trong nhóm khác hoặc phần khác của một nhóm có vai trò
khác chúng ta sẽ đánh giá chúng thấp hơn khi phân loại. Chúng ta có thể thấy rõ
các đặc tính sinh lý lại quan trọng đến vậy trong việc phân loại. Phân bố địa
lý đôi khi cũng có ích trong các chủng lớn và phân bố rộng, bởi vì tất cả các
loài của cùng giống đó, dù sống ở bất kỳ vùng tách biệt nào đều có bên trong
các đặc điểm thừa kế từ cùng một dạng cha mẹ.
Từ đây chúng ta hiểu sự khác biệt
rất quan trọng giữa các sự tương đồng thực tế và tương tự hoặc các điểm giống
nhau được chấp nhận. Ông Lamarck là người đầu tiên lưu ý nên quan tâm tới sự
phân biệt này, và ý kiến đó được ông Macleay và một số người khác ủng hộ. Sự giống
nhau, ví dụ như về hình dạng của thân thể và trong các chi như chân tay trước,
giữa cá nược- động vật da dày, và cả voi, và giữa cả hai loài động vật có vú
này và các loài cá. Trong các loài sâu bọ có rất nhiều ví dụ :Linnaeus, sai lầm
do các tin vào các biểu hiện bên ngoài đã xếp một loài bọ cánh vào loài mối.
Chúng ta nhìn thấy điều này ngay trong các vật nuôi của chúng ta, ví dụ giữa những
cây thân đặc và cây cải Thụy Điển. Sự giống nhau giữa chó săn và ngựa đua thi
khó đánh đồng hơn so với các ví dụ về các động vật khác. Trên quan điểm về các
đặc tính thực sự quan trọng cho sự phân loại, tôi cho rằng chỉ khi nào các đặc
tính di truyền này lộ ra, chúng ta có thể hiểu rõ ràng tại sao sự tương tự hoặc
các đặc tính chung được thừa nhận, mặc dù rất quan trọng đối với các thể hữu
cơ, nhưng lại gần như không có giá trị đối với những người nghiên cứu hệ thống.
Các động vật, thuộc về hai dòng di truyền khác nhau nhất, có thể sằn sàng thích
nghi trong cùng các điều kiện, và như vậy giải thích về sự giống nhau ở bên
ngoài; nhưng những giống nhau như vậy sẽ không lộ ra mà thường có xu hướng giấu
đi để truyền cho các con cháu huyết thống của chúng qua di truyền. Chúng ta có
thể cũng hiểu nghịch lý hiển nhiên rằng những đặc tính rất giống nhau thường
tương đồng khi so sách các loài trong một lớp hoặc các lớp trong một chủng,
trong khi sự tương đồng xuất hiện khi các thành viên của cùng lớp đó so sánh với
một lớp khác. Do đó hình dáng cơ thế và các chi chỉ tương tự nhau khi cá voi được
so sánh với các loài cá, do thích nghi trong cả hai lớp này do phải bơi xuyên
trong nước; nhưng hình dạng thân thể và các chi chỉ cố đặc tính tương đồng khi
so sánh giữa vài thành viên của họ cá voi; các loài động vật có vú này cũng rất
đa dạng, nhỏ và lớn, mà chúng ta không thể nghi ngờ rằng chúng đã thừa kế hình
dạng thân thể và cấu trúc của các chi từ một tổ tiên chung. Điều này cũng đúng
với các loài cá.
Do thành viên của các lớp khác nhau đã thích nghi hơn nhờ các
biến dị nhỏ và liên tiếp trong các điều kiện sống tương tự nhau, ví dụ như sống
trong ba môi trường là đất, không khí và nước, chúng ta có thể hiểu làm thế nào
có thể quan sát quan hệ song song giữa các nhóm nhỏ trong các lớp khác nhau. Một
nhà tự nhiên học, ấn tượng bởi tính song song của tự nhiên này trong mọi lớp
sinh vật, bằng cách tùy ý nâng hoặc hạ giá trị của các nhóm trong các lớp (kinh
nghiệm cho thấy điều này thường xảy ra), có thể dễ dàng phát triển đặc tính
song song đó trong một phạm vi rộng; và nhờ đó xuất hiện các dạng tam phân, nhị
phân, tứ phân, ngũ phân, thất phân...
Do con cháu tiến hóa của các nhóm trội, thường thuộc những chủng
lớn hơn, có xu hướng thừa kế các lợi thế, từ đó mở rộng các nhóm của chúng và
trội hơn cha mẹ chúng, chắc chắn chúng sẽ lan truyền rộng rãi, và chiếm lĩnh
ngày càng nhiều nơi trong tự nhiên. Các nhóm trội hơn và lớn hơn như vậy lại có
xu hướng tiếp tục tăng thêm về quy mô; và chúng tiêu diệt nhiều nhóm yếu ớt hơn
nhỏ đơn. Từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng tất cả các cơ quan, tồn tại thời
kỳ gần đây hoặc đã bị tuyệt chủng, đều thuộc một số trật tự lớn, dưới đó vẫn
còn một số lớp, và tất cả nằm trong một hệ thống tự nhiên lớn. Vì số lượng các
loài bậc cao ngày càng ít và mức độ phân tán rộng rãi của chúng trên khẳp thế giới,
thực,tế khá ấn tượng là việc khám phá ra châu úc đã không chỉ bổ sung thêm một
loài sâu bọ đơn vào một nhóm mới mà chúng còn thêm hai hai ba nhóm thực vật vào
hệ thống tự nhiên.
Trong chương nói về sự kế thừa về mặt địa lý tôi đã thử chỉ ra, theo nguyên lý của mỗi nhóm sinh vật nói chung đều phân kỳ trong thời gian dài của quá trình tiến hóa, cách các loài tổ tiên đã thể hiện các đặc tính của mình trong một mức độ trung gian giữa các nhóm đang tồn tại. Một vài dạng cha mẹ trung gian cổ xưa đôi lúc đã truyền lại cho con cháu chúng ngày nay một vài đặc tính và đã được cải biến chút ít, cái mà chúng ta gọi là các nhóm trung gian hoặc các nhóm khác thường.
Các nhóm càng khác thường thì số lượng các loài liên kết bị tuyệt chủng càng lớn. Và chúng ta có những bằng chứng cho thấy các nhóm khác thường đã bị tổn thất rất lớn bởi sự tuyệt chủng, vì chúng nói chung được đại diện bởi rất ít loài; và các loài như vậy như xuất hiện nói chung thường rất khác nhau, điều này cũng mang đến sự tuyệt chủng. Ví dụ, chủng Omithorhynchus và Lepidosiren là khác thường vì chúng không chỉ đại diện cho một loài mà là cả chục loài khác nhau; nhưng sự đa dạng về loài, theo tôi sau khi tiến hành các khảo sát, thông thường không phải do vài chủng khác thường. Tôi nghĩ chúng ta có thể dựa vào dẫn chứng này bằng cách xem các loài khác thường như các nhóm bại trận bởi các đối thủ khác thành công hơn, với một số ít thành viên giữ gìn do một vài thay đổi có lợi của tự nhiên.
Mr. Waterhouse đã nhận xét rằng, khi một thành viên của một nhóm của động vật thể hiện một sự tương đồng với một nhóm khác, sự tương đồng này trong đa số các trường họp thường phổ biến và không đặc biệt: giống quan điểm của ông Waterhouse, loài Rodent, loài thú có túi có những đặc điếm gần giống loài Marsupial; nhưng trong các điểm loài này tiếp cận thứ tự này, các quan hệ của nó rất chung chung, và không phải riêng với bất kỳ một loài thú có túi nào. Trong khi các điểm tưomg đồng của Bizcacha với các thú có túi được tin là có thật và không đơn thuần là đặc tính được chấp nhận, chúng phù họp với lý thuyết của tôi về sự thừa kế chung. Bởi vậy chúng ta phải giả thiết rằng tất cả loài Rodents, bao gồm cả Bizcacha, đều rẽ nhánh từ một loài thú có túi rất cổ xưa nào đó, và sẽ có một đặc tính với tất cả các loài thú có túi hiện hữu; hoặc cả các loài gặm nhấm lẫn thú có túi đều phân nhánh ra từ một tổ tiên chung, cả hai nhóm lại từng trải qua rất nhiều tiến hoá trong các hướng phân kỳ. Theo quan điểm rằng chúng ta có thể giả sử rằng Bizcacha, do sự thừa kế, mang nhiều của đặc tính của to tiên cổ xưa của nó hơn các loài gặm nhấm khác; và bởi vậy nó sẽ không có liên quan đặc biệt tới bất kỳ một loài thú có túi đang hiện hữu, nhưng có quan hệ gián tiếp với tất cả hoặc gần như tất cả các loài thú có túi, do đã giữ được các đặc tính của tổ tiên chung của chúng, hoặc của các thành viên ban đầu của nhóm. Mặt khác, như ông Waterhouse đã nhận xét, trong số tất cả thú có túi, loài Phascolomys không gần giống với hầu hết các loài gặm nhấm. Trong trường hợp này, có thể nghi ngờ rằng sự giống nhau chỉ là sự tưomg tự, do Phascolomys dần phải thích nghi với các thói quen giống như các thói quen của loài gặm nhấm. Trước đây, De Candolle đã từng có nghiên cứu tương tự về sự tương đồng giữa các thực vật khác nhau.
Theo nguyên lý của sự nhân giống và dần dần phân kỳ đặc tính của các loài thừa kế từ một cha mẹ chung, cùng với sự duy trì nhờ sự thừa kế của vài đặc tính chung của chúng, chúng ta có thể hiểu sự tương đồng lan truyền và hết sức phức tạp trong tất cả các thành viên của cùng họ, chi hoặc các nhóm cao hơn được nối với nhau. Bố mẹ chung của các họ, phân nhánh ra do sự tuyệt chủng của các nhóm khác nhau và của dại diện các nhóm sẽ truyền một ít các đặc tính của nó, qua các sửa đổi khác nhau tới mọi loài con cháu; và vài loài sẽ được liên hệ với nhau bởi rất nhiều sự tương đồng lòng vòng rất dài (điều này có thể nhìn thấy qua sơ đồ nêu trên), tăng lên do các thế hệ trước. Do khó thể hiện các mối quan hệ máu thịt giữa tất cả các của các dòng họ quý phái và cổ xưa trước, thậm chí khi có sự giúp đỡ của một cây phả hệ, và điều này gần như không thể làm được nếu không có sự giúp đỡ này, chúng ta có thể hiểu những khó khăn khác thường mà các nhà tự nhiên học đã trải qua để mô tả, không có sự giúp đỡ của một sơ đồ, nhiều mối tương đồng giữa các thành viên của hệ thống tự nhiên.
Sự tuyệt chủng, như chúng ta đã thấy trong chương IV, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định nghĩa và mở rộng các khoảng giữa vài nhóm trong mỗi lớp. Chúng ta có thể chỉ dựa vào đó để nhận thấy sự phân biệt trong toàn bộ các lớp, của chim với tất cả các động vật có cánh khác bởi lòng tin rằng nhiều dạng sống cổ xưa đã hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của loài chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên trung gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn còn ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn được liên kết với nhau bởi một chuỗi tương đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng giúp phân ra các nhóm: không có phương tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên trái đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự khác nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các loài từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế nhất, tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự nhiên, là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ A đến L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo ra các nhóm con cháu biến dị lớn . Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và cha mẹ nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất. Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một cái cây chúng ta có thể chỉ rõ ra nhánh này hoặc nhánh kia, dù ở hai hướng khác nhau và ghép chúng lại cùng nhau. Chúng ta không thể định nghĩa vài nhóm; nhưng chúng ta có thể chọn ra các loại, hoặc các mẫu dạng, đại diện hầu hết đặc tính của mỗi nhóm, dù lớn hay nhỏ, và từ đó đưa ra một ý tưởng chung về giá trị của những khác biệt giữa chúng. Chúng ta sẽ chắc chắn không bao giờ thành công trong việc tạo ra một tập hợp hoàn hảo; tuy vậy, chúng ta đang hướng tới trong phương thức này ứng các lớp nhất định, và Milne Edwards đã nhấn manh rằng, qua tầm quan trọng của mỗi loài chúng ta có thể phân loại chúng.
Cuối cùng, chúng ta đã thấy rằng quá trình chọn lọc tự nhiên dẫn đến cuộc tranh đấu cho sự tồn tại, và tất yếu sẽ gây ra sự tuyệt chủng và phân kỳ của đặc tính con cháu từ một loài cha mẹ trội - giải thích đặc tính phổ biến và lớn đó trong các sự tương đồng của tất cả các thể hữu cơ, tức là, sự lệ thuộc của chúng trong nhóm và dưới nhóm lại. Chúng ta sử dụng các yếu tố di truyền trong việc phân loại các các cá thể của các giới tính lẫn của mọi lứa tuổi, mặc dù có ít đặc tính chung của một loài; chúng ta sử dụng di truyền bên trong phân loại ghi nhận các biến dị, tuy nhiên sự khác nhau chúng có thể từ cha mẹ; và tôi tin rằng phần tử này của di truyền đã che giấu các mối ràng buộc mà bất cứ nhà tự nhiên học nào tìm thấy trong hệ thống tự nhiên. Trên ý tưởng này về hệ thống tự nhiên, được sắp đặt theo phả hệ trong của nó,' với các thứ bậc của sự khác nhau giữa các con cháu từ một cha mẹ chung, được biếu thị bằng các chủng, chi, họ, các thứ tự,... mà chúng ta có thể hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của loài chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên trung gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn còn ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn được liên kết với nhau bởi một chuỗi tương đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng giúp phân ra các nhóm: không có phưomg tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên trái đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự khác nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các loài từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế nhất, tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự nhiên, là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ A đến L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo ra các nhóm con cháu biến dị lớn. Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và cha mẹ nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất. Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một hiểu các quy luật chúng ta phải tuân theo khi phân loại. Chúng ta có thể hiểu tại sao phải đánh giá kỹ các điểm giống nhau nhất định xa hơn các điểm khác; tại sao chúng ta sử dụng các cơ quan vô ích và sơ khai, hoặc đặc tính sinh lý học nhỏ nhưng quan trọng; tại sao trong việc so sánh một nhóm với một nhóm khác chúng ta thường loại bỏ các tương tự hoặc các đặc tính được chấp nhận, và sử dụng các đặc tính đó cùng các đặc tính bên trong các giới hạn của cùng nhóm đó. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng tất cả các mẫu dạng đã tuyệt chủng và còn sống có thể được nhóm lại cùng nhau trong một hệ thống lớn; và là tại sao vài thành viên của mỗi lớp được liên kết với nhau bởi các chuồi sự tương đồng phức tạp nhất. Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ thoát khỏi hệ thống các sự tương đồng giữa các thành viên của bất kỳ một lớp nào; chúng ta có một đối tượng khác trong suy nghĩ, và không quan tâm đến kế hoạch không bí mật của tạo hóa, chúng ta có thể hy vọng củng cố những chuyển biến dần dần.
HÌNH THÁI HỌC
Chúng ta đã thấy rằng các thành viên của cùng lớp với các thói quen độc lập của chúng trong cuộc sống, giống nhau trong kế hoạch chung của tổ chức. Sự giống nhau này thường được biểu thị bởi khái niệm 'Đồng nhất về kiểu;’ Hoặc bởi việc nói rằng vài phần và các cơ quan trong các loài khác nhau của lớp có cùng vị trí. Toàn bộ đề tài được gọi với tên chung là Hình thái học. Đây là ngành học thú vị nhất của lịch sử tự nhiên, hay chính là linh hồn của ngành này. Một khi mọi thứ được xây dựng trên cùng mô hình đó, và trong đó có xương, được xếp vào cùng các vị trí, liệu cái gì có thể kỳ lạ hơn bàn tay đó của con người, vừa có thể nắm chặt, vừa có thể đào bới để xây đê chắn sóng, so với chân của con ngựa, vầy điều khiển của cá heo, và cánh của doi? Geoffroy St Hilairdoi đã nhấn mạnh sự quan trọng cao của mối quan hệ tưomg đối giữa các vị trí trong một cơ quan : các phần có thể thay đổi trong phạm vi của mẫu dạng và về kích thước, và tuy thế chúng luôn luôn được nối cùng nhau trong cùng thứ tự đó. Chúng ta không bao giờ tìm thấy, ví dụ, xương của cánh tay và tay, hoặc của bắp đùi và chân, bị đổi chỗ. Xương của các loài tương tự nhau cũng sắp xếp tương tự nhau. Chúng ta nhìn thấy quy luật lớn đó trong cấu trúc miệng sâu bọ: miệng con sên có thể uốn thành hình xoắn ốc, con ong hoặc con rệp có thể gấp miệng lại, và các quai hàm lớn của một bọ cánh cứng? Tuy tất cả các cơ quan này phục vụ cho các mục đích khác nhau, đều được hình thành bởi vô số các biến dị của môi trên, các hàm dưới. Quy luật tương tự cũng đúng với cấu trúc miệng và chân tay của loài giáp xác và cả các cây hoa.
Không thể giải thích được sự giống nhau này của thành viên của cùng lớp đó, bởi tính có ích hoặc bởi học thuyết về mục đích.
Cuộc thử nghiệm thất bại của Owen vẫn được chấp nhận bởi đây là công trình thú vị nhất của ông ấy. Ông nói “Dựa trên quan điểm về sự tạo thành độc lập của mỗi thể hữu cơ bình thường, chúng ta chỉ có thể nói rằng; câú trúc của các động thực vật như vậy là do ý Thượng đế”.
Trong chương nói về sự kế thừa về mặt địa lý tôi đã thử chỉ ra, theo nguyên lý của mỗi nhóm sinh vật nói chung đều phân kỳ trong thời gian dài của quá trình tiến hóa, cách các loài tổ tiên đã thể hiện các đặc tính của mình trong một mức độ trung gian giữa các nhóm đang tồn tại. Một vài dạng cha mẹ trung gian cổ xưa đôi lúc đã truyền lại cho con cháu chúng ngày nay một vài đặc tính và đã được cải biến chút ít, cái mà chúng ta gọi là các nhóm trung gian hoặc các nhóm khác thường.
Các nhóm càng khác thường thì số lượng các loài liên kết bị tuyệt chủng càng lớn. Và chúng ta có những bằng chứng cho thấy các nhóm khác thường đã bị tổn thất rất lớn bởi sự tuyệt chủng, vì chúng nói chung được đại diện bởi rất ít loài; và các loài như vậy như xuất hiện nói chung thường rất khác nhau, điều này cũng mang đến sự tuyệt chủng. Ví dụ, chủng Omithorhynchus và Lepidosiren là khác thường vì chúng không chỉ đại diện cho một loài mà là cả chục loài khác nhau; nhưng sự đa dạng về loài, theo tôi sau khi tiến hành các khảo sát, thông thường không phải do vài chủng khác thường. Tôi nghĩ chúng ta có thể dựa vào dẫn chứng này bằng cách xem các loài khác thường như các nhóm bại trận bởi các đối thủ khác thành công hơn, với một số ít thành viên giữ gìn do một vài thay đổi có lợi của tự nhiên.
Mr. Waterhouse đã nhận xét rằng, khi một thành viên của một nhóm của động vật thể hiện một sự tương đồng với một nhóm khác, sự tương đồng này trong đa số các trường họp thường phổ biến và không đặc biệt: giống quan điểm của ông Waterhouse, loài Rodent, loài thú có túi có những đặc điếm gần giống loài Marsupial; nhưng trong các điểm loài này tiếp cận thứ tự này, các quan hệ của nó rất chung chung, và không phải riêng với bất kỳ một loài thú có túi nào. Trong khi các điểm tưomg đồng của Bizcacha với các thú có túi được tin là có thật và không đơn thuần là đặc tính được chấp nhận, chúng phù họp với lý thuyết của tôi về sự thừa kế chung. Bởi vậy chúng ta phải giả thiết rằng tất cả loài Rodents, bao gồm cả Bizcacha, đều rẽ nhánh từ một loài thú có túi rất cổ xưa nào đó, và sẽ có một đặc tính với tất cả các loài thú có túi hiện hữu; hoặc cả các loài gặm nhấm lẫn thú có túi đều phân nhánh ra từ một tổ tiên chung, cả hai nhóm lại từng trải qua rất nhiều tiến hoá trong các hướng phân kỳ. Theo quan điểm rằng chúng ta có thể giả sử rằng Bizcacha, do sự thừa kế, mang nhiều của đặc tính của to tiên cổ xưa của nó hơn các loài gặm nhấm khác; và bởi vậy nó sẽ không có liên quan đặc biệt tới bất kỳ một loài thú có túi đang hiện hữu, nhưng có quan hệ gián tiếp với tất cả hoặc gần như tất cả các loài thú có túi, do đã giữ được các đặc tính của tổ tiên chung của chúng, hoặc của các thành viên ban đầu của nhóm. Mặt khác, như ông Waterhouse đã nhận xét, trong số tất cả thú có túi, loài Phascolomys không gần giống với hầu hết các loài gặm nhấm. Trong trường hợp này, có thể nghi ngờ rằng sự giống nhau chỉ là sự tưomg tự, do Phascolomys dần phải thích nghi với các thói quen giống như các thói quen của loài gặm nhấm. Trước đây, De Candolle đã từng có nghiên cứu tương tự về sự tương đồng giữa các thực vật khác nhau.
Theo nguyên lý của sự nhân giống và dần dần phân kỳ đặc tính của các loài thừa kế từ một cha mẹ chung, cùng với sự duy trì nhờ sự thừa kế của vài đặc tính chung của chúng, chúng ta có thể hiểu sự tương đồng lan truyền và hết sức phức tạp trong tất cả các thành viên của cùng họ, chi hoặc các nhóm cao hơn được nối với nhau. Bố mẹ chung của các họ, phân nhánh ra do sự tuyệt chủng của các nhóm khác nhau và của dại diện các nhóm sẽ truyền một ít các đặc tính của nó, qua các sửa đổi khác nhau tới mọi loài con cháu; và vài loài sẽ được liên hệ với nhau bởi rất nhiều sự tương đồng lòng vòng rất dài (điều này có thể nhìn thấy qua sơ đồ nêu trên), tăng lên do các thế hệ trước. Do khó thể hiện các mối quan hệ máu thịt giữa tất cả các của các dòng họ quý phái và cổ xưa trước, thậm chí khi có sự giúp đỡ của một cây phả hệ, và điều này gần như không thể làm được nếu không có sự giúp đỡ này, chúng ta có thể hiểu những khó khăn khác thường mà các nhà tự nhiên học đã trải qua để mô tả, không có sự giúp đỡ của một sơ đồ, nhiều mối tương đồng giữa các thành viên của hệ thống tự nhiên.
Sự tuyệt chủng, như chúng ta đã thấy trong chương IV, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định nghĩa và mở rộng các khoảng giữa vài nhóm trong mỗi lớp. Chúng ta có thể chỉ dựa vào đó để nhận thấy sự phân biệt trong toàn bộ các lớp, của chim với tất cả các động vật có cánh khác bởi lòng tin rằng nhiều dạng sống cổ xưa đã hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của loài chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên trung gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn còn ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn được liên kết với nhau bởi một chuỗi tương đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng giúp phân ra các nhóm: không có phương tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên trái đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự khác nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các loài từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế nhất, tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự nhiên, là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ A đến L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo ra các nhóm con cháu biến dị lớn . Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và cha mẹ nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất. Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một cái cây chúng ta có thể chỉ rõ ra nhánh này hoặc nhánh kia, dù ở hai hướng khác nhau và ghép chúng lại cùng nhau. Chúng ta không thể định nghĩa vài nhóm; nhưng chúng ta có thể chọn ra các loại, hoặc các mẫu dạng, đại diện hầu hết đặc tính của mỗi nhóm, dù lớn hay nhỏ, và từ đó đưa ra một ý tưởng chung về giá trị của những khác biệt giữa chúng. Chúng ta sẽ chắc chắn không bao giờ thành công trong việc tạo ra một tập hợp hoàn hảo; tuy vậy, chúng ta đang hướng tới trong phương thức này ứng các lớp nhất định, và Milne Edwards đã nhấn manh rằng, qua tầm quan trọng của mỗi loài chúng ta có thể phân loại chúng.
Cuối cùng, chúng ta đã thấy rằng quá trình chọn lọc tự nhiên dẫn đến cuộc tranh đấu cho sự tồn tại, và tất yếu sẽ gây ra sự tuyệt chủng và phân kỳ của đặc tính con cháu từ một loài cha mẹ trội - giải thích đặc tính phổ biến và lớn đó trong các sự tương đồng của tất cả các thể hữu cơ, tức là, sự lệ thuộc của chúng trong nhóm và dưới nhóm lại. Chúng ta sử dụng các yếu tố di truyền trong việc phân loại các các cá thể của các giới tính lẫn của mọi lứa tuổi, mặc dù có ít đặc tính chung của một loài; chúng ta sử dụng di truyền bên trong phân loại ghi nhận các biến dị, tuy nhiên sự khác nhau chúng có thể từ cha mẹ; và tôi tin rằng phần tử này của di truyền đã che giấu các mối ràng buộc mà bất cứ nhà tự nhiên học nào tìm thấy trong hệ thống tự nhiên. Trên ý tưởng này về hệ thống tự nhiên, được sắp đặt theo phả hệ trong của nó,' với các thứ bậc của sự khác nhau giữa các con cháu từ một cha mẹ chung, được biếu thị bằng các chủng, chi, họ, các thứ tự,... mà chúng ta có thể hoàn toàn biến mất, qua đó tổ tiên của loài chim được liên kết với tổ tiên các loài có cánh khác. Các loài tổ tiên trung gian giữa cá và ếch nhái thì không biến mất hoàn toàn như vậy. Ở đó đã vẫn còn ít hơn trong vài lớp khác, ở các lớp khác, ví dụ như các loài giáp xác vẫn được liên kết với nhau bởi một chuỗi tương đồng dài nhưng dễ vỡ. Sự tuyệt chủng giúp phân ra các nhóm: không có phưomg tiện tuyệt chủng, vì các loài sống trên trái đất này đều thình lình tái xuất hiện; mặc dù không thể định nghĩa được sự khác nhau giữa các nhóm những có thể liên kết chúng với nhau như đã làm với các loài từng tồn tại, bởi các bước tinh tế như giữa các biến dị hiện hữu tinh tế nhất, tuy vậy một sự phân loại tự nhiên, hoặc ở mức sắp đặt tối thiểu trong tự nhiên, là có thể. Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem lại sơ đồ: các chữ cái, từ A đến L, có thể đại diện cho 11 chủng Silurian, trong số đó có những chủng tạo ra các nhóm con cháu biến dị lớn. Mỗi liên kết trung gian giữa một chủng này và cha mẹ nguyên thủy của họ, và mỗi liên kết trung gian trong mỗi nhánh và mức dưới nhánh của các con cháu của họ, có thể được giả thiết vẫn còn sống; và các mối liên kết do đó trở thành tinh tế như mối liên kết giữa các biến dị tinh tế nhất. Trong trường hợp này khó có thể đưa ra bất kỳ định nghĩa nào vì các thành viên của vài nhóm có thể được phân biệt với cha mẹ của chúng ngay lập tức; hoặc với tổ tiên cổ xưa và chưa biết đựoc biết đến của chúng. Vậy mà sự sắp đặt tự nhiên trong sơ đồ vẫn còn tốt; và, trên nguyên lý của sự thừa kế, tất cả các con cháu từ A, hoặc từ I, đều có những điểm chung. Trong một hiểu các quy luật chúng ta phải tuân theo khi phân loại. Chúng ta có thể hiểu tại sao phải đánh giá kỹ các điểm giống nhau nhất định xa hơn các điểm khác; tại sao chúng ta sử dụng các cơ quan vô ích và sơ khai, hoặc đặc tính sinh lý học nhỏ nhưng quan trọng; tại sao trong việc so sánh một nhóm với một nhóm khác chúng ta thường loại bỏ các tương tự hoặc các đặc tính được chấp nhận, và sử dụng các đặc tính đó cùng các đặc tính bên trong các giới hạn của cùng nhóm đó. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng tất cả các mẫu dạng đã tuyệt chủng và còn sống có thể được nhóm lại cùng nhau trong một hệ thống lớn; và là tại sao vài thành viên của mỗi lớp được liên kết với nhau bởi các chuồi sự tương đồng phức tạp nhất. Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ thoát khỏi hệ thống các sự tương đồng giữa các thành viên của bất kỳ một lớp nào; chúng ta có một đối tượng khác trong suy nghĩ, và không quan tâm đến kế hoạch không bí mật của tạo hóa, chúng ta có thể hy vọng củng cố những chuyển biến dần dần.
