Thứ Tư, 8 tháng 1, 2020

Nguồn gốc của muôn loài 2

Nguồn gốc của muôn loài 2
CHƯƠNG IV 
SỰ LỰA CHỌN CỦA TỰ NHIÊN 
Sự lựa chọn của tự nhiên - Sức mạnh của nó so với sức mạnh của sự lựa chọn do con người - Sức mạnh của nó đối với các đặc tính kém quan trọng - Sức mạnh của nó đối với mọi lứa tuổi và giới tính - Sự lựa chọn giới tính - về tính tổng quát của sự lai giống giữa các cá thể của cùng một loài - Các hoàn cảnh sống thuận lợi và bất lợi đối với sự lựa chọn tự nhiên, bao gồm sự lai giống, sự cô lập, số lượng cá thể - Tác động chậm - Sự tuyệt chủng gây ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên - Sự chệch hướng của đặc điểm, liên quan đến tính đa dạng của cư dân sống bất cứ trong một khu vực nhỏ bất kỳ nào và với quá trình tự nhiên hóa - Ảnh hưởng của sự lựa chọn tự nhiên, thông qua sự chệch hướng của đặc điểm và tuyệt chủng, lên con cháu cùng chung bố mẹ - Giải thích tính bầy đàn của mọi cá thể sống. 
Cuộc đấu tranh sinh tồn, điều mà đã được bàn luận đến, mặc dù rất tóm lược, trong chưcmg trước ảnh hưởng đến sự biến đổi như thế nào? Liệu có thể nguyên lý của sự lựa chọn mà chúng ta thấy đầy quyền uy dưới bàn tay của con người cũng áp dụng được đổi với tự nhiên? Tôi nghĩ nó có thể hoạt động tốt. Chúng ta hãy luôn nhớ tới vô số đặc điểm kỳ lạ của động, thực vật thuần hóa, và với mức độ thấp hơn những cây và con trong tự nhiên biến đổi; và xu hướng di truyền mạnh mẽ đến như thế nào. Trong điều kiện thuần hóa, người ta thực sự có thể nói rằng xét trên mức độ nào đó, toàn bộ tổ chức cơ thể trở nên dễ biến hình. Chúng ta hãy nhớ rằng mối quan hệ qua lại của tất cả các cơ thể sống với nhau và với điều kiện sống vật chất là vô cùng phức tạp và hài hòa. Liệu nó có thể bị coi là không hợp lý khi thấy rằng các thay đổi có ích cho con người chắc chắn đã xuất hiện, rằng các thay đổi khác có lợi cho mỗi cơ thể sống xét trên một phương diện cụ thể trong cuộc chiến phức tạp nhưng vĩ đại cho sự sống, đôi khi xuất hiện trong quãng thời gian của hàng nghìn thế hệ? Nếu chuyện ấy xuất hiện, liệu chúng ta có thể (xin nhớ cho là nhiều cá thể được sinh ra hơn là có thể sống sót) nghi ngờ những thực thể có bất kỳ lợi thế nào, cho dù nhỏ bé, so với cá thể khác sẽ có cơ hội tốt hơn để tồn tại và sinh sản giống loài? Mặt khác, chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn bất kỳ sự thay đổi nào trong mức độ nhỏ nhất gây hại sẽ bị loại trừ ngay lập tức. Sự duy trì các biến đổi có ích và loại bỏ các biến đổi có hại, tôi gọi là sự lựa chọn của tự nhiên. Các biến đổi chẳng có lợi cũng chẳng có hại không bao giờ bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn của tự nhiên, và để cho là một nhân tố dao động, có lẽ như chúng ta thấy trong các loài được gọi là loài biến hình. 
Chúng ta sẽ hiểu kỹ lộ trình có thể của sự lựa chọn tự nhiên bằng cách xem xét trường hợp của nước trải qua sự thay đổi của điều kiện sống, ví dụ như thay đổi khí hậu. số lượng cân đối của các cư dân sinh sổng hầu như ngay tức khắc sẽ thay đổi, và một vài loài có thể bị tuyệt chủng. Chúng ta có thể kết luận, dựa trên những gì mà chúng ta thấy trong tính phức tạp và gần gũi mà các cư dân của một nước gắn kết với nhau. Bất kỳ sự thay đổi nào trong sự cân đổi số lượng của một vài cư dân, không hề liên quan tới sự thay đổi khí hậu, sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nhiều loài khác. Nếu các nước xóa bỏ đường biên giới, các dạng mới chắc chắn sẽ di cư, và tình trạng này sẽ gây nên sự xáo trộn nghiêm trọng trong mối quan hệ của một vài cựu cư dân . Chúng ta hãy nhớ lại ảnh hưởng mạnh mẽ của sự xuất hiện một cây hay loài động vật có vú mà đã được nhắc đến đâu đó. Nhưng trong trường hợp đảo, hay quốc gia một phần bị bao bọc, các dạng mới và thích nghi tốt hơn không thể xâm nhập thì chúng ta sẽ có những nơi trong thế giới tự nhiên mà chắc chắn sẽ được lấp đầy tốt hơn, nếu một vài cư dân gốc được biến đổi; vì nếu khu vực đó mờ ra cho nhập cư, những nơi này sẽ bị các loài xâm nhập chiếm đóng. Trong trường hợp như vậy, mọi cải đổi, cho dù nhỏ, mà theo thời gian trưởng thành có cơ hội xuất hiện, và trong bất kỳ cách nào có lợi cho cá thể của bất cứ loài nào, bằng cách giúp chúng thích nghi tốt hơn với điều kiện sống thay đổi, sẽ có xu hướng được giữ lại; và như thế sự lựa chọn tự nhiên có tầm hoạt động cải thiện tự do. 
Chúng ta có lý do để tin rằng, như đã được trình bày ở chương I, một thay đổi trong điều kiện sống, nhất là nếu tác động lên hệ thống sinh sản, gây ra hoặc tăng tính biến đổi; và trong những trường hợp trước đây mọi người cho rằng điều kiện sống thay đổi, và do đó hiển nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn tự nhiên bằng việc tạo ra cơ hội tốt hơn cho những biến đổi có lợi xuất hiện. Trừ khi các biến đổi có lợi xuất hiện, sự lựa chọn tự nhiên không có tác dụng gì. Tôi tin là không phải bất cứ mức độ biến đổi tột cùng nào cũng là cần thiết; khi mà con người luôn có thể tạo ra những điều tuyệt vời bằng cách chỉ thêm vào các khác biệt cá thể theo bất cứ chiều hướng cho sẵn nào; và Tự nhiên cũng làm được như thế nhưng dễ dàng hơn nhiều do Tự nhiên có thời gian vô hạn, không ai có thể sánh kịp. Tôi cũng không tin bất kỳ thay đổi vật lý lớn nào, chẳng hạn như thay đổi thời tiết, bất cứ mức độ cô lập lớn để kiềm chế sự nhập cư là trên thực tế cần thiết để tạo ra những nơi mới và không bị chiếm cứ, để cho sự lựa chọn tự nhiên lấp đầy thông qua việc thay đổi và cải thiện một vài cư dân vùng. Bởi vì khi mà tất cả các cư dân của mỗi nước đang tranh đấu với nhau với các lực lượng cân bằng hoàn hảo, những chỉnh đổi cực kỳ nhỏ bé trong cấu trúc và thói quen của một cư dân thường mang lại lợi thế cho nó trước con khác; và nếu vẫn còn tiếp tục biến đổi cùng loại thì nó sẽ càng tăng được lợi thế. Không có một nước nào mà trong đó tất cả các cư dân bản địa hiện đang chung sống với nhau hòa bình và thích nghi hoàn toàn với điều kiện sống nơi chúng đang tồn tại tới mức không loài nào có thể được cải tiến hơn nữa bằng cách này hay cách khác. Bởi vì mọi quốc gia, loài bản địa đã bị chinh phục hoàn toàn bởi sản phẩm tự nhiên hóa đến độ mà chúng cho phép kẻ ngoại lai chiếm giữ hẳn mảnh đất cha ông. Và thực tế là loài ngoại lai ở mọi ncri chỉ chiếm ưu thế so với một số loài bản địa, chúng ta có thể kết luận chắc là loài bản địa có lẽ đã được biến đổi với lợi thế nhất định để có thể hạn chế tốt hơn những kẻ xâm lấn như kiểu này. 
Do con người có thể và chắc chắn đã tạo ra sự kỳ lạ thông qua biện pháp lựa chọn có khoa học và vô thức , cái gì mà tự nhiên không thể tạo ra? Con người chỉ có thể tác động đến đặc điểm bên ngoài và quan sát được; tự nhiên không hề quan tâm đến bề ngoài, trừ trường hợp nó có ích cho cơ thể sống. Tự nhiên có thể ảnh hưởng tới tất cả các cơ quan bên trong, lên mọi thể trạng, và cả bộ máy sự sống. Con người chỉ lựa chọn để có lợi cho bàn thân mà thôi. Tự nhiên chỉ lựa chọn những đặc tính mà nó nhắm vào. Mọi đặc tính được lựa chọn hoàn toàn là do tự nhiên quyết định, và thực thể sống được đặt trong điều kiện sống phù hợp. Con người giữa nhiều loài thuộc khí hậu khác nhau trong cùng một đất nước; anh ta ít khi tiến hành mỗi sự lựa chọn theo cách kỳ lạ; anh ta cho một con chim bồ câu mỏ ngắn hoặc dài ăn cùng loại thức ăn. Anh ta không huấn luyện một động vật bốn chân lưng dài hoặc chân dài theo bất kỳ phương pháp bất thường nào. Anh ta nuôi cừu có bộ lông dài và ngắn trong cùng loại thời tiết. Anh ta không cho phép các con đực khỏe nhất chiến đấu giành lấy con cái. Anh ta không cương quyết loại bỏ những con vật không đạt tiêu chuẩn, mà lại bảo vệ tất cả sản phẩm của mình trong các mùa biếấn động, nếu sức mạnh của anh ta cho phép. Anh ta thường bắt đầu sự lựa chọn với kiểu bán quái dị; hay ít nhất bởi sự biến đổi đủ nổi bật bắt mắt anh ta, hay đơn thuần là có lợi. Trong môi trường tự nhiên, sự khác biệt bé nhất trong cấu trúc hay thể trạng rất có thể làm mất cân bằng cán cân của cuộc chiến sinh tồn, và nhờ đó được bảo tồn. Thật là viển vông cho những mong muốn và nỗ lực của con người! Thời gian của con người thật ngắn ngủi! Và kết quả là sản phẩm của anh ta thật tồi tệ nếu đem so với sản phẩm tích tụ của thiên nhiên trong các thời kỳ địa chất. Như thế, liệu chúng ta có thể tự hỏi sản phẩm của tự nhiên thực sự là "thật hơn" nhiều trong đặc tính hơn sản phẩm của con người; chúng có thể thích nghi tốt hơn nhiều với điều kiện sống phức tạp nhất và có dấu ấn công trình nghệ thuật mà không một tác phẩm nào của con người có thể so sánh được? 
Chúng có thể nói rằng sự lựa chọn tự nhiên hàng ngày, thậm chí hằng giờ, xét kỹ lưỡng, trên khắp thế giới, mọi biến đổi cho dù là nhỏ nhất; loại trừ đi những cái xẩu và giữ lại, sau đấy cộng dồn mọi đặc tính tốt; làm việc một cách thầm lặng và không cảm nhận được, bất cứ khi nào, lúc nào cơ hội xuất hiện nhằm cải thiện mỗi cơ thể sống trong mối quan hệ với điều kiện sống hữu cơ và vô cơ của nó. Chúng ta không nhìn thấy gì trong quá trình chậm chạp này của nó cho tới khi bàn tay thời gian "vào cuộc". Sự quan sát của chúng ta kém hoàn thiện tới mức mà chúng ta chi thấy dạng thức sống ngày nay khác với dạng thức sống trước đó. 
Mặc dù sự lựa chọn tự nhiên chỉ có thể ảnh hưởng thông qua và có lợi cho mỗi cá thể sống, song các đặc điểm, tính cách và cấu trúc mà chúng ta hay coi chúng là không quan trọng, có thể vẫn bị ảnh hưởng bởi nó. Khi chúng ta thấy những con côn trùng ăn lá cây màu xanh, gà gô trắng xám vùng núi An - pơ ở mùa đông, gà gô có màu đỏ của cây thạch nam, và gà gô đen giống màu than bùn đất; chúng ta phải tin rằng sự đa dạng về màu sắc này nhàm giúp loại chim vả côn trùng tránh khỏi hiểm nguy. Gà gô, nếu không bị tiêu diệt hàng loạt tại giai đoạn nào đó trong chu trình sống, sẽ tăng lên vô khối; người ta biết là chúng bị những con chim săn bắt; và chim ưng là con săn mồi dựa vào tầm nhìn tốt nhất. Chúng đã săn bắt được nhiều con mồi tới mức mà ở một số noi trên lục địa, mọi người được cảnh báo không nên nuôi chim bồ câu trắng, vì nó dễ có khả năng bị săn bắt nhất. Do đó tôi không thấy có lý do gì để nghi ngờ sự lựa chọn tự nhiên có thể là công cụ hữu hiệu nhất ban cho mỗi loại gà gô một màu sắc phù hợp, và giữ màu sắc đó, khi đã thu được, thường xuyên liên tục. Chúng ta không nên nghĩ là sự tiêu diệt con vật có màu sắc bất kỳ với số lượng lớn thỉnh thoảng mới xảy ra sẽ gây nên ít ảnh hưởng: chúng ta nên nhớ rằng quan trọng như thế nào khi phải loại đi tất cả các con cừu màu có dính cho dù một chút lông đen trong đàn cừu trắng. Đối với thực vật, lông tơ trên quả và màu của nhân được các nhà thực vật học coi là những đặc điểm ít quan trọng nhất. Nhưng chúng tôi lại nghe từ một người làm vườn lâu năm trong nghề cho biết, lông tơ, những quả vỏ nhẵn ở Mỹ chịu sự tấn công của một bọ cánh cứng ác liệt hơn nhiều, con mọt ngũ cốc, so với các quả có lông tơ; quả mận hồng có nhiều bệnh tật hơn quả mận vàng. Trong khi đó một căn bệnh khác tấn công loại đào lòng vàng nhiều hơn đào có lòng màu khác. Nếu, với sự trợ giúp của nghệ thuật, những khác biệt nhỏ này chắc chắn tạo nên một điểm khác biệt lớn trong việc trồng một vài biến thể trong môi trường tự nhiên, nơi cây phải đấu tranh với các cây khác và với nhiều kẻ thù nữa, những khác biệt như thế sẽ quyết định một cách hiệu quả biến thể nào, vỏ nhẵn, vỏ có lông tơ, quả lòng màu hồng hay màu vàng được giữ lại.
Khi nhìn vào nhiều điểm khác biệt nhỏ giữa các loài, với sự hiểu biết nghèo nàn của chúng ta cho phép để nhận xét, dường như không quan trọng gì, chúng ta không được quên là khí hậu, thức ăn... có lẽ gây một số ảnh hưởng trực tiếp nhưng yếu. Song còn cần thiết hơn nhiều là chúng ta luôn nhận thức là có nhiều quy luật chưa được biết tới của tương quan tăng trưởng, khi một phần của cơ quan bị thay đổi bởi sự biến đổi, và các sửa đổi được tích tụ bởi sự lựa chọn tự nhiên có lợi cho, sẽ gây ra các biến đổi khác, thường của tính chất không trông đợi nhất. 
Như chúng ta thấy rằng các biến thể đó, mà trong điều kiện thuần hóa xuất hiện bất kỳ tại giai đoạn chu trình sống nhất định, có xu hướng tái xuất hiện ở đứa con đúng giai đoạn đó - ví dụ, trong các hạt giống của nhiều biến thể của cây trồng thuần dưỡng và của cây nông nghiệp; trong các giai đoạn sâu, bướm, và kén của các biến thể tằm; trong trứng của gia cầm, và trong màu sắc của bộ lông gà con, trong sừng của đản cừu và gia súc của chúng ta khi chúng gần trưởng thành - trong môi trường tự nhiên, sự lựa chọn tự nhiên sẽ được tạo điều kiện để tác động lên và thay đổi cơ thể sống tại bất kỳ độ tuổi nào, bằng sự tích tụ của các biến đổi có lợi tại độ tuổi đó, và bàng sự di truyền của chúng chính ở độ tuổi tương ứng. Nếu nó có lợi cho một cây phát tán hạt giống rộng hơn xa hơn nhờ gió, tôi có thể thấy không khó khăn nào trong việc sự lựa chọn tự nhiên thực hiện điều này lớn hơn khó khăn người trồng cây bông tăng số lượng và cải thiện chất lượng lông tơ trong quả bông trên cây bông của anh ta bằng cách lựa chọn. 
Sự lựa chọn tự nhiên có thể thay đổi và giúp ấu trùng của một loại côn trùng thích nghi với hàng loạt các biếấn động bất thường, hoàn toàn khác biệt so với biếấn động liên quan tói côn trùng trưởng thành. Những thay đổi này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc của con trưởng thành, thông qua quy luật tương quan tăng trưởng; và có lẽ trong trường hợp của các con côn trùng chỉ sống có vài giờ, và không bao giờ ăn, một phần lớn cơ thể chúng chỉ là kết quả tương quan của những thay đổi kế tiếp trong cấu trúc ấu trùng của chúng. Ngược lại các biến đổi trên cơ thể trưởng thành có lẽ thường gây ảnh hưởng tới cấu trúc của ấu trùng; nhưng trong tất cả các trường hợp, sự lựa chọn tự nhiên sẽ đảm bảo những biến đổi gây ra bởi các biến đổi khác tại một giai đoạn riêng biệt của chu trình tồn tại, sẽ không gây hại cho cơ thể chủ kể cả khi xét trên mức độ bé nhất của ấu trùng bởi vì nếu chúng gây hại, chúng sẽ làm cho loài đó bị tuyệt chủng. Sự lựa chọn tự nhiên sẽ thay đổi cấu trúc của con chưa trưởng thành trong mối quan hệ với cha mẹ nó, và trong mối quan hệ của cha mẹ với con. Trong thế giới động vật, mối quan hệ này sẽ giúp cấu trúc của mỗi cá thể thích nghi vì lợi ích của cộng đồng. Điều mà sự lựa chọn tự nhiên không thể làm là thay đổi cấu trúc của một loài, không mang lại cho nó bất cứ lợi thế nào, vì lợi ích của loài khác; và mặc dù khẳng định này có thể tìm thấy trong các tác phẩm về lịch sử tự nhiên, tôi chưa tìm ra được một trường hợp nào có sự kiểm tra nhận định cả. Một cấu trúc chỉ được một lần trong toàn bộ cuộc đời của con vật, nếu có tầm quan trọng cao đối với nó, có thể đã được cải biến bởi sự lựa chọn tự nhiên xét trên bất kỳ mức độ nào; ví dụ những loài côn trùng nhất định có hàm khỏe và chỉ được dùng để mở cái kén - hay đầu mỏ cứng của mỏ con chim non được sử dụng để phá vỡ vỏ trứng. Người ta khẳng định rằng giống chim bồ câu nhào lộn có mỏ ngắn thường có số lượng bị chết trong trứng nhiều hơn là số lượng có thể thoát ra bên ngoài, do vậy những người nuôi chim phải giúp chúng thoát ra được khỏi vỏ trứng. Bây giờ, nếu thiên nhiên cấu tạo mỏ của một con chim bồ câu trưởng thành rất ngắn để có lợi cho nó, quá trình chuyển đổi sẽ rất chậm chạp, và cùng lúc sẽ có sự lựa chọn con chim non kỹ càng nhất trong trứng, những con có mỏ cứng và khỏe nhất bởi vì tất cả con mỏ yếu đã không thể tránh khỏi bị chết trong trứng: hoặc là những vỏ mỏng hơn và dễ vỡ hơn có thể sẽ được lựa chọn, độ dày của vỏ vẫn được biết là biến đổi như mọi cấu trúc khác. 
Sự lựa chọn giới tính - Bởi vì những đặc điểm dị thường hay xuất hiện trong điều kiện thuần hóa ở một giới tính và được di truyền lại cho đứa con cùng giới, tình huống tương tự có lẽ cũng xảy ra trong tự nhiên, và nếu như vậy, sự lựa chọn tự nhiên sẽ có thể biến đổi một giới tính trong mối quan hệ chức năng với giới tính khác, hay trong quan hệ với các thói quen cuộc sống hoàn toàn khác biệt trong hai giới tính, như đôi khi là trường hợp của loài côn trùng. Và điều này khiến tôi muốn nêu ra một vài ý kiến về cái mà tôi gọi là Sự lựa chọn giao phổi. Nó phụ thuộc, không phải vào một cuộc đấu tranh sinh tồn, mà vào cuộc đấu tranh giữa các con đực để giành con cái. Kết quả không phải là cái chết đối với kẻ cạnh tranh không thành công, mà là kẻ thua cuộc sẽ có ít hoặc không có con. Sự lựa chọn giao phối do vậy kém kỹ càng hơn sự lựa chọn tự nhiên. Nói chung, những con đực khỏe nhất, những con mà phù hợp nhất cho chỗ của chúng trong tự nhiên, sẽ để lại nhiều con cái nhất. Nhưng với nhiều trường hợp, chiến thắng không phải lúc nào cũng do sức mạnh mà còn nhờ vào cả vũ khí đặc biệt của con đực. Một con hươu đực không có sừng hay gà trống không có cựa có ít cơ hội sinh được con. Sự lựa chọn giao phối, thông qua việc luôn để con chiến thắng giao phối có thể chắc chắn mang đến sự dũng cảm kiên cường, cựa dài, và cánh khỏe. Một người nuôi gà chọi có thể biết rõ ràng anh ta có thể cải thiện giống của mình bằng cách lựa chọn những con gà trống tốt nhất. Tôi không biết quy luật này trong tự nhiên được áp dụng tới đâu. Cá sấu đực được miêu tả như là như những chiến binh người Anh-điêng chiến đấu, gầm lên, xoay tít trong điệu múa ra trận để chiếm được con cái; cá hồi đực đã chiến đấu cả ngày; con bọ vừng đực thường mang thưcmg tích do bị cắn bởi con bọ đực khác. Cuộc chiến có lẽ diễn ra khốc liệt nhất giữa các con đực của động vật giao cấu với nhiều con cái khác nhau, và dường như những con đực này hay được trang bị vũ khí đặc biệt nhất. Con đực của động vật ăn thịt lúc nào cũng được trang bị vũ khí tốt; mặc dù đối với chúng hay con khác, cách tự vệ đặc biệt có thể được mang lại nhờ vào phưomg cách lựa chọn sinh sản, giống như bờm của con sư tử, sừng của con lợn lòi, và hàm móc của con cá hồi; vì lá chắn có thể quan trọng mang lại chiến thắng như là giáo hay gươm trong chiến đấu. 
Trong số các con chim, cuộc chiến thường diễn ra kém khốc liệt hơn. Tất cả những ai đã nghiên cứu chủ đề này đều tin rằng có sự thù địch mạnh nhất giữa các con đực của nhiều loài để thu hút sự chú ý chỉ của một con cái. Chim hét núi của Guiana, chim của Paradise, và một số con khác tập hợp lại; và lần lượt từng con trình diễn bộ lông tuyệt đẹp của nó và làm trò trước con cái đóng vai trò là khán giả, và cuối cùng chọn một con đực có sức quyến rũ nhất. Những ai đã từng nghiên cứu kỹ lưỡng những con chim trong lồng đều biết rõ là chúng thường lấy sở thích cá nhân và sự không ưa thích: do vậy ngài R. Heron đã miêu tả cách một con công trống đen có màu đen trắng vô cùng quyến rũ đối với tất cả các con chim mái của ông. Nếu ai đó nghĩ rằng bất kỳ ảnh hưởng nào gây ra bởi tác động yếu ớt thì người đó thật ngây thơ: ở đây tôi không thể đi chi tiết hơn nữa để làm rõ sự ngây thơ này; nhưng nếu có người có thể trong thời gian ngắn tạo cho gà bantam dáng đi uyển chuyển và vẻ đẹp hình dáng, theo như tiêu chuẩn vẻ đẹp của anh ta, thì tôi không có lý do để nghi ngờ những con chim cái, bằng sự lựa chọn, qua hàng nghìn thế hệ, những com chim đực đẹp nhất, theo như tiêu chuẩn vẻ đẹp của họ, có thể cho ra hiệu ứng đáng chú ý. Tôi thực sự nghi ngờ là một số quy luật nổi tiếng về bộ lông của con chim cái và chim đực, khi đem so sánh với bộ lông của chim con, có thể được giải thích nhờ quan điếm cho rằng bộ lông chim đã bị biến đổi chủ yếu bằng sự lựa chọn sinh sản, hoạt động khi mà các con chim tới tuổi giao phối hay trong suốt mùa giao phối. Những biến đổi mà nhờ đó xuất hiện được di truyền lại tại tuổi hay mùa tương ứng, hoặc là bởi chỉ con đực, hoặc bởi cả con đực và con cái. Nhưng đáng tiếc là tôi không thể đi vào chủ đề này ở đây.
Như vậy tôi tin khi con đực và con cái của bất kỳ loài động vật nào có thói quen sinh sống tương tự, nhưng khác nhau về cấu trúc, màu sắc, hay nét đẹp, thì những khác biệt kiểu đó chủ yếu là do sự lựa chọn sinh sản; đó là, những cá thể chim đực, trong các thế hệ liên tiếp, có lợi thế nhỏ so với các cá thể đực khác về vũ khí, phương cách phòng vệ, hay sức quyến rũ; và đã chuyển những lợi thế đó sang con con giống đực của chúng. Nhưng tôi không hề muốn hàm ý gán tất cả các đặc điểm đó gây ra bởi sự lựa chọn giới tính: bởi vì chúng ta nhận thấy nét riêng biệt nổi lên và gắn liền với con giống đực trong số động vật thuần dưỡng của chúng ta (như là khác biệt trong yếm của con chim bồ câu đưa thư, chỗ nhô lên giống như sừng trong một số con gà trống nhất định), mà theo nhiều người không có tác dụng đối với con đực trong trận chiến, hay trong sức quyến rũ đối với con cái. Chúng ta bắt gặp rất nhiều trường hợp tưcmg tự trong tự nhiên, ví dụ như chòm lông trên ngực của con gà trống Thổ Nhĩ Kỳ. Chòm lông này khó có thể được xem là có ích hay làm vật trang trí cho con gà; thật vậy, nếu chòm lông đó xuất hiện trong điều kiện thuần dưỡng, nó sẽ bị gọi là sự quái dị. 