HÌNH THÁI HỌC
Chúng ta đã thấy rằng các thành viên của cùng lớp với các thói quen độc lập của chúng trong cuộc sống, giống nhau trong kế hoạch chung của tổ chức. Sự giống nhau này thường được biểu thị bởi khái niệm 'Đồng nhất về kiểu;’ Hoặc bởi việc nói rằng vài phần và các cơ quan trong các loài khác nhau của lớp có cùng vị trí. Toàn bộ đề tài được gọi với tên chung là Hình thái học. Đây là ngành học thú vị nhất của lịch sử tự nhiên, hay chính là linh hồn của ngành này. Một khi mọi thứ được xây dựng trên cùng mô hình đó, và trong đó có xương, được xếp vào cùng các vị trí, liệu cái gì có thể kỳ lạ hơn bàn tay đó của con người, vừa có thể nắm chặt, vừa có thể đào bới để xây đê chắn sóng, so với chân của con ngựa, vầy điều khiển của cá heo, và cánh của doi? Geoffroy St Hilairdoi đã nhấn mạnh sự quan trọng cao của mối quan hệ tưomg đối giữa các vị trí trong một cơ quan : các phần có thể thay đổi trong phạm vi của mẫu dạng và về kích thước, và tuy thế chúng luôn luôn được nối cùng nhau trong cùng thứ tự đó. Chúng ta không bao giờ tìm thấy, ví dụ, xương của cánh tay và tay, hoặc của bắp đùi và chân, bị đổi chỗ. Xương của các loài tương tự nhau cũng sắp xếp tương tự nhau. Chúng ta nhìn thấy quy luật lớn đó trong cấu trúc miệng sâu bọ: miệng con sên có thể uốn thành hình xoắn ốc, con ong hoặc con rệp có thể gấp miệng lại, và các quai hàm lớn của một bọ cánh cứng? Tuy tất cả các cơ quan này phục vụ cho các mục đích khác nhau, đều được hình thành bởi vô số các biến dị của môi trên, các hàm dưới. Quy luật tương tự cũng đúng với cấu trúc miệng và chân tay của loài giáp xác và cả các cây hoa.
Không thể giải thích được sự giống nhau này của thành viên của cùng lớp đó, bởi tính có ích hoặc bởi học thuyết về mục đích.
Cuộc thử nghiệm thất bại của Owen vẫn được chấp nhận bởi đây là công trình thú vị nhất của ông ấy. Ông nói “Dựa trên quan điểm về sự tạo thành độc lập của mỗi thể hữu cơ bình thường, chúng ta chỉ có thể nói rằng; câú trúc của các động thực vật như vậy là do ý Thượng đế”.
Theo lý thuyết của quá
trình chọn lọc tự nhiên của các biến dị nhỏ liên tiếp, mỗi sự cải biến và có lợi
cho cá thể nhưng thường ảnh hưởng đến tưomg quan trong của sự tăng trưởng của
các bộ phận của tổ chức. Trong các sự thay đổi của tự nhiên này, rất ít hoặc
không có sự sửa đổi mẫu nguyên bản hoặc đổi chồ các phần. Các xưcmg của chân
tay có thể được rút ngắn và mở rộng tới bất kỳ phạm vi nào, và dần dần được bao
bọc trong màng dày, do đó vây cá; hoặc một bàn chân có màng có thể có tất cả
xương, hoặc một số xưomg nhất định, có thể dài ra vì một mục đích nào đó: tuy
thế số lượng những biến dị lớn sẽ không làm thay đổi khung xương hoặc mối quan
hệ tương đổi giữa các bộ phận. Nếu chúng ta giả thiết tổ tiên cổ xưa của tất cả
các động vật có vú, có chân tay có cấu trúc giống các loài hiện nay do các mục
đích khác nhau nên chúng ta có thể ngay lập tức hiểu ý nghĩa rõ ràng của cấu
trúc cùng vị trí chân tay của toàn bộ lớp. Do đó với miệng của loài sâu bọ,
chúng ta chỉ có thể nghĩ ràng tổ tiên chung của chúng có một môi trên, hàm dưới.
Các phần này rất đơn giản; quá trình chọn lọc tự nhiên và sau đó sẽ tạo ra các
biển dị vô hạn trong cấu trúc và hàm của miệng của sâu bọ. Tuy nhiên rõ ràng là
các đặc điểm của các chủng nếu bị dần mờ đi thì cuối cùng sẽ mất hẳn bởi sự yếu
ớt và cuối cùng bởi sự loại bỏ hoàn toàn các phần nhất định, bởi sự ghép nối
cùng nhau của các phần khác, và bởi sự gấp đôi hoặc sự nhân lên của các bộ phận
khác, các sự biến dị đều trong giới hạn cho phép. Với điều khiển của các con thằn
lằn biển khổng lồ đã tuyệt chủng, và chất dính trong miệng loài giáp xác là những
đặc tính đã mất đi.
Trên lý thuyết của quá trình chọn lọc tự nhiên, chúng ta có
thể thỏa mãn trả lời các câu hỏi này. Trong những loài có cánh, chúng ta thấy đốt
xương sống bên trong mang các quá trình và các phần phụ thêm nhất định; trong động
vật chân khớp, chúng ta thấy thân thể chúng được chia thành các đoạn, sinh ra
ngoài các phần phụ thêm; và trong các thứ cây có hoa, chúng ta nhìn thấy một đợt
của đường xoắn ốc vòng xoan liên tiếp. Một sự lặp lại bất định của phần đó hoặc
cơ quan là điển hình chung (như Owen đã quan sát) của tất cả các mẫu dạng có biến
đổi thấp hoặc nhỏ bé -bởi vậy chủng ta có thể sẵn sàng tin rằng tổ tiên của
loài có cánh sở hữu nhiều đốt xương sống; tổ tiên của loài chân khớp thì thân
có nhiều đoạn; và tổ tiên các thứ cây có hoa, đều có nhiều đường xoắn. Trước
đây chúng ta thấy các cấu trúc này liên tục lặp lại và tăng về số lượng; do đó
trong quá trình chọn lọc tự nhiên, trong thời gian đã dần biến đổi để thích
nghi với các mục đích đa dạng nhất. Và trong khi toàn bộ số lượng của các biến
dị đã được đem lại bởi các bước nhỏ liên tiếp, chúng ta không cần phải ngạc
nhiên khi khám phá ra trong các phần hoặc các cơ quan, có một sự giống nhau cơ
bản nhất định, được giữ lại bởi sức mạnh của nguyên lý thừa kế.
Các nhà tự
nhiên học thường xuyên ghi nhớ các dạng biến hoá của các động vật có đốt xương
sống : Quai hàm của cua bể được biến thành các chân; nhị hoa và các nhụy của
các hoa dần mất đi; nhưng trong các trường hợp này có lẽ là đúng hơn, như giáo
sw Huxley đã nhận xét, khi nói cả đầu óc lẫn đốt xưcmg sống, cả quai hàm lẫn
các chân,... đều đã tiến hóa, không phải là một từ các bộ phận khác, mà từ một
phần từ chung nào đó. Tuy nhiên, các nhà tự nhiên học nói như vậy theo nghĩa ẩn
dụ: do thời gian dài của di truyền, các cơ quan nguyên thủy của bất kỳ đốt
xương sống nào đã được sửa đổi vào biến thành đầu óc hoặc quai hàm. Tuy sự cải
biến của tự nhiên này đã xuất hiện khá rõ, các nhà tự nhiên học đó khó có thể
tránh dùng ngôn ngữ bóng bẩy để thể hiện ý nghĩa rõ ràng này.
PHÔI SINH HỌC
Khi
tình cờ xem xét một số cơ quan nhất định đó trong các cá thể, phát triển nhằm
các mục đích khác nhau, nhưng trong phôi thai chúng hoàn toàn giống nhau. Các
phôi thai của các động vật khác nhau trong cùng một lớp thì thường tương tự
nhau trong trường hợp của ấu trùng, các phôi thai phát triển tích cực, và đã được
làm cho thích nghi với cuộc sống đặc biệt. Sự giống nhau của các phôi thai đôi
khi kéo dài rất lâu. Nghĩa là các loài chim của cùng một giống và các chủng họ
hàng, thường giống trước hết là bộ lông; như chúng ta nhìn thấy trong hoá thạch
phôi thai chim hét có lông chim. Trong họ mèo, sư tử được phân biệt rõ nhất.
Tuy nhiên chúng ta hiếm khi nhìn thấy phôi thai bỏ đi của hoa kim tước hoặc cây
kim tước, của phyllodineous acaceas, thường giống nhau về lá mọc đối.
Các điểm
của cấu trúc, các phôi thai của các động vật khác nhau của cùng lớp đó giống lẫn
nhau, thường không có quan hệ trực tiếp đến các điều kiện tồn tại của chúng.
Chúng ta không thể, ví dụ, nghĩ rằng trong các phôi thai của loài có cánh có
các động mạch gần mang cá chẻ có liên quan đến các qui định tương tự, ở động vật
có vú sơ sinh được nuôi nấng trong dạ con của mẹ, trong trứng của con chim được
ấp trong tổ, và trong trứng của một ếch ở dưới nước. Chủng ta phải tin tưởng
vào điều đó, hơn là chúng ta phải tin rằng các xương đó trong bàn tay của con
người, cánh của một con dơi, và vây của một cá heo, đều liên quan đến qui định
tương tự của cuộc sống.
Phôi thai trong quá trình phát triển nói chung là có tổ
chức. Tôi ý thức vì khó có thể định nghĩa rõ ràng điều gì quyết định tổ chức
cao hơn hoặc thấp hơn. Nhưng không ai có thể tranh cãi xem con bướm thì phát
triển cao hơn sâu bướm. Trong vài trường hợp, động vật đã trưởng thành nói
chung là được xem là thấp hơn về quy mô so với phôi thai ấu trùng, với một số
loài giáp xác ký sinh nhất định ví dụ như loài hà : các ấu trùng trong giai đoạn
đầu tiên có ba cặp chân, một mắt đơn rất đơn giản, và một miệng, sau đó chúng
tăng thêm nhiều về kích thước. Trong giai đoạn thứ hai, giai đoạn nhộng của bướm,
chúng có sáu cặp chân xinh đẹp dùng để bơi lội, một cặp mắt lộng lẫy, và râu vô
cùng phức tạp. Khi cấu trúc này được hoàn thành chúng sẽ cố định cho cuộc sống:
chân của chúng được chuyển đổi vào trong các cơ quan có thể bắt; miệng chúng
cũng có cấu trúc hoàn chỉnh; nhưng chúng có không có râu và hai mắt biến trở lại
thành một đốm mắt đơn. Như vậy con hà có thể được coi là động vật bậc thấp hơn
so với cấu trúc. Nhưng trong các chủng khác ấu trùng lại có cấu trúc bình thường,
hoặc nhập vào cái mà tôi gọi là các con đực complemental và trong đó, sự phát
triển chắc chắn sẽ thụt lùi; vì con đực là một chỉ là bao tải, sống một thời
gian ngắn, và không có miệng, dạ dày, hoặc cơ quan quan trọng khác, trừ cơ quan
sinh sản.
Chúng ta đã quen nhiều với vậy việc xem xét sự khác nhau trong cấu
trúc giữa phôi thai và loài trưởng thành, và sự giống nhau giữa các phôi thai của
các động vật rất khác nhau được phân loại, chúng ta có thể đưa ra các dẫn chứng
về vấn đề này. Nhưng hiển nhiên không có lý do tại sao cánh của con dơi, hoặc
vây của cá heo, không cần lộ ra ngoài với tất cả các phần trong tỉ lệ thích hợp,
ngay khi bất kỳ cấu trúc nào có rõ ràng trong phôi thai. Và trong vài nhóm của
các động vật và các thành viên nhất định bên trong của các nhóm khác, phôi thai
không khác nhiều so với dạng trưởng thành: như Owen đã nhận xét trường hợp con
mực: “Không tiến hóa; đặc tính cephalopodic được biểu lộ lâu trước khi các bộ
phận của phôi thai được hoàn thành”; và một lần nữa trong con nhện, “ở đó không
gì là xứng đáng được gọi là tiến hóa”. Ấu trùng của sâu bọ, thích nghi với các
thói quen đa dạng và tích cực nhất, hoặc không hoạt động, được cha mẹ cho ăn hoặc
đặt trong môi trường dinh dưỡng thích hợp.
Rất khó để chúng ta có thể giải
thích những dẫn chứng về phôi sinh học, đó là sự khác nhau rất chung, nhưng
không lớn trong cấu trúc giữa phôi thai và thể trưởng thành; của các phần trong
cùng phôi thai riêng lẻ đó, mà cuối cùng không phục vụ cho các mục đích đa dạng,
các phôi thai tăng trưởng giống nhau; các phôi thai của các loài khác nhau bên
trong cùng lớp đó, nói chung giống nhau; cấu trúc của phôi thai không phải là
thể hữu cơ có quan hệ gần gũi đến điều kiện tồn tại của nó, nhưng phôi thai trở
nên tích cực ở bất kỳ thời kỳ nào của cuộc sống và phải nuôi dưỡng cho chính
nó; phôi thai rõ ràng đôi khi là một tổ chức bậc cao hơn hẳn động vật trưởng
thành. Tôi tin rằng rằng tất cả các dẫn chứng này có thể được giải thích dựa
trên quan điểm của di truyền với sự cải biến.
Có một giả thiết thường hay đặt
ra, có lẽ từ các dị hình ảnh hưởng phôi thai ở một thời kỳ rất sớm, mà là các
biến dị tất yếu xuất hiện ở thời kỳ đó. Nhưng chúng ta có ít bằng chứng về vấn
đề này; rõ ràng là những người chân nuôi gia súc như ngựa, và một số loài khác
cũng không thể nói chính xác cho đến lúc động vật được sinh ra, mẫu dạng cuối
cùng sẽ ra đời. Chúng ta nhìn thấy điều này rõ ràng trong con cháu của chính
mình; chúng ta không thể luôn luôn biết chúng sẽ cao hay thấp, hay có các đặc
tính chính xác nào. Câu hỏi không phải ở thời kỳ mà của cuộc sống luôn có biến
dị, nhưng ở thời kỳ nào biến dị đó hoàn toàn lộ ra ngoài. Sự biến dị sẽ do các
yếu đố giống cái và giống đực chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện sống của cha mẹ,
hoặc tổ tiên của chúng. Tuy vậy tác động chỉ ở thời kỳ rất sớm, thậm chí trước
khi hình thành phôi thai, có thể xuất hiện muộn trong cuộc sống; trong khi một
bệnh di truyền, nếu đã xuất hiện trong trong thế hệ trước sẽ được truyền lại
cho con cháu. Hoặc một lần nữa, sừng của thú nuôi lai đã bị ảnh hưởng bởi hình
dạng sừng của cả hai giống cha mẹ. Vì lợi ích của một động vật sơ sinh, nó còn
trong dạ con của mẹ nó, hoặc trong trứng, hoặc nó được nuôi nấng và bảo vệ bởi
cha mẹ của nó, không phải là điều quan trọng nếu hầu hết các đặc tính đều được
nó hoàn toàn thu nhận từ khi còn bé hoặc khi đã trưởng thành. Nó không ảnh hưởng,
ví dụ, đến một con chim nếu có mỏ nó dài hơn thì sẽ có nhiều thức ăn hơn, vì
khi còn bé chúng được cha mẹ mớm mồi. Từ đây, tôi kết luận, có thể do trải qua
những cải biến liên tiếp, bởi các loài đã thu nhận cấu trúc hiện hữu của nó, có
thể điều này đã xảy ra bất ngờ ở một thời kỳ sau này của cuộc sống; ví dụ chính
qua những con vật nuôi của chúng ta . Nhưng trong các trường hợp khác thật là
khó có thể những biến dị này xuất hiện.
Các sự biến dị nhất định có thể chỉ xuất
hiện ở các tuổi tương ứng, ví dụ, đặc biệt trong sâu bướm, tổ kén, hoặc các trạng
thái thành trùng của bướm tằm; hoặc, lần nữa, trong sừng của thú nuôi trưởng
thành. Nhưng hơn thế, các sự biến dị này có thể có xuất hiện vào cùng một tuổi
tương ứng ở cha mẹ và con cái. Tôi không chỉ muốn nói đến các trường hợp bất biến;
và tôi có thể đưa ra rất nhiều trường hợp có biến dị đã xảy ra không ngờ ở một
tuổi sớm hơn ở con cái so với ở cha mẹ.
Hai nguyên lý này, nếu sự thật của chúng được chấp nhận sẽ,
(tôi tin rằng sẽ giải thích rằng tất cả xác định trong các dẫn chứng về phôi
sinh học). Nhưng trước hết chúng ta sẽ xem một vài trường hợp tương tự của các
biến dị vật nuôi. Một tác giả nào đó mà đã viết về loài chó, khẳng định rằng
chó săn và chó chăn cừu có vẻ khác nhau nhưng thật sự là các biến dị cơ quan hệ
gần gũi, và có lẽ thừa kế từ cùng loài hoang dã; theo những người chăn nuôi, chủng
khác nhiều so với cha mẹ chủng, đây là trường hợp xét đoán bằng mắt. Tôi nhận
thấy mà các con chó con đã thu nhận đầy đủ số lượng các khác biệt giữa cha mẹ
chúng. Như vậy, một lần nữa, tôi được nghe rằng con bê bò và ngựa đua non khác
nhiều so với các động vật này khi trưởng thành; điều này làm tôi ngạc nhiên, vì
tôi nghĩ đó có thể là sự khác nhau giữa hai dòng giống thuộc một lớp gây ra bởi
sự chọn lọc dân các giống nhập cư; nhưng việc này đã được đo tính cẩn thận. Tôi
nhận thấy các con ngựa non không có cách nào thu nhận đầy đủ số lượng của các
biến dị của cha mẹ chúng.
Các bằng chứng trên cho phép tối kết luận rằng vài loài bồ câu nuôi đã thừa kế các đặc tính từ loài bồ câu hoang dã, khi so sánh bồ câu non của nhiều giống, trong mười hai giờ sau khi chúng được sinh ra tôi cẩn thận đo ti lệ của mỏ chim, chiều rộng của miệng, chiều dài của lỗ mũi và của mi mắt, kích thước của bàn chân và chiều dài của chân và đuôi của loài hoang dã và cả vật nuôi. Và chắc chắn là chúng được xếp và các chủng khác nhau và là sinh vật tự nhiên. Một vài đặc tính sự khác nhau ví dụ, của chiều rộng của miệng khó có thể được phát hiện ra dạng non. Nhưng có một ngoại lệ đáng đó là loài chim mặt ngắn non rất khác với bồ câu núi non trong tất cả các tỉ lệ của nó trong khi chúng giống nhau khi trưởng thành.
Hai nguyên lý trên giúp tôi giải thích các dẫn chứng về các giai đoạn về sau của các phôi thai biến dị của vật nuôi. Những người sành lựa chọn ngựa, chó và bồ câu khi chúng đã trưởng thành, chứng không khác mấy về chất lượng và cấu trúc mong muốn sau này. Và các trường hợp cho thấy, đặc biệt là của bồ câu, các sự khác nhau điển hình của giá trị mỗi dòng giống (lớp), được tích lũy bởi sự chọn lọc con người nói chung không xuất hiện ở một thời kỳ sớm của cuộc sống, và đã được thừa kế bởi con cái ở một cách tương ứng, cũng không phải là thòi kỳ sớm. Nhưng trường hợp của chim bồ câu mặt ngắn, sau 12 giờ thu nhận các tỉ lệ thích hợp của nó, cho thấy rằng đây không phải là quy luật phổ biến; các sự khác nhau đặc trưng phải xuất hiện ở một thời kỳ sớm hơn hơn thông thờng, hoặc, nếu không phải vậy thì cũng là một thời điểm tương ứng cha mẹ khi trưởng thành.
Bây giờ chúng ta áp dụng các dẫn chứng này và hai nguyên lý ở trên, mặc dù chưa được chứng minh. Chúng ta thử xem một giống chim, trên lý thuyết của tôi là từ một loài cha mẹ nào đó, và vài loài mới sửa đổi thường xuyên qua quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với các thói quen. Sau đó, từ những bước biến dị liên tiếp đã xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và đã được thừa kế ở một tuổi tương ứng, con của các loài của giống mới giả định của chúng ta sẽ có xu hướng biểu lộ sự giống nhau với các cá thể trưởng thành, đúng như chúng ta đã thấy trong trường hợp của bồ câu. Chúng ta có thể mở rộng quan điểm này tới toàn bộ họ, hoặc thậm chí phân loại. Các (kẻ) chi trước, ví dụ, giống các các chân trong các loài cha mẹ, có thể trở thành các bàn tay sau khi tiến hoá, cũng có thể thành chi điều khiển, cánh; và theo hai nguyên lý ở trên tức là sự cải biến liên tiếp xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và thể hữu cơ thừa kế ở một tuổi muộn tương ứng, các chân tay trong các phôi thai của con cháu sẽ gần giống loài cha mẹ của cha mẹ vì chúng chưa được sửa đổi. Nhưng trong các loài mới riêng lẻ, các chi trước trong phôi thai sẽ khác các chi trước của động vật đã trưởng thành; các chi đó đã cải biến ở một thời kỳ khá muộn của cuộc sống, và đã được chuyển đổi thành các bàn tay, hoặc các chi điều khiển, hoặc các cánh. Dù ảnh hưởng của việc liên tục sử dụng hoặc không sử dụng đến một bộ phận có thể sẽ có trong việc sửa đổi một cơ quan những chủ yếu là ở động vật đã trưởng thành, đã có đầy đủ sức mạnh của nó và phải tự kiếm sống; và các tác động như vậy được tạo ra sẽ được thừa kế ở một tuổi tương ứng khi đã già đi. Trong khi đó các động vật nhỏ sẽ không thay đổi, hoặc biến đổi với mức độ nhỏ hơn do các tác dụng này.
Các cơ quan sơ khai, yếu ớt, hoặc bị loại bỏ - Các cơ quan hoặc các phần trong các điều kiện lạ lùng này thường vô dụng, nói chung có rất nhiều trong tự nhiên. Ví dụ, các con đực ban đầu đều có vú, hay như các cánh ngắn của chim, hoặc ở rắn phổi bị teo đi, một số loài rán khác lại có các chi bị teo. Vài trường hợp các cơ quan sơ khai vô cùng kỳ lạ; ví dụ, sự có mặt của răng trong của thai nhi cá voi, nào khi và sự có mặt của răng, mà không bao giờ đâm thủng ra ngoài lợi của .Đó là do nguyên tắc cơ sở răng có thể được phát hiện ra trong mỏ chim của phôi thai một số con chim nhất định. Không gì có thể rõ ràng hơn là các cánh của sâu bọ, được hình thành để bay nhưng đã giảm bớt về kích thước.
Ý nghĩa của các cơ quan sơ khai thường khá hoàn hảo. Ví dụ có các bọ cánh cứng của cùng giống đó (và thậm chí của các cùng loài có cảnh giống kích thước cánh của các loài họ hàng nhưng không phát triển đẩy đủ, giống như vú ở các con đực. Các con bò cái nuôi trong nhà chúng ta thường có bốn vú trong đó có hai vú bị teo đi, hai vú còn lại rất phát triển và cho sữa. Trong các cây riêng lẻ cùng loài, các cánh hoa đôi khi xuất hiện như các cơ quan sơ khai, và đôi khi ở trong một trạng thái được phát triển kỹ. Khi phân ra các giới tính trong các cây Với, các hoa giống đực thường có một nhụy bị teo; và Kelreuter đã phát hiện ra đó là do viêc phối giống giữa các cây giống đực với loài cây lưỡng tính, trong con cái lai kích thước nhuỵ tăng lên hoàn toàn giống trong tự nhiên.
Một cơ quan phục vụ được hai mục đích, có thể sẽ thành sơ khai hoặc bị loại bỏ nhường chỗ cho các cơ quan khác có ích hơn. Trong các cây, nhụy sẽ cho phép các ống phấn hoa phát triển bảo vệ phấn hoa bên trong. Nhưng trong họ hoa cánh kép, các hoa nhỏ giống đực, mà tất nhiên là không thể được thụ phấn, có một nhụy trong một trạng thái sơ khai, các bộ phận khác phát triến tốt và được bao phủ bởi các lông mao như trong các hoa cánh kép khác, nhằm quét phấn hoa ra khỏi các nhụy hoa lân cận.
Do đó có thể nói, một cơ quan có thể trở thành sơ khai cho mục đích thích hợp của nó, và được sử dụng cho một đối tượng khác. Ngoài ra còn có các ví dụ tương tự khác. Các cơ quan sơ khai trong cá thể của các loài phụ thuộc vào sự thay đổi trong độ phát triển và trong các khía cạnh khác. Hơn nữa, các loài họ hàng, mức độ sơ khai của các bộ phận cũng khá nhiều. Ví dụ như trạng thái cánh của các con mối cái trong các nhóm nhất định.
Các cơ quan sơ khai có thể bị loại bỏ hoàn toàn; và điều này ngụ ý vì chúng ta thấy hoàn toàn không gìm thấy một cơ quan nào đó trên một cơ thể vì nó đã biến mất. Đối với cây hoa mõm chó hầu như không tìm thấy nhị hoa thứ năm; nhưng đôi khi lại có thể nhìn thấy. Trong việc lần theo dấu vết các sự tương hợp của cùng bộ phận trong các thành viên khác nhau của một lớp, không gì là chung hơn, hoặc cần thiết hơn, việc sử dụng và khám phá ra các cơ quan sơ khai. Điều này được cho thấy trong các bản vẽ của Owen đưa ra về xương đầu và xương chân của ngựa, con bò, con tê giác.
Đó là một dẫn chứng quan trọng về các cơ quan sơ khai, như răng trong ví dụ nói trên và ở cá voi và loài ruminants, thường đợc phát hiện ra trong phôi thai, nhưng về sau biến mất hoàn toàn bộ .Tôi tin rằng đây cũng là một quy luật phổ biến mà một phần sơ khai của cơ quan lớn hơn tiếp tục được chia ra trong phôi thai, hơn là trong thể trưởng thành; và ở cơ quan ở động vật nhỏ ít sơ khai hơn, hoặc thậm chí không biết là đang trong độ sơ khai nào.
Bây giờ tôi sẽ trình bày về các nguyên nhân dẫn đến các cơ quan sơ khai. Trong khi đó số các cơ quan là hoàn hảo thì những cơ quan sơ khai này lại vô dụng và không còn giá trị nhiều cho sinh vật sở hữu nó. Trong các công trình về lịch sử tự nhiên, các cơ quan sơ khai nói chung được nói là đã được tạo ra vì mục đích làm cân đối, hoặc là theo đúng trật tự trong sơ đồ của tự nhiên; “Nhưng điều này đối với tôi không thể giải thích các dẫn chứng đơn giản nhất. Như vậy không lẽ vì các hành tinh quay tròn trong quỹ đạo xung quanh mặt trời, các vệ tinh xung quanh các hành tinh này cũng chỉ có mặt vì mục đích của sự đối xứng và hoàn thành sơ đồ của tự nhiên hay sao?” Một nhà sinh lý học nổi tiếng cho rằng sự có mặt của các cơ quan sơ khai thực tế là sự dư thừa, hoặc có hại tới hệ thống. Chúng ta có thể giả thiết sự hình thành các răng sơ khai trong phôi thai con bê là do sự gia tăng nhanh chóng lượng vôi bài tiết ra? Dựa trên quan điểm của di truyền với sự cải biến, nguồn gốc của các cơ quan sơ khai thường đơn giản. Chúng ta có nhiều trường hợp xuất hiện các cơ quan sơ khai trong các vật nuôi của chúng ta, ví dụ như đốt xương cụt thay cho đuôi thứ hai, vết tích của một cái tai phụ, các sừng nhỏ trong các vật nuôi hoặc hoa của súp lơ. Chúng ta thường nhìn thấy các cơ quan sơ khai trong các quái thai. Nhưng tôi nghi ngờ rằng nếu đưa dù bất kỳ trường hợp có thể đặt trong một trạng thái của tự nhiên của các cơ quan sơ khai, xa hơn nữa là các cơ quan sơ khai đó thể được tạo ra; tôi nghi ngờ rằng liệu có phải tất cả các loài trong tự nhiên đều đã từng trải qua các thay đổi đột ngột. Nhưng tôi tin sự đào thải đã dẫn đến việc giảm dần dần của nhiều cơ quan, cho đến khi chúng trở về mức sơ khai, như trường hợp mắt của các động vật sống ở các hang động tối, và cánh của chim sống ở các hòn đảo ngoài khơi vì ít bay mà mất khả năng bay. Các cơ quan hữu ích sống trong một số điều kiện nhất định có thể bị tổn thương khi thay đổi môi trường sống ví dụ cánh của bọ cánh cứng sống bằng các hòn đảo nhỏ và biệt lập; và gặp quá trình chọn lọc tự nhiên tiếp tục giảm bớt một cách chậm chạp các cơ quan, cho đến khi nó được trở lại vô hại và ở trạng thái sơ khai.
Bất kỳ thay đổi về chức năng, có thể được đem lại bởi các biến đổi nhỏ của quá trình chọn lọc tự nhiên; do đó một cơ quan theo thời gian thay đổi các thói quen sống, vô ích hoặc có hại cho một mục đích, có thể dễ dàng được sửa đổi và sử dụng cho mục đích khác. Hoặc cơ quan đó có thể được giữ chỉ cho một trong các chức năng cũ của nó. Một cơ quan, khi trở thành vô ích, có thể là do sự biến dị của nó không thể được kiểm tra bởi quá trình chọn lọc tự nhiên. Ở bất kỳ thời kỳ nào của cuộc sống sự đào thải hoặc sự chọn lọc giảm bớt một cơ quan nói chung khi thế hữu cơ đã trưởng thành và có các sức mạnh đầy đủ nguyên tắc sự thừa kế ở các tuổi tương ứng sẽ tái sản xuất cơ quan trong trạng thái giảm của nó ở cùng tuổi đó, và vậy thì sẽ ít khi ảnh hưởng hoặc giảm bớt nó trong phôi thai. Từ đây chúng ta có thể hiểu các cơ quan sơ khai trong phôi thai tương đối lớn hơn, và tương đối nhỏ hơn ở động vật trưởng thành. Nhưng nếu mỗi bước của quá trình giảm bớt này sẽ được thừa kế, không phải ở tuổi tương ứng mà sớm hơn cơ quan sơ khai có xu hướng bị mất toàn bộ, hay là đã bị loại bỏ hoàn toàn. Nguyên tắc này đã được giải thích trong một chương trước, bởi nguyên liệu nào hình thành bất kỳ phần nào hoặc cấu trúc, nếu không hữu ích cho người sở hữu chủng sẽ được cất giữ như thời nó đã có từ xưa, điều này sẽ dẫn đến sự loại bỏ hoàn toàn các cơ quan sơ khai.
Trong khi các cơ quan sơ khai có mặt trong mọi bộ phận của tổ chức, thường tồn tại lâu dài, sẽ được thừa kế là điều chúng ta có thể hiểu được dựa trên quan điểm phân loại theo phả hệ. Dựa trên quan điểm của di truyền với sự cải biến, chủng ta có thể kết luận sự tồn tại của các cơ quan sơ khai là không hoàn hảo, và vô ích, bị loại bỏ, như theo học thuyết bình thường của sự tạo thành, có thể thậm chí đã được đoán trước, và có thể được tính toán theo bởi các quy luật thừa kế.
Tóm tắt chương - Trong chương này tôi đề cập đến sự lệ thuộc của các nhóm vào tất cả các cơ quan trong cơ thể; bản chất của mối quan hệ đó, từ các thể hữu cơ đã tuyệt chủng hoặc còn sống được hợp nhất từ sự tương đồng phức tạp trong một hệ thống; các quy luật và các khó khăn mà các nhà tự nhiên học gặp phải trong việc phân loại giá trị của đặc tính, nếu phổ biến và không thay đổi, rằng liệu sự quan trọng cuả các đặc tính sống còn cao hay của các đặc tính nhỏ bé quan trọng hơn, sự đối lập trong những đánh giá tương tự giữa các đặc tính được chấp nhận, và các đặc tính tương đồng; và các quy luật tương tự khác; mọi thứ tự nhiên dựa trên quan điểm rằng của bậc cha mẹ chung của các mẫu loài đều được nhà tự nhiên học xem xét như những loài có quan hệ gần gũi liên minh, cùng với sự cải biến của họ qua quá trình chọn lọc tự nhiên, với các sự ngẫu nhiên sự tuyệt chủng và sự phân kỳ của các đặc tính.
Khi đánh giá quan điểm này về sự phân loại, cần nhớ rằng các phần tử của di truyền thường được sử dụng trong việc xếp hạng giới tính, tuổi, và ghi nhận những biến dị của loài đó, tuy nhiên chúng có thể khác nhau trong cấu trúc. Nếu chúng ta sử dụng phần tử này nhiều hơn, chắc chắn là sự giống nhau trong các thể hữu cơ, thì chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của hệ thống tự nhiên: đó là sự sắp đặt theo phả hệ, với các thứ bậc của sự khác nhau được đánh dấu bởi các thuật ngữ như biến dị, các loài, chủng, họ, chi, và các lớp.
Các bằng chứng trên cho phép tối kết luận rằng vài loài bồ câu nuôi đã thừa kế các đặc tính từ loài bồ câu hoang dã, khi so sánh bồ câu non của nhiều giống, trong mười hai giờ sau khi chúng được sinh ra tôi cẩn thận đo ti lệ của mỏ chim, chiều rộng của miệng, chiều dài của lỗ mũi và của mi mắt, kích thước của bàn chân và chiều dài của chân và đuôi của loài hoang dã và cả vật nuôi. Và chắc chắn là chúng được xếp và các chủng khác nhau và là sinh vật tự nhiên. Một vài đặc tính sự khác nhau ví dụ, của chiều rộng của miệng khó có thể được phát hiện ra dạng non. Nhưng có một ngoại lệ đáng đó là loài chim mặt ngắn non rất khác với bồ câu núi non trong tất cả các tỉ lệ của nó trong khi chúng giống nhau khi trưởng thành.
Hai nguyên lý trên giúp tôi giải thích các dẫn chứng về các giai đoạn về sau của các phôi thai biến dị của vật nuôi. Những người sành lựa chọn ngựa, chó và bồ câu khi chúng đã trưởng thành, chứng không khác mấy về chất lượng và cấu trúc mong muốn sau này. Và các trường hợp cho thấy, đặc biệt là của bồ câu, các sự khác nhau điển hình của giá trị mỗi dòng giống (lớp), được tích lũy bởi sự chọn lọc con người nói chung không xuất hiện ở một thời kỳ sớm của cuộc sống, và đã được thừa kế bởi con cái ở một cách tương ứng, cũng không phải là thòi kỳ sớm. Nhưng trường hợp của chim bồ câu mặt ngắn, sau 12 giờ thu nhận các tỉ lệ thích hợp của nó, cho thấy rằng đây không phải là quy luật phổ biến; các sự khác nhau đặc trưng phải xuất hiện ở một thời kỳ sớm hơn hơn thông thờng, hoặc, nếu không phải vậy thì cũng là một thời điểm tương ứng cha mẹ khi trưởng thành.
Bây giờ chúng ta áp dụng các dẫn chứng này và hai nguyên lý ở trên, mặc dù chưa được chứng minh. Chúng ta thử xem một giống chim, trên lý thuyết của tôi là từ một loài cha mẹ nào đó, và vài loài mới sửa đổi thường xuyên qua quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với các thói quen. Sau đó, từ những bước biến dị liên tiếp đã xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và đã được thừa kế ở một tuổi tương ứng, con của các loài của giống mới giả định của chúng ta sẽ có xu hướng biểu lộ sự giống nhau với các cá thể trưởng thành, đúng như chúng ta đã thấy trong trường hợp của bồ câu. Chúng ta có thể mở rộng quan điểm này tới toàn bộ họ, hoặc thậm chí phân loại. Các (kẻ) chi trước, ví dụ, giống các các chân trong các loài cha mẹ, có thể trở thành các bàn tay sau khi tiến hoá, cũng có thể thành chi điều khiển, cánh; và theo hai nguyên lý ở trên tức là sự cải biến liên tiếp xảy ra không ngờ ở một tuổi khá muộn, và thể hữu cơ thừa kế ở một tuổi muộn tương ứng, các chân tay trong các phôi thai của con cháu sẽ gần giống loài cha mẹ của cha mẹ vì chúng chưa được sửa đổi. Nhưng trong các loài mới riêng lẻ, các chi trước trong phôi thai sẽ khác các chi trước của động vật đã trưởng thành; các chi đó đã cải biến ở một thời kỳ khá muộn của cuộc sống, và đã được chuyển đổi thành các bàn tay, hoặc các chi điều khiển, hoặc các cánh. Dù ảnh hưởng của việc liên tục sử dụng hoặc không sử dụng đến một bộ phận có thể sẽ có trong việc sửa đổi một cơ quan những chủ yếu là ở động vật đã trưởng thành, đã có đầy đủ sức mạnh của nó và phải tự kiếm sống; và các tác động như vậy được tạo ra sẽ được thừa kế ở một tuổi tương ứng khi đã già đi. Trong khi đó các động vật nhỏ sẽ không thay đổi, hoặc biến đổi với mức độ nhỏ hơn do các tác dụng này.
Các cơ quan sơ khai, yếu ớt, hoặc bị loại bỏ - Các cơ quan hoặc các phần trong các điều kiện lạ lùng này thường vô dụng, nói chung có rất nhiều trong tự nhiên. Ví dụ, các con đực ban đầu đều có vú, hay như các cánh ngắn của chim, hoặc ở rắn phổi bị teo đi, một số loài rán khác lại có các chi bị teo. Vài trường hợp các cơ quan sơ khai vô cùng kỳ lạ; ví dụ, sự có mặt của răng trong của thai nhi cá voi, nào khi và sự có mặt của răng, mà không bao giờ đâm thủng ra ngoài lợi của .Đó là do nguyên tắc cơ sở răng có thể được phát hiện ra trong mỏ chim của phôi thai một số con chim nhất định. Không gì có thể rõ ràng hơn là các cánh của sâu bọ, được hình thành để bay nhưng đã giảm bớt về kích thước.
Ý nghĩa của các cơ quan sơ khai thường khá hoàn hảo. Ví dụ có các bọ cánh cứng của cùng giống đó (và thậm chí của các cùng loài có cảnh giống kích thước cánh của các loài họ hàng nhưng không phát triển đẩy đủ, giống như vú ở các con đực. Các con bò cái nuôi trong nhà chúng ta thường có bốn vú trong đó có hai vú bị teo đi, hai vú còn lại rất phát triển và cho sữa. Trong các cây riêng lẻ cùng loài, các cánh hoa đôi khi xuất hiện như các cơ quan sơ khai, và đôi khi ở trong một trạng thái được phát triển kỹ. Khi phân ra các giới tính trong các cây Với, các hoa giống đực thường có một nhụy bị teo; và Kelreuter đã phát hiện ra đó là do viêc phối giống giữa các cây giống đực với loài cây lưỡng tính, trong con cái lai kích thước nhuỵ tăng lên hoàn toàn giống trong tự nhiên.
Một cơ quan phục vụ được hai mục đích, có thể sẽ thành sơ khai hoặc bị loại bỏ nhường chỗ cho các cơ quan khác có ích hơn. Trong các cây, nhụy sẽ cho phép các ống phấn hoa phát triển bảo vệ phấn hoa bên trong. Nhưng trong họ hoa cánh kép, các hoa nhỏ giống đực, mà tất nhiên là không thể được thụ phấn, có một nhụy trong một trạng thái sơ khai, các bộ phận khác phát triến tốt và được bao phủ bởi các lông mao như trong các hoa cánh kép khác, nhằm quét phấn hoa ra khỏi các nhụy hoa lân cận.
Do đó có thể nói, một cơ quan có thể trở thành sơ khai cho mục đích thích hợp của nó, và được sử dụng cho một đối tượng khác. Ngoài ra còn có các ví dụ tương tự khác. Các cơ quan sơ khai trong cá thể của các loài phụ thuộc vào sự thay đổi trong độ phát triển và trong các khía cạnh khác. Hơn nữa, các loài họ hàng, mức độ sơ khai của các bộ phận cũng khá nhiều. Ví dụ như trạng thái cánh của các con mối cái trong các nhóm nhất định.
Các cơ quan sơ khai có thể bị loại bỏ hoàn toàn; và điều này ngụ ý vì chúng ta thấy hoàn toàn không gìm thấy một cơ quan nào đó trên một cơ thể vì nó đã biến mất. Đối với cây hoa mõm chó hầu như không tìm thấy nhị hoa thứ năm; nhưng đôi khi lại có thể nhìn thấy. Trong việc lần theo dấu vết các sự tương hợp của cùng bộ phận trong các thành viên khác nhau của một lớp, không gì là chung hơn, hoặc cần thiết hơn, việc sử dụng và khám phá ra các cơ quan sơ khai. Điều này được cho thấy trong các bản vẽ của Owen đưa ra về xương đầu và xương chân của ngựa, con bò, con tê giác.
Đó là một dẫn chứng quan trọng về các cơ quan sơ khai, như răng trong ví dụ nói trên và ở cá voi và loài ruminants, thường đợc phát hiện ra trong phôi thai, nhưng về sau biến mất hoàn toàn bộ .Tôi tin rằng đây cũng là một quy luật phổ biến mà một phần sơ khai của cơ quan lớn hơn tiếp tục được chia ra trong phôi thai, hơn là trong thể trưởng thành; và ở cơ quan ở động vật nhỏ ít sơ khai hơn, hoặc thậm chí không biết là đang trong độ sơ khai nào.
Bây giờ tôi sẽ trình bày về các nguyên nhân dẫn đến các cơ quan sơ khai. Trong khi đó số các cơ quan là hoàn hảo thì những cơ quan sơ khai này lại vô dụng và không còn giá trị nhiều cho sinh vật sở hữu nó. Trong các công trình về lịch sử tự nhiên, các cơ quan sơ khai nói chung được nói là đã được tạo ra vì mục đích làm cân đối, hoặc là theo đúng trật tự trong sơ đồ của tự nhiên; “Nhưng điều này đối với tôi không thể giải thích các dẫn chứng đơn giản nhất. Như vậy không lẽ vì các hành tinh quay tròn trong quỹ đạo xung quanh mặt trời, các vệ tinh xung quanh các hành tinh này cũng chỉ có mặt vì mục đích của sự đối xứng và hoàn thành sơ đồ của tự nhiên hay sao?” Một nhà sinh lý học nổi tiếng cho rằng sự có mặt của các cơ quan sơ khai thực tế là sự dư thừa, hoặc có hại tới hệ thống. Chúng ta có thể giả thiết sự hình thành các răng sơ khai trong phôi thai con bê là do sự gia tăng nhanh chóng lượng vôi bài tiết ra? Dựa trên quan điểm của di truyền với sự cải biến, nguồn gốc của các cơ quan sơ khai thường đơn giản. Chúng ta có nhiều trường hợp xuất hiện các cơ quan sơ khai trong các vật nuôi của chúng ta, ví dụ như đốt xương cụt thay cho đuôi thứ hai, vết tích của một cái tai phụ, các sừng nhỏ trong các vật nuôi hoặc hoa của súp lơ. Chúng ta thường nhìn thấy các cơ quan sơ khai trong các quái thai. Nhưng tôi nghi ngờ rằng nếu đưa dù bất kỳ trường hợp có thể đặt trong một trạng thái của tự nhiên của các cơ quan sơ khai, xa hơn nữa là các cơ quan sơ khai đó thể được tạo ra; tôi nghi ngờ rằng liệu có phải tất cả các loài trong tự nhiên đều đã từng trải qua các thay đổi đột ngột. Nhưng tôi tin sự đào thải đã dẫn đến việc giảm dần dần của nhiều cơ quan, cho đến khi chúng trở về mức sơ khai, như trường hợp mắt của các động vật sống ở các hang động tối, và cánh của chim sống ở các hòn đảo ngoài khơi vì ít bay mà mất khả năng bay. Các cơ quan hữu ích sống trong một số điều kiện nhất định có thể bị tổn thương khi thay đổi môi trường sống ví dụ cánh của bọ cánh cứng sống bằng các hòn đảo nhỏ và biệt lập; và gặp quá trình chọn lọc tự nhiên tiếp tục giảm bớt một cách chậm chạp các cơ quan, cho đến khi nó được trở lại vô hại và ở trạng thái sơ khai.
Bất kỳ thay đổi về chức năng, có thể được đem lại bởi các biến đổi nhỏ của quá trình chọn lọc tự nhiên; do đó một cơ quan theo thời gian thay đổi các thói quen sống, vô ích hoặc có hại cho một mục đích, có thể dễ dàng được sửa đổi và sử dụng cho mục đích khác. Hoặc cơ quan đó có thể được giữ chỉ cho một trong các chức năng cũ của nó. Một cơ quan, khi trở thành vô ích, có thể là do sự biến dị của nó không thể được kiểm tra bởi quá trình chọn lọc tự nhiên. Ở bất kỳ thời kỳ nào của cuộc sống sự đào thải hoặc sự chọn lọc giảm bớt một cơ quan nói chung khi thế hữu cơ đã trưởng thành và có các sức mạnh đầy đủ nguyên tắc sự thừa kế ở các tuổi tương ứng sẽ tái sản xuất cơ quan trong trạng thái giảm của nó ở cùng tuổi đó, và vậy thì sẽ ít khi ảnh hưởng hoặc giảm bớt nó trong phôi thai. Từ đây chúng ta có thể hiểu các cơ quan sơ khai trong phôi thai tương đối lớn hơn, và tương đối nhỏ hơn ở động vật trưởng thành. Nhưng nếu mỗi bước của quá trình giảm bớt này sẽ được thừa kế, không phải ở tuổi tương ứng mà sớm hơn cơ quan sơ khai có xu hướng bị mất toàn bộ, hay là đã bị loại bỏ hoàn toàn. Nguyên tắc này đã được giải thích trong một chương trước, bởi nguyên liệu nào hình thành bất kỳ phần nào hoặc cấu trúc, nếu không hữu ích cho người sở hữu chủng sẽ được cất giữ như thời nó đã có từ xưa, điều này sẽ dẫn đến sự loại bỏ hoàn toàn các cơ quan sơ khai.
Trong khi các cơ quan sơ khai có mặt trong mọi bộ phận của tổ chức, thường tồn tại lâu dài, sẽ được thừa kế là điều chúng ta có thể hiểu được dựa trên quan điểm phân loại theo phả hệ. Dựa trên quan điểm của di truyền với sự cải biến, chủng ta có thể kết luận sự tồn tại của các cơ quan sơ khai là không hoàn hảo, và vô ích, bị loại bỏ, như theo học thuyết bình thường của sự tạo thành, có thể thậm chí đã được đoán trước, và có thể được tính toán theo bởi các quy luật thừa kế.
Tóm tắt chương - Trong chương này tôi đề cập đến sự lệ thuộc của các nhóm vào tất cả các cơ quan trong cơ thể; bản chất của mối quan hệ đó, từ các thể hữu cơ đã tuyệt chủng hoặc còn sống được hợp nhất từ sự tương đồng phức tạp trong một hệ thống; các quy luật và các khó khăn mà các nhà tự nhiên học gặp phải trong việc phân loại giá trị của đặc tính, nếu phổ biến và không thay đổi, rằng liệu sự quan trọng cuả các đặc tính sống còn cao hay của các đặc tính nhỏ bé quan trọng hơn, sự đối lập trong những đánh giá tương tự giữa các đặc tính được chấp nhận, và các đặc tính tương đồng; và các quy luật tương tự khác; mọi thứ tự nhiên dựa trên quan điểm rằng của bậc cha mẹ chung của các mẫu loài đều được nhà tự nhiên học xem xét như những loài có quan hệ gần gũi liên minh, cùng với sự cải biến của họ qua quá trình chọn lọc tự nhiên, với các sự ngẫu nhiên sự tuyệt chủng và sự phân kỳ của các đặc tính.
Khi đánh giá quan điểm này về sự phân loại, cần nhớ rằng các phần tử của di truyền thường được sử dụng trong việc xếp hạng giới tính, tuổi, và ghi nhận những biến dị của loài đó, tuy nhiên chúng có thể khác nhau trong cấu trúc. Nếu chúng ta sử dụng phần tử này nhiều hơn, chắc chắn là sự giống nhau trong các thể hữu cơ, thì chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của hệ thống tự nhiên: đó là sự sắp đặt theo phả hệ, với các thứ bậc của sự khác nhau được đánh dấu bởi các thuật ngữ như biến dị, các loài, chủng, họ, chi, và các lớp.
Trên quan điểm về
sự di truyền của các biến dị, tất cả các dẫn chứng lớn trong Hình thái học trở
nên dễ hiểu, dù chúng ta xem xét các cơ quan cùng vị trí, vì bất cứ mục đích, của
các loài khác nhau của một lớp; hoặc cấu tạo và vị trí của cùng một bộ phận
trên các động vật và cây riêng lẻ.
Trên nguyên lý về các biến dị liên tiếp, ít,
không tất yếu hoặc nói chung xảy ra không ngờ ở một thời kỳ rất sớm của cuộc sống,
và thể hữu cơ thừa kế ở một thời kỳ tương ứng, chúng ta có thể hiểu phần lớn
các dẫn chứng trong Phôi sinh học; tức là, sự giống nhau trong một phôi thai
riêng lẻ của cùng một cơ quan, nào khi phát triển sẽ rất khác nhau cả về cấu
trúc và hàm; và sự giống nhau trong các loài khác nhau của một lớp, tuy nhiên
là các cơ quan trùng hợp của các thành viên trưởng thành cho các mục đích càng
khác nhau càng tốt. Larvae là các phôi thai tích cực, đã được sửa đổi trong
quan hệ với các thói quen của chúng trong cuộc sống, qua nguyên lý biển dị di
truyền ở các thời kỳ tương ứng. Khi các cơ quan giảm bớt về kích thước, hoặc do
bị đào thải hoặc chọn lọc, nói chung ở thời kỳ đó của cuộc sống khi thể hữu cơ
phải có mong muốn thừa kế những biến dị của chính mình trong các cơ quan nguyên
thuỷ và sự loại bỏ chúng, điều này đã không cho chúng ta thấy những khó khăn
không thể giải nghĩa được; ngược lại, sự có mặt của chúng thậm chí có thể được
đoán trước. Sự quan trọng của các đặc tính sinh lý và của các cơ quan sơ khai
trong sự phân loại rất dễ hiểu, dựa trên quan điểm sự sắp đặt tự nhiên là mang
tính phả hệ.
Cuối cùng, theo các dẫn chứng đã được xem xét trong chương này,
tôi thấy rõ ràng có vô số các loài, chủng, và họ các thể hữu cơ, giống như thế
giới của con người, cũng có tất cả dòng dõi, các nhóm, từ cha mẹ chung, và đã
biến đổi trong quá trình di truyền,và tôi không ngần ngại gì khi chấp nhận quan
điểm này, dù nó không được ủng hộ bởi các dẫn chứng hoặc các lý lẽ khác
CHƯƠNG XIV
TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN
Tóm tắt lại những khó khăn trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên - Tóm tắt những trường hợp tổng quát và cụ thể của lý thuyết trên - Nguyên nhân của quan niệm chung về tính không thay đổi của loài - Mức độ phát triển của lý thuyết về chọn lọc tự nhiên- Những tác động của việc áp dụng lý thuyết này trong nghiên cứu về lịch sử tự nhiên - Một số kết luận.
Do cả tập sách này đều chỉ đưa ra một vấn đề duy nhất nên rất thuận tiện cho người đọc khi tóm lược lại những dẫn chứng và kết luận chính.
Nhiều ý kiến phản đối yếu ớt lý thuyết này có thể được phát triển dựa trên lý thuyết về nguồn gốc loài với những thay đổi thông qua chọn lọc tự nhiên. Tôi không phủ nhận điều ấy. Tôi đã cố gắng tạo ra sức mạnh thật sự cho những ý kiến này. Không có gì khó tin hơn việc các tổ hữu cơ và sinh vật càng phức tạp càng hoàn thiện, không chỉ do phát triển ở mức cao hơn, ví dụ như con người, mà còn do sự tăng lên của vô số các biến dị, thường là tốt cho các cơ thể mang biến dị đó. Tuy nhiên, dù trong trí tường tượng của chúng ta, khó khăn này là không thể vượt qua nhưng không thể coi đó là sự thật nếu chúng ta thừa nhận những lý lẽ sau đây. Đó là sự phát triển dần dần tính hoàn thiện của tất cả các thể hữu cơ và cá thể, vốn được chúng ta có thể coi như đã tồn tại hoặc đang tồn tại; biến dị của tất cả các thể hữu cơ và cá thể dù chỉ ở mức độ nhỏ; và cuối cùng là sự tranh đấu để tồn tại đã dẫn đến sự bảo tồn của những cấu trúc và sinh vật. Tôi nghĩ, tính chân thực của những giả thiết này là điều không cần phải tranh cãi.
Không nghi ngờ gì rằng rất khó để phỏng đoán mức độ hoàn thiện của các sinh vật, đặc biệt là đối với những nhóm thể hữu cơ đã bị hỏng hoặc phá vỡ; nhưng trong tự nhiên chúng ta có thể thấy rất nhiều dạng nâng cấp kỳ lạ, ví dụ như những trường hợp được quy định theo tiêu chuẩn Natura non facit saltum. Chính vì vậy cần hết sức thận trọng khi phát biểu rằng bất cứ loại thể hữu cơ hay sinh vật nào, thậm chí là cả giới tự nhiên, sẽ không thể trở lại tình trạng ban đầu sau rất nhiều bước nâng cấp. Nhưng phải thừa nhận rằng có nhiều trường họp đặc biệt khó giải thích trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, và một trong những tình huống khó khăn nhất đó là sự tồn tại của hai hoặc ba đẳng cấp đã được xác định giữa kiến thợ và kiến chúa (có khả năng sinh sản) trong đàn kiến; nhưng tôi đã cố gắng giúp người đọc biết cách khắc phục khó khăn này.
Xét về khả năng sinh sản của các loài khi lai ghép lần đầu tiên, điều sẽ tạo ra sự đối lập về khả năng sinh sản của các thể lai khi lai ghép, tôi phải nhắc lại với bạn đọc những kết luận đã được đưa ra cuối chương VIII, trong đó nói khả năng sinh sản này chỉ là một đặc quyền hơn là sự vô sinh của hai cây được ghép với nhau; nhưng đó là những khác biệt tình cờ hoặc ít có giữa bộ máy sinh sản của hai loài lai ghép. Chúng ta có thể thấy tính đúng đắn của kết luận này trong các kết quả rất khác nhau, khi hai loài giống nhau được lai ghép qua lại; nghĩa là mồi loài sẽ lần lượt là bố, sau đó là mẹ trong các lần lai ghép.