Những minh chứng của tác động gây ra bởi sự lựa chọn tự nhiên - Để làm sáng tỏ sự lựa chọn tự nhiên tác động như thế nào, tôi xin phép các bạn đưa ra một hoặc hai ví dụ tưởng tượng. Chúng ta hãy xem xét trường hợp loài chó sói, con vật chuyên săn bắt nhiều động vật khác. Nó bắt một số con mồi bàng mưu mẹo, một số bằng sức mạnh, một số bằng sự nhanh nhẹn; và chúng ta hãy giả sử rằng con mồi nhanh nhất, ví dụ như là con hươu chẳng hạn, nhờ một sự thay đổi nào đó tăng số lượng của chúng tại đất nước này, hoặc rằng các con mồi khác bị giảm số lượng, trong mùa của năm mà loài sói đi săn mồi hung hăng nhất. Tôi có thế hiểu là trong bối cảnh đó. chúng ta không thể nghi ngờ là những con sói nhanh và khéo léo nhất sẽ có cơ hội sống sót tốt nhất và do đó được bảo tồn và lựa chọn - nhưng luôn với điều kiện là chúng vẫn giữ được sức mạnh để bắt được con mồi tại thời điểm đó hay thời điểm khác trong năm, khi chúng buộc phải săn dộng vật khác. Tôi chẳng thấy có nhiều lý do để nghi ngờ điều này hơn là việc con người có thể nâng cao sự nhanh nhậy của giống chó săn thỏ của họ sự lựa chọn cẩn thận có phương pháp, hoặc bằng sự lựa chọn vô thức mà xuất phát từ quá trình mỗi người có giữ những con chó tốt nhất mà không hề nghĩ về biến đổi giống. 
Mặc dù không có bất cứ sự thay đổi nào trong số lượng cân xứng của các động vật mà loài sói săn bắt, một sói con có thể được sinh ra với xu hướng bẩm sinh theo đuôi một số loại con mồi nhất định. Chúng ta không nên nghĩ giả thiết này là vô lý bởi vì chúng ta thường quan sát được những điểm khác biệt lớn trong xu hướng tự nhiên của các động vật thuần chủng của chúng ta. Chẳng hạn như một con mèo thích bắt chuột, một con mèo khác, theo lời kể của ông St John lại mang về nhà một con vật có cánh, con khác là thỏ nhà hoặc thỏ rừng, một vài con mèo khác lại săn mồi trên đất đàm lầy, và hầu như đêm nào cũng bắt được chim dế gà hay chim dể giun. Xu hướng thích bắt loài gặm nhẩm hơn là bẳt chuột được các nhà động vật học xem là do di truyền. Bây giờ, nếu bất kỳ sự thay đổi bẩm sinh trong thói quen hoặc cấu trúc mà có lợi cho một cá thể sói, thì con này sẽ có cơ hội tốt nhất để được tồn tại và đẻ con cháu. Một vài đứa con của nó có lẽ sẽ được hưởng thói quen hoặc cấu trúc đó, và thông qua sự lặp đi lặp lại quá trình này, một biến thể mới có thể sẽ được hình thành.
Biến thể này hoặc là thay thế hoặc là cùng tồn tại với biến thể cha mẹ. Hay, một lần nữa, những con sói sống ở vùng đồi núi và những con sống ở đồng bằng, theo lẽ tự nhiên thường phải săn các kiểu con mồi khác nhau; và nhờ vào sự bảo tồn lâu dài liên tục các cá thể phù hợp nhất với hai loại địa hình, hai biến thể dần dần, chậm chạp sẽ xuất hiện. Những biến thể này có thể sẽ lai ghép và hòa lẫn vào nhau ở noi mà chúng gặp nhau. Chủ đề về lai ghép tôi sẽ sớm quay trở lại. Tôi xin nói thêm rằng, theo như ông Pierce, có hai biến thể sói sống ở dãy núi Catskill nước Mỹ, một biến thể giống dạng chó săn thỏ. Con này chỉ săn hưoru nai. Biến thể còn lại to hơn, chân ngắn hơn và thường tấn công đàn gia súc của người chăn thả. 
Bây giờ chúng ta hãy lấy một trường hợp phức tạp hơn. Một số cây nhất định tiết ra chất nước có vị ngọt, rõ ràng để loại bỏ đi những thứ có hại trong nhựa cây của chúng: việc này được thực hiện bởi các tuyến tại cuống lá của cây Leguminosae, và mặt sau của lá nguyệt quế thông thường. Chất lỏng cây có vị ngọt này, mặc dù ít, được các con côn trùng săn đón. Giờ chúng ta tiếp tục giả thiết là chút chất nước cây có vị ngọt hay mật hoa này tiết ra từ phần bên trong cuống cánh hoa của một bông hoa. Trong trường hợp này thì các con côn trùng đi tìm mật hoa sẽ bị dính đầy phấn hoa, và chắc chắn sẽ chuyển phấn từ hoa này sang đầu nhụy của hoa khác. Hoa của hai cá thể khác biệt trong cùng một loài nhờ đó mà được lai giống: và chúng ta có lý do tin rằng ảnh hưởng của sự lai giống (như ngay sau đây sẽ được đề cập đầy đủ hơn) sẽ sinh ra các cây con khỏe mạnh, và kết quả là có cơ hội tồn tại phát triển mạnh mẽ. Một số cây con có lẽ sẽ được thừa hưởng khả năng tiết mật hoa. Những cá thể có tuyến to nhất hay mật hoa nhiều nhất thì hay được các con côn trùng bu tới thường xuyên nhất, và hay được lai giống nhất; và như thế trong dài hạn sẽ có lợi thế so với các hoa khác. Những cây hoa này, có nhụy hoa và nhị hoa được bố trí thích hợp, trong mối quan hệ với kích thước và thói quen của các con côn trùng cụ thể thường xuyên bay tới hút mật chúng, với việc phát tán phấn hoa của chúng từ cây này đến cây khác. Chúng sẽ có được lợi thế và như vậy được lựa chọn. Chúng ta có thể lấy ví dụ trường hợp các con côn trùng "viếng thăm" cây hoa để mang phấn thay vì mật hoa. Vì phấn hoa tạo ra chỉ để cho mục đích sinh sản, sự phá hủy nó có vẻ chỉ như là một sự mất mát đơn thuần; nếu một lượng nhỏ phấn hoa được mang đi, đầu tiên là thỉnh thoảng, sau trở thành thói quen, bởi các con côn trùng mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, và nhờ đó sự lai giống được tiến hành. Mặc dù chín phần mười số lượng phấn hoa bị rơi rụng dọc đường, nhưng nó có thể vẫn là thành công lớn cho cây. Cá thể nào sản sinh ra ngày càng nhiều phấn hoa và có bao phần ngày càng lớn, sẽ được lựa chọn. 
Khi các cây của chúng ta, nhờ vào quá trình bảo tồn liên tục hay sự lựa chọn của tự nhiên dài lâu những bông hoa càng ngày càng đẹp, được ban cho sức quyến rũ lớn đối với côn trùng, không chủ ý xét trên phương diện của chúng, thường xuyên mang phấn từ hoa này sang hoa khác; và côn trùng làm việc này vô cùng hiệu quả. Tôi có thể dễ dàng đưa ra nhiều ví dụ điển hình. Tôi chỉ đưa ra đây một ví dụ - không hẳn là điển hình, nhưng vẫn có thể minh họa quá trinh tách giống cái và giống đực của cây khác nhau; và nhờ vào sự bảo tồn lâu dài liên tục các cá thể phù hợp nhất với hai loại địa hình, hai biến thể dần dần, chậm chạp sẽ xuất hiện. Những biến thể này có thể sẽ lai ghép và hòa lẫn vào nhau ở noi mà chúng gặp nhau. Chủ đề về lai ghép tôi sẽ sớm quay ưở lại. Tôi xin nói thêm rằng, theo như ông Pierce, có hai biến thể sói sống ở dãy núi Catskill nước Mỹ, một biến thể giống dạng chó săn thỏ. Con này chỉ săn hươu nai. Biến thể còn lại to hơn, chân ngắn hơn và thường tấn công đàn gia súc của người chăn thả. 
Bây giờ chúng ta hãy lấy một trường hợp phức tạp hơn. Một số cây nhất định tiết ra chất nước có vị ngọt, rõ ràng để loại bỏ đi những thứ có hại trong nhựa cây của chúng: việc này được thực hiện bởi các tuyến tại cuống lá của cây Leguminosae, và mặt sau của lá nguyệt quế thông thường. Chất lỏng cây có vị ngọt này, mặc dù ít, được các con côn trùng săn đón. Giờ chúng ta tiếp tục giả thiết là chút chất nước cây có vị ngọt hay mật hoa này tiết ra từ phần bên trong cuống cánh hoa của một bông hoa. Trong trường hợp này thì các con côn trùng đi tìm mật hoa sẽ bị dính đầy phấn hoa, và chắc chắn sẽ chuyển phấn từ hoa này sang đầu nhụy của hoa khác. Hoa của hai cá thể khác biệt trong cùng một loài nhờ đó mà được lai giống: và chúng ta có lý do tin rằng ảnh hưởng của sự lai giống (như ngay sau đây sẽ được đề cập đầy đủ hơn) sẽ sinh ra các cây con khỏe mạnh, và kết quả là có cơ hội tồn tại phát triển mạnh mẽ. Một số cây con có lẽ sẽ được thừa hưởng khả năng tiết mật hoa. Những cá thể có tuyến to nhất hay mật hoa nhiều nhất thì hay được các con côn trùng bu tới thường xuyên nhất, và hay được lai giống nhất; và như thế trong dài hạn sẽ có lợi thế so với các hoa khác. Những cây hoa này, có nhụy hoa và nhị hoa được bố trí thích hợp, trong mối quan hệ với kích thước và thói quen của các con côn trùng cụ thể thường xuyên bay tới hút mật chúng, với việc phát tán phấn hoa của chúng từ cây này đến cây khác. Chúng sẽ có được lợi thế và như vậy được lựa chọn. Chúng ta có thế lấy ví dụ trường hợp các con côn trùng "viếng thăm" cây hoa để mang phấn thay vì mật hoa. Vì phấn hoa tạo ra chỉ để cho mục đích sinh sản, sự phá hủy nó có vẻ chỉ như là một sự mất mát đơn thuần; nếu một lượng nhỏ phấn hoa được mang đi, đầu tiên là thỉnh thoảng, sau trở thành thói quen, bởi các con côn trùng mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, và nhờ đó sự lai giống được tiến hành. 
Mặc dù chín phần mười số lượng phấn hoa bị rơi rụng dọc đường, nhưng nó có thể vẫn là thành công lớn cho cây. Cá thể nào sản sinh ra ngày càng nhiều phấn hoa và có bao phần ngày càng lớn, sẽ được lựa chọn. 
Khi các cây của chúng ta, nhờ vào quá trình bảo tồn liên tục hay sự lựa chọn của tự nhiên dài lâu những bông hoa càng ngày càng đẹp, được ban cho sức quyến rũ lớn đối với côn trùng, không chủ ý xét trên phương diện của chúng, thường xuyên mang phấn từ hoa này sang hoa khác; và côn trùng làm việc này vô cùng hiệu quả. Tôi có thể dễ dàng đưa ra nhiều ví dụ điển hình. Tôi chỉ đưa ra đây một ví dụ - không hẳn là điển hình, nhưng vẫn có thể minh họa quá trình tách giống cái và giống đực của cây. 
Một vài cây nhựa ruồi chỉ có hoa đực có bốn nhị hoa tạo ra số lượng nhỏ phấn hoa, và một nhụy hoa có cấu tạo đơn giản; các cây hoa nhựa ruồi khác lại chỉ cỏ hoa cái, một nhụy hoa phát triển đầy đủ, và bốn nhị hoa với các bao phấn bị teo nhỏ mà trong đỏ không hề có một hạt phấn hoa nào. Khi phát hiện một cây có hoa cái cách một cây có hoa đực đúng sáu mươi mét, tôi đặt đầu nhụy của hai mươi hoa được lẩy từ các cành riêng rẽ, dưới kính hiển vi, và trên tất cả chúng, không hề có ngoại lệ, đều có hạt phấn hoa. Khi gió có hướng thổi từ cây cái sang cây đực trong vài ngày, phấn hoa lúc này không thể nhờ gió mang đi tới cây cái. Thời tiết lanh, gió thổi manh và như vậy đây không phải là điều kiện thuận lợi cho các con ong, nhưng ngạc nhiên là mọi hoa cái mà tôi xem xét đã sinh sản được nhờ ong. Những con ong này vô ý đã bị bụi phấn dính vào, bay từ cây này sang cây khác để tìm mật hoa. Quay trở lại trường hợp tưởng tượng của chúng ta: ngay khi mà loài hoa có được sự lôi cuốn đối với con trùng mạnh tới mức mà phấn hoa thường xuyên được mang đi từ hoa này sang hoa khác, một quá trình khác có thể bắt đầu. Khồng một nhà tự nhiên học nào nghi ngờ một lợi thể, cải gọi là "phân công lao động tâm lý"; với lý do này, chúng ta có thể chắc rằng sẽ là lợi thế cho một cây hoa chỉ mọc ra các nhị hoa trong một bông hoa hoặc trên toàn bộ cây, và nhụy hoa trên bông hoặc cây khác. Đối với các cây trong điều kiện thuần hóa và được đặt trong hoàn cảnh sống mới, đôi khi bộ phận giống đực và bộ phận giống cái trở nên ít nhiều kém hiệu quả; bây giờ nếu chúng ta giả thiết tình trạng này xảy ra với mức độ cực bé trong tự nhiên, thì do phấn hoa thường xuyên được mang từ cây này sang cây khác, và do sự phân chia rành mạch hơn giống đực và giống cái của cây sẽ là một lợi thế xét trên nguyên lý phân công lao động, thì các cá thể với xu hướng này ngày càng được tăng lên sẽ được tạo điều kiện phát triển và lựa chọn cho đến khi cuối cùng một sự tách rời hoàn toàn giống đực và giống cái hoàn tất. 
Bây giờ chúng hãy quay sang các con côn trùng hút mật hoa trong ví dụ tưởng tượng của chúng ta: chúng ta có thể cho rằng cây trong số các cây mà chúng ta tăng dần dần mật hoa thông qua sự lựa chọn liên tục; và rằng vài con côn trùng nhất định phần lớn dựa vào mật hoa làm thức ăn. Tôi có thể đưa ra nhiều thực tế thể hiện những con ong nóng lòng muốn tiết kiệm thời gian như thế nào; chẳng hạn như, thói quen của chúng đục những cái lỗ và hút mật từ cuống của một vài cây hoa cụ thể mà với rất ít công sức hơn, chúng có thể đưa mồm vào. Khi nghĩ về những hình ảnh đó, tôi không hề thấy có một sự sai khác ngẫu nhiên trong kích thước và hình thức của cơ thể, hay trong độ cong và chiều dài của vòi hút mật... quá nhỏ bé đến mức chúng ta không để ý đến, có thể có ích cho một con ong hay con côn trùng khác, giúp cho một cá thể với nhiều đặc tính riêng biệt có thể lấy được thức ăn dễ dàng hơn và nhanh hơn, và do đó có cơ hội tốt hơn để tồn tại và sinh con đẻ cái. Con cháu của nó có lẽ sẽ được thừa hưởng xu hướng tiến tới những sai khác nhỏ tương tự trong cấu trúc. Các ống của trằng hoa của cỏ ba lá đỏ phổ biến và hồng (Tri/oỉium pratense và incarnatum), nếu nhìn thoáng qua, không có vẻ khác mấy về chiều dài; song ong sống ở tổ có thể dễ dàng hút mật từ cỏ ba lá hồng nhưng không thể từ cỏ ba lá phổ biến, cây mà chỉ có loài ong nghệ hút mật. Vì thế cả cánh đồng bát ngát cỏ ba lá đỏ phổ biến lại chẳng cỏ chút thức ăn nào cho loài ong sống trong tổ. Nếu mà các con ong sống trong tổ có vòi dài hơn một chút hoặc cấu tạo khác đi, thì đấy sẽ là một lợi thế tuyệt vời dành cho chúng. Mặt khác, thông qua thí nghiệm, tôi tìm ra là khả năng sinh sản của cỏ ba lá phụ thuộc rất nhiều vào các con ong tới hút mật và phần di động của trằng hoa dùng để đẩy phấn hoa vào bề mặt đầu nhụy. Do đó, một lần nữa, nếu ong nghệ trờ nên khan hiếm trong bất cứ nước nào, thì cỏ ba lá sẽ giành được lợi thế lớn nếu chúng có ống ngắn hơn vàónong hơn tới trằng hoa để cho loài ong làm tổ và có thể hút mật từ chúng. Như vậy, tôi có thể hiểu một bông hoa và một con ong, hoặc là cùng lúc hoặc là lần lượt, dần dần được biến đổi và thích nghi hoàn hảo với nhau nhờ vào sự duy trì liên tục các cá thể chứa đựng những sai lệch nhỏ của cấu trúc mang tính tương hỗ và có ích lợi. 
Tôi nhận thức rõ ràng học thuyết sự lựa chọn của tự nhiên, loại trừ ra ví dụ tường tượng trên, là mang tính mở đối với những phản đối tương tự mà đầu tiên đã chống lại quan điểm đúng đắn của ngài Charles Lyell về "những thay đổi đương đại của trái đất, với minh chứng địa chất". Nhưng hiện tại chủng ta rất ít khi nghe người ta nói về ảnh hưởng của, ví dụ như sóng bờ biển, bị coi là nguyên nhân líém quan trọng và không đáng kể, khi ứng dụng vào quá trình khai quật những thung lũng khổng lồ hay vào sự hình thành đường vách đá dài nhất nhô ra biển. Sự lựa chọn của tự nhiên chỉ có thể gây tác động thông qua sự bảo tồn và tích tụ của các biến đổi cực nhỏ không cảm nhận được di truyền lại, mỗi cái đều có tác dụng đối với thực thể sống được duy trì.
Như là địa chất học đương đại hầu như xóa bỏ đi quan điểm như sự tạo thành thung lũng lớn chỉ bởi một cơn sóng lũ duy nhất. Như vậy, sự lựa chọn của tự nhiên sẽ, nếu là một quy luật đúng đắn, xóa bỏ đức tin vào sự sáng tạo liên tục các cơ thể sống, hay bất kỳ thay đổi lớn nào trong cấu trúc của chúng. Chủ đề về giao phối giữa các cá thể - Ở đây, tôi phải giới thiệu một chủ đề không mấy liên quan đến những gì chúng ta đã nói ở trên. Trong trường hợp của động vật và thực vật với giống đực và giống cái riêng rễ, điều hiển nhiên là hai cá thể đực và cái phải giao phối với nhau mới sinh ra được một đứa con; nhưng trong trường hợp thực thể lưỡng tính, điều này lại không hề hiển nhiên gì. Tuy nhiên tôi vẫn nghiêng về nhận định: với tất cả thực thể lưỡng tính, hai cá thể, hoặc là thỉnh thoảng hoặc là thường xuyên, giao phối để sinh sản giống loài của chúng. Tôi xin nói thêm quan điểm này đã được ông Andrew Knight đầu tiên đưa ra. Ngay ở đây chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng của nó; nhưng tôi buộc phải nói hết sức ngắn gọn chủ đề này cho dù tôi chuẩn bị khối lượng tài liệu đủ lớn để có thể thảo luận chi tiết. Tất cả động vật có xương sống, côn trùng và một số nhóm lớn động vật khác, phải ghép đôi khi muốn sinh sàn. Các nghiên cứu hiện đại đã giảm số lượng loài bị cho là luỡng tính đi nhiều, và trong số loài luỡng tính thì phần đông vẫn ghép đôi; tức là hai cá thể thuờng xuyên kết hợp với nhau để sinh sản, vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm. Nhưng vẫn có nhiều động thực vật lưỡng tính chắc chắn không cặp đôi theo thói quen, và rất đông số lượng cây là lưỡng thể. Người nào đó có thể hỏi vì lý do gì để giả thiết trong những trường hợp đó là hai cá thể đã từng giao phối sinh sản? Vì không thể ở đây đi vào chi tiết cụ thể, tôi phải tin vào chỉ một vài suy xét chung. 
Lúc đầu, tôi đã thu thập được khối lượng các thực tiễn cực lớn, chứng tỏ, đúng theo như quan điểm phổ biến của những người nhân giống, là với động vật và thực vật, sự giao phối giữa các biến thể khác nhau, hay giữa các cá thê cùng biến thể nhưng khác giống sinh ra đứa con khỏe manh có khả năng sinh sản tốt. Trong khi đó, lai ghép giống giữa các loài gần gũi sẽ làm giảm sức khỏe và khả năng sinh sản. Chỉ những thực tế này thôi đã khiến tôi tin rằng chính là quy luật chung của tự nhiên nói rằng (trớ trêu thay là chúng ta lại biết rất ít về quy luật): không một cơ thể sống nào tự thụ tinh nó qua vô số các thế hệ; mà đôi khi giao phối với cá thể khác - có lẽ là cách quãng rất lâu - là không thể thiếu. 
Với niềm tin đấy chính là quy luật của tự nhiên, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu vài nhóm thực tế lớn, chẳng hạn như những thứ sau đây nếu xét theo quan điểm khác thì không thể giải thích được. Tất cả những người lai giống biết rằng sẽ tốt cho khả năng sinh sản của bông hoa khi đặt trong điều kiện ẩm ướt song vẫn có vô số hoa có bao phấn và đầu nhụy vưcm ra ngoài trời! Nhưng nếu một lần giao phối chéo là không thể thiếu, thì việc vưorn ra ngoài trời như thế giải thích khả năng bay vào tự do của phấn hoa, nhất là khi cả nhụy và nhị hoa gần nhau đến mức khả năng tự thụ phấn là dường như không tránh khỏi. Mặt khác, nhiều bông hoa có bộ phận sinh sản khép kín như là ở hoa thuộc họ hoa cánh bướm lớn hay gia đình họ đậu Hà Lan; nhưng trong một số, có lẽ là trong tất cả bông hoa kiểu đó, cỏ một sự thích nghi hết sức thú vị giữa cấu trúc và cách mà ong hút mật. Bởi vì để trong khi làm như thế, chúng hoặc là đẩy phấn của chính bông hoa đó vào đầu nhụy hoa, hoặc mang phấn tới hoa khác. Như thế, đối với họ hoa cánh bướm, sự viếng thăm cửa con ong là cần thiết tới mức thông qua những thí nghiệm đã được trình bày ở đâu đó, tôi tìm ra khả năng sinh sản của chúng bị giảm đi nhiều nếu các cuộc viếng thăm bị hạn chế. Bây giờ khó có thể ong bay từ hoa này sang hoa khác, và không mang phấn hoa từ hoa này sang hoa khác, tôi nghĩ là có lợi lớn cho cây. Loài ong hoạt động giống như túm lông hình chùm của lạc đà hai bướu, và nó khá đù để chạm vào bao phấn của một hoa, sau đó là đầu nhụy của hoa khác với cùng một vòi hút mật để đảm bảo sự sinh sản. Nhưng chúng không được suy luận rằng ong do đó sản xuất hàng triệu giống lai giữa các loài riêng rẽ; bởi vì nếu bạn mang cùng một túm phấn của bản thân một cây và phấn của cây khác, phấn của cây hoa đầu có ưu thế ảnh hưởng vượt trội. Đó là nó lúc nào cũng sẽ tiêu diệt, như đã được ông Gartner chứng minh, ảnh hưởng từ phấn hoa ngoại lai. Khi nhị của một bông hoa đột nhiên vươn tới nhụy hoa hay chậm chạp di chuyển cái này phía sau và tiến về nó, công cụ này dường như chỉ thích nghi để đảm bảo chắc sự tự thụ phấn; và chắc chắn là nó có ích cho mục đích này; nhưng tác nhân côn trùng thông thường bị đòi hỏi đẩy nhụy hoa mọc về phía trước, như trường hợp hoa hoàng liên gai được ông Kolreuter đưa ra; vẻ như có công cụ đặc biệt cho sự tự thụ phấn, mọi người đều biết rằng nếu một biến thể hay dạng thực hết sức gần gũi được trồng gần nhau, rất khó để tạo ra cây con thuần chủng. Trong rất nhiều trường hợp khác mà không hề có sự trợ giúp tự thụ phấn, chúng lại có công cụ đặc biệt khác như tôi có thể chỉ ra từ tác phẩm của ông c. c. Sprengel và từ những quan sát của bản thân tôi. Chúng cản ưở hiệu quả đầu nhụy hoa tiếp nhận phấn hoa; chẳng hạn như, trong Lobelỉa j\'ulgens, thực sự có một dụng cụ đẹp đẽ tinh xảo mà nhờ nó các hạt phấn đều được quét sạch ra khỏi bao phấn của mỗi bông hoa, trước khi nhụy hoa của bông hoa đó sẵn sàng đón nhận chúng; và vì bông hoa này không bao giờ được côn trùng để ý tới, ít nhất là trong vườn cây của tôi, nó không bao giờ cho ra một hạt giống nào, mặc dù bằng cách đặt phấn của hoa này lên nhụy của hoa khác, tôi tạo ra được vô khối cây con. Trong khi một loài Lobelỉa khác mọc gần đó, những cây được các con ong tới hút mật, cho hạt giống đều đặn. Trong rất nhiều trường hợp, mặc dù không hề có dụng cụ dạng máy nào cản trở việc nhụy hoa nhận phấn hoa của chính cây đó, nhưng như ông c.c. Sprengel đã chỉ ra, và tôi có thể khẳng định điều này: hoặc là các bao phấn bung ra trước khi nhụy hoa sẵn sàng cho quá trình thụ phấn, hoặc là nhụy hoa sẵn sàng trước khi phấn của hoa đó sẵn sàng, khiến cho trên thực tế là cây hoa đó có giống cái và giống đực riêng biệt, và phải thường xuyên được giao phối. Những điều này thực là kỳ lạ! Cũng hết sức lý thú là phấn và đầu nhụy trên cùng cây hoa, cho dù ở rất gần nhau, như thế đúng cho mục đích tự thụ phấn, trong nhiều trường hợp, lại chẳng hề có tác dụng gì đối với nhau! Những thực tế này được giải thích hết sức dễ dàng nếu chúng ta dựa vào quan niệm về giao phối không thường xuyên với một cá thể riêng biệt là có lợi hoặc không thế thiếu. 