Khả năng sinh sản của thể lai khi được lai ghép và của các thế hệ con cháu lai sau này không có kết luận tổng quát, do đó không có gì đáng ngạc nhiên về khả năng sinh sản của chúng khi chúng ta nhớ rằng thể trạng cũng như bộ máy sinh sản của chúng đã bị thay đổi đáng kế. Hơn nữa, hầu hết thể loại đã được thí nghiệm đều được sinh ra trong điều kiện được nuôi dưỡng; và vì sự thuần hoá này có xu hướng sẽ triệt tiêu khả năng sinh sản nên chúng ta không thể hy vọng kết quả sẽ là thể lai có khả năng sinh sản bình thường.
Khả năng sinh sản của thể lai rất khác so với loài được lai ghép ban đầu, do các cơ quan sinh sản của chúng trở thành bất lực về chức năng; trong khi ở thế hệ đi lai ghép đầu tiên, hệ thống này là hoàn toàn bình thường. Do tế bào của tất cả các loài được nhận biết về khả năng sinh sản thông qua thể trạng đã bị làm xáo trộn do những điều kiện sống mới hoặc đã có biến đổi, nên thể trạng của chúng khó lòng không bị xáo trộn do sự kết hợp giữa các tổ chức khác biệt nhau. Quan hệ song song này lại được hỗ trợ bởi một quan hệ song song khác nhưng theo hướng ngược lại giữa các dẫn chứng; đó là sức mạnh và khả năng sinh sản của tất cả các tổ chức tể bào được tăng lên do những thay đổi nhỏ trong điều kiện sống của chủng, và do đó khả năng này của con cháu các thể lai sau này được biến đổi chút ít. Do đó, những thay đổi đáng kể trong điều kiện sống và sự lai ghép giữa những thể đã được biến đổi nhiều sẽ dẫn đến suy giảm khả năng sinh sản. Sự thay đổi của điều kiện sống và các thể lai ghép càng ít thì khả năng sinh sản càng lớn.
Quay trở lại sự phân bố tự nhiên, những khó khăn xuất hiện trong lý thuyết về nguồn gốc của các biến dị đã đủ nghiêm trọng. Tất cả các cá thể của cùng một loài, và tất cả các loài trong cùng một giống, hoặc thậm chí trong các nhóm cao hơn, phải được sinh ra từ những bố mẹ bình thường; và từ đó, dù ở bất kỳ vùng hẻo lánh hay biệt lập nào trên thế giới mà chúng tôi nghiên cứu, chúng phải theo tiến trình mà các thế hệ nối tiếp nhau đã trải qua. Thường thì chúng tôi không có khả năng đưa ra bất kỳ kết luận nào, dù chỉ là phỏng đoán về tác động của hiện tượng này. Tuy nhiên, do chúng tôi có lý do để tin rằng một vài loài đã có cùng cấu trúc chi tiết trong một thời gian dài, dài nhất có thể tính theo năm, sẽ có rất nhiều sức ép đối với sự phổ biến rộng rãi vào từng thời điểm của cùng một loài; trong một thời kỳ dài sẽ có nhiều cơ hội tốt cho sự di cư ồ ạt bàng rất nhiều cách. Một dãy bị vỡ hoặc gián đoạn có thể thường được cho là do sự tuyệt chủng của các loài ở các vùng trung gian. Không thể chối cãi rằng chúng tôi vẫn chưa quan tâm đúng mức đến đầy đủ các khía cạnh của sự thay đổi vô cùng về thời tiết và địa lý đã tác động đến trái đất trong thời kỳ hiện đại; và những thay đổi này rõ ràng sẽ làm thay đổi về tình hình di cư của các loài. Tôi đã đưa ra ví dụ để chứng minh sức ảnh hưởng của các yếu tố trên trong thời kỳ băng hà đến sự phân bố của các loài hiện tại và một số loài đại diện trên cả thế giới. Chúng tôi cũng bỏ qua rất nhiều các phương tiện vận chuyển tạm thời. Xét về các loài khác nhau trong cùng một giống sống ở những khu vực biệt lập, xa xôi, do quá trình biến đổi đã chậm lại đến mức cần thiết, tất cả các phương tiện di cư sẽ trở thành có thể trong một thời kỳ rất dài; và kết quả là sự khó khăn trong phân bố các loài trong cùng một giống sẽ giảm đi một mức độ nào đó.
Do trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, một số lượng rất lớn các thể trung gian phải là đã tồn tại, liên kết tất cả các loài trong từng nhóm bằng cách thay đổi dần dần đến mức hoàn thiện như các thể lai ngày nay, người ta có thể đặt ra câu hỏi sau: Tại sao chúng ta không thấy những thể liên kết này ở xung quanh chúng ta? Tại sao không phải tất cả các thể hữu cơ không pha trộn với nhau trong một thể hỗấn độn? Đối với những thể đang tồn tại, chúng ta cần nhớ rằng chúng ta không có quyền hy vọng (trừ một số trường hợp hiếm hoi) trực tiếp khám phá ra được mối liên kết giữa chúng, chỉ có thể là giữa từng loài và một số thể đã bị tuyệt chủng. Ngay cả trên một diện tích rất rộng đã tồn tại liên tiếp trong một thời gian dài, ở đó khí hậu và các điều kiện sống khác thay đổi một cách vô tình từ một vùng bị chiếm lĩnh bởi một loài, chúng ta không chỉ có quyền hi vọng thường xuyên tìm thấy những thể lai trung gian trong các vùng trung gian. Vì vậy chúng tôi có lý do tin rằng chỉ có một số ít loài đang trải qua quá trình biến đổi ở bất cứ thời kỳ nào; và tất cả các thay đổi này đang có tác động một cách từ từ. Tôi cũng đã chỉ ra rằng các thể lai trung gian lúc đầu có thể tồn tại ở các vùng trung gian sẽ có khả năng bị thay thế hở những loài cùng giống, và những loài này, do tồn tại với số lượng lớn hơn, nói chung sẽ bị biến đổi và cải thiện với tổc độ cao hơn so với các thể lai trung gian; vốn có số lượng ít hơn. Vì vậy dần dần thể lai trung gian sẽ bị thay thế và biến mất. Theo lý thuyết về sự biến mất của một số lượng lớn các moi liên kết, giữa những cư dân đang sống và đã bị tuyệt chủng của thế giới, và trong từng giai đoạn nối tiếp giữa những loài đã bị diệt chủng và những loài cổ, tại sao không phải tất cả những các cấu trúc địa lý đều có liên quan đến những mối liên hệ này? Tại sao không phải tất cả các bộ sưu tập hóa thạch vẫn còn lưu lại những bằng chứng rõ ràng về sự biến đổi dần dần và đột biến của các dạng sống? Chúng tôi đã không tìm được những bằng chứng đó, và đó chính là lý do rõ ràng và có uy lực nhất để tạo ra các ý kiến phản đối lý thuyết của tôi. Một lần nữa, tại sao không phải tất cả các nhóm của những loài có quan hệ thân thuộc lại có vẻ sẽ xuất hiện trong những giai đoạn khác nhau về địa lý? Tại sao chúng ta không tìm ra những tầng địa lý khác nhau thời kỳ Silua, được lưu giữ cùng với tổ tiên của những nhóm sinh vật hoá thạch của thời kỳ này? Tất nhiên, trong lý thuyết của tôi, những tầng địa chất này phải ở đâu đó, đã lắng xuống cùng với tổ tiên các sinh vật trên và dần thuộc về những thời kỳ không còn được ngày nay biết tới.
Tôi có thể trả lời những câu hỏi trên và loại bỏ những ý kiến phản đối về giả thuyết cho rằng các di tích địa lý còn lâu mới hoàn thiện được như những gì các nhà địa lý học đã nghĩ.
Điều này không thể bị bác bỏ ý kiến cho là sẽ không có đủ thời gian cho bất cứ thay đổi hữu cơ nào, sau một khoảng thời gian đã trở nên vô cùng lớn, vượt quá tầm hiểu biết của con người, số lượng mẫu vật trong tất cả các bảo tàng của chúng ta gần như chẳng là gì nếu so với vô số thế hệ của muôn vàn loài chắc chắn đã tồn tại. Chúng ta không nên tìm hiểu một loài với tư cách là cha mẹ của bất cứ loài nào nếu chúng ra muốn nghiên cứu loài đó thật kỹ, trừ khi chúng ta muốn có nhiều liên kết trung gian giữa quá khứ hoặc cha mẹ của chúng với tình trạng hiện tại; và có nhiều mối liên hệ chúng ta khó có hy vọng sẽ phát hiện ra, do sự không hoàn chỉnh của các di tích địa lý. Một số cấu trúc trong vòng nghi vấn đang tồn tại có thể được gọi tên nghe như tên các thể lai; nhưng ai sẽ giả sử được rằng trong tương lai, rất nhiều các mối liên hệ giữa các hóa thạch sẽ được phát hiện, rằng các nhà tự nhiên học sẽ có thể quyết định, dựa trên quan điểm chung, xem các thể nghi ngờ có phải là các thể lai hay không? Người ta càng chậm phát hiện ra mối liên hệ giữa hai loài càng lâu bao nhiêu thì càng đơn giản bấy nhiêu khi phân loại bất cứ quan hệ hay thể lai trung gian nào như một loài khác. Chỉ một phần nhỏ của thế giới đã được khám phá về mặt địa lý. Chỉ cỏ dạng hữu cơ của một sổ lớp sinh vật có thể được lưu giữ dưới dạng hoá thạch. Các loài rất đa dạng, và các giống thì thường chỉ là các giống địa phương, hai điểu này khiến cho việc xác định các mối liên hệ trung gian trở nên khó hơn. Các giống địa phương sẽ không di cư sang các vùng khác, dù là vùng lân cận hay xa xôi, cho đến khi chúng được cải tạo và biến đổi một cách tương đối; và khi chúng đã di cư sang các vùng khác, nếu được phát hiện ra dưới dạng các tầng địa chất, chúng sẽ có vẻ ngoài như thể xuất hiện bất ngờ ở vùng đó, và sẽ được xếp vào các loài mới một cách đơn giản. Hầu hết các quá trình hình thành đều bị gián đoạn khi bắt đầu phát triển, và tôi tin rằng tuổi thọ của chúng ngắn hơn so với tuổi thọ trung bình của các loài cụ thể. Các dạng địa chất khác nhau được phân tách bằng những khoảng trống thời gian khổng lồ; đối với quá trình hình thành các hoá thạch đến mức đủ dầy để chống đỡ với sự xuống cấp của đất trong tương lai chỉ có thể thực hiện ở những nơi nhiều trầm tích lắng xuống vùng bờ biển. Vào thời điểm thay đổi thủy triều và lúc nước biển đứng yên, tầng đất này sẽ trống. Khi mực nước biển không thay đổi các dạng sinh vật sẽ đa dạng hơn, còn khi thuỷ triều thay đổi, sẽ có nhiều sinh vật biến mất.
Về hiện tượng không có các dạng hóa thạch ở các tầng địa chất Silua thấp nhất, tôi chỉ có thể đưa lại giả thuyết đã trình bày trong chương IX. Nếu chúng ta nghiên cứu đủ lâu những khoảng lặng thời gian, địa lý học sẽ chỉ ra rằng các loài đều có sự biến đổi, và chúng biến đổi đúng theo cách lý thuyết của tôi đưa ra, tức là thay đổi một cách chậm chạp và dần dần. Chúng ra có thể thấy rõ điều này qua những hoá thạch còn đến ngày nay, từ những quá trình hình thành liên tiếp một cách đều đặn và có liên quan mật thiết với nhau, hơn là từ những hoá thạch được hình thành trong những giai đoạn tách biệt nhau.
Tất cả những ý kiến phản đối và những khó khăn trên có thể được đưa ra phản bác lại lý thuyết của tôi, và tôi đã tóm tắt lại những câu trả lời để giải thích cho những thắc mắc đó. Nhưng cần phải đặc biệt lưu ý những sự phản đối quan trọng hơn liên quan tới những vấn đề mà hiện nay chúng ta vẫn chưa chú ý một cách đúng mức; chúng ta cũng không nói là chúng ta không quan tâm tới những vấn đế đó. Chúng ta không biết tất cả các sự nâng cấp chuyển đổi có thể xảy ra giữa những tổ chức hữu cơ đơn giản nhất và phức tạp nhất; không thể giả vờ là chúng ta biết tất cả những phương tiện phân bố hết sức đa dạng trong suốt một thời gian dài, hoặc giả vờ biết rằng các di tích địa lý không hoàn thiện đến mức nào. Nhưng trong suy nghĩ của tôi, những khó khăn trên không thể phá hỏng lý thuyết về di truyền có biến dị.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề dưới một góc độ khác. Chúng tôi nhận thấy động vật được thuần hoá rất đa dạng. Điều này dường như là do hệ thống sinh sản có mức độ dễ biến đổi cao trong các điều kiện sống; do đó hệ thống này khi không bị bất lực sẽ không thể sinh ra những con cháu có dạng giống như cha mẹ. Tính dễ thay đổi được quy định bở một số quy luật phức tạp bằng mối tương quan của tăng trưởng, bằng việc sử dụng hay bỏ qua không sử dụng, và bằng những tác động trực tiếp của các điều kiện vật chất của cuộc sống. Rất khó để đánh giá mức độ biến đổi của vật nuôi, nhưng chúng tôi có thể yên tâm nói rằng số lượng những biến đổi đó là rất lớn, và chúng được truyền từ đời này sang đời khác trong suốt một thời gian dài.
Chừng nào các điều kiện sống còn chưa thay đổi, chúng ta có lý do để tin rằng sự biến đổi, vốn được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, sẽ tiếp tục được di truyền cho một số không đếm được các thế hệ nữa. Mặt khác, chúng tôi có bằng chứng về việc sự biến đổi nếu đã diễn ra một lần thì sẽ không bao giờ ngừng; các giống mới đôi lúc vẫn được sinh ra bởi chính các sinh vật đã được thuần hoá.
Con người trên thực tế không tạo ra tính hay biến đổi; anh ta chỉ vô tình đưa các dạng hữu cơ vào những môi trường sống mới, sau đó các điều kiện tự nhiên đã gây ra những biến đổi. Nhưng con người có thể và đang chọn lọc các biến dị do tự nhiên mang lại, rồi nhân chúng lên theo cách mà mình mong muốn. Anh ta có thể tự do sử dụng các biến dị này vì lợi ích và ham muốn của bản thân. Anh ta có thể làm điều này theo đúng lý thuyết, hoặc cũng có thể làm một cách vô thức bằng cách bảo tồn các cá thể có ích lợi nhất cho anh ta vào thời điểm đó, không cần suy nghĩ đến việc thay đổi nòi giống. Có một điều chắc chắn là anh ta có thể gây ra những tác động rất lớn tới đặc điểm của các giống thông qua việc chọn lựa trong mỗi thế hệ những cá thể có ít khác biệt, vốn không có ít giá trị đối với những người không nghiên cứu kỹ về sinh vật. Quá trình chọn lọc này là một khâu quan trọng trong việc tạo ra những giống vật nuôi khác biệt và có ích. Việc nhiều giống do con người tạo ra phần lớn có những đặc điểm của các loài trong tự nhiên được thể hiện qua những nghi ngờ không được giải quyết về việc liệu có phải đa số chúng là các giống hay là các loài không thuần chủng.
Hiện không có lý do rõ ràng nào giải thích cho việc các thành phần hoạt động rất hiệu quả trong điều kiện được thuần hoá lại không làm được như vậy trong tự nhiên. Trong quá trình bảo vệ các cá thể và nòi khỏe mạnh, trong cuộc chiến không bao giờ chấm dứt để tồn tại. chúng tôi đã bắt gặp những phương pháp chọn lọc mạnh và hiệu quả nhất. Cuộc đấu tranh để tồn tại rõ ràng là kết quả của hiện tượng tăng lên theo cấp số nhân của tất cả các dạng hữu cơ. Tỷ lệ tăng cao này có thể thấy được qua tính toán, qua những ảnh hưởng của sự thay đổi giữa các mùa (đã giải thích ở chương III). Có nhiều cá thể được sinh ra hơn là chết đi. Sự cân bàng về thức ăn sẽ quyết định cá thể nào sẽ sống và cá thể nào bị tiêu diệt. Do các cá thể của cùng một loài sẽ phải cạnh tranh với nhau nên cuộc chiến sinh tồn giữa chúng là khốc liệt nhất. Cuộc chiến giữa các giống trong cùng một loài cũng vậy, sau đó là đến giữa các loài trong cùng một họ. Nhưng cuộc chiến sẽ rất khốc liệt giữa các sinh vật thiểu số trong tự nhiên. Lợi thế tối thiểu của mỗi sinh vật, dù ở bất cứ thời đại hay khí hậu nào là chúng có thể cạnh tranh, hoặc thích nghi tốt hơn với những thay đổi về điều kiện sống dù là nhỏ nhất, sẽ trở lại cân bằng. Với những sinh vật có giới tính phân biệt, các cuộc đấu tranh trong hầu hết các trường hợp đều là giữa các con đực để sở hữu con cái. Các cá thể mạnh nhất, hay những cá thể chiến đấu thành công nhất trong các điều kiện sống khác nhau, sẽ có nhiều con cháu nhất. Nhưng sự thành công sẽ phụ thuộc nhiều vào các vũ khí đặc biệt hoặc các phưcmg tiện tự vệ, hoặc vào sự duyên dáng của con đực, và một chút lợi thế sẽ mang lại thắng lợi.
Xét về địa lý thì rõ ràng là mỗi vùng đất đều đã trải qua những biến đổi vật chất vô cùng to lớn, do đó chúng ta có thể hy vọng rằng các dạng hữu cơ sẽ trở nên đa dạng trong tự nhiên, giống như cách khi chúng được nuôi trong nhà. Và nếu có bất kỳ sự biến dị nào trong tự nhiên, đó sẽ là những dẫn chứng không thể đếm hết nếu chọn lọc tự nhiên chưa được thực hiện. Người ta thường đánh giá mà không dựa trên các căn cứ chính xác rằng khối lượng các biến dị trong tự nhiên thì thường bị giới hạn. Con người mặc dù chỉ có thể tác động lên các đặc điểm bên ngoài và không thường xuyên, nhưng trong một thời gian ngắn có thể tạo ra những kết quả quan trọng bằng cách bổ sung những khác biệt của các cá thể vào những sinh vật đang được thuần hoá, và tất cả đều phải thừa nhận rằng ít nhất là có sự khác biệt giữa các các thể trong cùng một loài trong tự nhiên. Nhưng bên cạnh những khác biệt này, tất cả các nhà tự nhiên học đều phải thừa nhận rằng sự tồn tại của các giống mà họ cho là đủ khác biệt để được ghi lại trong các công trình mang tính hệ thống. Không ai có thể đưa ra những sự khác biệt rõ nét giữa sự các khác biệt đặc biệt và các giống hơi khác nhau, hay giữa các giống khác nhau nhiều hơn và các loài nhở, và loài. Hãy quan sát những điều này theo cách phân cấp các nhà tự nhiên học trong bộ máy đại diện ở châu âu và Bắc Mỹ.
Vậy nếu chúng ta đang ở trong tình trạng hay biến đổi của tự nhiên và có một tác nhân luôn sẵn sàng hoạt động và chọn lọc, tại sao chúng ta không nghi ngờ rằng những sự biến đổi có ích cho con người, dưới những mối quan hệ sống phức tạp, có thể được bảo tồn, tăng cường và thừa kế lại? Và nếu con người có thể kiên nhẫn chọn lọc những giống có ích cho mình, tại sao tự nhiên lại không thể làm như vậy đối với các sinh vật sống của mình trong các điều kiện sống khác nhau? Giới hạn nào có thể đưa ra đối với sức mạnh này, có tác dụng trong một thời gian dài và xem xét kỳ về thể chất, cấu trúc và thói quen của mỗi sinh vật theo hướng thiên về cái tốt và loại bỏ những yếu tố xấu? Tôi không nhìn thấy bất cứ hạn chế nào đối với sức mạnh này, trong việc áp dụng từ từ và hợp lý từng dạng trong mối quan hệ phức tạp nhất của cuộc sống. Lý thuyết về chọn lọc tự nhiên đối với tôi là đã khá phù họp, ngay cả khi chúng ta không xem xét những lý thuyết khác. Tôi đã cổ tóm tắt một cách tương đối những khó khăn cản trở và những phản đối, bây giờ chúng ta sẽ trở lại với những dẫn chứng đặc biệt và những lý lẽ ủng hộ cho thuyết này.
Trên quan điểm loài chỉ là những giống đặc biệt và vĩnh cửu, và rằng mồi loài lúc ban đầu tồn tại chỉ là một giống, chúng ta có thể thấy tại sao không thể vẽ ra những ranh giới phân cách giữa các loài, thường được giả sử là đã được tạo ra bằng các hoạt động sáng tạo đặc biệt, và các giống được biết là đã được tạo ra từ các quy luật thứ cấp. Cùng quan điểm này, chúng ta có thể hiểu quá trình này diễn ra như thế nào ở từng khu vực nơi rất nhiều loài trong cùng một nòi đã được sinh ra, và nơi chủng lớn lên, nơi các nhóm loài trở nên năng động, chủng ta có thể hy vọng rằng, như một quy luật chung, sẽ tìm thấy các nhóm này vẫn đang hoạt động, và đây là trường hợp nếu các giống chỉ mới là những loài đang phôi thai. Hơn nữa, các loài trong một nòi lớn hơn, có thể nuôi dưỡng nhiều giống hoặc các loài đang phôi thai hơn sẽ giữ lại một mức độ nhất định đặc điểm của các giống; do chúng khác nhau với số lượng những khác biệt nhỏ hơn so với loài hay các nòi ít hơn. Các loài có quan hệ họ hàng gần với nhau về mặt hình thức thuộc những nhóm nòi lớn hơn đã tự giới hạn lại về phạm vi, và chủng tụ tập lại với nhau trong những nhóm nhỏ bên cạnh các loài khác. Có những mối quan hệ lạ lùng dựa trên quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập, nhưng rất dễ hiểu khi nói tất cả các loài ban đầu tồn tại dưới dạng các thứ.
Do tùy theo tỷ lệ sinh sản cấp số nhân của từng loài nên mỗi loài sẽ có xu hướng tăng lên về số lượng; và vì những thế hệ con cháu đã bị biến đổi của mỗi loài đều có thể tăng lên nhanh nên chúng sẽ trở nên đa dạng hơn về thói quen và cấu trúc, do đó có thể chiếm lĩnh ngày càng nhiều khu vực trong cơ cấu tổ chức của tự nhiên, và sẽ tạo ra trong chọn lọc tự nhiên khuynh hướng bảo tồn tất cả các thế hệ sau khác nhau của tất cả các loài.
TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN
Tóm tắt lại những khó khăn trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên - Tóm tắt những trường hợp tổng quát và cụ thể của lý thuyết trên - Nguyên nhân của quan niệm chung về tính không thay đổi của loài - Mức độ phát triển của lý thuyết về chọn lọc tự nhiên- Những tác động của việc áp dụng lý thuyết này trong nghiên cứu về lịch sử tự nhiên - Một số kết luận.
Do cả tập sách này đều chỉ đưa ra một vấn đề duy nhất nên rất thuận tiện cho người đọc khi tóm lược lại những dẫn chứng và kết luận chính.
Nhiều ý kiến phản đối yếu ớt lý thuyết này có thể được phát triển dựa trên lý thuyết về nguồn gốc loài với những thay đổi thông qua chọn lọc tự nhiên. Tôi không phủ nhận điều ấy. Tôi đã cố gắng tạo ra sức mạnh thật sự cho những ý kiến này. Không có gì khó tin hơn việc các tổ hữu cơ và sinh vật càng phức tạp càng hoàn thiện, không chỉ do phát triển ở mức cao hơn, ví dụ như con người, mà còn do sự tăng lên của vô số các biến dị, thường là tốt cho các cơ thể mang biến dị đó. Tuy nhiên, dù trong trí tường tượng của chúng ta, khó khăn này là không thể vượt qua nhưng không thể coi đó là sự thật nếu chúng ta thừa nhận những lý lẽ sau đây. Đó là sự phát triển dần dần tính hoàn thiện của tất cả các thể hữu cơ và cá thể, vốn được chúng ta có thể coi như đã tồn tại hoặc đang tồn tại; biến dị của tất cả các thể hữu cơ và cá thể dù chỉ ở mức độ nhỏ; và cuối cùng là sự tranh đấu để tồn tại đã dẫn đến sự bảo tồn của những cấu trúc và sinh vật. Tôi nghĩ, tính chân thực của những giả thiết này là điều không cần phải tranh cãi.
Không nghi ngờ gì rằng rất khó để phỏng đoán mức độ hoàn thiện của các sinh vật, đặc biệt là đối với những nhóm thể hữu cơ đã bị hỏng hoặc phá vỡ; nhưng trong tự nhiên chúng ta có thể thấy rất nhiều dạng nâng cấp kỳ lạ, ví dụ như những trường hợp được quy định theo tiêu chuẩn Natura non facit saltum. Chính vì vậy cần hết sức thận trọng khi phát biểu rằng bất cứ loại thể hữu cơ hay sinh vật nào, thậm chí là cả giới tự nhiên, sẽ không thể trở lại tình trạng ban đầu sau rất nhiều bước nâng cấp. Nhưng phải thừa nhận rằng có nhiều trường họp đặc biệt khó giải thích trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, và một trong những tình huống khó khăn nhất đó là sự tồn tại của hai hoặc ba đẳng cấp đã được xác định giữa kiến thợ và kiến chúa (có khả năng sinh sản) trong đàn kiến; nhưng tôi đã cố gắng giúp người đọc biết cách khắc phục khó khăn này.
Xét về khả năng sinh sản của các loài khi lai ghép lần đầu tiên, điều sẽ tạo ra sự đối lập về khả năng sinh sản của các thể lai khi lai ghép, tôi phải nhắc lại với bạn đọc những kết luận đã được đưa ra cuối chương VIII, trong đó nói khả năng sinh sản này chỉ là một đặc quyền hơn là sự vô sinh của hai cây được ghép với nhau; nhưng đó là những khác biệt tình cờ hoặc ít có giữa bộ máy sinh sản của hai loài lai ghép. Chúng ta có thể thấy tính đúng đắn của kết luận này trong các kết quả rất khác nhau, khi hai loài giống nhau được lai ghép qua lại; nghĩa là mồi loài sẽ lần lượt là bố, sau đó là mẹ trong các lần lai ghép.
Khả năng sinh sản của thể lai khi được lai ghép và của các thế hệ con cháu lai sau này không có kết luận tổng quát, do đó không có gì đáng ngạc nhiên về khả năng sinh sản của chúng khi chúng ta nhớ rằng thể trạng cũng như bộ máy sinh sản của chúng đã bị thay đổi đáng kế. Hơn nữa, hầu hết thể loại đã được thí nghiệm đều được sinh ra trong điều kiện được nuôi dưỡng; và vì sự thuần hoá này có xu hướng sẽ triệt tiêu khả năng sinh sản nên chúng ta không thể hy vọng kết quả sẽ là thể lai có khả năng sinh sản bình thường.
Khả năng sinh sản của thể lai rất khác so với loài được lai ghép ban đầu, do các cơ quan sinh sản của chúng trở thành bất lực về chức năng; trong khi ở thế hệ đi lai ghép đầu tiên, hệ thống này là hoàn toàn bình thường. Do tế bào của tất cả các loài được nhận biết về khả năng sinh sản thông qua thể trạng đã bị làm xáo trộn do những điều kiện sống mới hoặc đã có biến đổi, nên thể trạng của chúng khó lòng không bị xáo trộn do sự kết hợp giữa các tổ chức khác biệt nhau. Quan hệ song song này lại được hỗ trợ bởi một quan hệ song song khác nhưng theo hướng ngược lại giữa các dẫn chứng; đó là sức mạnh và khả năng sinh sản của tất cả các tổ chức tể bào được tăng lên do những thay đổi nhỏ trong điều kiện sống của chủng, và do đó khả năng này của con cháu các thể lai sau này được biến đổi chút ít. Do đó, những thay đổi đáng kể trong điều kiện sống và sự lai ghép giữa những thể đã được biến đổi nhiều sẽ dẫn đến suy giảm khả năng sinh sản. Sự thay đổi của điều kiện sống và các thể lai ghép càng ít thì khả năng sinh sản càng lớn.
Quay trở lại sự phân bố tự nhiên, những khó khăn xuất hiện trong lý thuyết về nguồn gốc của các biến dị đã đủ nghiêm trọng. Tất cả các cá thể của cùng một loài, và tất cả các loài trong cùng một giống, hoặc thậm chí trong các nhóm cao hơn, phải được sinh ra từ những bố mẹ bình thường; và từ đó, dù ở bất kỳ vùng hẻo lánh hay biệt lập nào trên thế giới mà chúng tôi nghiên cứu, chúng phải theo tiến trình mà các thế hệ nối tiếp nhau đã trải qua. Thường thì chúng tôi không có khả năng đưa ra bất kỳ kết luận nào, dù chỉ là phỏng đoán về tác động của hiện tượng này. Tuy nhiên, do chúng tôi có lý do để tin rằng một vài loài đã có cùng cấu trúc chi tiết trong một thời gian dài, dài nhất có thể tính theo năm, sẽ có rất nhiều sức ép đối với sự phổ biến rộng rãi vào từng thời điểm của cùng một loài; trong một thời kỳ dài sẽ có nhiều cơ hội tốt cho sự di cư ồ ạt bàng rất nhiều cách. Một dãy bị vỡ hoặc gián đoạn có thể thường được cho là do sự tuyệt chủng của các loài ở các vùng trung gian. Không thể chối cãi rằng chúng tôi vẫn chưa quan tâm đúng mức đến đầy đủ các khía cạnh của sự thay đổi vô cùng về thời tiết và địa lý đã tác động đến trái đất trong thời kỳ hiện đại; và những thay đổi này rõ ràng sẽ làm thay đổi về tình hình di cư của các loài. Tôi đã đưa ra ví dụ để chứng minh sức ảnh hưởng của các yếu tố trên trong thời kỳ băng hà đến sự phân bố của các loài hiện tại và một số loài đại diện trên cả thế giới. Chúng tôi cũng bỏ qua rất nhiều các phương tiện vận chuyển tạm thời. Xét về các loài khác nhau trong cùng một giống sống ở những khu vực biệt lập, xa xôi, do quá trình biến đổi đã chậm lại đến mức cần thiết, tất cả các phương tiện di cư sẽ trở thành có thể trong một thời kỳ rất dài; và kết quả là sự khó khăn trong phân bố các loài trong cùng một giống sẽ giảm đi một mức độ nào đó.
Do trong lý thuyết chọn lọc tự nhiên, một số lượng rất lớn các thể trung gian phải là đã tồn tại, liên kết tất cả các loài trong từng nhóm bằng cách thay đổi dần dần đến mức hoàn thiện như các thể lai ngày nay, người ta có thể đặt ra câu hỏi sau: Tại sao chúng ta không thấy những thể liên kết này ở xung quanh chúng ta? Tại sao không phải tất cả các thể hữu cơ không pha trộn với nhau trong một thể hỗấn độn? Đối với những thể đang tồn tại, chúng ta cần nhớ rằng chúng ta không có quyền hy vọng (trừ một số trường hợp hiếm hoi) trực tiếp khám phá ra được mối liên kết giữa chúng, chỉ có thể là giữa từng loài và một số thể đã bị tuyệt chủng. Ngay cả trên một diện tích rất rộng đã tồn tại liên tiếp trong một thời gian dài, ở đó khí hậu và các điều kiện sống khác thay đổi một cách vô tình từ một vùng bị chiếm lĩnh bởi một loài, chúng ta không chỉ có quyền hi vọng thường xuyên tìm thấy những thể lai trung gian trong các vùng trung gian. Vì vậy chúng tôi có lý do tin rằng chỉ có một số ít loài đang trải qua quá trình biến đổi ở bất cứ thời kỳ nào; và tất cả các thay đổi này đang có tác động một cách từ từ. Tôi cũng đã chỉ ra rằng các thể lai trung gian lúc đầu có thể tồn tại ở các vùng trung gian sẽ có khả năng bị thay thế hở những loài cùng giống, và những loài này, do tồn tại với số lượng lớn hơn, nói chung sẽ bị biến đổi và cải thiện với tổc độ cao hơn so với các thể lai trung gian; vốn có số lượng ít hơn. Vì vậy dần dần thể lai trung gian sẽ bị thay thế và biến mất. Theo lý thuyết về sự biến mất của một số lượng lớn các moi liên kết, giữa những cư dân đang sống và đã bị tuyệt chủng của thế giới, và trong từng giai đoạn nối tiếp giữa những loài đã bị diệt chủng và những loài cổ, tại sao không phải tất cả những các cấu trúc địa lý đều có liên quan đến những mối liên hệ này? Tại sao không phải tất cả các bộ sưu tập hóa thạch vẫn còn lưu lại những bằng chứng rõ ràng về sự biến đổi dần dần và đột biến của các dạng sống? Chúng tôi đã không tìm được những bằng chứng đó, và đó chính là lý do rõ ràng và có uy lực nhất để tạo ra các ý kiến phản đối lý thuyết của tôi. Một lần nữa, tại sao không phải tất cả các nhóm của những loài có quan hệ thân thuộc lại có vẻ sẽ xuất hiện trong những giai đoạn khác nhau về địa lý? Tại sao chúng ta không tìm ra những tầng địa lý khác nhau thời kỳ Silua, được lưu giữ cùng với tổ tiên của những nhóm sinh vật hoá thạch của thời kỳ này? Tất nhiên, trong lý thuyết của tôi, những tầng địa chất này phải ở đâu đó, đã lắng xuống cùng với tổ tiên các sinh vật trên và dần thuộc về những thời kỳ không còn được ngày nay biết tới.
Tôi có thể trả lời những câu hỏi trên và loại bỏ những ý kiến phản đối về giả thuyết cho rằng các di tích địa lý còn lâu mới hoàn thiện được như những gì các nhà địa lý học đã nghĩ.
Điều này không thể bị bác bỏ ý kiến cho là sẽ không có đủ thời gian cho bất cứ thay đổi hữu cơ nào, sau một khoảng thời gian đã trở nên vô cùng lớn, vượt quá tầm hiểu biết của con người, số lượng mẫu vật trong tất cả các bảo tàng của chúng ta gần như chẳng là gì nếu so với vô số thế hệ của muôn vàn loài chắc chắn đã tồn tại. Chúng ta không nên tìm hiểu một loài với tư cách là cha mẹ của bất cứ loài nào nếu chúng ra muốn nghiên cứu loài đó thật kỹ, trừ khi chúng ta muốn có nhiều liên kết trung gian giữa quá khứ hoặc cha mẹ của chúng với tình trạng hiện tại; và có nhiều mối liên hệ chúng ta khó có hy vọng sẽ phát hiện ra, do sự không hoàn chỉnh của các di tích địa lý. Một số cấu trúc trong vòng nghi vấn đang tồn tại có thể được gọi tên nghe như tên các thể lai; nhưng ai sẽ giả sử được rằng trong tương lai, rất nhiều các mối liên hệ giữa các hóa thạch sẽ được phát hiện, rằng các nhà tự nhiên học sẽ có thể quyết định, dựa trên quan điểm chung, xem các thể nghi ngờ có phải là các thể lai hay không? Người ta càng chậm phát hiện ra mối liên hệ giữa hai loài càng lâu bao nhiêu thì càng đơn giản bấy nhiêu khi phân loại bất cứ quan hệ hay thể lai trung gian nào như một loài khác. Chỉ một phần nhỏ của thế giới đã được khám phá về mặt địa lý. Chỉ cỏ dạng hữu cơ của một sổ lớp sinh vật có thể được lưu giữ dưới dạng hoá thạch. Các loài rất đa dạng, và các giống thì thường chỉ là các giống địa phương, hai điểu này khiến cho việc xác định các mối liên hệ trung gian trở nên khó hơn. Các giống địa phương sẽ không di cư sang các vùng khác, dù là vùng lân cận hay xa xôi, cho đến khi chúng được cải tạo và biến đổi một cách tương đối; và khi chúng đã di cư sang các vùng khác, nếu được phát hiện ra dưới dạng các tầng địa chất, chúng sẽ có vẻ ngoài như thể xuất hiện bất ngờ ở vùng đó, và sẽ được xếp vào các loài mới một cách đơn giản. Hầu hết các quá trình hình thành đều bị gián đoạn khi bắt đầu phát triển, và tôi tin rằng tuổi thọ của chúng ngắn hơn so với tuổi thọ trung bình của các loài cụ thể. Các dạng địa chất khác nhau được phân tách bằng những khoảng trống thời gian khổng lồ; đối với quá trình hình thành các hoá thạch đến mức đủ dầy để chống đỡ với sự xuống cấp của đất trong tương lai chỉ có thể thực hiện ở những nơi nhiều trầm tích lắng xuống vùng bờ biển. Vào thời điểm thay đổi thủy triều và lúc nước biển đứng yên, tầng đất này sẽ trống. Khi mực nước biển không thay đổi các dạng sinh vật sẽ đa dạng hơn, còn khi thuỷ triều thay đổi, sẽ có nhiều sinh vật biến mất.
Về hiện tượng không có các dạng hóa thạch ở các tầng địa chất Silua thấp nhất, tôi chỉ có thể đưa lại giả thuyết đã trình bày trong chương IX. Nếu chúng ta nghiên cứu đủ lâu những khoảng lặng thời gian, địa lý học sẽ chỉ ra rằng các loài đều có sự biến đổi, và chúng biến đổi đúng theo cách lý thuyết của tôi đưa ra, tức là thay đổi một cách chậm chạp và dần dần. Chúng ra có thể thấy rõ điều này qua những hoá thạch còn đến ngày nay, từ những quá trình hình thành liên tiếp một cách đều đặn và có liên quan mật thiết với nhau, hơn là từ những hoá thạch được hình thành trong những giai đoạn tách biệt nhau.
Tất cả những ý kiến phản đối và những khó khăn trên có thể được đưa ra phản bác lại lý thuyết của tôi, và tôi đã tóm tắt lại những câu trả lời để giải thích cho những thắc mắc đó. Nhưng cần phải đặc biệt lưu ý những sự phản đối quan trọng hơn liên quan tới những vấn đề mà hiện nay chúng ta vẫn chưa chú ý một cách đúng mức; chúng ta cũng không nói là chúng ta không quan tâm tới những vấn đế đó. Chúng ta không biết tất cả các sự nâng cấp chuyển đổi có thể xảy ra giữa những tổ chức hữu cơ đơn giản nhất và phức tạp nhất; không thể giả vờ là chúng ta biết tất cả những phương tiện phân bố hết sức đa dạng trong suốt một thời gian dài, hoặc giả vờ biết rằng các di tích địa lý không hoàn thiện đến mức nào. Nhưng trong suy nghĩ của tôi, những khó khăn trên không thể phá hỏng lý thuyết về di truyền có biến dị.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề dưới một góc độ khác. Chúng tôi nhận thấy động vật được thuần hoá rất đa dạng. Điều này dường như là do hệ thống sinh sản có mức độ dễ biến đổi cao trong các điều kiện sống; do đó hệ thống này khi không bị bất lực sẽ không thể sinh ra những con cháu có dạng giống như cha mẹ. Tính dễ thay đổi được quy định bở một số quy luật phức tạp bằng mối tương quan của tăng trưởng, bằng việc sử dụng hay bỏ qua không sử dụng, và bằng những tác động trực tiếp của các điều kiện vật chất của cuộc sống. Rất khó để đánh giá mức độ biến đổi của vật nuôi, nhưng chúng tôi có thể yên tâm nói rằng số lượng những biến đổi đó là rất lớn, và chúng được truyền từ đời này sang đời khác trong suốt một thời gian dài.
Chừng nào các điều kiện sống còn chưa thay đổi, chúng ta có lý do để tin rằng sự biến đổi, vốn được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, sẽ tiếp tục được di truyền cho một số không đếm được các thế hệ nữa. Mặt khác, chúng tôi có bằng chứng về việc sự biến đổi nếu đã diễn ra một lần thì sẽ không bao giờ ngừng; các giống mới đôi lúc vẫn được sinh ra bởi chính các sinh vật đã được thuần hoá.
Con người trên thực tế không tạo ra tính hay biến đổi; anh ta chỉ vô tình đưa các dạng hữu cơ vào những môi trường sống mới, sau đó các điều kiện tự nhiên đã gây ra những biến đổi. Nhưng con người có thể và đang chọn lọc các biến dị do tự nhiên mang lại, rồi nhân chúng lên theo cách mà mình mong muốn. Anh ta có thể tự do sử dụng các biến dị này vì lợi ích và ham muốn của bản thân. Anh ta có thể làm điều này theo đúng lý thuyết, hoặc cũng có thể làm một cách vô thức bằng cách bảo tồn các cá thể có ích lợi nhất cho anh ta vào thời điểm đó, không cần suy nghĩ đến việc thay đổi nòi giống. Có một điều chắc chắn là anh ta có thể gây ra những tác động rất lớn tới đặc điểm của các giống thông qua việc chọn lựa trong mỗi thế hệ những cá thể có ít khác biệt, vốn không có ít giá trị đối với những người không nghiên cứu kỹ về sinh vật. Quá trình chọn lọc này là một khâu quan trọng trong việc tạo ra những giống vật nuôi khác biệt và có ích. Việc nhiều giống do con người tạo ra phần lớn có những đặc điểm của các loài trong tự nhiên được thể hiện qua những nghi ngờ không được giải quyết về việc liệu có phải đa số chúng là các giống hay là các loài không thuần chủng.
Hiện không có lý do rõ ràng nào giải thích cho việc các thành phần hoạt động rất hiệu quả trong điều kiện được thuần hoá lại không làm được như vậy trong tự nhiên. Trong quá trình bảo vệ các cá thể và nòi khỏe mạnh, trong cuộc chiến không bao giờ chấm dứt để tồn tại. chúng tôi đã bắt gặp những phương pháp chọn lọc mạnh và hiệu quả nhất. Cuộc đấu tranh để tồn tại rõ ràng là kết quả của hiện tượng tăng lên theo cấp số nhân của tất cả các dạng hữu cơ. Tỷ lệ tăng cao này có thể thấy được qua tính toán, qua những ảnh hưởng của sự thay đổi giữa các mùa (đã giải thích ở chương III). Có nhiều cá thể được sinh ra hơn là chết đi. Sự cân bàng về thức ăn sẽ quyết định cá thể nào sẽ sống và cá thể nào bị tiêu diệt. Do các cá thể của cùng một loài sẽ phải cạnh tranh với nhau nên cuộc chiến sinh tồn giữa chúng là khốc liệt nhất. Cuộc chiến giữa các giống trong cùng một loài cũng vậy, sau đó là đến giữa các loài trong cùng một họ. Nhưng cuộc chiến sẽ rất khốc liệt giữa các sinh vật thiểu số trong tự nhiên. Lợi thế tối thiểu của mỗi sinh vật, dù ở bất cứ thời đại hay khí hậu nào là chúng có thể cạnh tranh, hoặc thích nghi tốt hơn với những thay đổi về điều kiện sống dù là nhỏ nhất, sẽ trở lại cân bằng. Với những sinh vật có giới tính phân biệt, các cuộc đấu tranh trong hầu hết các trường hợp đều là giữa các con đực để sở hữu con cái. Các cá thể mạnh nhất, hay những cá thể chiến đấu thành công nhất trong các điều kiện sống khác nhau, sẽ có nhiều con cháu nhất. Nhưng sự thành công sẽ phụ thuộc nhiều vào các vũ khí đặc biệt hoặc các phưcmg tiện tự vệ, hoặc vào sự duyên dáng của con đực, và một chút lợi thế sẽ mang lại thắng lợi.
Xét về địa lý thì rõ ràng là mỗi vùng đất đều đã trải qua những biến đổi vật chất vô cùng to lớn, do đó chúng ta có thể hy vọng rằng các dạng hữu cơ sẽ trở nên đa dạng trong tự nhiên, giống như cách khi chúng được nuôi trong nhà. Và nếu có bất kỳ sự biến dị nào trong tự nhiên, đó sẽ là những dẫn chứng không thể đếm hết nếu chọn lọc tự nhiên chưa được thực hiện. Người ta thường đánh giá mà không dựa trên các căn cứ chính xác rằng khối lượng các biến dị trong tự nhiên thì thường bị giới hạn. Con người mặc dù chỉ có thể tác động lên các đặc điểm bên ngoài và không thường xuyên, nhưng trong một thời gian ngắn có thể tạo ra những kết quả quan trọng bằng cách bổ sung những khác biệt của các cá thể vào những sinh vật đang được thuần hoá, và tất cả đều phải thừa nhận rằng ít nhất là có sự khác biệt giữa các các thể trong cùng một loài trong tự nhiên. Nhưng bên cạnh những khác biệt này, tất cả các nhà tự nhiên học đều phải thừa nhận rằng sự tồn tại của các giống mà họ cho là đủ khác biệt để được ghi lại trong các công trình mang tính hệ thống. Không ai có thể đưa ra những sự khác biệt rõ nét giữa sự các khác biệt đặc biệt và các giống hơi khác nhau, hay giữa các giống khác nhau nhiều hơn và các loài nhở, và loài. Hãy quan sát những điều này theo cách phân cấp các nhà tự nhiên học trong bộ máy đại diện ở châu âu và Bắc Mỹ.
Vậy nếu chúng ta đang ở trong tình trạng hay biến đổi của tự nhiên và có một tác nhân luôn sẵn sàng hoạt động và chọn lọc, tại sao chúng ta không nghi ngờ rằng những sự biến đổi có ích cho con người, dưới những mối quan hệ sống phức tạp, có thể được bảo tồn, tăng cường và thừa kế lại? Và nếu con người có thể kiên nhẫn chọn lọc những giống có ích cho mình, tại sao tự nhiên lại không thể làm như vậy đối với các sinh vật sống của mình trong các điều kiện sống khác nhau? Giới hạn nào có thể đưa ra đối với sức mạnh này, có tác dụng trong một thời gian dài và xem xét kỳ về thể chất, cấu trúc và thói quen của mỗi sinh vật theo hướng thiên về cái tốt và loại bỏ những yếu tố xấu? Tôi không nhìn thấy bất cứ hạn chế nào đối với sức mạnh này, trong việc áp dụng từ từ và hợp lý từng dạng trong mối quan hệ phức tạp nhất của cuộc sống. Lý thuyết về chọn lọc tự nhiên đối với tôi là đã khá phù họp, ngay cả khi chúng ta không xem xét những lý thuyết khác. Tôi đã cổ tóm tắt một cách tương đối những khó khăn cản trở và những phản đối, bây giờ chúng ta sẽ trở lại với những dẫn chứng đặc biệt và những lý lẽ ủng hộ cho thuyết này.
Trên quan điểm loài chỉ là những giống đặc biệt và vĩnh cửu, và rằng mồi loài lúc ban đầu tồn tại chỉ là một giống, chúng ta có thể thấy tại sao không thể vẽ ra những ranh giới phân cách giữa các loài, thường được giả sử là đã được tạo ra bằng các hoạt động sáng tạo đặc biệt, và các giống được biết là đã được tạo ra từ các quy luật thứ cấp. Cùng quan điểm này, chúng ta có thể hiểu quá trình này diễn ra như thế nào ở từng khu vực nơi rất nhiều loài trong cùng một nòi đã được sinh ra, và nơi chủng lớn lên, nơi các nhóm loài trở nên năng động, chủng ta có thể hy vọng rằng, như một quy luật chung, sẽ tìm thấy các nhóm này vẫn đang hoạt động, và đây là trường hợp nếu các giống chỉ mới là những loài đang phôi thai. Hơn nữa, các loài trong một nòi lớn hơn, có thể nuôi dưỡng nhiều giống hoặc các loài đang phôi thai hơn sẽ giữ lại một mức độ nhất định đặc điểm của các giống; do chúng khác nhau với số lượng những khác biệt nhỏ hơn so với loài hay các nòi ít hơn. Các loài có quan hệ họ hàng gần với nhau về mặt hình thức thuộc những nhóm nòi lớn hơn đã tự giới hạn lại về phạm vi, và chủng tụ tập lại với nhau trong những nhóm nhỏ bên cạnh các loài khác. Có những mối quan hệ lạ lùng dựa trên quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập, nhưng rất dễ hiểu khi nói tất cả các loài ban đầu tồn tại dưới dạng các thứ.
Do tùy theo tỷ lệ sinh sản cấp số nhân của từng loài nên mỗi loài sẽ có xu hướng tăng lên về số lượng; và vì những thế hệ con cháu đã bị biến đổi của mỗi loài đều có thể tăng lên nhanh nên chúng sẽ trở nên đa dạng hơn về thói quen và cấu trúc, do đó có thể chiếm lĩnh ngày càng nhiều khu vực trong cơ cấu tổ chức của tự nhiên, và sẽ tạo ra trong chọn lọc tự nhiên khuynh hướng bảo tồn tất cả các thế hệ sau khác nhau của tất cả các loài.
Trong khi mỗi loài có xu hướng tăng lên theo cấp số nhân quá
trình sinh sản của mình; và những biến dị của con cháu mỗi loài sẽ được phép
tăng thêm khi chúng trở nên đa dạng về thói quen và cấu trúc, và sẽ được phép
tiếp tục sinh sống ở những chỗ rộng rãi khác nhau trong môi trường thiên nhiên,
đây sẽ là một xu hướng không thay đổi trong chọn lọc tự nhiên để giữ gìn con
cái của bất kỳ loài nào. Từ đây trong thời gian không ngừng kéo dài của quá
trình tiến hoá, những sự khác nhau chút ít, điển hình của các giống trong cùng
một loài đó, sẽ có xu hướng tăng thêm những đặc trưng khác nhau lớn hơn của những
loài của cùng chủng đó. Sự tiến hóa đa dạng và mới tất yếu sẽ loại bỏ và tiêu
diệt những sự giống trung gian và già, ít tiến hoá hơn; và như vậy những loài
được trả lại trong một phạm vi nhận dạng và phân biệt rõ ràng. Những loài trội
trong những nhóm lớn hơn có xu hướng cho những dạng trội và mới; như vậy nhóm lớn
sẽ trở nên lớn hơn, và cùng lúc đó có sự phân biệt rõ ràng hơn về đặc tính.
Nhưng trong khi tất cả các nhóm không thể thành công trong việc tăng lên về quy
mô, vì trái đất không bảo vệ chúng, những nhóm trội hơn tiêu diệt những nhóm ít
trội hơn. Xu hướng này theo qui mô nhóm lớn lại tiếp tục tăng thêm về quy mô và
tách ra về đặc tính, cùng với sự ngẫu nhiên gần như tất yếu của sự diệt vong,
giải thích cho sự sắp đặt tất cả các dạng sinh vật, để nhóm lại những nhóm bị lệ
thuộc, tất cả bên trong một tầng đất rộng, mà chúng ta bây giờ vẫn nhìn thấy khắp
nơi xung quanh chúng ta, và đã phổ biến ở mọi nơi mọi lúc. Hiện tượng này của
các thể hữu cơ là không thể giải nghĩa được nếu chỉ hoàn toàn dựa trên lý thuyết
về sự tạo thành.
Vì chọn lọc tự nhiên diễn ra đơn lẻ thông qua tích lũy những biến dị ít ỏi, liên tiếp, thuận tiện, nó có thể không tạo ra những cải biến lớn hoặc đột ngột; nó có thể diễn ra từng bước chậm chạp và rất ngắn. Đây là quy luật lệ của tự nhiên. Mỗi sự bổ sung mới mẻ nào cho kiến thức của chúng ta giúp chúng ta suy nghĩ đúng đắn và chính xác hơn, trên lý thuyết đơn giản này. Chúng ta có thể rõ ràng nhận thấy tại sao thiên nhiên, có rất nhiều các giống nhưng lại có rất ít người phát hiện ra. Nhưng tại sao cần phải là một quy luật của thiên nhiên nếu từng loài đều được tạo ra một cách độc lập. Điều này con người vẫn chưa giải thích được.
Nhiều thực tiễn khác theo tôi có thể giải thích dựa trên lý thuyết này. Những con chim, dưới hình dạng của chim gõ kiến, có thể đã được tạo ra để bắt sâu bọ trên mặt đất; hay những con ngỗng vùng cao, không bao giờ hoặc hiếm khi bơi, cần phải đã được sinh ra có màng chân; những con chim hét ra đời để lặn và ăn côn trùng dưới nước; và chim hải âu ra đời với những thói quen và cấu trúc phù hợp với cuộc sống của chim hải điểu hoặc chim Grebe.. và trong vô số các trường họp khác. Nhưng trên quan điểm mỗi loài đều liên tục cố gắng tăng thêm về số lượng, chọn lọc tự nhiên luôn luôn sẵn sàng thừa nhận những con cháu đã biến đổi chậm chạp hoặc từ các vùng không thuận lợi về điều kiện tự nhiên, những sự việc này loại bớt đi tính kỳ lạ của tự nhiên, thậm chí còn có thể đoán trước được.
Trong khi chọn lọc tự nhiên diễn ra do sự cạnh tranh, nỏ chỉ khiến những cư dân của mỗi nước được thích nghi trong quan hệ ở một mức nào đó của sự hoàn thiện đối với nhóm của chúng, để chúng ta không cần cảm thấy ngạc nhiên vì cư dân của bất kỳ một nước nào, mặc dầu trên quan điểm bình thường giả thiết rằng chúng được đặc biệt tạo ra và làm cho thích nghi với điều kiện sống của nước đó, và đã tiêu diệt và loại bỏ bởi những kẻ di cư từ những vùng đất khác. Mà chúng ta cũng không nên cho rằng đó là điều gì kỳ diệu nếu tất cả các sự dự tính trong tự nhiên không, trong khả năng xét đoán của chúng ta, tuyệt đối hoàn thiện; và nếu một số trong chúng trái ngược với những ý tưởng của chúng ta về sự tưorng thích. Chúng ta không cần phải tự hỏi về việc ngòi của con ong gây ra cái chết cho chính bản thân chúng; ong đực được sản sinh nhiều như vậy chỉ để làm một việc duy nhất rồi lại bị tiêu diệt bởi những chính chị, em gái tàn nhẫn của chúng, sự lãng phí phấn hoa đáng ngạc nhiên của cây linh sam, ở lòng thù ghét bản năng của con ong nữ hoàng đối với những con cái chính mình; ở việc nhộng được cung cấp sự sống ngay trong cơ thể sâu bướm; và ở những trường hợp khác tương tự như vậy khác. Thực tế, điều kỳ diệu là, trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên, có nhiều trường hợp hoàn hảo hơn nhưng chưa được phát hiện ra. Những quy luật phức tạp và ít được biết đến điều khiển biến dị cũng tương tự, như chúng ta có thể thấy, những quy luật điều khiển việc tạo ra những dạng đặc biệt. Trong cả hai trường hợp điều kiện vật lý có vẻ đã gây ra nhưng hiệu ứng trực tiếp nhưng nhỏ bé; vậy mà khi những biến dị này xâm nhập vào bất kỳ khu vực nào, chúng thỉnh thoảng lại nhắc lại vài đặc tính của những loài thích hợp với khu vực đó. Trong tất cả các giống và những loài, sự sử dụng và sự không dùng đến có vẻ đã gây ra một vài hiệu ứng nào đó; khó có thể phản bác lại những kết luận này khi chúng ta nhìn, ví dụ, những con thiên nga, có cánh nhưng không bay được cũng sống trong điều kiện sống gần giống vịt nhà. Trong cả các giống lẫn các loài, việc cùng tăng trưởng có vẻ đóng phần quan trọng nhất, để khi một phần đã được tiến hoá những phần khác tất yếu sẽ tiến hoá theo. Trong cả loài và giống sự đảo lộn các đặc tính mất đã lâu cũng thường xuất hiện. Thật không thể giải nghĩa được nếu dựa trên lý thuyết của sự tạo thành là sự xuất hiện thỉnh thoảng của vệt vằn trên vai và chân của vài loài ngựa và cả trong những vật lai của chúng! Thật đơn giản khi lý lẽ này giải thích cho chúng ta tin rằng những loài này đều thừa kế từ một tổ tiên chung, trong cùng một cách, giống như các nòi bồ câu đã được sinh ra từ bồ câu núi và bồ câu xanh.