Nếu các biến thể của cải bắp, củ cải, hành và một số cây khác được để cho sinh hạt giống gần nhau, đa số những cây con mọc lên, như tôi đã nhận thấy, sẽ trở thành cây lai. Ví dụ như: tôi trồng 233 cây cải bắp con từ một số cây của các biến thể riêng rẽ trồng gần nhau. Và trong số đó, chỉ có 78 cây là thuần chủng, thậm chí là trong số cây thuần chủng vẫn có cây không thuần chủng hoàn toàn. Nhụy hoa của mỗi cây cải bắp không chỉ được bao bọc bởi sáu nhị hoa của chính nó, mà còn bởi những nhị hoa của nhiều loại hoa khác mọc trên cùng một cây. Như thế thì làm thế nào mà một số lượng lớn các cây lai được sinh ra? Tôi nghi ngờ là chúng phải được tạo thành từ hạt phấn của một biến thế riêng biệt có ảnh hưởng vượt trội so với phấn của chính hoa đó. Đó chính là một phần của quy luật chung về cơ thể sống tốt được tạo thành từ sự giao phối giữa các cá thể riêng biệt trong cùng loài. Khi các loài khác nhau để cho giao phối, kết quả hoàn toàn ngược lại bởi vì phấn của một cây luôn luôn trội hơn so với phấn cây không cùng loài. Chúng ta sẽ quay lại chủ đề này trong một chương sau này. 
Trong trường hợp một cây to, trên nó vô số hoa mọc ra, người ta có thể phản đối phấn có thể hiếm khi được mang đi từ cây này sang cây khác, mà thường xuyên nhất được mang từ hoa này sang hoa khác của cùng cây; và rằng hoa trên cùng cây có thế được coi là các cá thể khác biệt chỉ trong nghĩa hẹp. Có lẽ tự nhiên đã không ủng hộ nó khi các cây có xu hướng lớn chứa những hoa có giống đực và cái riêng rẽ. Khi giống đực và giống cái bị tách riêng, mặc dù cả hoa đực và hoa cái mọc trên cùng cây, chúng ta có thể thấy phấn thường xuyên được mang từ hoa này sang hoa khác; và điều này sẽ tạo cơ hội tốt hơn để phấn hoa đôi khi được mang từ cây này sang cây khác. Những cây thuộc vào cùng một bộ có giống đực và giống cái tách riêng hơn là các cây khác. Tôi đã nhờ tiến sĩ Hooker phân loại thành bảng các cây của Niu Di lân, và tiến sĩ Asa Gray phân loại các cây của Mỹ. Kết quả đúng như đã dự tính từ trước. Tiến sĩ Hooker gần đây đã nói ông nhận thấy quy luật đó không đúng đối với nước úc; và tôi đã đưa ra vài nhận xét về giống đực và giống cái của các cây một cách đơn giản đe thu hút sự chú ý của mọi người tới chủ đề này. 
Hãy quay trở lại chủ đề động vật một chút: trên mặt đất có một số động vật lưỡng tính, như động vật nhuyễn thể đất và sâu đất; nhưng những con này đều ghép đôi. Tôi vẫn chưa tìm ra được một trường hợp nào động vật sống trên cạn mà tự thụ tinh. Chúng ta có thể hiểu được thực tế đáng chú ý này, mà hoàn toàn trái ngược với trường hợp của các cây trên cạn, dựa vào quan niệm việc phối giống không thường xuyên là không thể thiếu, bằng cách coi phương thức động vật trên cạn sống, và bản chất của nguyên tố sinh đẻ; vì chúng ta không biết cách nào, tương tự như ảnh hưởng của côn trùng và gió trong trường hợp các cây, nhờ nó mà một sự phối giống bất ngờ diễn ra giữa các con vật trên cạn không có sự đồng thuận của hai cá thể. Đối với động vật sống dưới nước, có nhiều động vật lưỡng tính tự thụ tinh; nhưng ở đây chính các dòng hải lưu là công cụ, dễ dàng nhận thấy, tạo ra sự giao phối ngẫu nhiên. Như trong trường hợp các bông hoa, tôi đã không thể, sau khi tham khảo ý kiến của giáo sư Huxley, một chuyên gia đầu ngành, khám phá ra bất kỳ một trường hợp nào về một động vật lưỡng tính có cơ quan sinh sản hoàn toàn bị bao bọc trong cơ thể, không thể tiếp cận được; và sự phối giống của một cá thể khác biệt được chứng minh là hoàn toàn không thể. Loài chân tơ từ lâu đối với tôi là một trường hợp cực kỳ khó hiểu theo như quan điểm này; tôi đã có thể, nhờ một sự may mắn tình cờ, chứng tỏ ở đâu đó hai cá thể, mặc dù cả hai đều là cơ thể sổng lưỡng tính tự thụ tinh hoặc tự thụ phấn, đôi khi thực sự giao phối với nhau. 
Một điều bất thường mà chắc hẳn gây ngạc nhiên lớn cho nhiều nhà tự nhiên học là, đối với cả động vật và thực vật, các loài cùng gia đình và thậm chí cùng lớp, mặc dù rất giống nhau trong hầu hết các cơ quan bộ phận của chúng, nhưng lại thường xuyên, một số trong chúng là thực thể lưỡng tính và một số là đơn tính. Nhưng trên thực tế nếu tất cả cơ thể lưỡng tính thỉnh thoảng giao phối với các cá thể khác, điểm khác biệt giữa loài đơn tính và thực thể lưỡng tính, khi xét tới mặt liên quan đến chức năng bộ phận, trở nên nhỏ bé. 
Dựa trên những suy xét này và nhiều ví dụ đặc biệt đã thu thập được, nhưng ở đây tôi không có điều kiện viết ra, tôi rất nghi ngờ trong cả thế giới động vật và thực vật, một sự giao phối ngẫu nhiên với một cá thể riêng rẽ là một quy luật của tự nhiên. Tôi nhận thức rõ ràng, trên quan điểm này, có nhiều trường hợp khó khăn mà tôi đang cố nghiên cứu một vài trường hợp như thế. Cuối cùng, chúng ta có thể kết luận rằng trong nhiều cơ thể sống, sự giao phối giữa hai cá thể là vô cùng cần thiết để sinh con; trong nhiều cơ thể khác, nó xuất hiện có lẽ chỉ sau những khoảng thời gian dài và tôi nghi là không có cơ thể nào có thể mãi mãi tự thụ phấn hoặc tự thụ tinh.
Các điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn của tự nhiên - Đây là một chủ đề vô cùng thú vị. Một khối lượng lớn tính biến đổi đa dạng và có thể di truyền là thuận lợi nhưng chỉ cần những khác biệt cá thể là đủ cho công việc. Một số lượng lớn các cá thể, bằng cách tạo cơ hội tốt hơn cho sự xuất hiện trong vòng thời gian cho trước bất kỳ của các biến đổi, sẽ bù trừ cho tính biến đổi ít hơn của mỗi cá thể và là, một yếu tô cực kỳ quan trọng cho sự thành công. Mặc dù tự nhiên dành khoảng thời gian lớn cho cho quá trình lựa chọn tự nhiên, nhưng đây không phải là khoảng thòi gian vô tận; bởi vì khi tất cả các cơ thể sống đang cố gắng, như người ta có thể nói thế, chiếm lấy vị trí nhất định trong thế giới tự nhiên, nếu bất cứ một loài nào không có thay đổi hay sự cải thiện tương ứng với các đối thủ của nó, loài đó sẽ sớm bị xóa sổ. 
Trong sự lựa chọn có tính toán của con người, một người nhân giống chọn đôi với vật thể xác định, và giao phối tự do sẽ hoàn toàn triệt tiêu nỗ lực phối giống của anh ta. Nhưng nhiều người, không có ý định thay đổi con hoặc cây giống, có một tiêu chuẩn gần như chung của sự hoàn hảo, và tất cả đều cố để nhân giống từ con vật tốt nhất của mình. Chắc chắn là nhiều sự thay đổi và cải thiện sẽ xuất hiện, cho dù chậm chạp trong quá suốt trình của sự lựa chọn vô thức này, bất kể khối lượng lớn các lần giao phối với con vật không đạt tiêu chuẩn. Như thế là trong tự nhiên; bởi vì trong một khu vực khép kín, với nơi nào đó trong tổ chức xã hội không thực sự hoàn toàn bị chiếm giữ của nó như có thể, sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn có xu hướng bảo tồn tất cả các cá thể biến đổi theo chiều hướng tích cực, mặc dù ở mức độ khác nhau, để lấp đầy tốt hơn những nơi chưa bị chiếm giữ. Nhưng nếu khu vực đó rộng lớn, một số khu vực nhỏ hơn bên trong của nó chắc chắn sẽ có điều kiện sống khác nhau; và khi đấy nếu sự lựa chọn tự nhiên thay đổi và cải thiện một loài trong vài khu vực nhỏ đó, sẽ có sự giao phối với các cá thể khác của cùng loài trong khu kín của mỗi loài. Và trong trường hợp này, ảnh hưởng của sự giao phối khó có thể bị trung hòa bởi sự lựa chọn tự nhiên luôn luôn có xu hướng sửa đổi tất cả các cá thể trong mỗi khu vực nhỏ theo cách giống hệt nhau tùy vào điều kiện sống của mỗi khu. Trong một khu liên tục, điều kiện sống sẽ dần dần chuyển đổi âm thầm không thể nhận biết được từ khu vực này sang khu vực khác. Sự giao phối có ảnh hưởng lớn nhất đối với các con vật kết hợp lại với nhau để sinh con cái, những con đi hoang nhiều, và những con mà không đẻ nhanh, đẻ nhiều. Với lý do này, đối với các con vật có đặc tính này, ví dụ trường hợp loài chim, các biến thể nói chung bị tách biệt, ở mỗi nước khác nhau và tôi tin tưởng đây là đúng. Trong các sinh vật lưỡng tính chỉ giao phối đôi lần, và tưcmg tự như thế, trường hợp các con vật giao phối với nhau thì mới đẻ được con, nhưng ít đi hoang và có tliể tăng với tốc độ nhanh chóng, một biến thể mới và cải tiến có thể được hình thành nhanh chóng, và có thể duy trì được sự tồn tại của mình, dù cho sự giao phối nào diễn ra đi chăng nữa thì vẫn chủ yếu là giữa các cá thể cùng của cùng một biến thể mới. Một biến thể khu vực khi đã hình thành có thể tiếp đến trải rộng dần sang các khu vực nhỏ khác. Dựa vào nguyên lý trên, những người làm vườn luôn luôn thích lấy hạt giống từ thân to của cây cùng biến thể do cơ hội lai giống với các biến thể khác ít đi. 
Thậm chí trong các trường hợp động vật đẻ chậm, nếu kết hợp với nhau để được sinh sản, chúng ta không được đánh giá quá cao những ảnh hưởng của giap phối trước sự lựa chọn tự nhiên; bởi vì tôi có thể đưa ra một loạt các thực tiễn chứng minh trong cùng một khu vực, các biến thể của cùng loại động vật có thể tồn tại khác biệt lâu, từ các noi sống khác biệt, từ các màu giao phối hoi khác nhau hoặc từ các biến thể của cùng loại thích cặp đôi với nhau. 
Sự giao phối đóng vai trò rất quan trọng trong tự nhiên, trong việc giữ gìn các cá thể của cùng loài, hay cùng biến thể, thực sự và giống nhau trong đặc tính. Nó do vậy sẽ có ảnh hưởng hiệu quả hơn nhiều với các con vật giao phối với nhau mới sinh sản được; nhưng tôi đã cố chứng minh rằng chúng ta có lý do để tin những giao phối ngẫu nhiên diễn ra chỉ trong thời gian dài. Tôi bị thuyết phục là đứa con sinh ra như thế sẽ được thừa hưởng sức mạnh và khả năng sinh sản nhiều hơn so với đứa con tạo thành từ quá trình tự thụ tinh dài liên tục. Chúng sẽ có cơ hội tốt hơn để tồn tại và mở rộng giống loài. Trong dài hạn, các ảnh hưởng của giao phối, thậm chí trong khoảng thời gian dài, sẽ lớn. Nếu có tồn tại các thực thể sống mà không bao giờ phối giống sinh sản, thì tính đồng bộ trong tính cách và đặc điểm sẽ được giữ lại trong chúng, miễn là điều kiện sống vẫn như thế, chỉ thông qua nguyên lý di truyền, và thông qua sự lựa chọn của tự nhiên phá hủy bất cứ thứ gì không phù hợp; nhưng nếu điều kiện sống của chúng thay đổi và chúng trải qua sự biến đổi, tính đồng bộ trong đặc điểm tính cách có thể được di truyền lại cho con, chỉ thông qua sự lựa chọn của tự nhiên lưu giữ những biến đổi có lợi. 
Sự cô lập cũng là một nguyên tố quan trọng trong quá trình lựa chọn của tự nhiên. Trong một khu vực khép kín hoặc cách biệt, nếu không rộng lắm, điều kiện sống vô cơ và hữu cơ thông thường là khá đồng bộ; khiến cho sự lựa chọn của tự nhiên có xu hướng biến đổi mọi cá thể trong một loài biến đổi theo cùng một cách trong mối quan hệ chung điều kiện sống. Sự giao phổi giữa các cá thể trong cùng một loài, mà nếu không chắc đã sống xung quanh hoặc ở các khu vực có điều kiện sống khác biệt sẽ bị cản trở. Nhưng có lẽ tình trạng cô lập có tác động hiệu quả hơn tới việc kiềm chế sự di cư của các cơ thể sống thích nghi tốt hơn, sau bất cứ sự thay đổi vật lý nào, chang hạn như thay đổi của khí hậu hay mặt đất nâng cao lên... Do đó, những nơi mới trong thế giới tự nhiên mở ra cho sự cạnh tranh của các cư dân sinh sống bản địa. Chúng dần thích nghi với nơi ở mới thông qua thay đổi trong cấu trúc và thể trạng sống. Cuối cùng, sự cách biệt, kiểm soát quá trình di cư và do đó cả sự cạnh tranh, kéo dài thời gian cho bất cứ biến thể mới dần được cải thiện; và sự kéo dài này đôi khi lại có vai trò quan trọng trong việc hình thành loài mới. Tuy vậy, nếu khu vực cô lập có diện tích bé, hoặc là bị bao bọc bởi các chướng ngại vật, hoặc do điều kiện vật lý rất cá biệt, tổng số các cá thể mà nơi đó chứa được nhất định phải ít. số lượng ít ỏi các cá thể sẽ làm chậm đi nhiều quá trình ra đời của loài mới thông qua sự lựa chọn của tự nhiên bằng cách giảm cơ hội xuất hiện sự biến đổi có ích. 
Nếu chúng ta dựa vào tự nhiên để kiểm chứng tính xác thực của những nhận xét trên, và nhìn vào bất kỳ khu vực cô lập nhỏ bé nào, chẳng hạn như các đảo ngoài khori. Mặc dù tổng số lượng các cá thể ngụ cư trên đó được tìm thấy là bé, như chúng ta sẽ thấy ở chương phân bố địa lý đa phần trong số chúng cư dân bản địa, tức là sinh ra tại đó chứ không phải nơi nào khác. Vì thế, những hòn đảo nhỏ ngoài khơi ban đầu có vẻ như rất thuận lợi cho việc sinh ra loài mới. Nếu tin như thế, chúng ta sẽ có thể đã tự đánh lừa bản thân. Bởi vì để chắc chắn liệu khu vực nhỏ cô lập, một khu vực mở rộng lơn như lục địa, là có khả năng cao nhất sinh ra dạng loài mới hay không, chúng ta phải có sự so sánh trong thời gian tương đương. Đáng buồn thay điều này chúng ta lại không làm được. 
Mặc dù tôi không nghi ngờ là là tình trạng cô lập đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành loài mới, nhưng trên tổng thể tôi vẫn nghiêng về là sự rộng lớn có tầm quan trọng nhiều hơn, nhất là đối với sự hình thành loài mới, mà cho thấy có khả năng tồn tại trong thời gian dài, và nhân rộng ra. Trên khắp một khu vực rộng lớn, nó không chỉ sẽ tạo cơ hội tốt hơn cho sự biến đổi có ích từ số lượng lớn các cá thể cùng loài có thể sống trên đó, mà còn cả điều kiện sống cực kỳ phức tạp do quá nhiều cá thể đang tồn tại trên đó; và nếu một số loài này biến đổi và cải thiện, các loài khác buộc phải biến đổi và phát triển tương ứng, nếu không muốn bị tuyệt chủng. Mỗi loài mới, ngay khi chúng được cải thiện lớn, sẽ có khả năng lan rộng khắp khu vực liên tục và rộng lớn, do đó sẽ gặp phải sự cạnh tranh với nhiều loài khác. Nhiều nơi mới sẽ được hình thành, và sự cạnh tranh để chiếm những chỗ đó ngày một ác liệt hơn trên khu vực rộng lớn so với khu vực nhỏ. Hơn nữa, những khu vực rộng lớn, dù hiện tại vẫn liên tục, nhưng do chịu dao động, thường sẽ tồn tại trong điều kiện đứt gãy, khiến cho các ảnh hưởng tốt của sự cô lập trùng lặp ở mức độ lớn. Cuối cùng, tôi kết luận rằng, mặc dù các khu vực nhỏ bé, xét trên mặt này mặt nọ, có điều kiện rất thuận lợi để sản sinh ra loài mới, song quá trình của sự biến đổi thông thường diễn ra nhanh hơn trên các khu vực rộng lớn; và điều quan trọng hơn nữa là những dạng sống mới phát sinh trên khu vực rộng lớn, mà đã chiếm ưu thế so với nhiều đối thủ cạnh tranh, sẽ là những dạng sống lan rộng nhất, sẽ tạo ra nhiều biến thể mới và loài nhiều nhất, và nhờ đó đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thay đổi lịch sử của thế giới hữu cơ. 
Chúng ta, có lẽ dựa trên cách nhìn nhận này, hiểu được vài thực tế mà sẽ được nhắc lại trong chương phân bổ địa lý; ví dụ: những động thực vật sống trên lục địa úc nhỏ hơn đã và sinh sản trước những thực thể trên khu vực Europaeo - Asiatic. Do vậy chính là các động thực vật trên lục địa có mặt khắp mọi nơi trở thành bản địa ở đó. Trên đáo nhỏ, cuộc cạnh tranh cho sự sống kém khốc liệt hơn, và như thế sẽ có ít sự thay đổi cũng như tuyệt chủng hơn. Quần thể thực vật của đảo Madeira, theo như ông Oswald Heer, giống với quần thể thực vật thuộc kỷ thứ ba đã bị tuyệt chủng của châu âu. Tất cả các hồ chứa nước ngọt, nếu tính gộp lại, chỉ chiếm diện tích khiêm tốn so với diện tích biển hay đất liền, và kết quả là sự cạnh tranh sinh tồn trong các hồ nước ngọt là kém sôi động nhất trên trái đất; các dạng sống mới chậm được ra đời hơn và các dạng sốnh cũ chậm biến mất hơn. Chính tại các hồ nước ngọt chúng tôi tìm thấy lớp cá Ganoid, tàn tích của một nhóm đã từng là nhóm thống trị và cũng trong khu vực nước ngọt, chúng tôi tìm thấy một vài dạng thức dị thường nhất mà giờ đây đã được biết đến ừên thế giới, như là Ornithorhynchus và Lepidosren, giống như di tích hóa thạch, có quan hệ, trong chừng mực nhất định, với các nhóm tách biệt trong tự nhiên. Những dạng thức kỳ dị này hầu như có thể gọi là di tích hóa thạch sống; chúng tồn tại cho tới ngày nay, nhờ vào sống tại khu vực bao bọc và như thế ít gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn. 
Để tổng kết các điều kiện thuận lợi và không thuận lợi cho sự lựa chọn của tự nhiên, cực kỳ thú vị, tôi kết luận, khi xem xét tự nhiên, trong tương lai, đối với động thực vật trên cạn của một khu vực lục địa rộng lớn, mà có lẽ sẽ chịu nhiều biếấn động địa chất, và kết quả là sẽ tồn tại ở trạng thái đứt gãy với thời gian dài, sẽ có điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình tạo ra nhiều dạng thức sống mới, có khả năng tồn tại lâu dài và lan tỏa rộng khắp. Đối với khu vực ban đầu là tồn tại như một lục địa, và các cư dân, tại giai đoạn đó có cá thể và loại đông đúc, sẽ có sự cạnh rất khốc liệt. Khi do sự lún xuống và lục địa bị chia thành nhiều đảo lớn tách biệt, sẽ vẫn tồn tại nhiều cá thể cùng loài trên mỗi đảo: sự giao phối thực hiện trong khu vực có diện tích hẹp trong mỗi loài sẽ nhờ đó được kiểm soát: sau những thay đổi vật lý bất cứ thuộc loại gì, sự di cư sẽ bị hạn chế, giúp cho những chỗ tạo thành mới được lấp đầy chỉ bởi sự thay đổi của các cư dân cũ.

Thời gian sẽ cho phép các biến thể của mỗi loài có những thay đổi tích cực và thích nghi tốt với môi trường xung quanh. Khi có sự nâng lên mới, các đảo sẽ quay trở lại gắn với nhau thành lục địa, lúc này trên lục địa mới hình thành sẽ xuất hiện lại sự canh tranh khốc liệt: những biến thể tốt nhất và được cải thiện nhiều nhất sẽ cỏ khả năng nhân rộng, trong khi đó nhiều những dạng thức sống ít được cải thiện hơn sẽ bị tuyệt chủng. Kết quả là số lượng khả cân đối của nhiều cư dân sống trên lục địa mới hình thành sẽ thay đổi; và một lần nữa, sự lựa chọn của tự nhiên có một sân chơi bình đẳng để tiếp tục cải thiện các cư dân và nhờ đó loài mới xuất hiện. 
Tác động của sự lựa chọn tự nhiên lúc nào cũng sẽ xảy ra cực kỳ chậm chạp, tôi phải hoàn toàn công nhận điều này.Tác động của nó phụ thuộc vào có những nơi trong quần thể xã hội tự nhiên, mà có thể được chiếm giữ tốt hơn bởi một số cư dân của nước trải qua sự biến đổi vài loại. Sự tồn tại của những nơi đó thường phụ thuộc vào thay đổi vật lý, những thay đổi này diễn ra nói chung là rẩt chậm, và phụ thuộc vào việc kiểm soát sự di cư của những cá thể thích nghi tốt hơn. Nhưng ảnh hưởng của sự lựa chọn tự nhiên sẽ thường phụ thuộc nhiều hơn vào một số thực thể sống bị biến đổi chậm chạp; mối quan hệ qua lại của nhiều cư dân khác do đó mà bị xáo trộn. Không một ảnh hưởng nào xảy ra trừ khi các biến đổi tích cực xuất hiện, và sự biến đổi bản thân nó lúc nào cũng diễn ra rất chậm chạp. Quá trình này bị ữì hoãn nhiều hơn nữa do sự phối giống tự do. Nhiều người khẳng định rằng những nguyên nhân này là thừa đủ để loại bỏ các ảnh hưởng của quá trình lựa chọn tự nhiên. Tôi không tin là như vậy, mà tôi thực sự tin sự lựa chọn của tự nhiên diễn ra vô cùng chậm chạp, và trong quãng thời gian dài, thông thường chỉ ảnh hưởng tới một số ít các cư dân sinh sống của cùng vùng trong cùng thòi gian. Tôi còn tin ảnh hưởng chậm chạp lúc ẩn lúc hiện của sự lựa chọn tự nhiên hoàn toàn phù hợp với những điều mà các nghiên cứu địa chất học cho chúng ta biết về tốc độ và cách mà những cư dân trên thế gioi này thay đổi. 
Cho dù quá trình lựa chọn có thể chậm chạp, nếu con người yếu đuối như chúng ta có thể làm được nhiều điều với sức mạnh lựa chọn nhân tạo, tôi không thấy giới hạn cho sự thay đổi, cho vẻ đẹp và tính phức tạp vô cùng của sự cùng thích nghi giữa tất cả thực thể hữu cơ, thực thể này với thực thể khác, và với điều kiện sống tự nhiên, mà có thể bị tác động tới bởi sự lựa chọn của tự nhiên theo thời gian vĩnh cửu. 
Sự tuyệt chủng - Chủ đề này sẽ được đề cập đến sâu hơn trong chương Địa chất của chủng ta; nhưng tôi phải nói rằng nó liên quan chặt chẽ tới sự lựa chọn của tự nhiên. Sự lựa chọn của tự nhiên chỉ tác động duy nhất thông qua sự duy trì các biến đổi mà ở mặt nào đó có lợi, và do đó tồn tại qua thời gian. Nhưng do sức mạnh cấp số nhân của tất cả các thực thể sống hữu cơ, mỗi khu vực đã chật đầy các cư dân. Nguyên tắc là mỗi dạng thức được lựa chọn và ưa thích tăng số lượng của chúng trong khi dạng sống ít được ưa thích hơn giảm số lượng và trở nên khan hiếm. Như địa chất học nói với chúng ta tính khan hiếm là điềm báo của sự tuyệt chủng. Chúng ta cũng thấy rằng bất kỳ dạng nào mà chỉ có vài cá thế, với các biếấn động trong mùa và trong số lượng kẻ thù, rất có khả năng bị tuyệt chủng. Nhưng chúng ta có lẽ đi xa hơn thế; bởi vì các dạng thức mới được tạo ra liên tục nhưng chậm chạp, trừ khi chúng ta tin rằng số lượng các dạng thức sẽ là vô tận và tiến ra vô cùng, nhiều loài sẽ chắc chắn không thể tránh khỏi sự tuyệt chủng, số lượng của một loài cụ thể không tăng bất tận, địa chất học đơn giản cho chúng ta thấy điều đó; và thực sự chúng ta thấy lý do vì sao mà chúng không tăng như thế bởi vì nơi ngu cư không phải là vô hạn - không phải là chúng ta có cách nào để biết một vùng bất kỳ đã có số lượng lớn nhất các loài mà vùng đó có thể chứa. Có lẽ là chưa vùng nào chứa đầy các loài có thể. Ở mũi Hảo Vọng, nơi tập trung đông đúc các loài cây hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, một số cây ngoại lai đã trở thành cây của vùng đó mà không hê gây ra sự tuvệt chủng cho loài bản địa nào, như chúng ta biết. 
Hơn nữa, loài có đông cá thể nhất sẽ có cơ hội tốt nhất để tạo ra những thay đổi có lợi trong một khoảng thời gian cho trước. Tôi có bằng chứng cho điều này. Nó nằm trong các thực tế mà tôi đã đưa ra ở chương hai, nêu lên chính các loài thông thường mà có số lượng biến thể hay loài mới sinh lớn nhất. Như thế, những loài hiếm sẽ chậm được biến đổi hay cải thiện trong một khoảng thời gian nhất định cho trước. Và kết quả là chúng sẽ bị đánh bại trong cuộc đua giành sự sống bởi những con cháu được sửa đổi của các loài thông thường hơn. 