Về quan điểm chung cho rằng mỗi loài được sinh ra một cách độc lập, vậy tại sao những đặc tính đặc biệt, hoặc những đặc tính thiết yếu của các loài cùng giống đó lại không giống nhau, thường là nhiều hơn so với những đặc tính chung mà tất cả chúng đều có? Tại sao, ví dụ, màu của một bông hoa sẽ có vẻ thay đổi theo giống của cùng một loài hoa, nếu những loài khác, giả sừ là được tạo ra độc lập, có khác nhau về màu của hoa, hơn là nếu tất cả các loài của giống cỏ hoa cùng một màu? Nếu loài chỉ là những biến dị đặc biệt của những đặc tính đã trở thành vĩnh cửu, chúng ta có thể hiểu sự việc này; vì chúng đã thay đổi một khi chúng rễ nhánh từ một tổ tiên chung trong những đặc tính nhất định, bởi đó chúng đã đến và phân biệt đặc biệt với nhau; và bởi vậy đó là những đặc tính lặn có vẻ dễ biến hơn những đặc tính chung đã được thừa kế mà không có sự thay đổi trong một thời kỳ dài. Điều không thể giải nghĩa được dựa trên lý thuyết về sự tạo thành là tại sao một bộ phận các loài trong một họ phát triển theo cách rất khác thường và bởi vậy, như chủng ta có thể dễ dàng suy ra, tầm quan trọng lớn của mỗi loài, nhất định phải là thông qua biến dị, nhưng theo quan điểm của tôi, bộ phận này đã trải qua, do một vài loài đã rẽ nhánh từ một tổ tiên chung, một số khác lại có xuất hiện những biến dị và tiến hoá mới, do đó chúng ta có thể nói rằng bộ phận này nói chung là thể biến dị. Nhưng bộ phận này có thể phát triển theo cách thức khác thường nhất, giống như cánh của dơi, và tuy thế nhưng không biến dị hơn so với các dạng cấu trúc khác, nếu bộ phận này đã được thừa kế trong một thời kỳ rất dài; nên trong trường hợp này nó sẽ đã được trả lại không thay đổi bởi chọn lọc tự nhiên không ngừng kéo dài. Xem xét vấn đề bản năng, điều tuyệt vời là chúng không gây ra khó khăn lớn nào ngoài việc cấu trúc lại lý thuyết chọn lọc tự nhiên của những biến dị liên tiếp, dù ít nhưng có lợi. Chúng ta có thể hiểu tại sao tự nhiên phát triển từng bước một với những động vật khác nhau của cùng một lớp với một vài bản năng của chúng. Tôi đã thử đưa ra nguyên lý tiến hoá đã dần ảnh hưởng như thế nào đến kiến trúc đáng nể tổ ong. Thói quen, không nghi ngờ gì, đôi khi đóng vai trò quan trọng trong việc sửa đổi những bản năng; trừ phi nó chắc chắn không cần thiết, như chúng ta đã thấy, trong trường hợp của những sâu bọ trung lập, chết đi mà không có con cháu nào để thừa kế những thói quen ngừng kéo dài. Trên quan điểm cho ràng tất cả các loài cùng một chủng đều sinh ra từ một cha mẹ chung, và đã thừa kế nhiều điểm chung, chúng ta có thể hiểu làm thế nào những loài họ hàng đó, khi được đặt trong những điều kiện sống tương đối khác nhau, mà vẫn gần như giữ nguyên được các bản năng đó; ví dụ, tại sao loài chim hét của Mỹ Nam vẫn đắp tổ bằng bùn giống như tổ tiên của chúng ở Anh. Trên quan điểm về việc bản năng đã dần được thu nhận thông qua chọn lọc tự nhiên chúng ta không cần phải tự hỏi tại sao vài bản năng rõ ràng là không hoàn hảo mà vẫn được duy trì, trong đó có cả những bản năng gây hại cho các loài khác. Nếu loài chỉ là những giống lâu dài và được đánh dấu kỹ, thì chúng ta có thể ngay lập tức thấy rằng tại sao con cháu của chúng lại vẫn tuân theo những quy luật phức tạp đó theo đúng như mức độ của cha mẹ chúng, - Trong việc thu hút lẫn nhau bởi sự lai giống liên tiếp chéo quá, và trong một vài đặc điểm khác, “và các thế hệ con lai của các biến dị cũng như vậy. Mặt khác, sẽ là khá lạ lùng nếu những loài được sinh ra độc lập, và các biến dị đã đwược sản sinh bởi quy luật thứ cấp.
Nếu chúng ta thừa nhận bản ghi địa lý không hoàn hảo tuyệt đối, thì những sự việc ghi nhận được từ bản ghi, sẽ hỗ trợ cho lý thuyết di truyền của sự tiến hoá. Những loài mới đã đạt đến những khoảng lặng chậm chạp và liên tiếp; và số lượng các loài thay đổi, sau một khoảng thời gian dài tương đương như vậy, trong các nhóm khác nhau thì khác nhau rẩt nhiều. Sự tuyệt chủng của những loài và của những toàn bộ nhóm loài đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử của thế giới hữu cơ, gần như tất yếu sẽ diễn ra theo nguyên lý chọn lọc tự nhiên; trong đó những loài già cũ sẽ bị tiêu diệt và thay thế bởi các loài mới và tiến hoá hơn. Không chỉ riêng từng loài đơn mà cả những nhóm loài sẽ không xuất hiện khi các chuỗi loài bình thường bị gãy. Sự khuếch tán dần dần của những dạng trội, với con cháu tiến hoá dần dần, tạo ra những dạng sống mới, sau một khoảng thời gian dài, xuất hiện như thể là chúng đã thay đổi đồng thời trên khắp thế giới. Những dấu tích hóa thạch còn lại của mỗi dạng địa chất ở mức độ trung gian giữa các đặc tính của hóa thạch trong các tầng địa chất ở trên và ở bên dưới, thì đơn giản được giải thích là do vị trí trung gian của chúng trong quá trình sụt lún. Thực tế cho thấy tất cả các thể hữu cơ tuyệt chủng đều thuộc về cùng một hệ thống với các thể hữu cơ gần đây, cùng rơi vào những nhóm trung gian, đi theo từ sự tồn tại đến sự tuyệt chủng giống như cha mẹ chúng. Trong khi những nhóm đã thừa kế từ một tổ tiên cổ xưa một số đặc tính chung, các thế hệ con cháu đi trước sẽ thường có nhiều đặc tính trung gian hơn so với những con cháu về sau của nó; và như vậy chúng ta có thể hiểu tại sao hóa thạch càng cổ, nó càng hay đứng trong mức trung gian cao giữa các loài đang tồn tại với các nhóm có quan hệ họ hàng. Những dạng gần đây nói chung thường được xem là, theo nghĩa nào đó, ở bậc cao hơn so với tổ tiên và các loài đã tuyệt chủng; và chúng còn cao hơn cả những loài mà chúng đã đánh bại trong quá trình tiến hóa.
Cuối cùng, quy luật về sự chịu đựng lâu dài của các loài có quan hệ họ hàng sống trên cùng một lục địa, ví dụ giữa các loài thú có túi ở châu úc và ở Mỹ, và một số ví dụ khác - là rất dễ hiểu, do đó trong cùng một vùng, những loài đang tồn tại và những loài đã tuyệt chủng tự nhiên được liên kết bởi sự di truyền.
Xét về sự phân bố địa lý, nếu chúng ta thừa nhận trong một thời gian dài đã diễn ra hiện tượng di trú từ phần này của thế giới này sang phần khác, do điều kiện khí hậu và địa lý thay đổi và bàng rất nhiều các phương tiện phân bổ, chúng ta có thể hiểu, theo lý thuyết di truyền của các biến dị, những dẫn chứng cụ thể của hiện tượng phân bố địa lý. Chúng ta có thể thấy tại sao luôn có sự song song giữa phân bố các thể hữu cơ cả không gian, và địa lý trong cả thời gian; trong cả hai trường hợp những thể hữu cơ đã được kết nối với nhau bởi mối ràng buộc về nguồn gốc phát sinh, và những phương tiện tiến hoá cũng như thế. Chúng ta có thể thấy ý nghĩa của các dấu tích địa lý đã gây ấn tượng cho mọi người khi đi qua, đó là, trong cùng một lục địa, trong cùng những điều kiện đa dạng nhất, giữa nóng và lạnh, trên núi và dưới đồng bằng, trên những sa mạc và ở những đầm lầy, hầu hết cư dân bên trong mỗi lớp địa chất đều có mối liên quan rõ ràng với nhau; do chúng nói chung cùng là con cháu của cùng tổ tiên và những loài đến sớm nhất. Cũng theo nguyên lý kẻ đến trước, kết hợp trong đa số các trường hợp với sự tiến hoá, chúng ta có thể hiểu được, với sự giúp đỡ của thời kỳ Băng giá, đặc điểm của một số ít cây nào đó, và các loài có quan hệ gần với một số loài khác, trên hầu hết các đỉnh núi, dưới những điều kiện khí hậu khác nhau nhất; và giống như vậy đối với những loài có quan hệ gần gũi với các cư dân của biển ôn đói ở miền nam và miền bắc, mặc dù đã được phân tách bởi biển ở giữa hai vùng nhiệt đới. Mặc dù hai vùng có thể có những điều kiện sống về cơ bản là giống nhau nhưng chúng ta thường ngạc nhiên khi thấy cư dân của chúng khác nhau khá nhiều, nếu chúng đã hoàn toàn tách biệt với nhau sau một thời kỳ dài; vì quan hệ giữa các dạng hữu cơ là mối quan hệ quan trọng nhất của tất cả các quan hệ, và vì hai vùng sẽ đã tiếp nhận những cư dân từ một địa điểm thứ ba nào đó hoặc từ lẫn nhau, trong nhiều thời kỳ và với những tỉ lệ khác nhau, quá trình tiến hoá ở hai vùng tất yếu sẽ diễn ra khác nhau.
Về sự di cư, với những tiến hoá liên tiếp, chúng ta có thể hiểu tại sao những hòn đảo ở đại dương cần phải có một số loài sinh sống trên đó, nhưng những loài đó phải rất đặc biệt. Chúng ta có thể thấy rõ ràng tại sao những động vật không thể vượt qua những không gian rộng của đại dương, ví dụ như ếch và những động vật có lông vũ trên mặt đất, lại không thể sống ở những hòn đảo ngoài khơi; và mặt khác, tại sao những loài dơi đặc biệt và mới, vốn có thể vượt qua đại dương, lại thường có mặt ở những hòn đảo xa xôi với đất liền. Những dẫn chứng như sự có mặt của những loài dơi đặc biệt, và sự thiếu vắng tất cả các động vật có vú khác, trên những hòn đảo ngoài khơi, sẽ không thể được giải nghĩa hoàn toàn nếu dựa trên lý thuyết về sự tạo thành độc lập.
Sự tồn tại của những loài có quan hệ gần gũi hoặc những loài đại diện trong hai vùng bất kỳ nào, đều ngụ ý rằng, theo lý thuyết về sự di truyền của các biến dị, do cả cha mẹ trước đó đều sống ở cả hai vùng; và chúng ta gần như không nhận thấy rằng ở mọi nơi nhiều loài có quan hệ họ hàng gần gũi sống ở hai vùng, vài loài đồng nhất chung của cả hai loài hiện vẫn còn tồn tại. Ở bất cứ nơi nào xuất hiện nhiều loài có quan hệ họ hàng nhưng được phân biệt rõ ràng, nhiều dạng và những biến dị đáng ngờ của cùng những loài đó cũng xuất hiện. Đó là một quy tắc mang tính tổng quát cao trong đó cư dân của mỗi vùng sẽ liên quan đến những cư dân ở vùng gần nhất mà từ đó các sinh vật nhập cư sinh ra. Chúng ta nhìn thấy điều này trong gần như tất cả các thực vật và động vật ở quần đảo Galapagos, của Juan Femandez, và ở những hòn đảo khác ở Mỹ thì có mối quan hệ đặc biệt giữa các động thực vật ở đất liền; ở quần đảo Cape de Verde và những hòn đảo châu Phi khác với lục địa châu Phi cũng có quan hệ như vậy. Phải thừa nhận rằng những sự việc này không thể giải thích được nếu xét theo lý thuyết của sự tạo thành.
Thực tế là, như chúng ta đã thấy, tất cả các thể hữu cơ trong quá khứ và hiện tại đã cấu thành một hệ thống tự nhiên to lớn, nhóm này lệ thuộc vào nhóm khác, và những nhóm đã tuyệt chủng thường đứng sau các nhóm mới đây, là điều dễ hiểu nếu dựa trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên với tính ngẫu nhiên của sự tuyệt chủng và tính phân kỳ của các đặc tính. Cũng trên những nguyên tắc như vậy mà chúng ta thấy được sự tương đồng của những loài và chủng bên trong mỗi lớp phức tạp và quanh co ra sao. Chúng ta sẽ hiểu tại sao một số đặc tính nhất định lại có ích hơn so với những đặc tính khác trong sự phân loại; tại sao, tuy nhiên là những đặc tính đã được chấp nhận, mặc dù vô cùng quan trọng, lại hiếm khi có được từ quá trình phân loại khó khăn; tại sao những đặc tính, tuy bắt nguồn từ những bộ phận đơn giản, không mang lại lợi ích gì cho thể hữu cơ lại thường là kết quả của quá trình phân loại bậc cao; và tại sao những đặc tính tự nhiên lại là những đặc tính quý giá nhất của mọi thể hữu cơ. Những sự tương đồng thực tế của tất cả các thể hữu cơ đều là do thừa kế hoặc do di truyền. Hệ thống tự nhiên là một một sự sắp đặt phả hệ, trong đó chúng ta phải khám phá ra những dòng di truyền bởi những đặc tính lâu dài nhất, tuy nhiên tầm quan trọng của chúng đôi lúc không được chú ý đúng mức.
Khung xương của bàn tay của con người, cánh của con dơi, vây của cá heo, và chân của con ngựa tương tự nhau, giống như vậy sổ đốt xương sống cổ của hươu cao cổ và của voi, và vô số các dẫn chứng khác một lần nữa được giải thích theo thuyết di truyền của những biến dị liên tiếp, nhỏ bé và và chậm. Tuy nhiên, sự giống nhau về mẫu xương trong cánh và chân của một con dơi giống nhau nhưng chúng được sử dụng cho những mục đích khác nhau, hoặc như càng và quai hàm của con cua, trong những cánh hoa, nhị hoa, và nhụy của cùng một bông hoa, cũng dễ hiểu nếu xem xét trên quan điểm tiến hoá dần dần của những phần hoặc những cơ quan mà giống nhau trong tổ tiên ban đầu của mỗi lớp. Theo nguyên tắc các tiến hoá dần dần không thường xuyên diễn ra vào các thời kỳ ban đầu, và nên quá trình di truyền cũng không diễn ra sớm như vậy, rõ ràng chúng ta có thể hiểu tại sao những phôi thai của những động vật có vú, chim, bò sát, và cá thường giống nhau đến như vậy, nhưng dạng trưởng thành lại không giống nhau. Chúng ta có thể không thắc mắc vì sao phôi thai của một động vật có vú hoặc chim thở bằng phổi được phân biệt với những động mạch mang cá, do cá phải thở không khí hoà tan trong nước, bởi hệ hô hấp phát triển tốt. Sự đào thải, được hỗ trợ đôi khi bởi chọn lọc tự nhiên, sẽ thường có xu hướng giảm bớt một cơ quan, khi nó đã trở thành vô ích do những thói quen thay đổi hoặc do nhũng thay đổi về điều kiện sống; và chúng ta có thể hiểu rõ điểu này dựa trên ý nghĩa của những cơ quan sơ khai. Nhưng sự đào thải và chọn lọc nói chung sẽ diễn ra ở từng tạo vật, khi nó trưởng thành và tham gia đầy đủ của vào cuộc tranh đấu sinh tồn, và như vậy trong thời gian ban đầu, các cơ quan sẽ có một chút sức mạnh; từ đây cơ quan sẽ không là giảm nhiều hoặc trở lại buổi ban đầu. Ví dụ, con bê đã có bộ răng, vốn không bao giờ cắt vào lợi của hàm trên, bắt nguồn từ một loài tổ tiên có răng; và chúng ta có thể tin rằng, số răng trong động vật trưởng thành đã giảm bớt, trong thời gian phát triển liên tục, bởi sự đào thải hoặc bởi lưỡi và vị giác đã được điều chỉnh phù hợp bởi chọn lọc tự nhiên; trong khi ở con bê vẫn còn răng mà không hề bị tác động bởi chọn lọc hoặc sự đào thải, và trên nguyên lý sự thừa kế từ thời kỳ xa xưa đến ngày nay. Trên quan điểm của mỗi thể hữu cơ và mỗi cơ quan riêng biệt đã được đặc biệt tạo ra, không thể giải nghĩa hoàn toàn được cách phân chia, giống như răng trong phôi thai con bê hoặc việc cánh dưới của một vài loài bọ cánh cứng bị teo đi, nhất định là mang dấu ấn của sự vô dụng! Có thể nói rằng tự nhiên phải trải qua nhiều đau đớn mới có thể phát triển được bởi những cơ quan sơ khai và bởi những cấu trúc cùng vị trí, sơ đồ tiến hoá của tự nhiên, những thứ mà có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi.
Bây giờ tôi sẽ tóm tắt lại những sự việc và những ý kiến chính đã hoàn toàn thuyết phục tôi rằng các loài đã thay đổi, và vẫn còn đang thay đổi chậm chạp bởi sự bảo tồn và sự tích tụ những biến dị phù hợp. Tại sao tất cả các nhà tự nhiên học nổi tiếng nhất và những nhà địa chất lại loại bỏ quan điểm về tính có thể biến đổi của các loài? Không thể khẳng định rằng những thể hữu cơ trong trong điều kiện tự nhiên lại không có sự biến đổi nào; cũng không thể chứng minh rằng số lượng các biến dị trong một thời gian dài là có hạn; không có sự phân biệt rõ ràng nào, hoặc có thể, được đưa ra giữa các loài và những biến dị được đánh dấu kỳ. Không thể bảo tồn các loài khi lai ghép trở thành những loài vô sinh, và khả năng sinh sản của các biến dị không thay đổi; hoặc sự vô sinh đó là một dấu hiệu đặc biệt của tạo hoá. Niềm tin rằng các loài là những tạo vật không thay đổi gần như là không thể tránh được do lịch sử của thế giới được cho là chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn; và bây giờ nếu chúng ta đã chấp nhận ý tưởng về sự thiếu sót của thời gian, chúng ta đã quá vội vàng đưa ra giả thuyết mà không có sự chứng minh, cho rằng bản ghi địa lý hoàn hảo đến nỗi nó có cung cấp cho chúng ta những bằng chứng rõ ràng về biến đổi của những loài nếu đã từng xảy ra. Nhưng nguyên nhân chính gây ra sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận một loài đã sinh ra loài khác và các loài được phân biệt rõ ràng với nhau, đó là việc chúng ta luôn chậm trong việc thừa nhận bất kỳ sự thay đổi lớn nào của tự nhiên vì chúng ta không nhìn thấy những liên kết trung gian. Khó khăn là nhiều nhà địa chất cũng nghĩ như vậy, như Lyell đã từng nhấn mạnh rằng những vách đá dốc đứng, những thung lũng mới được khai quật đều được hình thành bởi tác động từ từ của sóng biển. Đầu óc chúng ta có lẽ không thể lĩnh hội hết ý nghĩa đầy đủ của thời hạn của một trăm triệu năm; nó không thể làm tăng thêm những tác động của các biến dị ít ỏi, nhưng được tích lũy qua vô số các thế hệ.
Mặc dù tôi hoàn toàn công nhận sự đúng đắn của quan điểm đưa ra trong chương này dưới dạng chủ đề, nhưng tôi không hy vọng sẽ bị thuyết phục các nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, trong một thời gian dài, từ một quan điểm của đối lập trực tiếp với quan điểm của tôi. Sẽ là rất dễ để che giấu sự không hiểu biết của chúng ta dưới những cụm từ như “Kế hoạch của sự tạo thành”, “Sự thống nhất của các thiết kế”... và để nghĩ rằng chúng ta đưa ra một cách giải thích khi chủng ta chỉ tuyên bố lại cho rõ ràng một sự việc. Bất kỳ ai chỉ quan tâm đến việc cân đo đong đếm những khó khăn chứ không phải cách giải quyết những khó khăn đó chắc chắn sẽ phản bác lý thuyết của tôi.
Một vài nhà tự nhiên học, vốn có đầu óc linh hoạt, và những người đã bắt đầu nghi ngờ về sự bất biến của các loài, có thể bị ảnh hưởng bởi chương này; nhưng tôi tin rằng trong tương lai sẽ có những nhà tự nhiên học trẻ trung và tiến bộ, những người sẽ có thể nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề bằng cách nhìn khách quan.
Vì chọn lọc tự nhiên diễn ra đơn lẻ thông qua tích lũy những biến dị ít ỏi, liên tiếp, thuận tiện, nó có thể không tạo ra những cải biến lớn hoặc đột ngột; nó có thể diễn ra từng bước chậm chạp và rất ngắn. Đây là quy luật lệ của tự nhiên. Mỗi sự bổ sung mới mẻ nào cho kiến thức của chúng ta giúp chúng ta suy nghĩ đúng đắn và chính xác hơn, trên lý thuyết đơn giản này. Chúng ta có thể rõ ràng nhận thấy tại sao thiên nhiên, có rất nhiều các giống nhưng lại có rất ít người phát hiện ra. Nhưng tại sao cần phải là một quy luật của thiên nhiên nếu từng loài đều được tạo ra một cách độc lập. Điều này con người vẫn chưa giải thích được.
Nhiều thực tiễn khác theo tôi có thể giải thích dựa trên lý thuyết này. Những con chim, dưới hình dạng của chim gõ kiến, có thể đã được tạo ra để bắt sâu bọ trên mặt đất; hay những con ngỗng vùng cao, không bao giờ hoặc hiếm khi bơi, cần phải đã được sinh ra có màng chân; những con chim hét ra đời để lặn và ăn côn trùng dưới nước; và chim hải âu ra đời với những thói quen và cấu trúc phù hợp với cuộc sống của chim hải điểu hoặc chim Grebe.. và trong vô số các trường họp khác. Nhưng trên quan điểm mỗi loài đều liên tục cố gắng tăng thêm về số lượng, chọn lọc tự nhiên luôn luôn sẵn sàng thừa nhận những con cháu đã biến đổi chậm chạp hoặc từ các vùng không thuận lợi về điều kiện tự nhiên, những sự việc này loại bớt đi tính kỳ lạ của tự nhiên, thậm chí còn có thể đoán trước được.
Trong khi chọn lọc tự nhiên diễn ra do sự cạnh tranh, nỏ chỉ khiến những cư dân của mỗi nước được thích nghi trong quan hệ ở một mức nào đó của sự hoàn thiện đối với nhóm của chúng, để chúng ta không cần cảm thấy ngạc nhiên vì cư dân của bất kỳ một nước nào, mặc dầu trên quan điểm bình thường giả thiết rằng chúng được đặc biệt tạo ra và làm cho thích nghi với điều kiện sống của nước đó, và đã tiêu diệt và loại bỏ bởi những kẻ di cư từ những vùng đất khác. Mà chúng ta cũng không nên cho rằng đó là điều gì kỳ diệu nếu tất cả các sự dự tính trong tự nhiên không, trong khả năng xét đoán của chúng ta, tuyệt đối hoàn thiện; và nếu một số trong chúng trái ngược với những ý tưởng của chúng ta về sự tưorng thích. Chúng ta không cần phải tự hỏi về việc ngòi của con ong gây ra cái chết cho chính bản thân chúng; ong đực được sản sinh nhiều như vậy chỉ để làm một việc duy nhất rồi lại bị tiêu diệt bởi những chính chị, em gái tàn nhẫn của chúng, sự lãng phí phấn hoa đáng ngạc nhiên của cây linh sam, ở lòng thù ghét bản năng của con ong nữ hoàng đối với những con cái chính mình; ở việc nhộng được cung cấp sự sống ngay trong cơ thể sâu bướm; và ở những trường hợp khác tương tự như vậy khác. Thực tế, điều kỳ diệu là, trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên, có nhiều trường hợp hoàn hảo hơn nhưng chưa được phát hiện ra. Những quy luật phức tạp và ít được biết đến điều khiển biến dị cũng tương tự, như chúng ta có thể thấy, những quy luật điều khiển việc tạo ra những dạng đặc biệt. Trong cả hai trường hợp điều kiện vật lý có vẻ đã gây ra nhưng hiệu ứng trực tiếp nhưng nhỏ bé; vậy mà khi những biến dị này xâm nhập vào bất kỳ khu vực nào, chúng thỉnh thoảng lại nhắc lại vài đặc tính của những loài thích hợp với khu vực đó. Trong tất cả các giống và những loài, sự sử dụng và sự không dùng đến có vẻ đã gây ra một vài hiệu ứng nào đó; khó có thể phản bác lại những kết luận này khi chúng ta nhìn, ví dụ, những con thiên nga, có cánh nhưng không bay được cũng sống trong điều kiện sống gần giống vịt nhà. Trong cả các giống lẫn các loài, việc cùng tăng trưởng có vẻ đóng phần quan trọng nhất, để khi một phần đã được tiến hoá những phần khác tất yếu sẽ tiến hoá theo. Trong cả loài và giống sự đảo lộn các đặc tính mất đã lâu cũng thường xuất hiện. Thật không thể giải nghĩa được nếu dựa trên lý thuyết của sự tạo thành là sự xuất hiện thỉnh thoảng của vệt vằn trên vai và chân của vài loài ngựa và cả trong những vật lai của chúng! Thật đơn giản khi lý lẽ này giải thích cho chúng ta tin rằng những loài này đều thừa kế từ một tổ tiên chung, trong cùng một cách, giống như các nòi bồ câu đã được sinh ra từ bồ câu núi và bồ câu xanh.
Về quan điểm chung cho rằng mỗi loài được sinh ra một cách độc lập, vậy tại sao những đặc tính đặc biệt, hoặc những đặc tính thiết yếu của các loài cùng giống đó lại không giống nhau, thường là nhiều hơn so với những đặc tính chung mà tất cả chúng đều có? Tại sao, ví dụ, màu của một bông hoa sẽ có vẻ thay đổi theo giống của cùng một loài hoa, nếu những loài khác, giả sừ là được tạo ra độc lập, có khác nhau về màu của hoa, hơn là nếu tất cả các loài của giống cỏ hoa cùng một màu? Nếu loài chỉ là những biến dị đặc biệt của những đặc tính đã trở thành vĩnh cửu, chúng ta có thể hiểu sự việc này; vì chúng đã thay đổi một khi chúng rễ nhánh từ một tổ tiên chung trong những đặc tính nhất định, bởi đó chúng đã đến và phân biệt đặc biệt với nhau; và bởi vậy đó là những đặc tính lặn có vẻ dễ biến hơn những đặc tính chung đã được thừa kế mà không có sự thay đổi trong một thời kỳ dài. Điều không thể giải nghĩa được dựa trên lý thuyết về sự tạo thành là tại sao một bộ phận các loài trong một họ phát triển theo cách rất khác thường và bởi vậy, như chủng ta có thể dễ dàng suy ra, tầm quan trọng lớn của mỗi loài, nhất định phải là thông qua biến dị, nhưng theo quan điểm của tôi, bộ phận này đã trải qua, do một vài loài đã rẽ nhánh từ một tổ tiên chung, một số khác lại có xuất hiện những biến dị và tiến hoá mới, do đó chúng ta có thể nói rằng bộ phận này nói chung là thể biến dị. Nhưng bộ phận này có thể phát triển theo cách thức khác thường nhất, giống như cánh của dơi, và tuy thế nhưng không biến dị hơn so với các dạng cấu trúc khác, nếu bộ phận này đã được thừa kế trong một thời kỳ rất dài; nên trong trường hợp này nó sẽ đã được trả lại không thay đổi bởi chọn lọc tự nhiên không ngừng kéo dài. Xem xét vấn đề bản năng, điều tuyệt vời là chúng không gây ra khó khăn lớn nào ngoài việc cấu trúc lại lý thuyết chọn lọc tự nhiên của những biến dị liên tiếp, dù ít nhưng có lợi. Chúng ta có thể hiểu tại sao tự nhiên phát triển từng bước một với những động vật khác nhau của cùng một lớp với một vài bản năng của chúng. Tôi đã thử đưa ra nguyên lý tiến hoá đã dần ảnh hưởng như thế nào đến kiến trúc đáng nể tổ ong. Thói quen, không nghi ngờ gì, đôi khi đóng vai trò quan trọng trong việc sửa đổi những bản năng; trừ phi nó chắc chắn không cần thiết, như chúng ta đã thấy, trong trường hợp của những sâu bọ trung lập, chết đi mà không có con cháu nào để thừa kế những thói quen ngừng kéo dài. Trên quan điểm cho ràng tất cả các loài cùng một chủng đều sinh ra từ một cha mẹ chung, và đã thừa kế nhiều điểm chung, chúng ta có thể hiểu làm thế nào những loài họ hàng đó, khi được đặt trong những điều kiện sống tương đối khác nhau, mà vẫn gần như giữ nguyên được các bản năng đó; ví dụ, tại sao loài chim hét của Mỹ Nam vẫn đắp tổ bằng bùn giống như tổ tiên của chúng ở Anh. Trên quan điểm về việc bản năng đã dần được thu nhận thông qua chọn lọc tự nhiên chúng ta không cần phải tự hỏi tại sao vài bản năng rõ ràng là không hoàn hảo mà vẫn được duy trì, trong đó có cả những bản năng gây hại cho các loài khác. Nếu loài chỉ là những giống lâu dài và được đánh dấu kỹ, thì chúng ta có thể ngay lập tức thấy rằng tại sao con cháu của chúng lại vẫn tuân theo những quy luật phức tạp đó theo đúng như mức độ của cha mẹ chúng, - Trong việc thu hút lẫn nhau bởi sự lai giống liên tiếp chéo quá, và trong một vài đặc điểm khác, “và các thế hệ con lai của các biến dị cũng như vậy. Mặt khác, sẽ là khá lạ lùng nếu những loài được sinh ra độc lập, và các biến dị đã đwược sản sinh bởi quy luật thứ cấp.
Nếu chúng ta thừa nhận bản ghi địa lý không hoàn hảo tuyệt đối, thì những sự việc ghi nhận được từ bản ghi, sẽ hỗ trợ cho lý thuyết di truyền của sự tiến hoá. Những loài mới đã đạt đến những khoảng lặng chậm chạp và liên tiếp; và số lượng các loài thay đổi, sau một khoảng thời gian dài tương đương như vậy, trong các nhóm khác nhau thì khác nhau rẩt nhiều. Sự tuyệt chủng của những loài và của những toàn bộ nhóm loài đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử của thế giới hữu cơ, gần như tất yếu sẽ diễn ra theo nguyên lý chọn lọc tự nhiên; trong đó những loài già cũ sẽ bị tiêu diệt và thay thế bởi các loài mới và tiến hoá hơn. Không chỉ riêng từng loài đơn mà cả những nhóm loài sẽ không xuất hiện khi các chuỗi loài bình thường bị gãy. Sự khuếch tán dần dần của những dạng trội, với con cháu tiến hoá dần dần, tạo ra những dạng sống mới, sau một khoảng thời gian dài, xuất hiện như thể là chúng đã thay đổi đồng thời trên khắp thế giới. Những dấu tích hóa thạch còn lại của mỗi dạng địa chất ở mức độ trung gian giữa các đặc tính của hóa thạch trong các tầng địa chất ở trên và ở bên dưới, thì đơn giản được giải thích là do vị trí trung gian của chúng trong quá trình sụt lún. Thực tế cho thấy tất cả các thể hữu cơ tuyệt chủng đều thuộc về cùng một hệ thống với các thể hữu cơ gần đây, cùng rơi vào những nhóm trung gian, đi theo từ sự tồn tại đến sự tuyệt chủng giống như cha mẹ chúng. Trong khi những nhóm đã thừa kế từ một tổ tiên cổ xưa một số đặc tính chung, các thế hệ con cháu đi trước sẽ thường có nhiều đặc tính trung gian hơn so với những con cháu về sau của nó; và như vậy chúng ta có thể hiểu tại sao hóa thạch càng cổ, nó càng hay đứng trong mức trung gian cao giữa các loài đang tồn tại với các nhóm có quan hệ họ hàng. Những dạng gần đây nói chung thường được xem là, theo nghĩa nào đó, ở bậc cao hơn so với tổ tiên và các loài đã tuyệt chủng; và chúng còn cao hơn cả những loài mà chúng đã đánh bại trong quá trình tiến hóa.
Cuối cùng, quy luật về sự chịu đựng lâu dài của các loài có quan hệ họ hàng sống trên cùng một lục địa, ví dụ giữa các loài thú có túi ở châu úc và ở Mỹ, và một số ví dụ khác - là rất dễ hiểu, do đó trong cùng một vùng, những loài đang tồn tại và những loài đã tuyệt chủng tự nhiên được liên kết bởi sự di truyền.
Xét về sự phân bố địa lý, nếu chúng ta thừa nhận trong một thời gian dài đã diễn ra hiện tượng di trú từ phần này của thế giới này sang phần khác, do điều kiện khí hậu và địa lý thay đổi và bàng rất nhiều các phương tiện phân bổ, chúng ta có thể hiểu, theo lý thuyết di truyền của các biến dị, những dẫn chứng cụ thể của hiện tượng phân bố địa lý. Chúng ta có thể thấy tại sao luôn có sự song song giữa phân bố các thể hữu cơ cả không gian, và địa lý trong cả thời gian; trong cả hai trường hợp những thể hữu cơ đã được kết nối với nhau bởi mối ràng buộc về nguồn gốc phát sinh, và những phương tiện tiến hoá cũng như thế. Chúng ta có thể thấy ý nghĩa của các dấu tích địa lý đã gây ấn tượng cho mọi người khi đi qua, đó là, trong cùng một lục địa, trong cùng những điều kiện đa dạng nhất, giữa nóng và lạnh, trên núi và dưới đồng bằng, trên những sa mạc và ở những đầm lầy, hầu hết cư dân bên trong mỗi lớp địa chất đều có mối liên quan rõ ràng với nhau; do chúng nói chung cùng là con cháu của cùng tổ tiên và những loài đến sớm nhất. Cũng theo nguyên lý kẻ đến trước, kết hợp trong đa số các trường hợp với sự tiến hoá, chúng ta có thể hiểu được, với sự giúp đỡ của thời kỳ Băng giá, đặc điểm của một số ít cây nào đó, và các loài có quan hệ gần với một số loài khác, trên hầu hết các đỉnh núi, dưới những điều kiện khí hậu khác nhau nhất; và giống như vậy đối với những loài có quan hệ gần gũi với các cư dân của biển ôn đói ở miền nam và miền bắc, mặc dù đã được phân tách bởi biển ở giữa hai vùng nhiệt đới. Mặc dù hai vùng có thể có những điều kiện sống về cơ bản là giống nhau nhưng chúng ta thường ngạc nhiên khi thấy cư dân của chúng khác nhau khá nhiều, nếu chúng đã hoàn toàn tách biệt với nhau sau một thời kỳ dài; vì quan hệ giữa các dạng hữu cơ là mối quan hệ quan trọng nhất của tất cả các quan hệ, và vì hai vùng sẽ đã tiếp nhận những cư dân từ một địa điểm thứ ba nào đó hoặc từ lẫn nhau, trong nhiều thời kỳ và với những tỉ lệ khác nhau, quá trình tiến hoá ở hai vùng tất yếu sẽ diễn ra khác nhau.
Về sự di cư, với những tiến hoá liên tiếp, chúng ta có thể hiểu tại sao những hòn đảo ở đại dương cần phải có một số loài sinh sống trên đó, nhưng những loài đó phải rất đặc biệt. Chúng ta có thể thấy rõ ràng tại sao những động vật không thể vượt qua những không gian rộng của đại dương, ví dụ như ếch và những động vật có lông vũ trên mặt đất, lại không thể sống ở những hòn đảo ngoài khơi; và mặt khác, tại sao những loài dơi đặc biệt và mới, vốn có thể vượt qua đại dương, lại thường có mặt ở những hòn đảo xa xôi với đất liền. Những dẫn chứng như sự có mặt của những loài dơi đặc biệt, và sự thiếu vắng tất cả các động vật có vú khác, trên những hòn đảo ngoài khơi, sẽ không thể được giải nghĩa hoàn toàn nếu dựa trên lý thuyết về sự tạo thành độc lập.
Sự tồn tại của những loài có quan hệ gần gũi hoặc những loài đại diện trong hai vùng bất kỳ nào, đều ngụ ý rằng, theo lý thuyết về sự di truyền của các biến dị, do cả cha mẹ trước đó đều sống ở cả hai vùng; và chúng ta gần như không nhận thấy rằng ở mọi nơi nhiều loài có quan hệ họ hàng gần gũi sống ở hai vùng, vài loài đồng nhất chung của cả hai loài hiện vẫn còn tồn tại. Ở bất cứ nơi nào xuất hiện nhiều loài có quan hệ họ hàng nhưng được phân biệt rõ ràng, nhiều dạng và những biến dị đáng ngờ của cùng những loài đó cũng xuất hiện. Đó là một quy tắc mang tính tổng quát cao trong đó cư dân của mỗi vùng sẽ liên quan đến những cư dân ở vùng gần nhất mà từ đó các sinh vật nhập cư sinh ra. Chúng ta nhìn thấy điều này trong gần như tất cả các thực vật và động vật ở quần đảo Galapagos, của Juan Femandez, và ở những hòn đảo khác ở Mỹ thì có mối quan hệ đặc biệt giữa các động thực vật ở đất liền; ở quần đảo Cape de Verde và những hòn đảo châu Phi khác với lục địa châu Phi cũng có quan hệ như vậy. Phải thừa nhận rằng những sự việc này không thể giải thích được nếu xét theo lý thuyết của sự tạo thành.
Thực tế là, như chúng ta đã thấy, tất cả các thể hữu cơ trong quá khứ và hiện tại đã cấu thành một hệ thống tự nhiên to lớn, nhóm này lệ thuộc vào nhóm khác, và những nhóm đã tuyệt chủng thường đứng sau các nhóm mới đây, là điều dễ hiểu nếu dựa trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên với tính ngẫu nhiên của sự tuyệt chủng và tính phân kỳ của các đặc tính. Cũng trên những nguyên tắc như vậy mà chúng ta thấy được sự tương đồng của những loài và chủng bên trong mỗi lớp phức tạp và quanh co ra sao. Chúng ta sẽ hiểu tại sao một số đặc tính nhất định lại có ích hơn so với những đặc tính khác trong sự phân loại; tại sao, tuy nhiên là những đặc tính đã được chấp nhận, mặc dù vô cùng quan trọng, lại hiếm khi có được từ quá trình phân loại khó khăn; tại sao những đặc tính, tuy bắt nguồn từ những bộ phận đơn giản, không mang lại lợi ích gì cho thể hữu cơ lại thường là kết quả của quá trình phân loại bậc cao; và tại sao những đặc tính tự nhiên lại là những đặc tính quý giá nhất của mọi thể hữu cơ. Những sự tương đồng thực tế của tất cả các thể hữu cơ đều là do thừa kế hoặc do di truyền. Hệ thống tự nhiên là một một sự sắp đặt phả hệ, trong đó chúng ta phải khám phá ra những dòng di truyền bởi những đặc tính lâu dài nhất, tuy nhiên tầm quan trọng của chúng đôi lúc không được chú ý đúng mức.
Khung xương của bàn tay của con người, cánh của con dơi, vây của cá heo, và chân của con ngựa tương tự nhau, giống như vậy sổ đốt xương sống cổ của hươu cao cổ và của voi, và vô số các dẫn chứng khác một lần nữa được giải thích theo thuyết di truyền của những biến dị liên tiếp, nhỏ bé và và chậm. Tuy nhiên, sự giống nhau về mẫu xương trong cánh và chân của một con dơi giống nhau nhưng chúng được sử dụng cho những mục đích khác nhau, hoặc như càng và quai hàm của con cua, trong những cánh hoa, nhị hoa, và nhụy của cùng một bông hoa, cũng dễ hiểu nếu xem xét trên quan điểm tiến hoá dần dần của những phần hoặc những cơ quan mà giống nhau trong tổ tiên ban đầu của mỗi lớp. Theo nguyên tắc các tiến hoá dần dần không thường xuyên diễn ra vào các thời kỳ ban đầu, và nên quá trình di truyền cũng không diễn ra sớm như vậy, rõ ràng chúng ta có thể hiểu tại sao những phôi thai của những động vật có vú, chim, bò sát, và cá thường giống nhau đến như vậy, nhưng dạng trưởng thành lại không giống nhau. Chúng ta có thể không thắc mắc vì sao phôi thai của một động vật có vú hoặc chim thở bằng phổi được phân biệt với những động mạch mang cá, do cá phải thở không khí hoà tan trong nước, bởi hệ hô hấp phát triển tốt. Sự đào thải, được hỗ trợ đôi khi bởi chọn lọc tự nhiên, sẽ thường có xu hướng giảm bớt một cơ quan, khi nó đã trở thành vô ích do những thói quen thay đổi hoặc do nhũng thay đổi về điều kiện sống; và chúng ta có thể hiểu rõ điểu này dựa trên ý nghĩa của những cơ quan sơ khai. Nhưng sự đào thải và chọn lọc nói chung sẽ diễn ra ở từng tạo vật, khi nó trưởng thành và tham gia đầy đủ của vào cuộc tranh đấu sinh tồn, và như vậy trong thời gian ban đầu, các cơ quan sẽ có một chút sức mạnh; từ đây cơ quan sẽ không là giảm nhiều hoặc trở lại buổi ban đầu. Ví dụ, con bê đã có bộ răng, vốn không bao giờ cắt vào lợi của hàm trên, bắt nguồn từ một loài tổ tiên có răng; và chúng ta có thể tin rằng, số răng trong động vật trưởng thành đã giảm bớt, trong thời gian phát triển liên tục, bởi sự đào thải hoặc bởi lưỡi và vị giác đã được điều chỉnh phù hợp bởi chọn lọc tự nhiên; trong khi ở con bê vẫn còn răng mà không hề bị tác động bởi chọn lọc hoặc sự đào thải, và trên nguyên lý sự thừa kế từ thời kỳ xa xưa đến ngày nay. Trên quan điểm của mỗi thể hữu cơ và mỗi cơ quan riêng biệt đã được đặc biệt tạo ra, không thể giải nghĩa hoàn toàn được cách phân chia, giống như răng trong phôi thai con bê hoặc việc cánh dưới của một vài loài bọ cánh cứng bị teo đi, nhất định là mang dấu ấn của sự vô dụng! Có thể nói rằng tự nhiên phải trải qua nhiều đau đớn mới có thể phát triển được bởi những cơ quan sơ khai và bởi những cấu trúc cùng vị trí, sơ đồ tiến hoá của tự nhiên, những thứ mà có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi.
Bây giờ tôi sẽ tóm tắt lại những sự việc và những ý kiến chính đã hoàn toàn thuyết phục tôi rằng các loài đã thay đổi, và vẫn còn đang thay đổi chậm chạp bởi sự bảo tồn và sự tích tụ những biến dị phù hợp. Tại sao tất cả các nhà tự nhiên học nổi tiếng nhất và những nhà địa chất lại loại bỏ quan điểm về tính có thể biến đổi của các loài? Không thể khẳng định rằng những thể hữu cơ trong trong điều kiện tự nhiên lại không có sự biến đổi nào; cũng không thể chứng minh rằng số lượng các biến dị trong một thời gian dài là có hạn; không có sự phân biệt rõ ràng nào, hoặc có thể, được đưa ra giữa các loài và những biến dị được đánh dấu kỳ. Không thể bảo tồn các loài khi lai ghép trở thành những loài vô sinh, và khả năng sinh sản của các biến dị không thay đổi; hoặc sự vô sinh đó là một dấu hiệu đặc biệt của tạo hoá. Niềm tin rằng các loài là những tạo vật không thay đổi gần như là không thể tránh được do lịch sử của thế giới được cho là chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn; và bây giờ nếu chúng ta đã chấp nhận ý tưởng về sự thiếu sót của thời gian, chúng ta đã quá vội vàng đưa ra giả thuyết mà không có sự chứng minh, cho rằng bản ghi địa lý hoàn hảo đến nỗi nó có cung cấp cho chúng ta những bằng chứng rõ ràng về biến đổi của những loài nếu đã từng xảy ra. Nhưng nguyên nhân chính gây ra sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận một loài đã sinh ra loài khác và các loài được phân biệt rõ ràng với nhau, đó là việc chúng ta luôn chậm trong việc thừa nhận bất kỳ sự thay đổi lớn nào của tự nhiên vì chúng ta không nhìn thấy những liên kết trung gian. Khó khăn là nhiều nhà địa chất cũng nghĩ như vậy, như Lyell đã từng nhấn mạnh rằng những vách đá dốc đứng, những thung lũng mới được khai quật đều được hình thành bởi tác động từ từ của sóng biển. Đầu óc chúng ta có lẽ không thể lĩnh hội hết ý nghĩa đầy đủ của thời hạn của một trăm triệu năm; nó không thể làm tăng thêm những tác động của các biến dị ít ỏi, nhưng được tích lũy qua vô số các thế hệ.
Mặc dù tôi hoàn toàn công nhận sự đúng đắn của quan điểm đưa ra trong chương này dưới dạng chủ đề, nhưng tôi không hy vọng sẽ bị thuyết phục các nhà tự nhiên học giàu kinh nghiệm, trong một thời gian dài, từ một quan điểm của đối lập trực tiếp với quan điểm của tôi. Sẽ là rất dễ để che giấu sự không hiểu biết của chúng ta dưới những cụm từ như “Kế hoạch của sự tạo thành”, “Sự thống nhất của các thiết kế”... và để nghĩ rằng chúng ta đưa ra một cách giải thích khi chủng ta chỉ tuyên bố lại cho rõ ràng một sự việc. Bất kỳ ai chỉ quan tâm đến việc cân đo đong đếm những khó khăn chứ không phải cách giải quyết những khó khăn đó chắc chắn sẽ phản bác lý thuyết của tôi.
Một vài nhà tự nhiên học, vốn có đầu óc linh hoạt, và những người đã bắt đầu nghi ngờ về sự bất biến của các loài, có thể bị ảnh hưởng bởi chương này; nhưng tôi tin rằng trong tương lai sẽ có những nhà tự nhiên học trẻ trung và tiến bộ, những người sẽ có thể nhìn thấy cả hai mặt của vấn đề bằng cách nhìn khách quan.
Một vài nhà tự nhiên học nổi tiếng đã phát biểu về lòng tin của
họ rằng có một số loài trong mỗi chủng trên thực tế không phải là loài; nhưng
những loài khác thực tế, thì lại được độc lập tạo ra. Điều này đối với tôi có vẻ
là một kết luận lạ lùng. Phần lớn của những nhà tự nhiên học tự xếp một số loài
vào các nhóm dựa trên những đặc tính điển hình bên ngoài của những loài thật, họ
thừa nhận răng những đặc điểm đó đã được sản sinh do biến dị, nhưng họ từ chối
mở rộng quan điểm đó cho những loài có những đậc điểm hơi khác nhau. Tuy vậy họ
không giả vờ rằng họ có thể định nghĩa, hoặc thậm chí là giả thuyết, rằng loài
nào được sinh ra từ tự nhiên và loài nào được sinh ra bởi quy luật thứ sinh. Họ
thừa nhận biến dị như một trường hợp cụ thể, họ tự ý loại bỏ yếu tố này trong
các trường hợp khác, mà không đưa ra bất kỳ sự phân biệt nào giữa hai trường hợp.
Sẽ đến lúc cách suy nghĩ đó được coi là mù quáng. Nhưng liệu họ có thật sự tin
rằng trong vô số những thời kỳ nhất định lịch sừ, những nguyên từ cơ bản của
trái đất đã thình lỉnh chiếu sáng vào các mẫu vật mỏng manh hay không?
Liệu họ có tin rằng ở mỗi giai đoạn của sự tạo thành, có một cá thể hoặc nhiều cá thể sản sinh? Liệu có phải nhiều loại những động thực vật được tạo ra như những quả trứng hoặc hạt giống, là một cơ thể đầy đủ? Và trong trường hợp của những động vật có vú, liệu có phải chúng được tạo ra như thức ăn từ dạ con của mẹ? Mặc dầu những nhà tự nhiên học rất đúng mức yêu cầu có một giải thích đầy đủ cho những khó khăn về khả năng có thể biến đổi của các loài, nhưng họ đã lờ đi toàn bộ đề tài về sự xuất hiện đầu tiên của những loài mà họ thấy cần phải giữ kín.
Câu hỏi đặt ra là tôi sẽ mở rộng thuyết tiến hoá loài của mình đến đâu. Câu hỏi này rất khó trả lời, vì các dạng sinh vật là rất đa dạng. Nhưng một vài lý thuyết có thể được mở rộng rất xa.
Tất cả các thành viên của một lớp có thể được nối với nhau bởi những chuỗi tương đồng, và hoàn toàn có thể được phân loại theo cùng nguyên lý đó, thành từng nhóm phụ thuộc để nhóm lại. Các hóa thạch còn lại đôi khi cũng có xu hướng lấp đầy những khoảng giữa tồn tại những thứ tự rất rộng. Những thể hữu cơ trong điều kiện sơ khai rõ ràng cho thấy có từng tồn tại một loài tổ tiên hữu cơ phát triển hoàn thiện; và điều này tất yếu là ngụ ý một số lượng khổng lồ những biến dị còn lại trong con cháu. Trong khắp cả nhiều lớp cấu trúc có mẫu như nhau, trong thời kỳ phôi thai những loài gần gũi thì giống nhau. Bởi vậy tôi không nghi ngờ lý thuyết về sự di truyền đã bao trùm tất cả hiện tượng trên. Tôi tin rằng những động vật đó được thừa kế ít nhất là từ bốn hoặc năm tổ tiên.
Sự tương đồng cũng dẫn tôi đến một suy nghĩ mới, đó là, tất cả các động thực vật có bắt nguồn từ một nguyên mẫu nào đó. Nhưng tính tương đồng có thể là một hướng dẫn không đáng tin cậy. Tuy vậy tất cả các sinh vật có nhiều điểm chung, trong sự cấu trúc hóa học của chúng, cấu trúc tế bào của chúng, và những quy luật về sự tăng trưởng và sinh sản của chúng. Chúng ta thấy rằng trong một điều kiện chật hẹp, một chất độc nào đó thường có ảnh hưởng đếấn động thực vật như nhau; hoặc chất độc đó cất cẩn thận trong những túi tạo ra những phát triển quái dị cây hoa hồng hoang hoặc cây sồi . Bởi vậy tôi suy ra rằng tính tương đồng mà có lẽ tất cả các thể hữu cơ đã từng sống trên trái đất này đều là thừa kế từ một mẫu nguyên thủy nào đó, vào ngay những cơ thể hấp thụ chúng đầu tiên.
Khi những quan điểm nêu ra trong chương này về nguồn gốc của các loài, hoặc các quan điểm tương tự nói chung được thừa nhận, chúng ta có thể lờ mờ nhìn thấy trước rằng đó sẽ là một cuộc cách mạng đáng kể trong lịch sử tự nhiên. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ có thể tiếp tục theo đuổi công việc của họ như hiện nay; nhưng họ sẽ không ngừng thắc mắc rằng liệu mẫu dạng này và mẫu dạng đó thực chất là một loài. Tôi cảm thấy chắc chắn từ kinh nghiệm của bản thân rằng sẽ không dễ dàng tìm ra câu trả lời. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ chỉ phải quyết định (nếu không có việc này mọi việc sẽ dễ dàng hơn) xem liệu một loài bất kỳ nào có khác biệt hoàn toàn so với các loài khác không, từ đó đưa ra định nghĩa; và nếu có thể định nghĩa, thì liệu những sự khác nhau đó có đủ quan trọng để có một tên gọi đặc biệt. Điểm mới này sẽ trở thành là một ý kiến quan trọng hơn nhiều hơn nó hiện nay; đối với sự khác nhau, dù rất nhỏ giữa bất kỳ hai loài nào, nếu không hòa hợp bởi những chuyển biến trung gian từ từ, thì sẽ được xem xét bởi đa số các nhà tự nhiên học đế nâng cả hai loài này trong dãy các loài. Từ nay trở đi chúng ta phải bắt buộc thừa nhận sự phân biệt duy nhất đó giữa những loài và những biến dị được đánh dấu kỹ. Mà các biến dị được biết đến, hoặc được tin là, được nối với hiện tại bởi những thay đổi từ từ trung gian, giống như các loài trước đây. Từ đây, không cần xem xét sự tồn tại của những biến đổi từ từ trung gian giữa bất kỳ hai loài nào, chúng ta sẽ xem xét cẩn thận hơn và đánh giá cao hơn số lượng thực tế những khác biệt giữa các loài. Có khả năng là những loài bây giờ nói chung được ghi nhận đơn thuần là những biến dị từ nay trở đi có thể sẽ được xứng đáng với những cái tên đặc biệt, như cây hồng dại và cây hoa ngọc trâm; và trong trường hợp này các tên chung và tên khoa học sẽ thống nhất với nhau. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ nhìn nhận các loài giống cách các nhà tự nhiên học nhìn nhận các chủng vậy, họ thừa nhận rằng chủng là sự kết hợp không tự nhiên có lợi cho nhau. Điều này có thể không là một viễn cảnh vui vẻ; nhưng chúng ta ít nhất cũng sẽ được giải phóng khỏi việc tìm kiếm vô ích những đặc điểm chưa được khám phá của các loài.