Dựa vào vài nhận xét này, tôi rút ra nguyên tắc là theo thời gian, loài mới được hình thành thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, các loài khác trở nên ngày một hiếm thấy và cuối cùng là bị tuyệt chủng. Dạng thức thường gặp phải sự canh tranh gần gũi nhất với những dạng được sửa đổi và cải thiện, tất nhiên sẽ chịu thiệt thòi nhất. Và như chúng ta đã thấy trong chưomg Cuộc đấu tranh sinh tồn là chính các dạng họ hàng gần gũi - các biến thể của cùng loài, và các loài của cùng lớp hay của lớp có liên quan - những dạng có cấu trúc tưomg tự nhau, thể tạng và thói quen, thông thường cạnh tranh nhau dữ dội nhất. Chính vì thế, mỗi biến thể hay loài mới, trong suốt tiến trình hình thành của nó, thường gây áp lực lớn nhất lên loài họ hàng gần nhất, và có xu hướng xóa sổ chúng. Chúng ta nhìn thấy một quá trình tưomg tự trong số các con vật thuần hóa, thông qua sự lựa chọn cải thiện của con người. Tôi có thể đưa ra nhiều ví dụ gây tò mò cho thấy giống mới của gia súc, cừu và các con vật khác, và các biến thể của hoa chiếm vị trí của các loại già hơn thấp kém hơn nhanh như thế nào. Tại vùng Yorkshire, lịch sử chứng minh con gia súc cổ đại màu đen bị con sừng dài tiêu diệt, và những con này lại "bị quét sạch bởi con sừng ngắn (Tôi trích lời của một nhà nông học). 
Sự sai lệch của đặc điểm - Nguyên lý mà tôi đặt cho cái tên này, là cực kỳ quan trọng trong lý thuyết của tôi. Tôi tin nguyên lý này giải thích được một số thực tế quan trọng. Lúc đầu, các biến thể, thậm chí là biến thể nổi bật, mặc dù có một vài đặc điểm của loài - như đã được nhắc tới khi người ta không biết phải xếp chúng vào hạng nào - nhưng chắc chan khác với con khác ít hơn so với loài thực sự. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, biến thể là loài đang trong giai đoạn hình thành, hay như tôi gọi chúng là loài mới sinh ra. Vậy như thế nào mà sau đó những điểm khác biệt nhỏ hơn giữa các biến thể trở thành lớn hơn giữa các loài? Điều này thường xuyên xảy ra, chúng ta phải suy luận từ vô số các loài trên khắp thế giới tự nhiên cho thấy những khác biệt đáng chú ý; trái lại các biến thể, cứ cho là các nguyên mẫu và cha mẹ tương lai của các loài nổi bật lại thể hiện các khác biệt khó nhận ra và nhỏ bé. Chỉ bằng sự ngẫu nhiên, như chúng ta có thể gọi nó, thì mới có thể khiến cho một biến thể khác với bố mẹ nó ở vài đặc điểm nào đó, và đứa con của biến thể này lại một lần nữa khác với bố mẹ chúng trong đặc điểm tương tự và với mức độ lớn hơn; nhưng một mình điều này không bao giờ giải thích đủ mức độ lớn và thường xuyên các điểm khác biệt như giữa các biến thể cùng loài và các loài cùng họ. Hơn nữa chúng khác loài bản địa với mức độ lớn vẫn như mọi khi, hãy tìm hiểu điều bí ẩn này dựa vào các sản phẩm thuần hóa của chúng ta. Ở đây chúng ta sẽ tìm thứ gì đó tương đương. Một người nuôi chim bồ câu rất ngạc nhiên khi thấy một con chim bồ câu có mỏ ngắn hơn chút ít; và một người khác thì thích thú vì con chim có mỏ dài hơn; và dựa trên nguyên lý được công nhận "những người nuôi chim không và sẽ không ngưỡng mộ tiêu chuẩn trung bình, mà thích sự tột cùng". Họ đều tiếp tục (như đã thực sự xuất hiện với con chim bồ câu nhào lộn) lựa chọn và nhân giống từ những con chim có mỏ dài dài hơn nữa, hoặc là ngắn và ngắn hơn nữa. Lần nữa, chúng ta có thể cho rằng ở giai đoạn ban đầu, một người thích những con ngựa chạy nhanh hơn, người khác thì thích ngựa khỏe hơn và to hơn. Những điểm khác biệt ban đầu có thể bé nhỏ, theo thời gian, do sự lựa chọn liên tục của các con ngựa chạy nhanh bởi những người gây giống, và của các con ngựa khỏe do người nhân giống khác, sự khác biệt sẽ có thể lớn lên; cuối cùng, khi một thế kỷ trôi qua, những con tiểu giống sẽ bị biến thành 2 giống nổi bật và khác hẳn nhau. Khi sự khác biệt dần dần trở nên lớn hơn, những con ngựa kém chất lượng có các đặc điểm trung gian, tức là không thực sự chạy nhanh cũng không thực sự khỏe, sẽ bị bỏ qua và lãng quên, và có xu hướng biến mất. Như thế ở đày chúng ta nhận thấy ảnh hưởng của cái mà có thể được gọi là nguyên lý của sự chệch hướng trong sản phẩm thuần dưỡng của con người. Ban đầu thì những điểm khác biệt không đáng được chú ý; dần dần lớn lên, và các con giống bắt đầu có biểu hiện chệch hướng trong đặc điểm so với nhau và so với cả bố mẹ chung của chúng. 
Nhưng nếu có người hỏi làm thế nào mà một nguyên lý tương tự có thể đem áp dụng vào tự nhiên? Tôi khẳng định nó có thể và đang phát huy tác dụng mạnh mẽ nhất trong tự nhiên, từ thực tế đơn giản là các loài con cháu của bất kỳ một loài nào càng khác biệt trong cấu trúc, thể trạng và thói quen thì chúng càng có khả năng chiếm giữ nhiều nơi hơn trong thế giới tự nhiên, và có điều kiện gia tăng số lượng. 
Chúng ta có thể nhìn thấy rõ điều này trong trường hợp của các động vật có thói quen đơn giản. Lấy trường hợp của loài động vật ăn thịt bốn chân làm ví dụ. số lượng mà một nước có thể chứa chúng đã đạt mức trung bình từ lâu. Nếu sức mạnh tự nhiên của sự tăng trưởng số lượng có điều kiện phát huy ảnh hưởng, thì nó sẽ có thế làm tăng số lượng (ở nước không trải qua bất cứ thay đổi nào trong điều kiện của nó) chỉ bằng cách các con cháu biến đổi của nó chiếm những nơi mà hiện đang có động vật khác ngụ cư: ví dụ, một vài trong số chúng có khả năng bắt con mồi dạng mới, hoặc là đã chết hoặc là còn sống; một sổ có điều kiện sống mới, trèo cây, bơi lội, và có lẽ một số trở nên ít thích ăn thịt tươi hơn. Con cháu của các động vật ăn thịt càng trở nên đa dạng trong cấu trúc và tính cách thì chúng có thể chiếm giữ càng có nhiều nơi sống hơn. Điều mà đúng với một con vật thì cũng hoàn toàn đúng với các loài khác - tức là nếu chúng biến đổi - nếu không thì sự lựa chọn của tự nhiên không thể có tác động gì. Và như thế nó cũng áp dụng được cho thực vật. Điều này đã được chứng minh thông qua thí nghiệm. Nếu trên một mảnh đất người ta trồng một loài cỏ, và trên một mảnh đất khác có điều kiện tương tự, người ta trồng vài lớp cỏ khác nhau, một số lượng lớn hơn các cây và trọng lượng nặng hơn cỏ khô có thể nhờ đó được tạo thành. Tình trạng tương tự cũng xảy ra khi người ta gieo trên các mảnh đất giống nhau một biến thể và vài biến thể hỗn họp của lúa mì. Với lý do này, nếu một loài có tiếp tục biến đổi và những biến thể đó được lựa chọn liên tục nhưng khác nhau mọi mặt như những loài và lớp riêng biệt khác so với nhau, một số lượng lớn hơn các cá thể cây của loài cỏ này, bao gồm cả con cháu biến đổi của nó, sẽ có khả năng sống tốt trên cùng mảnh đất. Và chúng ta biết rõ ràng mỗi loài và mỗi biến thể cỏ hàng năm sinh ra vô khối hạt giống. Như thế chúng ta có thể nói nó đang cố gắng tột độ để gia tăng số lượng của mình. Kết quả là, tôi dám chắc qua hàng nghìn thế hệ, những biến thể nổi bật nhất của một loài cỏ luôn luôn có cơ hội tốt nhất để thành công và phát triển số lượng, và nhờ đó thay thế các biến thể ít khác biệt hơn; và các biến thể mà được ban cho đặc điểm rất khác biệt thì được xếp vào loài. 
Tính xác thực của nguyên lý, sự đa dạng hóa mạnh mẽ trong cấu trúc có thể duy trì ở mức độ lớn số lượng dạng thức sống, được minh chứng bằng nhiều thực tế tự nhiên.
Trên một khu vực cực kỳ nhỏ bé, nhất là nếu không bị cô lập, hoàn toàn mở cho sự di cư, và nơi mà sự cạnh tranh giữa các cá thể phải mãnh liệt, chúng ta hầu như bao giờ cũng tìm thấy tính đa dạng lớn trong loài cư ngụ. Ví dụ: tôi tìm thấy trên một đất rộng chín mươi centimet và dài 120 centimet, nằm trong điều kiện không thay đổi nhiều năm rồi, có hai mươi loài cây chúng thuộc về mười tám lớp và tám nhóm, mà cho thấy các loài cây này khác nhau như thế nào. Như vậy chính là với tất cả cây và côn trùng trên những hòn đảo nhỏ cô lập đồng đều; và cũng như vậy trong các hồ ao nước ngọt nhỏ. Những người nông dân nhận thấy họ có thể tạo ra thức ăn bằng cách trồng gối vụ các cây thuộc về những nhóm khác biệt nhất: tự nhiên theo cái có thể được gọi là sự luân phiên đồng thòi. Đa số động vật và thực vật sống xung quanh một mảnh đất nhỏ, có thể sống trên đó (giả thiết là nó không có gì đặc biệt trong tính chất của nó), và cố gắng hết sức để có thể sống trên đó. Nhưng người ta nhận ra là nen mà chúng gặp sự cạnh tranh khốc liệt với các dạng sống khác, những lợi thế của sự đa dạng hóa trong cấu trúc, đi kèm với những khác biệt của thói quen, quyết định các cư dân sống gần chen lấn nhau, sẽ, theo đúng quy luật chung, thuộc về cái mà chúng ta gọi là các lớp và nhóm khác biệt. 
Nguyên lý tương tự được tìm thấy trong quá trình tự nhiên hóa của các cây nhờ có tác nhân con người trên đất lạ. Người ta có thể đã trông đợi rằng những cây thành công trong quá trình tự nhiên hóa trên bất kỳ loại đất nào nói chung thường sẽ trở nên gần gũi với loài bản địa; bởi vì chúng thường được coi là được tạo ra một cách đặc biệt và thích nghi với nước của chính mình. Người ta cũng có lẽ đã trông đợi những cây tự nhiên hóa đã thuộc về một vài nhóm đặc biệt thích hợp nhất với điều kiện sống nhất định tại nơi ở mới của chúng. Nhưng trường hợp này rất là khác biệt; và ông Alph De Candolle nhận xét chuẩn xác trong tác phẩm vĩ đại và đáng ngưỡng mộ rằng các quần thể thực vật, thông qua quá trình tự nhiên hóa cân xứng với số lượng các lớp và loài nhiều hơn trong lớp mới hơn là trong loài mới. Xin đưa ra một ví dụ duy nhất: trong lần tái bản cuối cùng cuốn Manual of the Flora the Northen United States của tiến sĩ Asa Gray, 260 loài cây được tự nhiên hóa được liệt kê và chúng thuộc về 162 lớp. Do đó chúng ta thấy rằng những cây tự nhiên hóa này hết sức đa dạng. Trong số 162 lớp, không ít hơn 100 lớp không phải là bản địa ở đó. Như thế có nghĩa là một số lượng lớn lớp thực vật đã được thêm vào ở các bang này. 
Bằng việc xem xét đặc tính của động vật và thực vật đã cạnh tranh thành công với loài bản địa trên bất cứ nước nào, và nhờ đó trở thành một trong những loài bản địa mới ở đó, chúng ta có thể rút ra được ý tưởng ban đầu theo cách vài cá thể bản địa phải được chỉnh đổi nhàm thu được các lợi thế hơn so với các cá thể bản địa khác. Tôi nghĩ chúng ta có thể ít nhất suy luận rằng sự đa dạng hóa trong cấu trúc, thêm vào các khác biệt mang tính loài mới, có lẽ đã có lợi cho chúng. 
Lợi thế của sự đa dạng hóa trong các cư dân cùng trên một vùng, trên thực tế, là tương tự như lợi thế của sự phân công lao động sinh lý học của các bộ phận trên một cơ thể - một vấn đề được trình bày hết sức chi tiết bởi ông Milne Edwards. Không một nhà sinh lý học nào nghi ngờ là cái dạ dày, bằng cách làm được thích nghi với việc tiêu hóa chỉ rau mà thôi, hay cùi không, hút chất dinh dưỡng nhiều nhất từ các chất này. Như thế trong điều kiện của bất cứ mảnh đất nào, cây cối và động vật càng trở nên đa dạng thì số lượng chúng có thể sống trên mảnh đất đó càng lớn. Một hệ các động vật với tổ chức của chúng ít có tính đa dạng, khó có thể cạnh tranh với một hệ động vật khác mà đa dạng hơn trong cấu trúc. Ai đó có thể nghi ngờ, ví dụ như, loài thú có túi ở úc, những con được chia thành nhóm khác biệt nhưng nhỏ so với nhau, và đại diện hết sức mờ nhạt cho loài động vật có vú ăn thịt, nhai lại, và gặm nhấm của chúng ta, như ông Waterhouse và những người khác nhận xét, có thể cạnh tranh thành công với những nhóm phân loại rõ rệt. Với loài động vật có vú ở úc, chúng ta chứng kiến quá trình đa dạng hóa tại giai đoạn phát triển ban đầu và không đầy đủ. 
Sau cuộc thảo luận ở trên mà chắc chắn đã phải rất dài, tôi nghĩ chúng ta có thể thừa nhận các con cháu biến đổi sẽ có nhiều khả năng thành công hơn nếu chúng trở nên đang dạng trong cấu trúc, và nhờ đó sẽ lấn chiếm dần được khu đất đang có loài khác sinh sống, bây giờ chúng ta hãy cùng xem nguyên lý của ích lợi lớn được rút ra từ sự chệch hướng của đặc điểm, kết hợp với nguyên lý của sự lựa chọn tự nhiên và của sự tuyệt chủng, sẽ có xu hướng gây ảnh hưởng. 
Sơ đồ dưới đây sẽ giúp chúng ta trong việc hiểu chủ đề khá phức tạp này. A tới L đại diện cho loài của một lớp lớn trong nước bản địa của nó; những loài này được giả thiết giống nhau ở những mức độ không đồng đều, như trong thực tế tự nhiên, và như nó được thể hiện trong sơ đồ bởi các chữ cái đứng cách nhau những quãng không đều. Tôi đã nói là một lớp lớn, bởi vì chúng ta đã thấy ở chương hai là nói chung thì nhiều loài lớp lớn thay đổi hơn là của lớp bé; và loài biến đổi thuộc lớp lớn sản sinh nhiều biến thể hơn. Chúng ta cũng nói rằng loài mà thông thường nhất và trải rộng khắp biến đổi nhiều hơn so với loài hiếm thấy với tầm trải rộng hạn chế. Để (A) là loài thông dụng, trải rộng và biến đổi, thuộc vào một lớp lớn trong nước của chính nó. Cái hình quạt bé của các đường chấm rẽ với chiều dài không bằng nhau tiến ra từ (A), có thể đại diện cho con cải biến đổi của nỏ. Những sự biến đổi được giả định là cực kỳ nhỏ, nhưng là đặc tính đa dạng nhất; chúng không được giả định là tất cả xuất hiện đồng thời, mà thường là sau những khoảng thời gian dài cách quãng; và cũng không giả định chúng tồn tại trong những khoảng thời gian bằng nhau. Chỉ những biến đổi có ích ở mặt này hay mặt khác sẽ được duy trì hay lựa chọn một cách tự nhiên. Và ở đây nổi lên tầm quan trọng của nguyên lý lợi ích bắt nguồn từ sự chệch hướng của tính cách; bởi do điều này nói chung thường gây ra những biến đổi khác biệt hoặc chệch hướng lớn nhất (được thể hiện bởi những đoạn chấm phía ngoài) được duy trì và tích tụ thông qua sự lựa chọn của tự nhiên. Khi một đường kẻ chấm chạm tới một trong những dòng kẻ ngang, và ở đó được đánh dấu bởi các chữ cái nhỏ hơn, một khối lượng các biến đổi được giả thiết là đã tích tụ đủ để hình thành một biến thể tưomg đối nổi bật đáng để được ghi nhận trong hệ thống công trình nghiên cứu.
Khoảng cách giữa các dòng kẻ ngang trong sơ đồ thể hiện thời gian của một nghìn thế hệ; nhưnng có lẽ sẽ là tốt hơn nếu mỗi khoảng cách đó tượng trưng cho quãng thời gian của mười nghìn thế hệ. Sau khoảng thời gian của một nghìn thế hệ, loài (A) giả định đẻ ra hai biến thể khá nổi bật, có tên là a1 và m1. Hai biến thể này sẽ tiếp tục tiếp xúc với cùng điều kiện mà làm bố mẹ chúng biến đổi, và xu hướng tiến tới tính biến đổi bản thân nó là mang tính di truyền. Do đó, chúng sẽ có xu hướng chỉnh đổi, và thông thường biến đổi theo cách gần giống như mà cách cha mẹ chúng đã làm. Hơn nữa, hai biến thể này, chỉ là những dạng thức biến đổi ít, sẽ có xu hướng thừa kế các lợi thế giúp cho loài cha mẹ chung (A) đông đúc nhất hơn các dạng thức khác cư ngụ trong cùng một nước; chúng sẽ có những lợi thế giúp lớp mẹ chung của chúng trở thành một lớp lớn trong nước bản địa. Và chúng ta biết điều kiện này là thuận lới cho việc tạo ra các biến thể mới. 
Nếu sau đó hai biến thể này thay đổi, những biến đổi chệch hướng nhất của chúng thường sẽ được lưu giữ trong suốt một nghìn thế hệ kế tiếp. Và sau quãng thời gian này, biến thể giả định aỉ trong biểu đồ đã cho ra biến thể a2, mà sẽ, theo như nguyên lý của sự chệch hướng, sẽ khác biệt so với (A) nhiều hơn là al. Tương tự như thế với biến thể giả định ml. Nó cho ra biến thể m2 và s2, khác nhau và càng khác hơn so với bố mẹ chung (A). Chúng ta có thể tiếp tục quá trình này với những bước tương tự và không hạn chế về mặt thòi gian, một số biến thể, sau mỗi một nghìn năm, chỉ sinh ra một biến thể duy nhất; nhưng trong điều kiện bị biến đổi nhiều hơn. Và trong điều kiện bị biến đổi nhiều hơn, một số cho ra hai hoặc ba biến thể, và một số chẳng cho con nào. Do đó, những biến thể hay con cháu biến đổi, có nguồn gốc chung từ cùng cha mẹ, chúng sẽ tiếp tục gia tăng số lượng và ngày càng phát triển khác biệt. Trong sơ đồ, quá trình này được thể hiện lên đến thế hệ thứ mười nghìn, và trong một dạng cô đọng, đơn giản hóa tới thế hệ thứ mười bốn nghìn. 
Nhưng tôi phải nói không giả định quá trình đó diễn ra đúng theo trình tự như nó được thể hiện trên sơ đồ, mặc dù trong bản thân nó có sự không thường xuyên, tôi không bao giờ cho là những biến thể phát triển lệch hướng nhất so với loài cha mẹ của chúng nhất sẽ luôn luôn thắng thế và nhân rộng: một dạng trung gian có thể thường tồn tại lâu, và có thể hoặc có thể không sản sinh ra hơn một con cháu biến đổi; vì sự lựa chọn của tự nhiên sẽ luôn gây tác động theo tính chẩt của nơi mà hoặc không bị chiếm giữ hoặc bị chiếm giữ không hoàn toàn bởi các cơ thể sống; và điều này sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ phức tạp vô cùng. Nhưng theo quy luật chung, cấu trúc của con cháu của bất kỳ loài nào càng đa dạng, thì chúng càng có khả năng chiếm giữ nhiều nơi mới, và số lượng cá thể biến đổi của chúng tăng lên càng nhiều. Trong sơ đồ của chúng ta, đường của sự kế tiếp bị đứt gãy theo những quãng thòi gian đều đặn bởi những chữ số nhỏ đánh dấu các dạng thức kế tiếp nhau có độ khác biệt đủ lớn để được coi là biến thể. Nhưng những sự đứt đoạn đó là tưởng tượng, và có thể đã được đặt ở bất cứ đâu, sau những khoảng thời gian đủ dài để cho có được phép sự tích tụ một khối lượng lớn các biến đổi lệch hướng. 
Do tất cả các Con cháu biến đổi của một loài thông thường và phân bố rộng khắp, thuộc vào một lớp lớn, sẽ có xu hướng được di truyền lại một số lợi thế tương tự đã giúp cha mẹ chúng thành công trong cuộc sống, nên chúng sẽ tiếp tục tăng lên về số lượng cũng như sự chệch hướng trong đặc điểm: kết luận này được thể hiện trên sơ đồ bằng một vài nhánh tỏa ra từ (A). Đứa con biến đổi của các nhánh sau và của các nhánh được cải thiện tốt hơn trong các dòng con cháu có lẽ sẽ thường giành lấy chỗ của nó, do đó sẽ tiêu diệt đứa con của nhánh trước hoặc nhánh kém được cải thiện hơn. Hiện tượng này được thể hiện trên biểu đồ là những nhánh thấp hơn không chạm tới được những đường kẻ ngang cao hơn. Trong một vài trường hợp, tôi không nghi ngờ là quá trình của sự biến đổi sẽ bị hạn chế trong một đường thế hệ duy nhất, và số lượng con cháu sẽ không phát triển thêm; mặc dù khối lượng biến đổi lệch hướng có lẽ đã gia tăng trong các thế hệ kế tiếp. Trường hợp này sẽ được biểu diễn trên sơ đồ, nếu chúng ta loại bỏ tất cả các đường xuất phát từ (A), trừ những đường từ al tói aio. Ví dụ, theo cách giống như thế, giống ngựa đua nước Anh và giống chó đánh hoi cũng của nước Anh rõ ràng là đều tiếp tục phát triển đặc điểm chệch hướng một cách chậm chạp so với loài bố mẹ ban đầu mà không hoặc là tạo ra bất kỳ nhánh hay giống mới nào. 
Sau mười nghìn thế hệ, loài (A) được giả định đã sinh ra ba dạng, a10,f10, và m10, những dạng mà đã phát triển sai khác trong đặc điểm trong suốt các thế hệ kế tiếp và sẽ trở nên khác nhau lớn nhưng có lẽ sự khác nhau là không đồng đều, và khác so với loài cha mẹ chung của chúng. Nếu chúng ta giả thiết khối lượng thay đổi giữa mỗi dường kẻ nằm ngang trong sơ đồ của chúng ta là quá nhỏ bé, ba dạng này có thể vẫn chỉ là các biến thể có đặc điểm nổi bật; hay chúng nằm trong loại đầy nghi ngờ của tiểu loài; nhưng chúng ta chỉ phải giả thiết có nhiều bước hơn hoặc khối lượng lớn hơn trong quá trình của sự biến đổi, để chuyển ba dạng thức này thành ba loài có thể định nghĩa rành mạch: như vậy sơ đồ này minh họa những bước mà qua đó những biến đổi nhỏ của các cá thể khác biệt trở thành những điểm khác nhau lớn hơn của các loài phân biệt.
Bằng cách tiếp tục quá trình tương tự với số lượng các thế hệ nhiều hơn (như được miêu tả trong sơ đồ một cách đơn giản và sơ lược), chúng ta có được tám loài, đánh dấu bởi các chữ cái từ a14 đến mỉ 4, tất cả đều xuất phát từ (A). Chính vì thế tôi khẳng định loài đã được nhân lên và lớp được hình thành. 
Trong một lớp, có khả năng hơn một loài biến đổi. Trong sơ đồ, tôi giả thiết rằng loài thứ hai (I), thông qua các bước tương tự, sau mười nghìn thế hệ, đã cho ra hoặc là hai biến thể nổi bật (w10 và zlơ) hoặc hai loài, theo như khối lượng của sự thay đổi được giả định là bởi hiện khoảng cách giữa hai dòng kẻ ngang. Sau mười bốn nghìn thế hệ, sáu loài, đánh dấu bằng các chữ cái từ n14 tới z14, được giả thiết đã sinh ra trong mỗi lớp loài mà đã cực kỳ khác biệt trong đặc điểm, sẽ có xu hướng sản sinh ra số lượng con cháu lớn nhất; vì những loài này sẽ có cơ hội tốt nhất để chiếm giữ những nới mới trong thế giới tự nhiên: do đó trong sơ đồ này, tôi đã lựa chọn loài cuối cùng (A), và gần cuối cùng (I) vì chúng đã biến đổi lớn, đã tạo ra loài và biến thể mới. Chín loài khác (được đánh dấu bởi các chữ cái hoa) của lớp gốc của chúng ta có thể trong một giai đoạn dài tiếp tục đẻ ra những con cháu không thay đổi; và điều này được thể hiện trên sơ đồ bằng những dòng kẻ đứt quãng không kéo dài quá lên trên từ chỗ trống. 
Nhưng trong suốt quá trình biến đổi, được miêu tả trong sơ đồ, một nguyên lý khác, có tên là nguyên lý của sự tuyệt chủng, sẽ có vài trò nhất định. Như trong những nước có nhiều cá thể, sự lựa chọn của tự nhiên nhất định ảnh hưởng tới những dạng thức được lựa chọn có lợi thế hơn so với các dạng khác trong cuộc đấu tranh sinh tồn, sẽ có một xu hướng liên tục trong những con cháu được cải thiện của một loài bất kỳ thay thế và xóa sổ trong mỗi giai đoạn kế tiếp những con trước đó và bố mẹ gốc của chúng. Bởi vì chúng ta nên nhớ rằng sự cạnh tranh thường khốc liệt nhất giữa những dạng mà có mối quan hệ gần gũi nhất trong thói quen, thể trạng và cấu trúc. Vì thế, tất cả những dạng trung gian nằm giữa giai đoạn đầu và giai đoạn cuối, tức là nằm giữa mức độ cải thiện nhiều và ít của một loài, cũng như bản thân loài cha mẹ gốc, nói chung là có xu hướng bị tuyệt chủng. Như vật có lẽ là nó sẽ cùng với nhiều dòng cùng họ nhưng khác chi sẽ bị đánh bại bởi những dòng con cháu sau này và được cải thiện. Tuy nhiên nếu đứa con biến đổi của một loài lọt vào một nước khác biệt, hay trờ nên thích nghi nhanh chóng với điều kiện sống mới, mà tại đó loài con và bố mẹ không phải cạnh tranh với nhau, thì cả hai loài sẽ cùng tồn tại. 
Nếu sơ đồ của chúng ta giả thiết thể hiện một khối lượng biến đổi đáng kể, loài (A) và tất cả các biến thể trước đó sẽ tuyệt chủng, bị thay thế bởi tám loài mới (từ a14 tới m14), và (I) sẽ bị thay thế bởi sáu loài mới (từ n14 tới z14). 
Nhưng chúng ta có thể còn đi xa hơn nữa. Loài gốc trong lớp của chúng ta được giả thiết là giống nhau nhưng với mức giống khác nhau, nhự là hay xảy ra trong tự nhiên; loài (A) có quan hệ gần gũi với (B), (C), và (D) hơn so với các loài khác. Hai loài (A) và (C) được cho là rất phổ biến và trải rộng khắp khiến cho chúng ban đầu phải có lợi thế hơn đối với hầu hết các loài trong lớp đó. Con cháu biến đổi của chúng, mười bốn qua mười bốn nghìn thế hệ, sẽ có lẽ đã thừa hưởng một số lợi thế: chúng cũng được biến đổi và cải thiện theo một cách khác biệt tại mồi giai đoạn kế tiếp, để cho trở nên thích nghi với nhiều với nhiều noi liên quan trong môi trường tự nhiên nước của chúng. Vì thế tôi cảm thấy rất có khả năng là chúng chiếm lấy vị tri và như vậy sẽ xóa sổ không chỉ loài cha mẹ (A) và (1) của chúng mà còn úoa sổ cả một số loài gốc có quan hệ khá gần gũi với loài bố mẹ của chúng. Rất ít loài gốc sẽ sinh con cái cho đến thế hệ thứ mười bốn nghìn. Chúng ta có thể giả định rằng chỉ một (F), trong số hai loài mà có quan hệ kém gần gũi nhất với chín loài gốc khác, đã sinh con đẻ cái cho đến giai đoạn muộn sau này. 
Loài mới trong sơ đồ của chúng ta bắt nguồn từ mười một loài bản địa bây giờ sẽ là số mười lăm. Do xu hướng phát triển lệch của sự lựa chọn tự nhiên, khối lượng khác biệt trong đặc điểm giữa loài a14 và z14 sẽ lớn hơn nhiều so với giữa những loài khác nhau nhất trong mười một loài nguyên gốc. Hơn nữa, các loài mới sẽ là họ hàng của nhau theo một cách khác biệt lớn. Trong số tám con cháu bắt nguồn từ (A), ba biến thể được đánh dấu là a14, q14 và p14 sẽ có mối quan hệ khá gần nhau do nằm trên nhánh aio, b!4 và f14, bắt đầu chệch hướng từ ứj, sẽ trong một mức độ nhất định khác so với ba loài đặt tên đầu tiên. Cuối cùng a!4, H4, và m14, gần như có liên quan với nhau nhưng bắt đầu chệch hướng từ giai đoạn khởi đầu của quá trình biến đổi, sẽ khác biệt lớn so với năm loài khác, và có thể tạo nên một tiểu lớp hay thậm chí là một lớp riêng biệt. 
Sáu con cháu từ (I) sẽ tạo thành hai tiểu lớp hay thậm chí hai lớp. Nhưng do (I) khác biệt lớn so với (A), đứng gần ở điểm cực của lớp nguyên gốc, sáu con cháu của (I), nhờ có sự di truyền, khác biệt lớn so với tám con cháu từ (A); hai nhóm này được giả thiết là tiếp tục phát triển theo hai chiều hướng khác nhau. Những loài trung gian, cũng (hết sức đáng lưu tâm), mà nối loài gốc (A) và loài gốc (I), đều bị tuyệt chủng ngoài trừ (F), và không để lại con cháu nào. Do đó, sáu loài mới bắt nguồn từ (I), và tám bắt nguồn từ (A), sẽ phải được xếp là lớp riêng biệt hoặc thậm chí là tiểu gia đình riêng rẽ. 
Nhưng tôi tin là hai lớp hoặc nhiều hơn nữa được sinh ra bởi loài gốc, với sự biến đổi, từ hai loài hoặc nhiều hơn của cùng một lớp. Và hai loài bố mẹ hoặc nhiều hơn nữa được giả định bắt nguồn từ một loài của một lớp trước. Trong sơ đồ của chúng ta, nó được biểu hiện bởi các đường đứt gãy, bên dưới các chừ cái in hoa, tiến tới trong tiểu nhánh đi xuống một điểm duy nhất; điểm này đại diện cho một loài duy nhất, loài cha mẹ giả định của một vài tiểu lớp và lớp của chúng ta. 
Chúng cũng nên suy nghĩ một chút về đặc điểm của loài mới (F14), loài mà không được giả định đa dạng nhiều trong đặc điểm, nhưng vẫn giữ dạng thức của (F); hoặc là không thay đổi hoặc thay đổi rất ít. Trong trường hợp này, mối quan hệ gần gũi của nó với mười bốn loài mới khác sẽ gây tò mò và lằng nhàng. Do bẳt nguồn từ một dạng đứng giữa loài (A) và (I), bây giờ lại được giả định là tuyệt chủng và chưa được biết tới, trong một mức độ nào đó, nó sẽ có đặc điểm trung gian giữa hai nhóm xuất phát từ những loài này. Song do hai nhóm này tiếp tục phát triển xa nhau trong đặc điểm từ kiểu của loài bố mẹ, loài mới (F14) sẽ không trực tiếp là loài trung gian giữa chúng, mà là giữa loại của hai nhóm; và mọi nhà tự nhiên học đều có thể nghĩ ra những trường hợp như vậy ở trong đầu. Trong sơ đồ, mỗi đường kẻ ngang được giả định cho đến nay là thể hiện một nghìn thế hệ, nhưng mỗi cái có thể tượng trưng cho hàng triệu hoặc hàng trăm triệu thế hệ và tương tự như thế sự lựa chọn của các địa tầng liên tiếp của vỏ trái đất bao gồm cả tàn tích của loài bị tuyệt chủng. Khi chúng ta tới chương Địa chất, sẽ phải nhắc lại chủ đề này, và tôi nghĩ chúng ta lúc đó sẽ thấy sơ đồ này làm sáng tỏ mối quan hệ gần gũi của những loài tuyệt chủng, cho dù thông thường thuộc về cùng một nhóm, hay gia đình, hay lớp với những loài hiện đang tồn tại, thường, trong một mức độ nào đó, là trung gian về tính cách giữa các nhóm đang tồn tại; và chúng ta có thể hiểu được thực tế này, bởi vì loài bị tuyệt chủng đã sống ở thời đại xa xưa khi nhánh của loài gốc phát triển chệch hướng ít. 
Tôi không thấy lý do để hạn chế quá trình biến đổi như bây giờ được giải thích trong sự hình thành chỉ một loài. Nếu, trong sơ đồ, chúng ta giả thiết số lượng sự thay đổi được biểu hiện bàng mỗi nhóm kế tiếp của các đường kẻ chấm tỏa ra là rất lớn, các dạng đánh dấu bởi a!4 tới p14, dạng dánh dấu bởi bỉ4 tới f14, và dạng đánh dấu bởi a14 tới m14 sẽ tạo thành ba lớp rất riêng biệt. Chúng ta cũng sẽ có hai lớp rất riêng biệt từ loài (I), và như hai lớp sau này đều từ sự chệch hướng liên tục của đặc điểm và từ sự di truyền từ một loài cha mẹ khác biệt, sẽ có khác biệt so với ba lớp bắt nguồn từ (A), hai nhóm nhỏ của các lớp sẽ tạo thành hai gia đình khác biệt, thậm chí hai hệ, theo như khối lượng biến đổi chệch hướng được giả định thể hiện trên sơ đồ. Và hai gia đình, hay thế hệ mới sẽ có nguồn gốc từ hai loài của lớp đầu tiên; và hai loài được giả định bắt nguồn từ một loài của một lớp cổ xưa hơn và vẫn chưa được biết tới. 
Chúng ta đã biết rằng trong mỗi nước, chính loài thuộc lớp lớn rất hay cho nhiều biến thể hay loài mới hơn. Thực sự điều này chắc đã được trông đợi: vì sự lựa chọn tự nhiên tác động thông qua một dạng có lợi thế so với các dạng khác trong cuộc chiến sinh tồn, nó chủ yếu tác động tới những loài mà đã có lợi thế và độ lớn của bất kỳ nhóm này thể hiện loài của nó đã được di truyền lại một số lợi thế từ tổ tiên chung. Chính vì thế, cuộc chiến để sản sinh ra con cháu mới và biến đổi sẽ chủ yếu là giữa những nhóm lớn đang cố gia tăng số lượng của chúng. Một nhóm lớn sẽ dần dần chậm chạp đánh bại nhóm lớn khác, giảm số lượng của nó và do đó giảm đi cơ hội biến đổi và cải thiện tốt hơn nữa của nhóm đó. Trong cùng một nhóm lớn, những tiểu nhóm về sau và thích nghi tốt, nhờ vào sự tỏa rộng ra và chiếm lấy nhiều nơi cư ngụ mới trong môi trường tự nhiên sẽ liên tục có xu hướng thay thế và tiêu diệt những tiểu nhóm trước đó và kém cải thiện hơn. Những nhóm nhỏ, manh mún và tiểu nhóm cuối cùng sẽ có xu hướng biến mất. Nhìn về tương lai chúng ta có thể dự đoán những nhóm của các cá thể hữu cơ mà hiện tại là rộng lớn và phát triển mạnh mẽ, và ít bị xé nhỏ nhất thì chúng sẽ ít có khả năng bị tuyệt chủng nhất và sẽ trong một thời gian dài tiếp tục nhân lên về mặt số lượng. Nhưng nhóm nào rốt cuộc sẽ thắng thế, không một người nào có thể đoán trước được vì chúng ta biết rõ ràng rất nhiều nhóm trước đây phát triển vô cùng mạnh mẽ nhưng bây giờ đã bị tuyệt chủng. Nhìn xa hơn nữa về tương lai, chúng ta có thể tiên liệu là do sự tăng trưởng liên tục và đều đặn của các nhóm hơn, một số lượng lớn các nhóm nhỏ hơn sẽ bị tuyệt chủng hoàn toàn và không để lại bất cứ một con cháu biến đổi nào; và kết quả là những nhóm loài đó tại bất kỳ giai đoạn nào rất ít trong số chúng sẽ đẻ ra con cháu trong tương lai. Tôi sẽ quay lại chủ đề này trong chương về Sự phân loại. Nhưng tôi xin nói thêm rằng trên quan điểm về rất ít các loài cổ đại hơn sinh sản con cháu và trên quan điểm tất cả các con cháu của cùng loài tạo thành một lớp, chúng ta có thể hiểu như thế nào mà chỉ tồn tại rất ít trong mỗi nhánh chính của các vương quốc động thực vật. Mặc dù rất ít loài cổ đại bây giờ có thể có con cháu đang sống và biến đổi, song tại giai đoạn địa chất xa nhất, trái đất đã có thể được bao phủ bởi rất nhiều loài của nhiều lớp, nhóm hay gia đình như hiện nay. 
Tóm tắt chương - Nếu theo dòng thời gian và trong điều kiện sổng biến đổi, tất cả các cơ thể sống biến đổi vài phần trong tổ chức của chúng; nhờ vào sức manh tăng của cấp số nhân của mỗi loài, tại tuổi, mùa hay năm nào đó, một cuộc cạnh tranh sinh tồn khốc liệt, và điều này chắc chắn cũng không có gì phải bàn cãi; và xét về tính cực kỳ phức tạp của mối quan hệ giữa các cá thể sống với nhau và với điều kiện sống, dẫn tới tính đa dạng vô cùng trong cấu trúc, thể trạng và tính cách có lợi cho chúng, tôi nghĩ nó sẽ là một thực tế vô cùng đáng kinh ngạc nếu không có sự thay đổi nào hữu ích cho bản thân cá thể sống xuất hiện giống như cách mà nhiều biến đổi hữu ích xuất hiện đối với loài người. Nhưng nếu biến đổi có lợi cho bẩt kỳ một dạng sống nào thì chắc chắn các cá thể đó sẽ được duy trì trong cuộc đấu tranh sinh tồn; và theo như nguyên lý di truyền chúng sẽ có xu hưởng đẻ ra những đứa con có đặc điểm, lợi thế tương tự.
Nguyên lý của sự Duy trì, mà tôi gọi là Sự lựa chọn của Tự nhiên để cho ngắn gọn. Sự lựa chọn của tự nhiên, trên nguyên lý số lượng được di truyền tại giai đoạn tương ứng, có thể chỉnh đổi trứng, hạt giống và đứa con dễ dàng như chỉnh sửa cá thể trưởng thành. Trong số nhiều động vật, sự lựa chọn giống sẽ hỗ trợ sự lựa chọn thông thường, bằng việc đảm bảo rằng đối với các con đực khỏe và thích nghi tốt nhất thì sẽ cho ra nhiều con cái nhất. Sự lựa chọn giống cũng sẽ chỉ di truyền lại các đặc tính có lợi cho mình con đực thôi. 
Liệu sự lựa chọn của tự nhiên có thực sự phát huy ảnh hưởng trong tự nhiên hay không, biến đổi và làm thích nghi nhiều dạng thức sống với điều kiện môi trường xung quanh phải được xem xét theo chiều hướng chung và sự cân bằng của các bằng chứng sẽ được đưa ra ở chương tiếp sau. Nhưng chúng ta cũng biết sự lựa chọn của tự nhiên gây ra tuyệt chủng như thế nào; và sự tuyệt chủng lớn như thế nào trong lịch sử thế giới đã được địa chất học làm sáng tỏ. Sự lựa chọn của tự nhiên cũng dẫn đến sự chệch hướng của đặc điểm bởi vì càng nhiều cơ thể sống có thể tồn tài trên cùng một khu vực thì cấu trúc, thói quen và thể trạng của chúng càng khác nhau. Chúng ta có thể thấy bằng chứng ở trong những loài cư ngụ trên một mảnh đất nhỏ hay trong sản phẩm tự nhiên hóa. Vì thế trong suốt quá trình biến đổi các con cháu của bất cứ một loài nào, trong suốt cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để phát triển số lượng giữa tất cả các thực thể sống, các con cháu này càng trở nên đa dạng, thì chúng càng có nhiều cơ hội chiến thắng trong cuộc chiến giành sự sống. Những khác biệt nhỏ của biến thể riêng biệt trong cùng loài sẽ liên tục có xu hướng tăng lên cho đến khi những khác biệt này có độ lớn bằng với các khác biệt giữa loài thuộc cùng lớp. 
Chúng ta đã biết là chính các loài thông thường, xuất hiện ở nhiều nơi, có tầm hoạt động rộng lớn, thuộc về những lớp lớn biến đổi nhiều nhất; và những loài này sẽ có xu hướng di truyền lại cho con cháu của chúng những đặc điểm nổi trội giúp đã giúp chúng trở thành loài thống trị và do đó cũng giúp con cháu trở thành loài nổi trội nhất trong nước bản địa của chúng. Như tôi đã nhận xét sự lựa chọn của tự nhiên cũng dẫn đến sự chệch hướng trong đặc điểm và sự tuyệt chủng của nhiều loài không được cải thiện hay cải thiện ít và loài trung gian. Dựa trên các nguyên lý này, tôi tin rằng tính chất của mối quan hệ gần gũi của tất cả các cá thê co thể được giải thích. Nó thực sự là một điều tuyệt vời - sự tuyệt vời mà chúng ta thường hay không nhận ra do tính quen thuộc - rằng tất cả động vật và thực vật trong suốt lịch sử và trên khắp mọi nơi có mối quan hệ với nhau trong nhóm nằm trong nhóm, theo cách mà chúng ta ở mọi nơi trông thấy - tức là biến thể của cùng loài có quan hệ gần gũi với nhau nhất, các loài thuộc về một lớp quan hệ kém gần gũi hơn và mối quan hệ giữa chúng không đồng đều, tạo thành các phân đoạn và tiểu lớp, các loài thuộc các lớp riêng biệt lại càng ít có quan hệ và các loài quan hệ với nhau trong mức độ khác nhau tạo thành tiểu gia đình, gia đình, hệ, tiểu lớp và lớp. Những nhóm phụ trong bất cứ lớp nào không thể được xếp vào một tập thể duy nhất, mà có vẻ nên là những cụm xung quanh một điểm, và những nhóm khác xung quanh điểm khác, và cứ như thế trong một chu trình không có điểm dừng. Nếu dựa vào quan điểm mỗi loài được tạo ra một cách độc lập so với nhau, tôi không tìm ra được bất cứ một sự giải thích nào cho việc phân loại các cá thể sống; nhưng với tất cả những gì mà tôi hiểu thì sự phân loại có thể được giải thích dựa trên sự di truyền và ảnh hưởng phức tạp của sự lựa chọn tự nhiên, gây nên sự tuyệt chủng và sự chệch hướng của đặc điểm, như chúng ta đã thấy là nó được minh họa trên sơ đồ. 
Mối quan hệ gần gũi giữa các cá thể thuộc cùng một lớp đôi khi có thể được biểu diễn bàng hình ảnh của một cành to. Tôi cho là sự ví von này nói lên phần lớn sự thật. Cành non xanh có thể đại diện cho loài và những cành non mà được sinh ra từ năm trước có thể đại diện cho chuỗi liên tiếp của các loài bị tuyệt chủng. Tại mỗi giai đoạn của sự tăng trưởng, tất cả các cành non đang phát triển đều cố gắng vươn dài ra từ mọi phía, và vượt trội hơn rồi tiêu diệt các cành con xung quanh tương tự như cách mà loài và nhóm loài cổ chế ngự các loài khác trong cuộc chiến vĩ đại giành lẩy sự sổng. Các phiến lá dài được chia thành nhiều nhánh lớn, và nhánh này thành những nhánh ngày càng bé hơn dã từng, khi cây còn bé, là cành non. Mối quan hệ giữa những chồi trước đó và chồi hiện tại bằng cách phân nhánh có thể đại diện tốt cho sự phân loại của tất cả các loài còn tồn tại và đã tuyệt chủng thành nhóm thuộc nhóm. Trong số rất nhiều nhánh con mà phát triển mạnh mẽ khi cây chỉ là các bụi nhỏ, chỉ có hai hoặc ba nhánh là phát triển thành các nhánh lớn, tồn tại và chứa đựng tất cả các nhánh khác; do đó với những loài sống qua các giai đoạn địa chất dài, rất ít hiện giờ có con cháu đang tồn tại và biến đổi. Từ sự phát triển đầu tiên của cây, nhiều phiến lá và cành bị thối rữa, rơi rụng; và những nhánh nhiều loại cỡ bị rụng này có thể đại diện cho toàn bộ nhóm, gia đình và lớp mà hiện giờ không hề có đại diện nào, chúng ta chỉ biết đến chúng nhờ vào các di tích hóa thạch. Như chúng ta có thể nhìn thấy ở đâu đó một nhánh cây khẳng khiu lan rộng mọc từ một chạc ba nam dưới thấp ở cây, và nó may mắn gặp điều kiện sống thuận lợi và vẫn còn tồn tại trên đỉnh, tương tự như thế, chúng ta đôi khi nhìn thấy các con vật như Omithorhychus và Lepidosiren, trong một mức độ nhỏ liên kết hai nhánh lớn của sự sống hàng mối quan hệ gần gũi của nó, cái mà chắc chắn đã tránh được sự cạnh tranh nghiệt ngã nhờ sống ở nơi được bảo vệ. Do các chồi non phát triển giúp các chồi non mới phát triển theo, và những chồi non này, nếu mạnh khỏe vươn ra từ mọi phía và vượt trội hơn các nhánh yếu hơn, và sau một thế hệ, tôi tin nó đã cùng với Cây của Sự sống vĩ đại, cái mà lấp vỏ trái đất với những nhánh chết và bị gãy của nó và bao phủ bề mặt với sự tỏa nhánh và các nhánh cây tuyệt đẹp.
CHƯƠNG V 
NHỮNG QUY LUẬT CỦA SỰ BIẾN ĐỔI 
Ảnh hưởng của điều kiện sống bên ngoài - Sử dụng và không sử dụng; cộng với sự lựa chọn của tự nhiên; cơ cấu của đàn chim và của tầm nhìn - Sự thích nghi với khí hậu - Mối tương quan của sự tăng trưởng - Sự bù trừ và điều kiện tăng trưởng - Sự tương quan giả - những cấu trúc biến đổi được tổ chức một cách chậm chạp, đơn giản và phức tạp - Những phần được phát triển bất bình thường rất hay biến đổi: những đặc điểm cụ thể biến đổi nhiều hơn so với đặc điểm chung của loài: đặc điểm giới tính thứ hai biến đổi - Những loài thuộc cùng một lớp biến đổi theo cách tương tự nhau - Sự quay trở lại các đặc điểm đã mất đi từ xa xưa - Tổng kết 
Cho đến nay, tôi đã có lần nói như thể các biến đổi - rất chung và đa dạng trong tất cả các cá thể sống trong điều kiện thuần hóa, và ở một mức độ thấp hơn trong những cá thể sống trong tự nhiên - là nhờ vào sự tình cờ. Tất nhiên nói như vậy là hoàn toàn sai, nhưng nó có tác dụng cho thấy sự kém hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân gây ra từng biến đổi cụ thể. Một số nhà nghiên cứu tin nó là chức năng của hệ thống sinh sản tạo ra các khác biệt cá thể, hay những sai khác rất nhỏ trong cấu trúc, giống như sinh ra đứa con giống cha mẹ. Nhưng do tính biến đổi của các cây trồng vật nuôi trong điều kiện thuần hóa cũng như tần suất xuất hiện của các điểm khác thường lớn hơn nhiều so với trong tự nhiên đã khiến tôi tin những sai khác của cấu trúc theo một cách nào đó là do điều kiện sống của môi trường xung quanh mà loài cha mẹ và tổ tiên xa xưa của chủng đã tồn tại ở đó suốt vài thế hệ. Tôi đã từng nhận xét ở chương đầu tiên - chỉ một cuốn catalo dày các sự thực mà không thể đưa ra được ở đây là cần thiết để chứng minh tính xác thực của lời nhận xét - rằng hệ thống sinh sản rất dễ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi điều kiện sống của môi trường xung quanh; và tôi cho rằng điều kiện thay đổi hay linh hoạt của đứa con là do hệ thống này bị xáo trộn chức năng trong loài bố mẹ. Các tác nhân giống đực và giống cái có vẻ như bị ảnh hưởng trước khi sự kết hợp tạo ra một cá thể sống mới. Trong trường hợp các cây "thể thao", chỉ chồi non, mà trong điều kiện ban đầu của nó không khác biệt mấy so với noãn, bị ảnh hưởng. Nhưng tại sao, bởi vì hệ thống sinh sản bị xáo trộn, bộ phận này hay bộ phận kia lại thay đổi ít hoặc thay đổi nhiều thì chúng ta hoàn toàn không hiểu. Tuy thế, ở đâu đó chúng ta có thể lờ mờ hiểu,và chúng ta có thể cảm thấy chắc chắn rằng phải có nguyên nhân nào đấy gây ra mồi sự sai khác của cấu trúc, cho dù là nhỏ. 
Độ lớn của ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu, thức ăn... lên bất kỳ cá thể sống nào gây ra nhiều tranh cãi. Án tượng của tôi là ảnh hưởng dạng này, trong trường hợp động vật, là cực kỳ nhỏ, và có lẽ lớn hơn một chút trong trường hợp thực vật. ít nhất chúng ta có thể kết luận chính xác những ảnh hưởng kiểu này không thể tạo ra nhiều sự đồng thích nghi kinh ngạc và phức tạp của cấu trục giữa một cơ thể sống này với cơ thể sống khác, thứ mà chúng ta nhìn thấy ở khắp nơi trong thế giới tự nhiên. Một số ảnh hưởng nhỏ có thể coi là do khí hậu hoặc thức ăn... gây ra. Chính vì thế ông E. Forbes nói một cách tự tin là các loài vỏ sò sống ở cực nam và trong vùng nước nông thì thường có màu sáng hơn những con cùng loài sống xa về phía bắc và trong vùng nước sâu. Ông Gould tin các con chim thuộc cùng một loài có màu sắc sáng sủa trong vùng điều kiện môi trường sống nhiều ánh mặt trời hơn là những con sống trên đảo hay ven bờ biển. Tương tự như thế đối với loài côn trùng, ông Wollasston bị thuyết phục điều kiện sống gần biển ảnh hưởng tới màu của chúng. Ông Moquin-Tandon đưa ra một danh sách các cây khi trồng gần bờ biển có lá dày hơn so với cây cùng loại trồng ở nơi khác. Tôi có thể liệt kê ra các trường hợp tương tự khác. 
Hiện tượng các biến thể của một loài, khi chúng lan ra tới vùng sinh sống của các loài khác, thường thu được, ở một mức độ nhỏ thôi, những đặc điểm của loài bản địa, phù hợp với quan điểm của chúng ta là các loài của tất cả mọi thể loại chỉ là các biến thể nổi bật và thường xuyên. Do đó, loài thân sò mà chỉ sống ở biển nhiệt đới nước nông thường có màu sáng hơn những con sống ở vùng biển lạnh nước sâu. Những con chim sổng trên lục địa, theo như ông Gould, sáng màu hơn những con sống ở đảo. Những con côn trùng tồn tại gần bờ biển, như mọi nhà sưu tập đều biết, thường có màu xám đồng. Những cây chỉ sống trên vùng bờ biển rất hay có lá dày. Một người tin vào sự sáng tạo ra mỗi loài sẽ phải nói rằng những con sò này, lấy làm ví dụ, đã được sáng tạo ra với màu sắc tươi sáng trong vùng biển ấm; nhưng các con sò khác cùng loài trở nên tươi màu hơn bởi sự biến đổi khi nó phát triển sang các vùng biển ấm hơn và nông hơn. 
Khi một sự biến đổi dù ít có ích nhất đối với một thực thể sống, chúng ta không thể nói mức độ ảnh hưởng tích tụ của sự lựa chọn tự nhiên và của điều kiện môi trường sống từng cái là cụ thể là như thế nào. Chính vì thế, những người thợ đóng móng ngựa hiểu rất rõ các con ngựa cùng loài có bộ lông dày và tốt hơn khi chúng sống trong điều kiện thòi tiết khẳc nghiệt hơn; song ai có thể nói trong điểm khác biệt như vậy bao nhiêu có thể là do các cá thể có bộ lông ấm áp nhất gặp điều kiện sống thuận lợi và do đó được bảo tồn qua nhiều thế hệ, và bao nhiêu là do ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt? Dường như, khí hậu cũng có ảnh hưởng nhất định tới bộ lông của loài động vật bốn chân của chúng ta. 
Tôi có thể đưa ra các ví dụ cho thấy cùng một biến thể được sinh ra trong các điều kiện sống khác nhau rõ ràng mà chúng ta cảm nhận được; và mặt khác, các biến thể khác nhau được sinh ra từ cùng một loài trong cùng điều kiện sống.

Những thực tế như vậy chứng minh tính ảnh hưởng gián tiếp của điều kiện sống. Một lần nữa, vô số các minh chứng có thể được đưa ra bởi các nhà tự nhiên học về loài không thay đổi hoặc biến đổi mặc dù sống trong khí hậu hoàn toàn trái ngược, Như vậy tôi có thể nói chắc là ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sống là rất yếu. Nhưng khi xét về mặt gián tiếp, thì chúng lại đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng tới hệ thống sinh đẻ, và do đó gây ra tính biến đổi; sau đó sự lựa chọn của tự nhiên sẽ tích tụ tất cả các biến đổi có ích lại, dù là nhỏ, cho đến khi chúng phát triển rõ ràng và đáng chú ý đối với chúng ta. 
Ảnh hưởng của sự sử dụng và không sử dụng - Dựa trên những thực tế đã được trình bày ở chưcmg đầu tiên, tôi nghĩ chúng ta khó có thể nghi ngờ trong trường hợp động vật nuôi của chúng ta, một số bộ phận được sử dụng sẽ khỏe và to ra, và một số bộ phận khác không được sử dụng sẽ teo đi; và những thay đổi dạng này được di truyền lại. Trong thế giới tự nhiên hoang dã, chúng ta không có chuẩn mực để so sánh, để dựa vào đó mà kết luận về ảnh hưởng lâu dài của việc sử dụng và không sử dụng; bởi vì chúng ta không biết dạng thức bố mẹ. Nhưng nhiều động vật có cấu trúc có thể được giải thích bằng hiệu ứng của việc không sử dụng chúng. Như giáo sư Owen đã nhận định, không có điều kỳ lạ nào trong tự nhiên hơn là chim không biết bay; thế mà vẫn có vài con như thế. Một giống vịt ở vùng Nam Mỹ chỉ có thể vỗ cánh trên mặt nước, và cánh của nó trong điều kiện tương tự như cánh của giống vịt nuôi Aylesbury. Do những giống chim to sống trên mặt đất ít bay trừ khi chạy trốn mối nguy hiểm, tôi tin rằng việc tình trạng hầu như không cánh của vài con chim, hiện đang sống và đã sống trên các đảo ở ngoài khơi xa, không bị động vật săn mồi nào đe dọa, là gây ra bởi việc không sử dụng. Loài chim ostrict đã sống trên các lục địa và gặp phải những mối hiểm nguy, để tránh các hiểm họa đó thì bay không phải là phương pháp hay, chúng tự vệ bằng cách đánh trả nó để có thể bảo vệ mình trước kẻ tấn công cũng như bất cứ động vật bốn chân nào nhỏ hơn. Chúng ta có thể tường tượng tổ tiên xa xưa của loài ostrict có thói quen giống như của con chim otit, và rằng do sự lựa chọn của tự nhiên tăng kích cỡ và trọng lượng của cơ thể nó qua những thế hệ kế tiếp nhau, chân của chúng ngày càng được sử dụng nhiều và cánh ngày càng ít đi cho đến khi chúng không thể bay được. 
Ông Kirby đã nhận xét (và tôi đã quan sát thấy được điều giống như thế) tụ cốt cổ chân trước của nhiều loài bọ cánh ứng ăn chất thải thường hay bị gãy; ông đã kiểm tra mười bảy loài trong bộ sưu tập của bản thân và không con nào có dấu vết sót lại. Đối với loài Onites apelles, tụ cốt chân rất hay bị gãy đến mức mà người ta miêu tả chúng là không có xương. Trong một số lớp thì chúng có chỗ xương đó nhưng trong tình trạng rất sơ khai. Còn loài Ateuchus hay loài bọ thần thánh của người Ai cập cổ đại, chúng hoàn toàn thiếu. Chúng ta không có đủ lý do để tin sự biến mất đó là do di truyền và tôi nên giải thích sự biến mất hoàn toàn của tụ cốt cổ chân trước ở loài Ateuchus, và tình trạng phát triển sơ khai của xương đó trong một số lớp khác bằng hiệu ứng lâu dài liên tục của việc không sử dụng, kể từ thời tổ tiên nó. Bời vì tụ cốt cổ chân hầu như không lúc nào xuất hiện ở loài bọ cánh cứng ăn chất thải, chúng chắc phải đã mất trong giai đoạn đầu cuộc sống vì không được loài côn trùng này sử dụng nhiều. 
Trong một số trường hợp chúng ta có thể dễ dàng cho rằng sự biến đổi của cấu trúc là do không sử dụng, song thực ra nó lại hoàn toàn là do sự lựa chọn của tự nhiên. Ông Wollaston đã phát hiện ra một thực tế kỳ lạ là 200 loài bọ cánh cứng trong số 500 loài sống trên đảo Madeira hiện tại thiếu cánh và chúng không thể bay; và trong hai mươi chín lớp đặc hữu, không ít hơn hai mươi ba lớp có tất cả các loài trong tình trạng tương tự! Một số hiện tượng, chẳng hạn như những con bọ cánh cứng ở nhiều nơi trên thể giới thường bị thổi ra biển và chết; và những con bọ ở quần đảo Madeira, như ông Wollaston quan sát, vẫn chưa được biết tới nhiều cho đến khi gió ngừng thổi và mặt trời chiếu sáng; rằng tỷ lệ bọ cánh không cánh lớn hơn ở khu vực mờ Dezertas hơn là ở chính tại Medeira; và nhất là thực tế lạ lùng mà ông Wollaston khẳng định rất chắc chắn, về sự vắng mặt hoàn toàn những nhóm lớn nhất định của loài bọ, mà ở đâu đó rất đông đúc, và những nhóm có thói quen trong cuộc sống rất cần thiết phải bay. Những điều này đã khiến tôi tin rằng tình trạng không cánh của rất nhiều con bọ ở quần đảo Madeira là do tác động của sự lựa chọn tự nhiên, nhưng cộng với cả việc không sừ dụng. Qua hàng ngàn thế hệ kế tiếp nhau, mỗi cá thể bọ mà ít bay nhất, hoặc là do cánh của chúng chưa phát triển hoàn thiện hoặc là do lười nhác, sẽ có cơ hội tồn tại tốt nhất vì không bị thổi ra ngoài biển; mặt khác, những con bọ hay bay nhất sẽ thường bị thổi ra biển nhất và do đó bị tiêu diệt. 
Những con côn trùng trên đảo Madeira, không phải là loài tìm kiếm thức ăn trên mặt đất, giống như loài Coleoptera và Lepidoptera ăn hoa, phải sử dụng cánh của chúng để lấy được thức ăn, cánh của chúng không hề bị mất đi mà thậm chí còn to ra. Điều này hoàn toàn phù hợp với tác động của sự lựa chọn tự nhiên. Bởi vì khi một con côn trùng mới đến đảo đầu tiên, xu hướng của sự lựa chọn của tự nhiên làm teo đi hay rộng ra cánh của nó sẽ phụ thuộc vào số lượng nào đông hơn giữa các cá thể tồn tại trong cuộc chiến đấu với gió và các cá thể từ bỏ hoặc ít khi bay. Giống như trong một tai nạn đắm tàu, những người bơi giỏi thì có thể có cơ hội sống sót do bơi được xa hơn nhưng những nguời bơi kém lại cũng có thể có lợi khi lựa ciiọn ở lại cùng con tàu đắm. 
Mắt của loài chuột chũi và của những loài gậm nhấm đào đất khác là rất bé, và trong một sổ trường hợp bị che lấp hoàn toàn bởi da mặt và lông. Tình trạng của đôi mắt này có thể là do lâu ngày không sử dụng chúng, nhưng có lẽ còn được trợ giúp cả bởi sự lựa chọn của tự nhiên. Tại vùngNam Mỹ, một loài gặm nhấm đào đất, loài tuco-tuco, hay Ctenomys, thời gian chúng ở dưới lòng đất thậm chí còn miều hơn loài chuột chũi. Tôi đã nghe một người Tây Ban Nha, người thường bắt được chúng, nói chắc như đinh đóng cột là chúng thường bị mù; một con tôi bắt sống được nó rõ ràng là đang trong tình trạng đó, khi rạch mắt nó tôi fhát hiện ra nguyên nhân là do chứng viêm màng nháy mảt. Do chứng viêm mắt thường gây thương tổn cho loài này, và do mắt không phải là thứ không thể thiếu đối vật con vật hay ở dưới đất, việc mắt bé đi cùng với mí mắt dính vào nhau và lông mọc che lấp mắt có thể trong trường hợp này lại là một lợi thế; và nếu là như vậy thì sự lựa chọn của tự nhiên liên tục trợ giúp ảnh hưởng của việc không sử dụng. 
Mọi người đều biết rằng một vài con vật, thuộc về các lớp khác nhau, sống trong các hang động vùng Styria và Kentucky, bị mù. Trong một số con cua thì cuống mắt vẫn còn nhưng con mắt thì đã biến mất; khung đồng tử vẫn còn nhưng đồng tử thì không thấy. Vì chúng ta khó tưởng tượng rằng con mắt, mặc dù ít dùng, lại gây hại cho những con vật sống trong bóng tối, tôi cho rằng sự biến mất hoàn toàn đó là do không sử dụng. Một trong những loài động vật mù, loài chuột hang, con mắt rất to, và giáo sư Silliman nghĩ là nó đã lấy lại đôi chút khả năng nhìn, sau một thời gian sống trong ánh sáng. Cùng tương tự theo cách như vậy mà cánh của những con côn trùng trên đảo Madeira phát triển to ra, và cánh của những con khác lại teo đi bởi sự lựa chọn của tự nhiên cộng với sự gipp đỡ của hiệu ứng không sử dụng. Trong trường hợp củi loài chuột hang, sự lựa chọn của tự nhiên dường như để cạnh tranh với sự mất ánh sáng và tăng kích cỡ mắt; trái lại đối với tất cả các loài khác sống trong hang, sự không sỉ dụng là nguyên nhân duy nhất gây ra tình trạng mù mắt. 
Chúng ta khó lòng tưởng tượng ra được điều kiện sống giống nhau hơn là giữa các hang núi đá vôi trong một khí hậu tương tự, để mà theo quan niệm là các bài được tạo ra một cách độc lập bởi vì các hang động đá vôi ở châu Âu và ở nước Mỹ, chúng ta có thể trông đợi tính tương đồng trong cấu trúc và mối quan hệ gần gũi, nhưng như ông Schiolte và những người khác đã nhận xét, đây không phải là trường hợp đó và những con côn trùng sống trong hang ở hai lục địa không quan hệ gần gũi với nhau như người ta đã từng dự đoán dựa vào bề ngoài giống nhau của các cư dân khác sống ở Bắc Mỹ và châu âu. Dựa trên quan điểm của tôi, chúng ta phải giả định rằng động vật của nước Mỹ, ban đầu nhìn thấy được, qua nhiều thế hệ di cư từ thế giới bên ngoài tới ngày một sâu hơn vào vùng hang động Kentucky cũng giống như động vật ở châu âu chuyển vào hang núi châu âu. Chúng ta có một vài bằng chứng về sự chuyển đổi thói quen này, như ông Schiodte đã nhận xét "các con vật không khác lạ lắm, chuẩn bị sự chuyển đổi từ sống ở nơi sáng sang nơi tối. Tiếp đến theo những con được cấu tạo sống ở lúc chạng vạng tối; và cuối cùng là những con sống hoàn toàn trong bóng tối". Cho đến khi một động vật, qua vô số các thế hệ, đến được nơi sâu nhất, sự không sử dụng đã ít nhiều phá hủy hoàn toàn đôi mắt của nó, và sự lựa chọn của tự nhiên thường có ảnh hưởng thay đoi khác, chẳng hạn như tăng chiều dài của cần ăng ten hay xúc tu, như là một sự bù đắp cho việc mù mắt. Bất chấp những biến đổi như vậy, chúng ta có thể trông đợi vẫn tìm thấy trong các động vật sống trong hang ở nước Mỹ, mối quan hệ gần gũi với các cư dân sống trên lục địa đó, và các con ở châu âu với những cư dân sống trên lục địa già. Đây là trường hợp với một số động vật sống trong hang của nước Mỹ, như tôi đã nghe từ giáo sư Dana; và một loài côn trùng hang châu âu lại quan hệ rất gần gũi với những con ở nước lân cận. Chúng ta rất khó có được lời giải thích thỏa đáng cho mối quan hệ gần gũi giữa những động vật mù trong hang với các con vật khác sống ở hai lục địa nếu dựa trên quan điểm tầm thường về sự sáng tạo động lậpc ủa các loài. Một vài cư dân sống trong hang ở trên lục địa Mới và lục địa Cũ là họ hàng của nhau, chúng ta có thể trông đợi từ mối quan hệ nổi bật của hầu hết các sản phẩm khác của chúng. Tôi không hề cảm thấy ngạc nhiên một số động vật hang trông rất giống nhau, như ông Agassiz đã nhận định về loài cá bị mù, loài Amblyopsis, và cũng giống như trường hợp của loài Proteus mù liên quan tới loài bò sát ở châu âu. Tôi chỉ ngạc nhiên là nhiều loài suy nhược sống ở thòi cổ đại đã không được bảo tồn mặc dù sự cạnh tranh mà các con vật sống trong bóng tối gặp phải có lẽ là ít khốc liệt hơn. 
Sự thích nghi với khí hậu - Thói quen có tính di truyền cùng với cây, như trong giai đoạn trổ hoa, lượng mưa cần thiết để hạt giống nảy mầm, trong thời gian ngủ... và chúng khiến tôi muốn nói vài lời về sự thích nghi với khí hậu. Một điều hết sức bình thường là các loài thuộc cùng lớp sống trong nước nhiệt đới và nước giá lạnh, và như tôi tin tất cả các loài đều bắt nguồn từ cha mẹ chung duy nhất, nếu quan điểm này là đúng đắn, thì sự thích nghi với khí hậu đã phải có ảnh hưởng trong suốt giai đoạn di truyền lâu dài liên tục. Mọi người thường suy nghĩ rằng mỗi loài thích nghi với khí hậu của nơi nó sinh ra; loài từ vùng hàn đới, thậm chí là ôn đới không thể tồn tại ở vùng nhiêu đới, hoặc ngược lại. Nhiều cây mọng nước không thể sống trong vùng khí hậu ẩm thấp. Nhưng mức độ thích nghi của loài với khí hậu mà chúng sống trong đó đã bị nói quá lên.
Chúng ta có thể suy luận ra điều này dựa trên việc thường không thể dự đoán trước của chúng ta liệu một loại cây nhập khẩu có thể tồn tại trong khí hậu của chúng ta, và từ số lượng các cây cối động vật được mang đến từ nơi ấm áp vẫn có thể trạng tốt ở đây. Chúng ta có lý do tin rằng các loài trong tự nhiên bị giới hạn về tầm hoạt động do phải cạnh tranh với các cá thể và do cả sự thích nghi điều kiện khí hậu nơi đó. Nhưng liệu sự thích nghi thông thường là nguyên nhân chủ đạo hạn chế tầm hoạt động của loài hay không, chúng ta có bằng chứng, trong trường hợp của một số cây, trong chừng mực nào đó, đã trở nên quen thuộc với các thang nhiệt độ khác nhau và do đó thích nghi được với điều kiện sống mới. Cây thông và cây đỗ quyên, mọc từ hạt giống thu được của giáo sư Hooker từ các cây mọc ở những độ cao khác nhau trên dãy Himalaya, lại có khả năng chống lại cái lạnh khác nhau. Ông Thwaites cho tôi biết là ông đã quan sát thấy điều tương tự ở Ceylon và ông H.c. Watson cũng trông thấy hiện tượng tương tự ở các loài cây châu âu mang đến từ vùng Azores tới nước Anh. Đối với động vật, tôi có thể đưa ra một số trường hợp cụ thể về loài trong quá trình lịch sử tồn tại đã mở rộng tầm hoạt động của chúng từ nơi có khí hậu ẩm hơn sang nơi có khí hậu lạnh hơn và ngược lại. Song chúng ta lại không biết chắc rằng những con vật này hoàn toàn thích nghi với khí hậu bản địa của chúng, và trong tất cả các trường hợp thông thường, chúng ta thừa nhận đúng là như thế; và chúng ta cũng không biết liệu chúng có phải sau đó mới thích nghi với khí hậu ở nơi ở mới. 
Như tôi đã nói là những động vật thuần chủng của chúng ta đã được người tối cổ lựa chọn bởi vì chúng mang lại lợi ích và sinh sản dễ dàng trong điều kiện bị giam cầm, không phải bởi vì sau đó người ta nhận thấy chúng có khả năng chuyên chở hàng hóa đi xa. Tôi cho rằng khả năng thông thường nhưng tuyệt vời nhất của các động vật thuần chủng của chúng ta không chỉ là cỏ thể chịu đựng được các kiểu khí hậu thời tiết khác nhau mà còn có khả năng sinh sản hoàn hảo. Khả năng này có thể được viện ra để lập luận là một tỷ lệ lớn các động vật khác, hiện đang tồn tại trong thế giới tự nhiên, có thể chịu đựng tốt các khí hậu thời tiết khác nhau. Song chúng ta không thể đẩy lập luận trên đi quá xa để giải thích nguồn gốc có thể có của một vài con vật thuần hóa từ một vài loài hoang dã: chang hạn như máu của loài chó sói hay chó hoang sống ở vùng nhiệt đới và hàn đới có lẽ đã lẫn vào máu của chó nhà. Loài chuột và các con cùng họ không thể được coi là động vật thuần hóa, nhưng chúng đã được con người đưa đến khắp nên trên thế giới, và hiện tại tầm hoạt động của chúng rộng lớn hơn nhiều so với bất kỳ loài gặm nhấm nào khác, sống thoải mái trong điều kiện khí hậu hàn đới ở Faroe phía bắc và ở Falklands phía nam, và trên nhiều đảo trong các khu vực nóng như thiêu như đốt. Vì vậy, tôi có thiên hướng coi sự thích nghi với bất kỳ loại khí hậu đặc biệt nào là khả năng biến đổi linh hoạt bẩm sinh trong thể trạng của đa số các con vật. Theo quan điểm này, khả năng tồn tại trong các khu vực khí hậu khác biệt nhất của con người và động vật thuần hóa. Những thực tế như là tổ tiên của voi và tê giác có khả năng chống chọi lại với khí hậu băng giá, trái lại những con voi và tê giác hiện tại lại sống tất cả ở vùng nhiệt đới và tiểu nhiệt đới, chúng không nên coi đấy là điều lạ lùng mà nên coi đó chỉ là những bằng chứng về tính linh hoạt của thể trạng khi con vật sống trong điều kiện mới. 
Sự thích nghi với khí hậu của một loài với bất cứ khí hậu lạ nào là bao nhiêu nhờ vào tính cách, bao nhiều nhờ vào sự lựa chọn của tự nhiên và bao nhiêu nhờ vào cả hai cái kết hợp lại vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Tôi tin chắc là tính cách có ảnh hưởng nhất định, dựa vào sự so sánh và dựa vào cả công trình nghiên cứu nông nghiệp, thậm chí cả bách khoa toàn thư của người Trung Hoa cổ đại có nói phải hết sức cẩn thận khi chuyển một con vật sang nơi ở mới. Do con người ít có khả năng lựa chọn được nhiều giống và tiểu giống với thể trạng đặc biệt thích hợp với khu vực sinh sống của chúng như thế: điểu này cố nghĩa kết quả là phải do thói quen. Mặt khác, tôi không thấy có lý do gì để nghi ngờ là sự lựa chọn tự nhiên luôn có xu hướng giữ lại những cá thể mà được sinh ra có thể trạng thích hợp nhất với nước bản địa. Trong các bài viết về đủ loại chù đề cây trồng, người ta nói có những biến thể nhất định chịu đựng được điều kiện khí hậu nào đó tốt hơn những biến thể khác: điều này được minh chứng rõ ràng trong các tác phẩm được xuất bản ở Mỹ về hoa quả, trong đó, các nhà nông nghiệp học khuyên người nông dân nên trồng cây này ở vùng bắc và các cây kia ở vùng Nam; và do đa số các biến thể này mới xuất hiện, những khác biệt trong thể trạng của chúng không thể là do thói quen. Trường hợp của cây chè atisố ở Jerusalem mà không bao giờ được nhân bản từ hạt giống và do đỏ không có biến thể mới, đã từng phát triển - bởi vì hiện tại nó rất mềm mại và chưa bao giờ nó có được sự mềm mại như vậy. Điều này chứng tỏ sự thích hợp với điều kiện khí hậu không thể là nguyên nhân! Cũng trường hợp của cây đậu tây thường được dẫn ra với mục đích tương tự, nhưng cỏ tính thuyết phục cao hơn; nhưng cho đến khi một ai đó gieo hạt đậu tây, qua rất nhiều thế hệ sớm đến mức mà một tỷ lệ lớn chúng bị cái lạnh phá hủy, và sau đó thu số hạt ít ỏi còn lại cẩn thận không để xảy ra sự lai giống ngẫu nhiên, và sau đó thu những hạt giống từ các cây con này, cùng với sự cẩn trọng tương tự. Thí nghiệm này chưa hề được tiến hành. Chúng ta không nên giả định không có sự khác biệt nào trong thể trạng của cây đậu tây con từng xuất hiện bởi vì đã có một cuốn sách xuất bản nói cực kỳ là khó khăn để một số cây con xuất hiện so với các cây khác. Nói tóm lại, tôi nghĩ chúng ta có thể kết luận rằng thói quen, sử dụng và không sử dụng ở một số trường hợp đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự thay đổi của thể trạng và cấu trúc của nhiều bộ phận khác nhau: rằng tác động của việc sử dụng và không sừ dụng thường kết hợp với, và đôi khi bị vượt trội, sự lựa chọn của tự nhiên của sự khác biệt bẩm sinh. 
Mối quan hệ trong tăng trưởng - tôi hàm ý khi sử dụng thuật ngữ này là toàn bộ tổ chức gắn kết chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình tăng trưởng và phát triển tới mức khi sự biến đổi nhỏ của một bộ phận xuất hiện và được tích tụ lại bởi sự lựa chọn của tự nhiên, thì các phần khác cũng biến đổi. Đây là một chủ đề rất quan trọng và không được hiẹu đúng đắn nhiều nhất. Trường hợp cụ thể nhất là những biến đổi tích tụ chỉ mang lại lợi ích cho con ấu trùng sẽ, chúng ta có thể kết luận như vậy, ảnh hưởng tới cấu trúc của nó khi trưởng thành; cũng tưomg tự như thế, bất cứ sự mất cân đối nào ảnh hưởng tới phôi thai giai đoạn đầu đều ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ tổ chức của con trưởng thành. Một vài bộ phận của cơ thể khá tương đồng với nhau, và tại giai đoạn phôi thai ban đầu, giống nhau, dường như chịu tác động của sự biến đổi tương đồng: chúng ta nhận thấy điều này trong phần trái và phần phải của cơ thể biến đổi tương tự nhau; chân trước và chân sau, thậm chí ở cả ở quai hàm và các chi bởi vì hàm dưới người ta cho rằng đồng dạng với chi. Tôi hoàn toàn tin tưởng xu hưởng này bị điều chỉnh ít nhiều bởi sự lựa chọn của tự nhiên: do vậy một gia đình hươu đực trưởng thành đã từng tồn tại với một cái gạc chỉ ở một bên và nếu điều này là có ích đối với con giống thì nó có thể đã được sự lựa chọn của tự nhiên ban cho. 
Như một số học giả đã nhận xét, các phần tương đồng thường có xu hướng gắn với nhau; hiện tượng này thường được tìm thấy ở những cây kỳ dị, và chẳng có gì phổ biến hơn là sự tụ hội của các bộ phận tương đồng trong các cấu trúc bình thường, như là sự tập hợp cánh hoa của trằng hoa trong một ống hoa. Các phần cứng có vẻ như ảnh hưởng hình dáng của bộ phận mềm gắn kết vào. Một số nhà nghiên cứu tin là tính đa dạng của hình dạng của khung xưomg chậu ở các con chim gây ra tính đa dạng trong hình dạng trong quả cật của chúng. Những người khác nghĩ là hình dáng của xương chậu của người mẹ ảnh hưởng, thông qua áp lực, hình dáng đầu của đứa trẻ. Đối với loài rắn, theo như ông Schlegel, hình dạng của cơ thể và cách nuốt quyết định vị trí những bộ phận nội tạng quan ừọng nhất của chúng. Tính chất của mối quan hệ tương quan này là khá khó hiểu. Ông M. I. Geoíĩroy đã phát biểu rõ là một số bất cân xứng nhất định rất thường hay, trong khi những bất cân xứng khác hiếm khi tồn tại cùng nhau mà chúng ta không biết lý do tại sao. Điều gì có thể kỳ lạ hơn là mối quan hệ giữa mắt màu xanh và tình trạng bị điếc ở loài mèo, và màu của đồi mồi cái, chân có lông và da với ngón tẽ ra bên ngoài của chim bồ câu, và sự xuất hiện ít nhiều lông tơ ở con chim mới ra đời với màu bộ lông trong tương lai; hay một lần nữa, mối quan hệ giữa lông và răng của chó không lông Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù tính tương đồng ở đây phát huy ảnh hưởng? Xét những trường hợp sau về mối tương quan tăng trưởng, tôi nghĩ nó khó có thể là do ngẫu nhiên. Nếu chúng ta chọn ra hai nhóm động vật có vú mà có lớp da kỳ lạ nhất, viz Cetacea (cá voi) và Edentata (con tatu...) những con này tương tự thế có bộ răng vô cùng đặc biệt.
Tôi không tìm thấy một trường hợp nào phù hợp hơn chứng tỏ tầm quan trọng của các quy luật quan hệ tương quan trong việc biến đổi các cấu trúc quan trọng, độc lập về chức năng và do đó về sự lựa chọn của tự nhiên hơn là trường hợp của những khác biệt giữa hoa bên trong và hoa bên ngoài trong các cây hình tán. Mọi người đều biết sự khác nhau trong hoa phía ngoài của cụm hoa đầu và hoa nhỏ trung tâm, ví dụ như của hoa cúc. Và sự khác biệt này thường đi kèm với sự loại bỏ bớt vài bộ phận cây hoa. Nhưng ở một số cây hoa hạt giống cũng khác biệt cả về hình dáng và đường vân thậm chí cả bầu nhụy với những phần có thể tiếp cận được, như đã được ông Cassini miêu tả. Những khác biệt này, như một số học giả phát biểu, là do áp lực. Và hình dáng của hạt giống trong hoa con tỏa tia ủng hộ quan điểm này. Nhưng trong trường hợp của trằng hoa của loài Umbellierae, như tiến sỹ Hooker đã nói với tôi là không có cách nào, đổi với các loài có đầu hoa đông đúc nhất thì hoa bên trong và hoa bên ngoài thường rất hay khác biệt. Người ta có thể nghĩ là sự phát triển của những cánh hoa bên ngoài bằng cách hút chất dinh dưỡng của các bộ phận của cây hoa khác đã gây ra tình trạng chết yểu của chúng. Nhưng trong một sổ hoa Compositae có một sự khác biệt trong hạt giống của hoa nhỏ bên trong và bên ngoài mà không có sự khác biệt nào trong trằng hoa. Có lẽ là vài điểm sai khác có thể có mối liên quan với vài khác biệt trong dòng chảy của chất dinh dưỡng tới phần trung tâm và bên ngoài hoa; chúng ta ít nhất biết rằng trong các bông hoa không bình thường, những bông gần trục nhất thường hay bị ảnh hưởng nhất bởi sự thay đổi cấu trúc, và trờ nên bình thường. Tôi xin nói thêm, như một ví dụ của điều này và của trường hợp đáng kinh ngạc về mối quan hệ tương quan, rằng tôi gần đây đã quan sát được ở một số cây quỳ thiên trúc trong vườn: bông hoa trung tâm của cụm hoa thường mất những vết có màu tối hơn trong hai cánh hoa bên trên; và rằng khi điều này xuất hiện thì tuyết mật dính vào bị mất đi. Khi màu này không xuất hiện ở một trong hai cánh hoa bên ữên, thì tuyết mật chỉ bị ngắn đi nhiều chứ không biến mất. 
Xét về sự khác biệt trong trằng của những bông hoa trung tâm và bên ngoài của phần đầu hay tán, tôi không hề cảm thấy chắc chắn rằng ý kiến của ông C. C. Sprengel là hoa con tỏa tia đóng vai trò thu hút các con công trùng, mà tác nhân của nó cực kỳ có lợi cho sự sinh sản của các cây thuộc họ này, là bị cường điệu quá mức như nó ban đầu có vẻ như thế.
Và nếu nó có lợi như thế, sự lựa chọn của tự nhiên sẽ thực thi nhiệm vụ của mình. Nhưng khi xét đến các điểm khác biệt trong cấu trúc bên trong và bên ngoài của các hạt giống, cái mà thường không liên quan gì tới bất kỳ khác biệt nào trong bông hoa, dường như là không thể nào chúng có thể có lọi cho bông hoa ở bất kỳ khía cạnh nào; ấy vậy mà đối với loài hoa hình tán, những điểm khác biệt như thế lại cực kỳ quan trọng - các hạt giống trong một vài trường hợp, theo như ông Tausch, là hạt giống thẳng trong hoa bên ngoài và rỗng trong hoa trung tâm - ông De Candolle đã thiết lập nhánh chính của nhóm trên các khác biệt tương tự. Do vậy chúng ta thấy là những biến đổi của cấu trúc, được đánh giá bởi các nhà hệ thống học là có giá trị to lớn, có thể hòan toàn là do những quy luật chưa được biết tới của sự tăng trưởng cân xứng, và không hề có ích tý gì cho loài, như những gì chúng ta biết được cho đến nay. 
Chúng ta thường hay sai lầm gán cho mối quan hệ tăng trưởng, những cấu trúc thông dụng trong toàn bộ các nhóm của loài, mà thực ra là do sự di truyền. Bởi vì loài tổ tiên có thể đã thu được một biến đổi trong cấu trúc của nó nhờ vào sự lựa chọn của thiên nhiên, và qua hàng ngàn thế hệ, tiếp tục có được các biến đổi độc lập khác; và hai dạng biến đổi này, sau khi đã được truyền lại cho toàn bộ nhóm con cháu với thói quen khác biệt, một cách tự nhiên thường được mọi người nghĩ là nhất định có mối tưomg quan ở mặt nào đó. Vì thế một lần nữa, tôi không nghi ngờ là một vài mối tưomg quan rõ ràng, xuất hiện ở tất cả nhóm, là hoàn toàn chỉ do sự lựa chọn của tự nhiên tác động. Ví dụ như ông Alph. De Candolle đã nhận xét là những hạt giống có cánh không bao giờ được tìm thấy trong quả không mở: tôi xin giải thích quy luật nay thông qua thực tế là những hạt giống này không thể dần dần trở nên có cánh thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, trừ trường hợp quà mở; như thế tức là những cá thể cây cho ra các hạt giống thích hợp hơn một chút để gió có thể đưa đi xa hơn, có thể có được lợi thế so với cây sinh ra hạt giống kém phù hợp hơn để gió đưa đi. Và quá trình này không thể diễn ra đối với các quả không mở. 
Hai ông Geoffroy và Goethe đã đề xuất, cũng trong khoảng thời gan tưomg tự, quy luật về sự bù trừ của họ hay sự cân bằng trong tăng trưởng; hay như ông Goethe đã phát biểu: "Để sử dụng được một bên, tự nhiên phải tiết kiệm bên còn lại." Tôi nghĩ quy luật này đúng với những con vật thuần hóa của chúng ta trong một chừng mực nào đó: nếu nguồn chất dinh dưỡng chảy tới một bộ phận hay một cơ quan quá nhiều, thì nó hiếm khi, ít nhất là như vậy chảy thừa thãi tới phần hay bộ phận khác; do vậy chúng ta khó có thể ép một con bò cái vừa cho nhiều sữa vừa béo ra. Những biến thể giống nhau của cây cải bắp không cho dư thừa các bộ lá đầy dinh dưỡng và số lượng thừa thãi các hạt giống chứa tinh dầu. Khi hạt trong quả của chúng teo đi thì quả đó trở nên to ra và giàu dinh dưỡng hơn. Đối với các con gia cầm của chúng ta, chùm lông lớn của chúng hay đi kèm với mào bé đi, và bộ râu rậm rạp kèm với yếm thịt teo nhỏ. Còn với những con vật sống trong tự nhiên, chúng ta khó có thể khẳng định là quy luật này cũng đủng với tất cả số chúng; nhưng nhiều người có khả năng quan sát tốt, nhất là các nhà thực vật học, tin vào tính đủng đắn của quy luật này. Tuy nhiên ở đây tôi không đưa ra một ví dụ nào bởi vì tôi không biết cách nào để phân định rành rọt giữa các ảnh hưởng, một mặt, của sự lựa chọn của tự nhiên hoặc là của sự không sử dụng hoặc là sự kết hợp hai nhân tố này, và, mặt khác, ảnh hưởng của dòng chảy chất dinh dưỡng. 
Tôi cũng nghi ngờ là một vài trường hợp của sự bù trừ đã được nói tới, và tương tự như vậy một số thực tế, có thể bị gộp lại dưới một nguyên lý chung hơn, đó là sự lựa chọn của tự nhiên đang tiếp tục cố gắng thu gọn mọi phần của bộ máy tổ chức. Nếu trong điều kiện sống thay đổi, một bộ phận hữu ích trở nên kém hữu ích hơn, thì sự lựa chọn của tự nhiên sẽ gây ra sự thu nhỏ của nó, dù không đáng kể, bởi vì nó sẽ có lợi cho cá thể do không bị lãng phí chất dinh dưỡng vào bộ phận kém hữu ích dạng đó. Nhờ vậy mà tôi có thể hiểu được hiện tượng mà đã làm cho tôi ngạc nhiên xem xét động vật loài chân tơ, và ngoài ra rất nhiều ví dụ tương tự có thể đưa ra. Ví dụ về loài chân tơ: Khi một con chân tơ sống ký sinh ăn bám trên một cơ thể chủ và nhờ đó được bảo vệ, nó ít nhiều mất đi hoàn toàn vỏ bọc của nó hay bộ giáp. Đây cũng là trường hợp của con Ibla đực, và cả của Proteolepas'. bởi vì bộ giáp của tất cả con chân tơ khác đều bao gồm ba bộ phận cực kỳ quan trọng nằm ở khu vực phía trước của đầu và chúng đã phát triển rất mạnh mẽ, và có cả hệ thần kinh và dây cơ chủ. Nhưng trong con Proteolepas sống ký sinh và được bảo vệ, toàn bộ phần phía trước của đầu bị teo đi xuống chi còn một nhúm bám vào ăng-ten. Giờ đây, việc mất đi cấu trúc lớn và phức tạp, gây ra bởi sự vô dụng khi con Proteolepas sống ký sinh lại là một lợi thế quyết định đối với mỗi cá thể kế tiếp nhau của loài; bởi vì trong cuộc đấu tranh sinh tồn mà mọi động vật phải đối mặt, mỗi cá thể của Proteolepas có cơ thể tốt hơn để bảo vệ bản thân nhờ vào việc ít chất dinh dưỡng bị lãng phí vào các cấu trúc nay đã trở nên vô ích. 
Chính vì thế tôi khẳng định là sự lựa chọn của tự nhiên lúc nào cũng sẽ thành công trong việc giảm và loại đi những phần của tổ chức ngay khi chúng trở nên không cần thiết, mà không hề gây ra, bởi bất cứ cách nào, những phần khác phát triển lớn lên ở mức độ tương ứng. Và ngược lại, sự lựa chọn của tự nhiên luôn luôn có khả năng hoàn hảo phát triển bất kỳ cơ quan nào mà không nhất thiết phải bù lại bàng việc giảm các bộ phận khác đi. 
Nó có vẻ như là một quy luật, như ông Is. Geoffroy St Hilaire đã nhận xét, cả trong biến thể và loài, khi bất kỳ phần hay bộ phận nào bị lặp đi lặp lại nhiều lần trong cấu trúc của cùng một cá thể (như là cột sống của loài rắn hay nhị hoa của hoa nhiều nhị đực), số lượng sẽ biến đổi; trái lại số lượng của cùng bộ phận hay cơ quan, khi nó ít xuất hiện (về mặt số lượng), là bất biến. Cũng tác giả đó và một số nhà thực vật học còn đi xa hơn nữa khi nói những bộ phận phức tạp cũng dễ chịu sự biến đổi trong cấu trúc. Bởi vì "sự lặp lại mang tính sinh dưỡng", như cách diễn đạt của giáo sư Owen, dường như là một dấu hiệu của tổ chức thấp. Nhận xét trên hình như có mối liên quan tới ý kiến chung nhất của các nhà tự nhiên học: những cơ thể sống có tổ chức đơn giản trong tự nhiên thì biến đổi nhiều hơn là những cơ thể sống có tổ chức cao. Tôi hàm ý sự thấp trong trường hợp này có nghĩa là vài phần của tổ chức không được hoặc ít được chuyên môn hóa; và khi mà cùng một phần thực hiện nhiều chức năng, chúng ta có thể hiểu tại sao nó hay biến đổi, và tại sao sự lựa chọn của tự nhiên duy trì hoặc loại bỏ mỗi sự sai khác nhỏ của dạng ít cẩn thận hơn là khi phần đó chỉ thực hiện một chức năng duy nhất; tương tự như một con dao dùng để cắt đủ mọi thứ sẽ có thể ở bất cứ hình thù nào trong khi một công chỉ dùng cho vài đối tượng nhất định sẽ nên chỉ có một số hình dáng cụ thể. Chúng ta không nên bao giờ được quên là sự lựa chọn của tự nhiên có thể tác động lên mỗi phần của mỗi cơ thể sổng, chỉ thông qua và cho lợi ích của nó. Những phần chưa hoàn thiện, còn đơn sơ, như một số nhà nghiên cứu nói, và tôi tin là đúng, có xu hướng biến đổi lớn. Chúng ta sẽ còn quay trở lại chủ đề chung về các cơ quan đơn giản và bị thui chột; và ở đây tôi chi xin nói rằng tính biến đổi của chúng dường như là do sự vô dụng của chúng; và nhờ đó là do sự lựa chọn của tự nhiên không có quyền năng kiểm soát những sai khác trong cấu trúc của chúng. Như vậy những bộ phân thô sơ hoàn toàn là do các quy luật tăng trưởng khác nhau tác động lên, do ảnh hưởng của sự không sử dụng trong thời gian dài liên tục và do xu hướng quay trở lại đặc tính tổ tiên. 
Một bộ phận, trong bất kỳ loài nào, phát triển một cách hay ở một mức độ đặc biệt, so với bộ phận đó ở trong các loài họ hàng, cỏ xu hướng biến đỗi lớn - Vài năm trước đây, tôi cảm thấy rất ngạc nhiên trước một lời nhận xét gần giống như trên, đưa ra bởi ông Waterhouse. Tôi cũng suy luận ra từ sự quan sát của giáo sư Owen về chiều dài cánh tay của con ourang-outan, dựa vào thực tế này ông cũng đi tới kết luận tương tự. Chúng ta hầu như không có hy vọng thuyết phục được bất cứ ai tin vào tính đúng đắn của kết luận trên nếu không đưa ra một danh sách dài các bằng chứng mà tôi đã thu thập được. Đáng tiếc là những bằng chứng này không có chỗ để có thể đưa ra ở đây. Tôi chỉ có thể nói lên sự đồng tình của tôi: nó là quy luật có tính tổng quát cao. Tôi nhận thức được những nguyên nhân gây ra lỗi lầm, nhưng tôi hy vọng đã tính toán kỹ càng những lỗi lầm đó. Chúng ta nên hiểu là quy luật này không phải có thể áp dụng cho mọi bộ phận mà thường chỉ áp dụng cho bộ phận đã phát triển khi đem so sánh với bộ phận tưomg tự của loài họ hàng. Do đó, cánh của con dơi là một cấu trúc khác thường nhất trong lớp các loài động vật có vú; nhưng quy luật ở đây không áp dụng được; bởi vì có toàn bộ một nhóm doi có cánh. Quy luật chi đúng khi mà một loài dơi nào đó có cánh phát triển theo cách đặc biệt nếu đem so sánh với các loài khác cùng chi. Quy luật này rất đúng với trường hợp của các đặc điểm về giới thứ cấp, khi thể hiện ra trong bất cứ cách bất bình thường nào. Thuật ngữ, các đặc điểm về giới thứ cấp, được sử dụng bởi ông Hunter, áp dụng cho các đặc điểm gắn với một giới tính, nhưng không liên quan trực tiếp tới ảnh hưởng của sự sinh sản. Quy luật áp dụng được cho con đực và con cái; nhưng do con cái hiếm khi cho ra các đặc điểm về giới thứ cấp đáng chú ý, nên nó ít được áp dụng đối với chúng. Việc quy luật rất dễ dàng áp dụng được trong một số trường hợp về các đặc điểm về giới thứ cấp có lẽ là do tính biến đổi lớn của các đặc điểm này, dù có hay không thể hiện ra trong cách khác thường mà tôi ít nghi ngờ. Nhưng việc quy luật của chúng ta không bị giới hạn chỉ với các đặc điểm về giới thứ cấp được thể hiện rõ ràng trong trường hợp của loài chân tơ lưỡng tính; và nói thêm là tôi rất chú ý tới lời nhận xét của ông Waterhouse trong khi nghiên cứu nhóm này. Tôi đã đi đến kết luận chắc chắn rằng quy luật hoàn toàn đúng với loài chân tơ. Trong các tác phẩm tới, tôi sẽ đưa ra một bản danh sách các trường hợp đáng chú ý; ở đây xin đưa sơ qua một ví dụ minh họa bởi vì nó cho thấy tầm áp dụng rộng nhất có thể được của quy luật. Van tim có nắp của loài lông tơ không cuống (các con hàu đá), trong mọi nghĩa của từ, là cấu trúc rất quan trọng; và chúng cực kỳ ít khác nhau thậm chí trong các chi khác nhau; nhưng trong vài loài cùng một chi, Pyrgoma, những van này thể hiện sự đa dạng vô cùng: những van tương đồng trong các loài khác nhau đôi khi hoàn toàn có hình dạng khác biệt; và khối lượng biến đổi trong các cá thể của vài loài lớn tới mức mà không hề quá khi nói rằng các biến thể khác nhau nhiều trong các đặc điểm của những van tim quan trọng này hơn là các loài khác của các chi riêng rẽ. 
Do những con chim sổng ở một nước biến đổi ở mức độ cực nhỏ, tôi đã rất chú ý tới chúng và tôi cảm thấy quy luật cũng đúng với lớp này. Tôi không thể chứng minh nỏ cũng đúng với cây cối, và điều này sẽ làm lung lay nghiêm trọng niềm tin của tôi vào tính xác thực của quy luật nếu tính biến đổi lớn của cây không làm chúng ta gặp nhiều khó khăn để so sánh mức độ tương đối của tính biến đổi. 
Khi chúng ta nhìn thấy bất cứ phần hay cơ quan nào của bất kỳ loài nào phát triển theo cách hay mức độ đặc biệt đáng chú ý, một suy diễn tương đối đúng là nó rất quan trọng đối với loài đó; tuy vậy bộ phận đó trong trường hợp này là cỏ xu hướng chịu sự biến đổi. Tại sao lại là như vậy? Nếu dựa vào quan điểm mỗi loài được tạo ra một cách độc lập, với tất cả các bộ phận của chúng như chúng ta thấy hiện nay, tôi không thể tìm ra lời giải thích. Nhưng nếu dựa vào quan điểm các nhóm loài đã bắt nguồn từ các loài khác, và được sự lựa chọn của tự nhiên cải biến, tôi nghĩ chúng ta sẽ có một chút ánh sáng.
Đối với các con vật thuần chủng của chúng ta, nếu tất cả các phần hay toàn bộ con vật bị bỏ qua, và không sự lựa chọn nào được áp dụng, phần đó (ví dụ như mào của con gà Dorking) hay toàn bộ con giống sinh ra sẽ ngừng không có một đặc tính gần đồng bộ nữa. Con giống này sau đó sẽ có thể nói là bị thoái hóa. Trong các bộ phận thô sơ, và trong những bộ phận ít được chuyên môn hỏa vì bất cử lý do cụ thể nào, và có lẽ là trong nhóm đa hình dạng, chúng ta bắt gặp trường hợp tự nhiên gần như tương tự. Bởi vì đối với những trường hợp kiểu thế, sự lựa chọn của tự nhiên đã không và không thể gây tác động và do đó bộ phận này để cho tự do biến đổi. Nhưng ở đây điều mà chúng ta quan tâm hơn chính là trong các sản phẩm thuần hóa của chúng ta những điểm này, mà hiện nay đang thay đổi rất nhanh dưới tác động của sự lựa chọn liên tục, cũng rõ ràng chịu sự thay đổi. Hãy xem các con giống chim bồ câu: thật là một khối lượng khổng lồ các điểm sai khác trong mỏ của các con chim bồ câu nhào lộn khác biệt, trong mỏ và yếm thịt của các con chim bồ câu đưa thư, trong dáng đi và đuôi của chim bồ câu đuôi quạt... những điều này hiện đang thu hút sự chú ý của những người sưu tầm chim bồ câu nước Anh. Thậm chí là trong tiểu loài, như là trong giống chim bồ câu nhào lộn mặt ngắn, mọi người gặp nhiều khó khăn để nhân giống chúng gần đạt tới sự hoàn hảo, và thường thì những con chim được sinh ra có sự khác biệt lớn so với tiêu chuẩn. Chúng ta có thể nói chuẩn xác là đang có một cuộc đấu tranh liên tục diễn ra giữa, một bên, là xu hướng quay trở lại đặc điểm của các biến thể ít được chỉnh đổi, cũng như tất cả các xu hướng bẩm sinh tiến tới tính biến đổi xa hơn của mọi loại, và, với một bên, sức mạnh của sự lựa chọn thường xuyên để giữ giống thực sự. về dài hạn, sự lựa chọn sẽ là kẻ chiến thắng cuối cùng và chúng ta không trông đợi việc thất bại nhân giống một con chim có cấu trúc đơn giản như là một con chim nhào lộn thông thường từ một giống chim mặt ngắn tốt. Nhưng khi mà sự lựa chọn đang diễn ra nhanh chóng, người ta có thể luôn luôn trông đợi tính biến đổi lớn trong cấu trúc chịu sự thay đổi, gây ra bởi sự lựa chọn của con người, đôi khi gắn liền với một giới tính này hơn là giới tính kia, bởi những nguyên nhân mà chúng ta vẫn chưa biết tới, thường là với loài giống đực, như là yếm thịt của chim bồ câu đưa thư và diều phình to của chim bồ câu diều to. 
Bây giờ chúng ta hãy đến với tự nhiên. Khi một phần phát triển theo cách cực kỳ đặc biệt trong bất cứ loài nào, so với các loài khác thuộc cùng chi đó, chúng ta có thể kết luận là phần đó đã trải qua những biến đổi vô cùng lớn kể từ giai đoạn loài đó tách ra khỏi tổ tiên chung của chi đó. Giai đoạn này hiếm khi xa xôi xét trên bất cứ mức độ nào bởi vì loài rất ít khi tồn tại hơn một thời kỳ địa chất. Những biến đổi vô cùng lớn như thể ngụ ý tính biến thiên lớn lạ thường và liên tục trong thời gian dài, liên tục được sự lựa chọn của tự nhiên tích lũy vì lợi ích của loài. Nhưng do tính biến đổi của các phần hay bộ phận phát triển đặc biệt là vô cùng lớn và liên tục trong một then gian dài mà lại chỉ trong vòng giai đoạn không quá dài, như là quy luật chung, chúng ta có lẽ sẽ vẫn trông đợi tìm thay tính biến thiên lớn hem trong những phần như thế khi so sánh với các phần khác của tổ chức, những phần hầu như không thay đổi trong một giai đoạn dài hem. Và tôi tin đây đúng là như vậy. Tôi không thấy có lý do gì để nghi ngờ rằng cuộc đấu tranh giữa một bên là sự lựa chọn của tự nhiên với một bên là xu hướng quay trở lại và tính biến đổi theo thời gian sẽ ngừng lại; và rằng đa số các bộ phận phát ưiển khác thường cỏ thể bị giữ không biến đổi nữa. Vì vậy khi một bộ phận, cho dù bất bình thường, được di truyền lại trong điều kiện gần như nguyên trạng cho nhiều con cháu biến đổi, giống như trường hợp cánh của con dơi, theo như lý thuyết của tôi, nó phải đã tồn tại trong một giai đoạn cực kỳ dài trong tình trạng hầu như không đổi; và do đó nó không hề biến đổi nhiều hơn các cấu trúc khác. Chính là trong các trường hợp mà sự biến đổi khá gần đây và vô cùng lớn chúng ta phải tìm ra tỉnh biến đổi có thể sinh ra, như ta có thể gọi nó như vậy, hiện vẫn tồn tại ở mức độ cao. Bởi vì trong trường hợp này, tính biến đổi sẽ hiếm khi cho đến nay đã bị ấn định lại bởi sự lựa chọn liên tục của các cá thể biến đổi theo và mức độ cách đòi hỏi, và bởi sự loại bỏ liên tục những cá thể có xu hướng quay trở lại điều kiện trước đó và ít biến đổi. 
Nguyên lý được bao gồm trong các lời nhận xét này có thể được mở rộng. Mọi người đều biết những đặc tính cụ thể biến đổi nhiều hơn đặc tính chi. Tôi sẽ giải thích điều này bằng một ví dụ đơn giản. Nấu loài nào đó trong một chi lớn của cây có những bông hoa màu xanh và loài khác có hoa màu đỏ, màu sắc sẽ chỉ là đặc điểm riêng biệt và sẽ chẳng có ai ngạc nhiên nếu một cây hoa màu xanh chuyển hóa thành một cây hoa màu đỏ hoặc ngược lại; nhưng nếu toàn bộ loài có hoa màu xanh, thì đặc điểm đó sẽ là đặc điểm của loài, và sự biến đổi của nó sẽ trở thành điều kỳ lạ. Tôi sử dụng ví dụ này bởi vì sự giải thích cho trường hợp này là không thể ứng dụng. Hầu hết các nhà tự nhiên học đều công nhận đặc điểm riêng rẽ biến đổi nhiều hơn đặc điểm chi bởi vì chúng được lấy từ những phần kém quan trọng hơn về mặt chức năng cơ thể so với những chức năng mà thường được sử dụng để phân lớp các chi. Tôi tin là lời giải thích này đúng một phần, dù chỉ là gián tiếp. Tôi sẽ còn quay trở lại chủ để này trong chưomg về Phân loại. Chúng ta sẽ phí công nếu đưa ra bằng chứng để ủng hộ lời phát biểu trên: đặc điểm riêng rẽ biến đổi nhiều hơn đặc điểm loài. Nhưng tôi đã nhiều lần ghi chú trong các tác phẩm về lịch sử tự nhiên khi một tác giả ngạc nhiên nhận xét một bộ phận hay phần quan trọng nào đó, mà thông thường bất biến trong toàn bộ các nhóm lớn của loài, khác biệt đáng kể so với các loài họ hàng, tức là nó cũng đã biến đổi trong các cá thể của vài loài. Thực tế này cho thấy một đặc tính, thường mang giá trị loài, khi nó bị mất dần giá trị và trở thành đặc điểm riêng biệt, sẽ trở nên biến thiên, cho dù tầm quan trọng sinh lý vẫn như cũ. Một vài điều tương tự cũng có thể áp dụng cho các đặc tính quái dị; ít nhất thì ông Is. Geoffroy St Hilaire có vể như không nghi ngờ một bộ phần thông thường càng biến đổi trong các loài khác biệt của cùng một nhóm, thì nó càng chịu ảnh hưởng của những bất thường cá biệt. 
Dựa vào quan điểm thông thường là mỗi loài đã được tạo thành một cách riêng rẽ, tại sao phần đó của cấu trúc, khác so với phần tương tự của loài được sáng tạo động lập thuộc cùng chi lại biến đổi nhiều hơn những phần giống nhau trong vài loài? Tôi không thấy sự giải thích hợp lý nào có thể được đưa ra. Nhưng nếu dựa vào quan điểm loài chỉ là các biến thể nổi bật và cố định, chúng ta có thể chắc chắn tìm thấy chúng vẫn thường tiếp tục biến đổi các phần trong cấu trúc của chúng mà đã biến đổi trong vòng một giai đoạn khá gần đây, và do vậy mà tiến tới biến đổi. Hay phát biểu trường hợp này theo cách khác: những điểm mà tại đó tất cả các loài của một chi giống nhau, và tại đó chúng khác biệt so với loài của một chi nào đó, được gọi là đặc điểm của loài; và các đặc điểm chi chung này tôi cho là gây ra bởi chúng có cùng tổ tiên, bởi vì nó hiếm khi xảy ra sự lựa chọn của tự nhiên sẽ biến đổi vài loài, phù hợp ít nhiều với các thói quen khác biệt lớn, trong cách hoàn toàn tương tự: và những cái được gọi là đặc điểm chi đã được di truyền từ một giai đoạn cách biệt, kể từ giai đoạn đó khi loài lần đầu tiên tách ra khỏi tổ tiên chung, và sau đó không biến đổi hay tiến tới sự biến đổi ở bất cứ mức độ nào cho dù là nhỏ nhất. Khó có khả năng là chúng biến đổi như ngày nay. Mặt khác, những điểm loài này sai lệch với loài khác thuộc cùng chi được gọi là các đặc điểm cá biệt; và do những đặc điểm cá biệt đã biến đổi và tiến tới biến đổi trong vòng giai đoạn của sự tách nhánh của loài từ tổ tiên chung, chúng có thể vẫn còn biến đổi ở mức độ nào đó -ít nhất là biến thiên hem so với các phần của tổ chức mà trong một giai đoạn rất dài không biến đổi. 
Trong mối quan hệ với chủ đề hiện tại, tôi chỉ đưa ra hai nhận xét nữa. Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải thừa nhận, không cần tôi đi vào chi tiết giải thích, rằng các đặc điểm giới tính thứ cấp là mang tính biến thiên cao; và cũng phải thừa nhận loài của cùng nhóm khác nhau lớn hơn trong các đặc điểm giới tính thứ cấp hem là các phần khác của tổ chức của chúng; ví dụ đem so sánh khối lượng khác nhau giữa các con giống đực ở bộ gà, mà trong chúng các đặc điểm giới tính thứ cấp được biểu hiện rất rõ, với khối lượng khác nhau của con giống cái và tính xác thực của quan niệm này sẽ được chứng minh. Nguyên nhân của tính biến đổi ban đầu là không hề hiển hiện, nhưng chúng ta có thể thấy tại sao những đặc điểm này không bị cố định lại giống như các phần khác của tổ chức; vì các đặc điểm giới tính thứ cấp đã được tích tụ bởi sự lựa chọn về giới tính ít cứng nhắc hơn trong ảnh hưởng của nó so với sự lựa chọn thông thường, vì nó không bắt buộc phải mang lại cái chết. Cho dù nguyên nhân nào đi chăng nữa gây ra tính biến đổi của các đặc điểm giới tính thứ cấp, như chúng biến đổi mạnh mẽ, sự lựa chọn giao phối sẽ có tầm ảnh hưởng rộng lớn, và nhờ đó có thể đã sẵn sàng thành công trong việc ban cho loài thuộc cùng nhóm một khối lượng khác biệt lớn hơn trong các đặc điểm giới tính thứ cấp khi so với các phần khác của cấu trúc. 
Một thực tế đáng chú ý là các đặc điểm giới tính thứ cấp giữa hai giới tính của cùng loài thường được thể hiện ra trong các phần giống nhau của tổ chức mà trong đó những loài khác biệt thuộc một chi khác nhau. Tôi xin đưa ra hai ví dụ minh họa cho thực tế này. Ví dụ đầu tiên mà tôi vô tình thu thập được; và do những điểm sai khác trong các trường hợp này là rất khác thường, nên mối quan hệ khó có thể là ngẫu nhiên, số lượng tưomg tự các đốt xưomg trong tụ cốt cổ chân là đặc điểm chung của những nhóm rất lớn của con gián, nhưng trong con Engidae, như ông Westwood đã quan sát, số đốt biếấn động lớn, và số đốt tưomg tự khác biệt trong hai giới tính của cùng loài: một lần nữa trong loài động vật Hymenoptera hay đào bới, cấu tạo cánh là một đặc điểm quan trọng nhất bởi vì nó là đặc điểm chung của những nhóm lớn, nhưng ở những chi nhất định, cấu tạo này khác biệt trong các loài khác biệt; và tưomg tự vậy trong hai giới tính của một loài. Mối quan hệ này có ý nghĩa rõ ràng xét trên quan điểm của tôi về chủ đề này. Tôi quan sát tất cả loài của cùng một chi rố rằng bắt nguồn từ cùng tổ tiên, giống như hai giới tính của bất cứ loài nào. Kết quả là, bất cứ phần nào của cấu trúc của loài tổ tiên chung, hoặc là của con cháu sinh sớm hơn, trở nên biến đổi, những sự thay đổi của phần này sẽ, rất có khả năng là như thế, là những lợi thế mang lại bởi sự lựa chọn của tự nhiên và của giới tính, nhằm làm thích nghi loài với nơi ở của chúng trong thế giới tự nhiên, và tương tự vậy giúp hai giới tính của cùng loài thích nghi với nhau và làm cho con đực và con cái có thói quen riêng , và các con đực cạnh tranh với nhau để làm chủ con cái. 
Cuối cùng, tôi kết luận tính biến đổi lớn hơn của các đặc điểm cụ thể hay những đặc điểm phân biệt loài này với loài khác so với đặc điểm chi, hay những đặc điểm mà các loài đều có; rằng tính biến đổi thường xuyên nhất của bất cứ phần nào được phát triển hết sức đặc biệt trong một loài khi đem so sánh với phần tương tự của đồng loại; và mức độ không lớn của tính biến đổi trong một phần; cho dù nó có thể biến đổi đặc biệt như thế nào đi chăng nữa, nếu đặc điểm này là chung cho cả nhóm loài; rằng tính biến đổi lớn của các đặc điểm giới tính thứ cấp, và khối lượng khác nhau khổng lồ trong cùng đặc điểm giữ các loài họ hàng gần gũi; rằng các khác biệt giới tính thứ cấp và cụ thể thông thường thường biểu hiện ở trên cùng bộ phận của tổ chức - tất cả các nguyên lý này đều có mối liên quan với nhau.
Tất cả đều chủ yếu là do các loài của cùng một nhóm là con cháu chung của một loài tổ tiên, mà chúng được di truyền nhiều đặc điểm giống nhau; những phần gần đây biến đổi nhiều thì sẽ tiếp tục biến đổi hơn là các phần đã được di truyền từ lâu và đã không biến đổi nữa; sự lựa chọn của thiên nhiên, theo quỹ đạo thời gian, ít nhiều hoàn toàn thắng thế trước xu hướng quay trở lại và trước tính biến đổi xa hơn; sự lựa chọn giao phối ít cứng nhắc hơn sự lựa chọn thông thường; và những biến đổi trong cùng bộ phận đã được sự lựa chọn của tự nhiên và sự lựa chọn giao phối tích tụ và do đó thích nghi với giới tính thứ cấp, và với mục đích cụ thể thông thường.
Những loài khác nhau cho thấy những biến đổi tương đồng; và một biến thể của một loài thường được thừa hưởng vài đặc điểm của loài họ hàng hay quay trở về các đặc điểm của tổ tiên - Những nhận xét này đúng với hầu hết các giống thuần chủng của chúng ta. Những giống chim bồ câu khác biệt nhất, trong những nước xa nhau nhất, thể hiện tiểu biến thể với bộ lông vũ ngược trên đỉnh đầu và lông ở chân- Các đặc điểm mà không hề có ở loài chim bồ câu núi nguyên thuỷ; chúng sau này là những biến đổi tương đồng trong hai hay nhiều giống khác biệt. Sự xuất hiện thường xuyên của mười bốn thậm chí là mười sáu đôi lông vũ ở con chim bồ câu diều to, có thể được coi là một sự thay đổi bình thường ở giống khác, những con chim bồ câu đuôi quạt. Tôi mặc định không ai sẽ nghi ngờ tất cả các biến đổi tưcmg đồng dạng đó là do vài giống chim bồ câu đã được di truyền từ một cha mẹ chung cùng thể trạng cùng xu hướng biến đổi khi bị tác động bởi những nhân tố giống nhau chưa được biết tới. Trong vưcmg quốc các loài thực vật, chúng ta có một trường hợp của biến đổi tương đồng, trong các cuống phát triển hay rễ cây, như vẫn thường được gọi, của tumip Thụy Sĩ và Ruta baga, những cây mà một số nhà thực vật học xếp chúng vào dạng các biến thể được tạo ra từ một cha mẹ chung: nếu không phải là như vậy, thì trường hợp sẽ được coi là một trong những biến đổi tương đồng của hai loài được gọi là riêng biệt; và loài thứ ba có thể được thêm vào chúng, đó là, cây củ cải phổ biến. Nếu theo quan điểm phổ thông là các loài được tạo ra một cách độc lập, chúng ta sẽ phải coi tính tương đồng trong các cuống phát triển của ba loài cây, không phải gây ra bởi vera causa của cộng đồng các con cháu, và một xu hướng hệ quả biến đổi theo cách tương tự, mà gây ra bởi ba sự sáng tạo riêng rẽ nhưng lại quan hệ chặt chẽ với nhau. 
Tuy nhiên, đối với các con chim bồ câu, chúng ta có một trường hợp khác, đó là sự xuất hiện không thường xuyên của tất cả các giống của chim màu xanh đá hoa acđoa với hai sọc đen trên cánh, phao câu trắng, một kẻ sọc ở phần cuối của đuôi với lông bên ngoài màu trắng. Vì tất cả các dấu hiệu này là đặc điểm của cha mẹ bồ câu núi, tôi mặc định không ai nghi ngờ đây là trường hợp của sự quay trở lại đặc điểm tổ tiên, và không có sự biến đổi tương đồng mới xuất hiện trong vài giống này. Chúng ta có thể nghĩ tôi tự tin đi đến kết luận này, bởi vì như chúng ta đã thấy, những dấu hiệu màu sắc đó rất hay xuất hiện rõ ràng ở những con chim lai của hai giống có màu sắc riêng biệt; trong trường hợp này, môi trường sống bên ngoài không hề gây ra tác động tới sự tái xuất hiện màu xanh đá hoa acđoa, với một vài điểm, trên cả ảnh hưởng của tác động lai ghép tới các quy luật di truyền. 
Một điều chắc chắn sẽ làm mọi người ngạc nhiên là các đặc điểm sẽ xuất hiện trở lại sau nhiều năm biến mất, có lẽ là tới hàng trăm thế hệ. Nhưng khi một giống đã được dù chỉ một lần lai ghép với giống khác, đứa con đôi khi có xu hướng, trong đặc điểm, quay trở lại đặc điểm của loài lai ghép sau nhiều thế hệ - có người nói là mười hai thế hệ, thậm chí là nhiều hơn nữa. Sau mười hai thế hệ, tỷ lệ máu, sừ dụng như là một thuật ngữ chung, của bất cứ con chim gốc nào, chỉ là 1 trong 2048; như chúng ta thấy mọi người nhìn chung đều tin xu hướng quay trở lại được chính tỷ lệ máu nhỏ ngoại lai này duy trì. Trong một giống không bị lai, nhưng cả cha mẹ nó đều bị mất đi vài đặc điểm nhất định nào đó của cá thể gốc, xu hướng, dù manh hay yếu, quay trở lại đặc điểm đã mất đó có thể (khả năng xảy ra là rất bé), như chúng ta trước đó đã nhận xét, rằng chúng ta có thể nhìn thấy điều ngược lại, được truyền lại cho hầu hết bất cứ số lượng nào của các thế hệ. Khi một đặc điểm không xuất hiện ở một con giống nhưng lại xuất hiện trở lại sau rất nhiều thế hệ, giả thuyết có khả năng xảy ra nhất, không phải là con coấn đột nhiên giống với tổ tiên cách đó hàng ưăm thế hệ, mà trong mỗi thế hệ kế tiếp nhau, xu hướng sản sinh các đặc điểm đang bị nghi ngờ đó trong điều kiện thuận lợi chưa được biết tới cuối cùng chiếm được vị trí quyền lực. Ví dụ, trong mỗi thế hệ chim bồ câu có lông tơ, những con mà hiếm khi sinh ra chim bồ câu màu xanh và có sọc đen, trong mỗi thế hệ có một xu hướng ở bộ lông chim khoác lên mình màu đó. Quan điểm này mang tính giả thiết, nhưng có thể được một số thực tế ủng hộ; và tôi không thấy tính không thể trừu tượng trong xu hướng sản sinh ra bất cứ đặc điểm nào được kế thừa trong vô số các thế hệ hơn là trong các bộ phận thô sơ hay vô dụng, như chúng ta đều biết chúng là như thế, do đó, được di truyền lại. Thật vậy, đôi khi chúng ta chỉ thấy một xu hướng sản sinh ra bộ phận hoặc cơ quan đơn giản được di truyền lại: ví dụ trong cây hoa mõm chó thông thường (Antirrhinum) nhị hoa thứ năm có cấu trúc thô sơ thường hay xuất hiện nhiều tới mức mà cây này chảc chắn đã phải có một xu hướng truyền lại để tạo ra nó. 
Theo như lý thuyết của tôi, do tất cả các loài thuộc cùng một chi được giả định là con cháu chung bố mẹ, chúng ta có thể trông đợi chúng thỉnh thoảng biến đổi theo cách tương tự nhau: sao cho một biến thể của một loài cỏ thể giống với, trong một vài đặc điểm, loài khác; loài này theo quan điểm của tôi chỉ là một biến thể nổi bật và thường xuyên. Những đặc điểm nhờ đó có được có thể là không quan trọng bởi vì tất cả sự xuất hiện của các đặc điểm quan trọng sự chịu sự điều chỉnh của quá trình lựa chọn của tự nhiên, tuân theo tính cách đa dạng của các loài, và sẽ không bị để mặc cho tác động chung của điều kiện sống và của một thể trạng tương tự được kế thừa. Nó có thể được giải thích rõ hơn là các loài trong cùng chi một lúc nào đó sẽ thể hiện xu hướng quay trở lại đặc điểm đã mất của tổ tiên. Tuy nhiên vì chúng ta không bao giờ biết chính xác đặc điểm chung của loài tổ tiên của một nhóm, chúng ta không thể phân biệt được hai trường hợp này; chẳng hạn như nếu chúng ta không biết rằng loài chim bồ câu núi không có lông ở chân hay hay lông cong trên đỉnh đầu, chúng ta đã sẽ không thể nói liệu những đặc hơn là trong các bộ phận thô sơ hay vô dụng, như chúng ta đều biết chúng là như thế, do đó, được di truyền lại. Thật vậy, đôi khi chúng ta chỉ thấy một xu hướng sản sinh ra bộ phận hoặc cơ quan đơn giản được di truyền lại: ví dụ trong cây hoa mõm chó thông thường (Antirrhinum) nhị hoa thứ năm có cấu trúc thô sơ thường hay xuất hiện nhiều tới mức mà cây này chắc chắn đã phải có một xu hướng truyền lại để tạo ra nó. 
Theo như lý thuyết của tôi, do tất cả các loài thuộc cùng một chi được giả định là con cháu chung bố mẹ, chúng ta có thể trông đợi chúng thỉnh thoảng biến đổi theo cách tương tự nhau: sao cho một biến thể của một loài có thể giống với, ứong một vài đặc điểm, loài khác; loài này theo quan điểm của tôi chỉ là một biến thể nổi bật và thường xuyên. Những đặc điểm nhờ đó có được có thể là không quan trọng bởi vì tất cả sự xuất hiện của các đặc điểm quan trọng sự chịu sự điều chỉnh của quá trình lựa chọn của tự nhiên, tuân theo tính cách đa dạng của các loài, và sẽ không bị để mặc cho tác động chung của điều kiện sống và của một thể trạng tương tự được kế thừa. Nó có thể được giải thích rõ hơn là các loài trong cùng chi một lúc nào đó sẽ thể hiện xu hướng quay trở lại đặc điểm đã mất của tổ tiên. Tuy nhiên vì chúng ta không bao giờ biết chính xác đặc điểm chung của loài tổ tiên của một nhóm, chúng ta không thể phân biệt được hai trường hợp này; chẳng hạn như nếu chúng ta không biết rằng loài chim bồ câu núi không có lông ở chân hay hay lông cong trên đỉnh đầu, chúng ta đã sẽ không thể nói liệu những đặc điểm trên các con giống thuần hóa của chúng ta là những đặc điểm lặp lại hay chi là sự biến đổi tương đồng; nhưng chúng ta đã có thể suy luận màu xanh chính là trường hợp của sự quay trở lại, dựa trên số lượng các dấu hiệu có mối liên hệ với màu xanh, và cái mà nó không xuất hiện, tất cả có thể xuất hiện cùng nhau từ biến đổi đơn giản. Hơn nữa, chúng ta có thể đã suy luận ra, dựa trên màu xanh và dấu hiệu rất hay xuất hiện khi những con giống riêng rẽ có màu sắc đa dạng được lai với nhau. Với lý do này, mặc dù trong trường hợp của tự nhiên chúng ta không thể chứng tỏ rõ ràng trường hợp nào là sự quay trở lại các đặc điểm đã mất của tổ tiên, và trường hợp nào là những biến đổi mới những tương đồng, song theo lý thuyết của tôi, chúng ta sẽ phải đôi khi tìm ra đứa con biến đổi của một loài có đặc điểm (hoặc là từ sự quay trở lại hoặc là từ những biến đổi tương đồng) đã xuất hiện trong một số thành viên cùng nhóm. Và điều này không thể bị nghi ngờ là đã tồn tại trong tự nhiên.
Một phần đáng kể khó khăn trong việc nhận ra một loài thay đổi trong hệ thống các tác phẩm của chúng ta là do các biến thể của nó giống với một số biến thể của loài khác cùng chi. Một danh sách khá dài cũng có thể đưa ra về các dạng thức trung gian giữa hai dạng thức khác nhau mà bản thân chúng, đáng nghi ngờ, được xếp vào hoặc là loài hoặc là biến thể; và điều này, trừ khi tất cả chúng thực sự là các loài được tạo ra một cách độc lập, cho thấy rằng con đang biến đổi đã có những đặc điểm nào đó của con khác để sau đó tạo ra dạng thức trung gian. Những phần hay bộ phận của một đặc điểm đồng nhất và quan trọng đối khi biến đổi để thu được, ở mức độ nào đó, đặc điểm của cùng bộ phận hay cơ quan giống thế trong một loài họ hàng, cung cấp cho chúng ta bằng chứng tốt nhất. Tôi đã thu thập được một danh sách dài của những trường hợp như vậy; và cũng như trước đó, ở đây tôi không thể đưa danh sách này ra được. Tôi chỉ có thể nhắc lại là những trường hợp như thế chắc chắn đã xuất hiện và đối với tôi là rất rõ ràng. 
Tuy thế tôi vẫn sẽ đưa ra một trường hợp đầy tò mò và phức tạp, không hẳn như tác động một đặc điểm quan trọng, nhưng dựa trên việc xuất hiện ở một vài loài thuộc cùng chi, một phần trong điều kiện thuần hóa, một phần trong tự nhiên. Nó, không thể chối cãi được, là trường hợp của sự quay trở lại. Con lừa thường có những sọc ngang nổi bật trên chân của nó, giống như những sọc trên chân của con ngựa vàn: mọi người khẳng định rằng chúng là rõ rệt nhất ở con lừa con, và dựa trên những nghiên cứu tôi đã tiến hành, tôi tin điều khẳng định này là đúng. Người ta cũng xác nhận sọc vàn trên vai đôi khi trở thành hai. Sọc vàn trên vai chắc chắn sẽ biến đổi trong chiều dài và hình dạng của nó. Một con lừa trắng, không phải do bạch tạng được miêu tả hoặc là không có xương sống hoặc không có sọc ngang trên vai; và những sọc này đôi khi rất mờ nhạt, hoặc hoàn toàn biến mất, ở những con lừa màu đen. Người ta nói là đã nhìn thấy con koulan của vùng Pallas có sọc vai đôi. Con hemionus không có sọc vai; nhưng có dấu tích của nó, như ông Blyth và những người khác miêu tả, đôi khi xuất hiện và tôi đã được đại tá Poole cho biết những con lừa con của loài này thường có sọc ở chân và sọc mờ trên vai. Con lừa vằn, cho dù rất rõ ràng có những sọc giống như loài ngựa vằn, lại không có sọc ở chân; nhưng tiến sĩ Gray đã tìm thấy một loài có sọc vàn rõ rệt trên khuỷu chân sau.
Nói về loài ngựa, tôi đã thu thập được những trường hợp của các sọc vằn ở nước Anh trong các con ngựa giống khác biệt nhất, và của tất cả màu sắc; những sọc ngang ở trên chân không phải là hiếm ở những con ngựa nâu xám, ngựa bé nâu xám, và trong một vị dụ ở cây hạt dẻ; sọc vai mờ đôi khi dược tìm thấy ở những con ngựa nâu xám; và tôi nhận ra một vết tícíì trong ngựa hồng. Con trai tôi đã kiểm tra kỹ càng và miêu tả cho tôi về một con ngựa kéo xe nâu xám của nước Bỉ có một sọc đôi và các sọc ở chân; và một người, mà tôi có thể hoàn toàn tin tưởng, đã xem xét một con ngựa nâu xám Welch có ba sọc ngắn song song trên mỗi vai. 
Ở vùng tây bắc Ấn Độ, giống ngựa Kattywar nói thường hay có các sọc đến nỗi mà, như tôi nghe từ đại tá Poole, người đã kiểm tra ngựa giống cho chính phủ Ấn Độ, một con ngựa không có các sọc thì không được coi là ngựa lai thuần chủng. Lưng luôn có sọc vằn, chân có sọc dọc; và sọc vai đôi khi là sọc đôi nhưng cũng có khi là sọc ba, là hiện tượng bình thường, phổ biến; hơn thế nữa, phần bên mặt của chúng cũng đôi khi có sọc kẻ. Những sọc này hiện rõ nhất ở các con ngựa con và có khi lại hoàn toàn biến mất ở những con ngựa già. Đại tá Poole đã nhìn thấy cả ngựa Kattywar màu xám và hồng có kẻ sọc khi mới chào đời. Tôi cũng có lý do để nghi ngờ, dựa trên những thông tin ông w. w. Edwards cung cấp cho tôi, là với loài ngựa đua nước Anh, những vệt vằn trên lưng thường hay xuất hiện trên ngựa con hơn là trên ngựa đã hoàn toàn trưởng thành. Ở đây, không cần đi vào chi tiết hơn nữa, tôi có thể phát biểu rằng tôi đã thu thập được các thực tế chứng minh sự tồn tại những sọc vằn trên vai và chân của các giống ngựa rất khác biệt, tại nhiều nước từ nước Anh cho tới phía đông Trung Quốc; từ Na-Uy ở phía bắc cho tới quần đảo Malay ở phía Nam. Ở mọi nơi trên thế giới, những sọc này hay xuẩt hiện nhất ở những con ngựa nâu xám và con ngựa nhỏ nâu xám; khi dùng từ nâu xám là một dải các màu sắc đã được bao gồm, từ màu nâu và đen tới màu kem. 
Tôi nhận thức rằng đại tá Hamilton Smith, người đã viết về chủ đề này tin rằng vài con ngựa giống bắt nguồn vài loài nguyên thủy, một trong số đó, loài ngựa nâu xám có sọc vằn; và rằng những đặc điểm miểu tả ở trên tất cả đều là do những lai ghép từ xa xưa với giống nâu xám. Nhưng tôi không hoàn toàn thỏa mãn với lý thuyết này và không cảm thấy yên tâm khi áp dụng nguyên lý này vào các giống khác biệt, chẳng hạn như giống ngựa kéo xe Bi, ngựa con Welch, ngựa khỏe chân ngắn, ngựa đua cao Kattywar... sống ở những nơi xa nhau nhất trên thế giới. 
Bây giờ chúng ta hãy xem đến ảnh hưởng của sự lai giống giữa vài loài thuộc chi ngựa. Ồng Rollin khẳng định rằng con la thông thường lai từ lừa và ngựa đặc biệt hay có các vệt sọc trên chân của nó. Tôi đã có lần nói một con la với chân có nhiều vệt sọc đến mức mà bất kỳ người nào ban đầu cũng sẽ nghĩ nó phải là con của một con ngựa vằn; và ông w. c. Martin, trong các bài viết tuyệt vời của ông về ngựa, đã miêu tả hình dáng tương tự như một con la. Trong bốn bức tranh màu, mà tôi đã được xem, về con vật lai giữa lừa và ngựa vằn, cái chân có vạch sọc rõ ràng hơn là trên phần còn lại của cơ thể; và một trong số chúng có một vạch đôi. Trong con lai nổi tiếng của bá tước Moreton, lai từ con ngựa cái màu hạt dẻ với con lừa vàn đực, ngựa con lai, thậm chí là ngựa con thuần chủng sau đó sinh ra từ một con ngựa cái với con ngựa đen giống đực Arập, có sọc còn rõ hơn ở chân so với con lừa vằn thuần chủng. Cuối cùng, đây là một trường hợp đáng chú ý nhất khác, một con lai đã được tiến sĩ Gray miêu tả (và ông đã nói cho tôi biết rằng ông biêtý một trường hợp thứ hai) lai từ một con lừa và một con hemionus; và mặc dù con lừa hiếm khi có sọc ở chân và con hemionus không có và thậm chí không có một sọc nào, thế mà con lai này đều cỏ sọc ở bốn chân và ba sọc ngắn ở vai giống như trên con ngựa con nâu xám Welch, và thậm chí có những sọc giống như sọc của ngựa vằn ở hai bên mặt. Với thực tế cuối cùng này, tôi bị thuyết phục rằng không một sọc màu nào xuất hiện từ cái thường được gọi là sự ngẫu nhiên, rằng với sự xuất hiện của những sọc trên mặt con vật lai này từ lừa và hemionus, tôi buộc phải hỏi đại tá Poople liệu những sọc trên mặt như vậy có bao giờ xuất hiện trong những giống ngựa Kattywar và câu trả lời là có. 
Bây giờ chúng phải nói gì trước các thực tế này? Chúng ta thấy vài giống ngựa cực kỳ khác biệt trong chi họ ngựa, thông qua những thay đổi đơn giản, có những vạch ở chân giống như ngựa vằn hay có vạch ở trên vai giống như con lừa. Trong loài ngựa chúng ta thấy xu hướng này khỏe khi màu nâu xuất hiện và một sắc màu tiến tới màu của gam màu chung của các loài khác trong họ đó. Sự xuất hiện của các sọc không đi kèm với bất cứ thay đổi nào của dạng thức hay với bất cứ đặc điểm mới nào. Chúng ta thấy xu hướng xuất hiện sọc được thể hiện mạnh mẽ nhất ở những con lai giữa vài loài của các loài khác nhau nhất. Bây giờ chúng ta hãy xem xét trường hợp của vào con chim bồ câu giống; chúng là con cháu của một con bồ câu (bao gồm hai hay ba tiểu loài hay loài theo khu vực địa lý) có màu xanh với những sọc rõ ràng và các dấu hiệu khác; và khi bất kỳ con giống nào, thông qua sự thay đổi đơn giản có sắc màu xanh đó, những sọc dọc này và các dấu hiệu khác chắc chắn sẽ xuất hiện lại; nhưng không có bất cứ thay đổi nào khác của hình thức hay đặc điểm. Khi những con giống lâu đời nhất và đạt tiêu chuẩn nhất có nhiều màu sắc khác nhau được lai ghép, chúng ta thấy