Những bộ môn khác của ngành lịch sử tự nhiên phát triển lên nhiều trong sự quan tâm của mọi người. Những khái niệm các nhà tự nhiên học sử dụng như sự tương đồng, mối quan hệ, nhóm kiểu, mô hình, hình thái học, những đặc tính được thừa nhận, những cơ quan sa sẩy và sơ khai,., sẽ không chỉ mang tính trừu tượng mà sẽ có ý nghĩa rõ ràng. Khi chúng ta không còn quan tâm đến việc nhìn nhận các thể hữu cơ theo cách quan sát một con tàu bình thường, như nhìn những gì ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; khi chúng ta lưu tâm tới các tạo vật của tự nhiên như một cá thể có lịch sử phát triển; khi chúng ta xem xét các cấu trúc và bản năng phức tạp giống như tổng của các cấu trúc đơn giản và hữu ích cho sinh vật sở hữu nó, gần giống cách khi chúng ta xem bất kỳ phát minh cơ khí lớn nào là sự nâng cấp của lao động, kinh nghiệm, lý lẽ và thậm chí là những sai lầm ngu ngốc của nhiều công nhân; khi nào chúng ta nhìn các thể hữu cơ như vậy, tôi nói điều này từ kinh nghiệm của bản thân, rằng ngành nghiên cứu lịch sử tự nhiên sẽ trở nên thú vị hơn nhiều.
Một lĩnh vực gần như chưa có dấu chân người và nhất định sẽ được mở, dựa trên những nguyên nhân và quy luật tiến hoá, về tương quan tăng trưởng, trên những ảnh hưởng của việc sừ dụng và sự đào thải, của tác động trực tiếp của những điều kiện bên ngoài và những thứ tương tự. Việc nghiên cứu những cây trồng vật nuôi trong nhà sẽ có giá trị to lớn. Một giống mới đang được nuôi trồng sẽ là đề tài quan trọng và thú vị hơn nhiều so với việc nghiên cứu thêm nữa những loài đã có vô số trong tự nhiên. Sự phân loại của sẽ dẫn đến khoa học phả hệ học; và rồi sẽ đưa ra được chính xác cái gọi là “kế hoạch của sự tạo thành”. Những quy tắc phân loại không nghi ngờ gì sẽ trở nên đơn giản hơn khi trong suy nghĩ của chúng ta có một đối tượng xác định. Chúng ta không sở hữu bất cứ nòi giống nào; và chúng ta phải khám phá và lần theo vô số các sự phân nhánh phả hệ học tự nhiên của chúng ta, bằng những đặc tính của bất kỳ loại nào đã được thừa kế. Những thể hữu cơ sơ khai sẽ nói lên được một cách chính xác của những cấu trúc mất đã lâu trong tự nhiên. Những loài và những nhóm loài có thể được gọi là hóa thạch sống, sẽ giúp chúng ta trong việc hình thành một bức tranh loài cổ xưa của cuộc sống. Phôi sinh học sẽ để lộ cho chúng ta biết cấu trúc, có thể là không hoàn chỉnh trong một mức độ nào đó, của những nguyên mẫu của mỗi lớp loài lớn.
Khi chúng ta có thể cảm thấy đảm bảo rằng những cá thể trong cùng một loài, và tất cả các loài có quan hệ mật thiết trong cùng một chủng đều cùng bắt nguồn từ một tổ tiên, và đã di cư đến từ cùng một vùng, và khi chúng ta biết rõ hơn các phương tiện phân tán, nhờ những tiến bộ của ngành khoa học địa chất, sẽ tiếp tục tìm được những thay đổi của khí hậu và của mức đất, chủng ta chắc chắn sẽ được phép lần theo dấu vết sự di trú của những cư dân của toàn thế giới. Thậm chí hiện nay, bảng cách so sánh những khác biệt giữa những sinh vật sinh sống dưới biến và trên cạn, và bản chất của nhiều cư dân của lục địa đó trong mối quan hệ với các phương tiện phân bổ có thể giúp hiểu thêm nhiều điều về địa lý trong quá khứ. Khoa học địa chất cao quý mất đi sự chính xác của nó là do sự không hoàn hảo của các bản ghi địa lý. Lớp vỏ cứng của trái đất và những phần đã bị chìm lấp của nó còn lại cần phải được xem như một bảo tàng tương đối đầy đủ, nhưng vẫn có những khoảng trống. Sự tích luỹ một khối lượng lớn các dạng hóa thạch sẽ được xem là phụ thuộc vào sự trùng khớp khác thường của các hoàn cảnh sống, và những khoảng để trống giữa giai đoạn liên tiếp có thể là những khoảng thời gian rộng lớn. Nhưng chúng ta nên thận trọrig khi đánh giá khoảng thời gian của những khoảng này khi so sánh với các dạng địa chất của các giai đoạn trước và sau đó. Chúng ta phải thận trọng trong việc cố gắng liên kết chính xác hai dạng địa chất, bao gồm một ít loài đồng nhất, vì sự những đặc điểm chung được thừa hưởng lại của những loài này. Trong khi những loài được sản sinh và tiêu diệt một cách từ từ bởi những loài hiện vẫn đang tồn tại và trong khi điều quan trọng nhất của tất cả các nguyên nhân thay đổi hữu cơ gần như độc lập của những biến đổi thình lình về điều kiện vật lý, tức là, quan hệ lẫn nhau của cơ quan của các thể hữu cơ, sự tiến hoá của thể hữu cơ ảnh hưởng đến sự tiến hoá hoặc diệt vong của những loài khác; theo đó, số lượng hóa thạch hữu cơ những lớp địa chất liên tiếp thay đổi cỏ lẽ là để đo lại những khoảng sai lệch về thời gian. Một số loài, tuy nhiên, tiếp tục tồn tại mà không thay đổi gì trong một thời gian dài, trong khi một số loài khác do phải canh tranh để tồn tạo nên đã có những biến đổi nhất định; do đó chúng ta không được đánh giá quá cao sự chính xác về những biến đổi hữu cơ như là cách ghi lại thời gian. Trong thời kỳ ban đầu của lịch sử trái đất, khi các sinh vật còn ít hơn và có lẽ đơn giản hơn, nhịp độ thay đổi có lẽ chậm hơn ; và vào lúc bình minh đầu tiên của cuộc sống, khi có ít loài có cấu trúc đơn giản nhất tồn tại, nhịp độ thay đổi thậm chí còn chậm hơn. Toàn bộ lịch sử của thế giới như vẫn được biết mặc dù dài một cách khá khó hiểu nhưng từ nay trở đi sẽ trở nên dễ dự đoán như một giai đoạn nhất định mà thôi, so sánh với những kỷ nguyên mà những tạo vật đầu tiên, tổ tiên của vô số các loài đã tuyệt chủng và con cháu chúng, được tạo ra.
Trong tương lai xa tôi có thể nhìn thấy những khoảng trống dành cho những nghiên cứu quan trọng hơn. Tâm lý học sẽ được phát triển trên cơ sở một nền tảng mới, đó là sự thu lượm năng lực trí tuệ cần thiết và khả năng thích ứng do những thay đổi diễn ra từ từ. Nguồn gốc và lịch sử loài người sẽ được soi sáng.
Những tác giả nổi tiếng nhất có vẻ hoàn toàn bằng lòng với quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập. Tôi cũng đồng ý rằng những gì chúng ta biết về những quy luật gây ấn tượng về vấn đề trên, các loài đã xuất hiện và tuyệt chủng trong quá khứ và sự tồn tại của các sinh vật cư trú của thế giới, vì sự sống chết của mỗi cá thể đã được xác định. Khi tôi xem xét tất cả các dạng ngoài những dạng địa chất đặc biệt, nhưng trong khi những con cháu dòng họ của ít hiện thân nào đó sổng ước ao trước cái giường đầu tiên của kỷ Silurian đã được đặt, chúng có vẻ từ tôi tớ trở thành quý tộc. Xét đoán từ đã qua, Chúng ta có thể yên tâm suy ra rằng không phải là sự sống của các loài sẽ truyền cho con cháu mà không thay đổi trong một tương lai xa. Và những loài bây giờ đang tồn tại ít nhiều gì sẽ truyền cho con cháu bất kỳ loài nào tới trong một tương lai xa; theo cách mà trong đó tất cả các thể hữu cơ đều được nhóm lại, trưng bày với số lượng lớn hơn số loài của mỗi giống, và tẩt cả các loài thuộc nhiều chủng, không có thể hệ sau và bị tuyệt chủng hoàn toàn. Cho đến lúc này chúng ta có thể tiên đoán một chút về tương lai rằng hiện tượng này sẽ là phổ biến và lan rộng trong những loài, thuộc về những nhóm trội và lớn hơn, mà cuối cùng sẽ rất phổ biến và sinh ra những loài trội và mới. Trong khi tất cả các dạng sinh vật đều là con cháu của những dòng họ sống rất lâu từ trước kỷ nguyên Silurian, chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn sự kế tiếp thông thường theo quy luật đã bị phá vỡ, và không có bất cứ trận đại hồng thủy nào đã tàn phá toàn bộ thế giới. Từ đây chúng ta có thể tin rằng một lúc nào đó trong tương lai, hiện tượng này sẽ trở lại theo đúng độ dài lịch sử như nó đã từng diễn ra. Và trong khi duy nhất sự chọn lọc tự nhiên có tác động tốt cho các sinh vật, nó sẽ giúp cả phần trí não và thể trạng của các loài tiến hoá hoàn thiện hơn.
Sẽ rất thú vị khi quan sát ven các bờ sông, có rất nhiều dạng thực vật, trên đó có nhiều chim chóc sinh sống, ca hát trên những bụi cây, với nhiều sâu bọ sống xung quanh, và giun bò xuyên qua lớp đất ẩm ướt, cho thấy rằng những dạng có cấu trúc tỉ mỉ này, có đặc điểm khác nhau, tùy thuộc lẫn nhau theo cách tương đối phức tạp, đã được sinh ra theo quy luật hành động xung quanh chúng ta. Những quy luật này, khả năng bắt nguồn lớn nhất, là từ sự tăng trưởng với quá trình tái tạo nòi giống; sự thừa kế gần như có mặt trong cả quá trình này; tính linh hoạt từ những tác động trực tiếp và gián tiếp của các điều kiện sống bên ngoài, và từ việc sử dụng hay không sử dụng; tỷ lệ của việc tăng thêm rất cao trong khi đi tới cuộc tranh đấu vì cuộc sống, và là một hệ quả của quá trình chọn lọc tự nhiên,thay vì quá trình phân kỳ của các đặc tính và sự tuyệt chủng của các loài ít tiến hóa hơn. Như vậy, từ cuộc chiến trong thiên nhiên, từ nạn đói và sự tử vong, điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể cảm nhận được là sự xuất hiện những động vật bậc cao hơn, trực tiếp đi theo sự tuyệt chủng đó. Đối với quan điểm này về cuộc sống, với sức mạnh của mình, trước đấy được hút vào trong một số dạng nhất định và trong khi hành tinh này đã đi tiếp tục đi theo quy luật cố định của lực hút, từ một sự bắt đầu đơn giản như thế hình thành vô tận đa số các dạng sống tự nhiên đẹp đẽ và kỳ diệu, và chúng không ngừng sinh sôi phát triển.
Liệu họ có tin rằng ở mỗi giai đoạn của sự tạo thành, có một cá thể hoặc nhiều cá thể sản sinh? Liệu có phải nhiều loại những động thực vật được tạo ra như những quả trứng hoặc hạt giống, là một cơ thể đầy đủ? Và trong trường hợp của những động vật có vú, liệu có phải chúng được tạo ra như thức ăn từ dạ con của mẹ? Mặc dầu những nhà tự nhiên học rất đúng mức yêu cầu có một giải thích đầy đủ cho những khó khăn về khả năng có thể biến đổi của các loài, nhưng họ đã lờ đi toàn bộ đề tài về sự xuất hiện đầu tiên của những loài mà họ thấy cần phải giữ kín.
Câu hỏi đặt ra là tôi sẽ mở rộng thuyết tiến hoá loài của mình đến đâu. Câu hỏi này rất khó trả lời, vì các dạng sinh vật là rất đa dạng. Nhưng một vài lý thuyết có thể được mở rộng rất xa.
Tất cả các thành viên của một lớp có thể được nối với nhau bởi những chuỗi tương đồng, và hoàn toàn có thể được phân loại theo cùng nguyên lý đó, thành từng nhóm phụ thuộc để nhóm lại. Các hóa thạch còn lại đôi khi cũng có xu hướng lấp đầy những khoảng giữa tồn tại những thứ tự rất rộng. Những thể hữu cơ trong điều kiện sơ khai rõ ràng cho thấy có từng tồn tại một loài tổ tiên hữu cơ phát triển hoàn thiện; và điều này tất yếu là ngụ ý một số lượng khổng lồ những biến dị còn lại trong con cháu. Trong khắp cả nhiều lớp cấu trúc có mẫu như nhau, trong thời kỳ phôi thai những loài gần gũi thì giống nhau. Bởi vậy tôi không nghi ngờ lý thuyết về sự di truyền đã bao trùm tất cả hiện tượng trên. Tôi tin rằng những động vật đó được thừa kế ít nhất là từ bốn hoặc năm tổ tiên.
Sự tương đồng cũng dẫn tôi đến một suy nghĩ mới, đó là, tất cả các động thực vật có bắt nguồn từ một nguyên mẫu nào đó. Nhưng tính tương đồng có thể là một hướng dẫn không đáng tin cậy. Tuy vậy tất cả các sinh vật có nhiều điểm chung, trong sự cấu trúc hóa học của chúng, cấu trúc tế bào của chúng, và những quy luật về sự tăng trưởng và sinh sản của chúng. Chúng ta thấy rằng trong một điều kiện chật hẹp, một chất độc nào đó thường có ảnh hưởng đếấn động thực vật như nhau; hoặc chất độc đó cất cẩn thận trong những túi tạo ra những phát triển quái dị cây hoa hồng hoang hoặc cây sồi . Bởi vậy tôi suy ra rằng tính tương đồng mà có lẽ tất cả các thể hữu cơ đã từng sống trên trái đất này đều là thừa kế từ một mẫu nguyên thủy nào đó, vào ngay những cơ thể hấp thụ chúng đầu tiên.
Khi những quan điểm nêu ra trong chương này về nguồn gốc của các loài, hoặc các quan điểm tương tự nói chung được thừa nhận, chúng ta có thể lờ mờ nhìn thấy trước rằng đó sẽ là một cuộc cách mạng đáng kể trong lịch sử tự nhiên. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ có thể tiếp tục theo đuổi công việc của họ như hiện nay; nhưng họ sẽ không ngừng thắc mắc rằng liệu mẫu dạng này và mẫu dạng đó thực chất là một loài. Tôi cảm thấy chắc chắn từ kinh nghiệm của bản thân rằng sẽ không dễ dàng tìm ra câu trả lời. Các nhà nghiên cứu hệ thống sẽ chỉ phải quyết định (nếu không có việc này mọi việc sẽ dễ dàng hơn) xem liệu một loài bất kỳ nào có khác biệt hoàn toàn so với các loài khác không, từ đó đưa ra định nghĩa; và nếu có thể định nghĩa, thì liệu những sự khác nhau đó có đủ quan trọng để có một tên gọi đặc biệt. Điểm mới này sẽ trở thành là một ý kiến quan trọng hơn nhiều hơn nó hiện nay; đối với sự khác nhau, dù rất nhỏ giữa bất kỳ hai loài nào, nếu không hòa hợp bởi những chuyển biến trung gian từ từ, thì sẽ được xem xét bởi đa số các nhà tự nhiên học đế nâng cả hai loài này trong dãy các loài. Từ nay trở đi chúng ta phải bắt buộc thừa nhận sự phân biệt duy nhất đó giữa những loài và những biến dị được đánh dấu kỹ. Mà các biến dị được biết đến, hoặc được tin là, được nối với hiện tại bởi những thay đổi từ từ trung gian, giống như các loài trước đây. Từ đây, không cần xem xét sự tồn tại của những biến đổi từ từ trung gian giữa bất kỳ hai loài nào, chúng ta sẽ xem xét cẩn thận hơn và đánh giá cao hơn số lượng thực tế những khác biệt giữa các loài. Có khả năng là những loài bây giờ nói chung được ghi nhận đơn thuần là những biến dị từ nay trở đi có thể sẽ được xứng đáng với những cái tên đặc biệt, như cây hồng dại và cây hoa ngọc trâm; và trong trường hợp này các tên chung và tên khoa học sẽ thống nhất với nhau. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ nhìn nhận các loài giống cách các nhà tự nhiên học nhìn nhận các chủng vậy, họ thừa nhận rằng chủng là sự kết hợp không tự nhiên có lợi cho nhau. Điều này có thể không là một viễn cảnh vui vẻ; nhưng chúng ta ít nhất cũng sẽ được giải phóng khỏi việc tìm kiếm vô ích những đặc điểm chưa được khám phá của các loài.
Những bộ môn khác của ngành lịch sử tự nhiên phát triển lên nhiều trong sự quan tâm của mọi người. Những khái niệm các nhà tự nhiên học sử dụng như sự tương đồng, mối quan hệ, nhóm kiểu, mô hình, hình thái học, những đặc tính được thừa nhận, những cơ quan sa sẩy và sơ khai,., sẽ không chỉ mang tính trừu tượng mà sẽ có ý nghĩa rõ ràng. Khi chúng ta không còn quan tâm đến việc nhìn nhận các thể hữu cơ theo cách quan sát một con tàu bình thường, như nhìn những gì ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; khi chúng ta lưu tâm tới các tạo vật của tự nhiên như một cá thể có lịch sử phát triển; khi chúng ta xem xét các cấu trúc và bản năng phức tạp giống như tổng của các cấu trúc đơn giản và hữu ích cho sinh vật sở hữu nó, gần giống cách khi chúng ta xem bất kỳ phát minh cơ khí lớn nào là sự nâng cấp của lao động, kinh nghiệm, lý lẽ và thậm chí là những sai lầm ngu ngốc của nhiều công nhân; khi nào chúng ta nhìn các thể hữu cơ như vậy, tôi nói điều này từ kinh nghiệm của bản thân, rằng ngành nghiên cứu lịch sử tự nhiên sẽ trở nên thú vị hơn nhiều.
Một lĩnh vực gần như chưa có dấu chân người và nhất định sẽ được mở, dựa trên những nguyên nhân và quy luật tiến hoá, về tương quan tăng trưởng, trên những ảnh hưởng của việc sừ dụng và sự đào thải, của tác động trực tiếp của những điều kiện bên ngoài và những thứ tương tự. Việc nghiên cứu những cây trồng vật nuôi trong nhà sẽ có giá trị to lớn. Một giống mới đang được nuôi trồng sẽ là đề tài quan trọng và thú vị hơn nhiều so với việc nghiên cứu thêm nữa những loài đã có vô số trong tự nhiên. Sự phân loại của sẽ dẫn đến khoa học phả hệ học; và rồi sẽ đưa ra được chính xác cái gọi là “kế hoạch của sự tạo thành”. Những quy tắc phân loại không nghi ngờ gì sẽ trở nên đơn giản hơn khi trong suy nghĩ của chúng ta có một đối tượng xác định. Chúng ta không sở hữu bất cứ nòi giống nào; và chúng ta phải khám phá và lần theo vô số các sự phân nhánh phả hệ học tự nhiên của chúng ta, bằng những đặc tính của bất kỳ loại nào đã được thừa kế. Những thể hữu cơ sơ khai sẽ nói lên được một cách chính xác của những cấu trúc mất đã lâu trong tự nhiên. Những loài và những nhóm loài có thể được gọi là hóa thạch sống, sẽ giúp chúng ta trong việc hình thành một bức tranh loài cổ xưa của cuộc sống. Phôi sinh học sẽ để lộ cho chúng ta biết cấu trúc, có thể là không hoàn chỉnh trong một mức độ nào đó, của những nguyên mẫu của mỗi lớp loài lớn.
Khi chúng ta có thể cảm thấy đảm bảo rằng những cá thể trong cùng một loài, và tất cả các loài có quan hệ mật thiết trong cùng một chủng đều cùng bắt nguồn từ một tổ tiên, và đã di cư đến từ cùng một vùng, và khi chúng ta biết rõ hơn các phương tiện phân tán, nhờ những tiến bộ của ngành khoa học địa chất, sẽ tiếp tục tìm được những thay đổi của khí hậu và của mức đất, chủng ta chắc chắn sẽ được phép lần theo dấu vết sự di trú của những cư dân của toàn thế giới. Thậm chí hiện nay, bảng cách so sánh những khác biệt giữa những sinh vật sinh sống dưới biến và trên cạn, và bản chất của nhiều cư dân của lục địa đó trong mối quan hệ với các phương tiện phân bổ có thể giúp hiểu thêm nhiều điều về địa lý trong quá khứ. Khoa học địa chất cao quý mất đi sự chính xác của nó là do sự không hoàn hảo của các bản ghi địa lý. Lớp vỏ cứng của trái đất và những phần đã bị chìm lấp của nó còn lại cần phải được xem như một bảo tàng tương đối đầy đủ, nhưng vẫn có những khoảng trống. Sự tích luỹ một khối lượng lớn các dạng hóa thạch sẽ được xem là phụ thuộc vào sự trùng khớp khác thường của các hoàn cảnh sống, và những khoảng để trống giữa giai đoạn liên tiếp có thể là những khoảng thời gian rộng lớn. Nhưng chúng ta nên thận trọrig khi đánh giá khoảng thời gian của những khoảng này khi so sánh với các dạng địa chất của các giai đoạn trước và sau đó. Chúng ta phải thận trọng trong việc cố gắng liên kết chính xác hai dạng địa chất, bao gồm một ít loài đồng nhất, vì sự những đặc điểm chung được thừa hưởng lại của những loài này. Trong khi những loài được sản sinh và tiêu diệt một cách từ từ bởi những loài hiện vẫn đang tồn tại và trong khi điều quan trọng nhất của tất cả các nguyên nhân thay đổi hữu cơ gần như độc lập của những biến đổi thình lình về điều kiện vật lý, tức là, quan hệ lẫn nhau của cơ quan của các thể hữu cơ, sự tiến hoá của thể hữu cơ ảnh hưởng đến sự tiến hoá hoặc diệt vong của những loài khác; theo đó, số lượng hóa thạch hữu cơ những lớp địa chất liên tiếp thay đổi cỏ lẽ là để đo lại những khoảng sai lệch về thời gian. Một số loài, tuy nhiên, tiếp tục tồn tại mà không thay đổi gì trong một thời gian dài, trong khi một số loài khác do phải canh tranh để tồn tạo nên đã có những biến đổi nhất định; do đó chúng ta không được đánh giá quá cao sự chính xác về những biến đổi hữu cơ như là cách ghi lại thời gian. Trong thời kỳ ban đầu của lịch sử trái đất, khi các sinh vật còn ít hơn và có lẽ đơn giản hơn, nhịp độ thay đổi có lẽ chậm hơn ; và vào lúc bình minh đầu tiên của cuộc sống, khi có ít loài có cấu trúc đơn giản nhất tồn tại, nhịp độ thay đổi thậm chí còn chậm hơn. Toàn bộ lịch sử của thế giới như vẫn được biết mặc dù dài một cách khá khó hiểu nhưng từ nay trở đi sẽ trở nên dễ dự đoán như một giai đoạn nhất định mà thôi, so sánh với những kỷ nguyên mà những tạo vật đầu tiên, tổ tiên của vô số các loài đã tuyệt chủng và con cháu chúng, được tạo ra.
Trong tương lai xa tôi có thể nhìn thấy những khoảng trống dành cho những nghiên cứu quan trọng hơn. Tâm lý học sẽ được phát triển trên cơ sở một nền tảng mới, đó là sự thu lượm năng lực trí tuệ cần thiết và khả năng thích ứng do những thay đổi diễn ra từ từ. Nguồn gốc và lịch sử loài người sẽ được soi sáng.
Những tác giả nổi tiếng nhất có vẻ hoàn toàn bằng lòng với quan điểm rằng mỗi loài đã được tạo ra một cách độc lập. Tôi cũng đồng ý rằng những gì chúng ta biết về những quy luật gây ấn tượng về vấn đề trên, các loài đã xuất hiện và tuyệt chủng trong quá khứ và sự tồn tại của các sinh vật cư trú của thế giới, vì sự sống chết của mỗi cá thể đã được xác định. Khi tôi xem xét tất cả các dạng ngoài những dạng địa chất đặc biệt, nhưng trong khi những con cháu dòng họ của ít hiện thân nào đó sổng ước ao trước cái giường đầu tiên của kỷ Silurian đã được đặt, chúng có vẻ từ tôi tớ trở thành quý tộc. Xét đoán từ đã qua, Chúng ta có thể yên tâm suy ra rằng không phải là sự sống của các loài sẽ truyền cho con cháu mà không thay đổi trong một tương lai xa. Và những loài bây giờ đang tồn tại ít nhiều gì sẽ truyền cho con cháu bất kỳ loài nào tới trong một tương lai xa; theo cách mà trong đó tất cả các thể hữu cơ đều được nhóm lại, trưng bày với số lượng lớn hơn số loài của mỗi giống, và tẩt cả các loài thuộc nhiều chủng, không có thể hệ sau và bị tuyệt chủng hoàn toàn. Cho đến lúc này chúng ta có thể tiên đoán một chút về tương lai rằng hiện tượng này sẽ là phổ biến và lan rộng trong những loài, thuộc về những nhóm trội và lớn hơn, mà cuối cùng sẽ rất phổ biến và sinh ra những loài trội và mới. Trong khi tất cả các dạng sinh vật đều là con cháu của những dòng họ sống rất lâu từ trước kỷ nguyên Silurian, chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn sự kế tiếp thông thường theo quy luật đã bị phá vỡ, và không có bất cứ trận đại hồng thủy nào đã tàn phá toàn bộ thế giới. Từ đây chúng ta có thể tin rằng một lúc nào đó trong tương lai, hiện tượng này sẽ trở lại theo đúng độ dài lịch sử như nó đã từng diễn ra. Và trong khi duy nhất sự chọn lọc tự nhiên có tác động tốt cho các sinh vật, nó sẽ giúp cả phần trí não và thể trạng của các loài tiến hoá hoàn thiện hơn.
Sẽ rất thú vị khi quan sát ven các bờ sông, có rất nhiều dạng thực vật, trên đó có nhiều chim chóc sinh sống, ca hát trên những bụi cây, với nhiều sâu bọ sống xung quanh, và giun bò xuyên qua lớp đất ẩm ướt, cho thấy rằng những dạng có cấu trúc tỉ mỉ này, có đặc điểm khác nhau, tùy thuộc lẫn nhau theo cách tương đối phức tạp, đã được sinh ra theo quy luật hành động xung quanh chúng ta. Những quy luật này, khả năng bắt nguồn lớn nhất, là từ sự tăng trưởng với quá trình tái tạo nòi giống; sự thừa kế gần như có mặt trong cả quá trình này; tính linh hoạt từ những tác động trực tiếp và gián tiếp của các điều kiện sống bên ngoài, và từ việc sử dụng hay không sử dụng; tỷ lệ của việc tăng thêm rất cao trong khi đi tới cuộc tranh đấu vì cuộc sống, và là một hệ quả của quá trình chọn lọc tự nhiên,thay vì quá trình phân kỳ của các đặc tính và sự tuyệt chủng của các loài ít tiến hóa hơn. Như vậy, từ cuộc chiến trong thiên nhiên, từ nạn đói và sự tử vong, điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể cảm nhận được là sự xuất hiện những động vật bậc cao hơn, trực tiếp đi theo sự tuyệt chủng đó. Đối với quan điểm này về cuộc sống, với sức mạnh của mình, trước đấy được hút vào trong một số dạng nhất định và trong khi hành tinh này đã đi tiếp tục đi theo quy luật cố định của lực hút, từ một sự bắt đầu đơn giản như thế hình thành vô tận đa số các dạng sống tự nhiên đẹp đẽ và kỳ diệu, và chúng không ngừng sinh sôi phát triển.
CHARLES DARWIN
Ngọc Linh dịch
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét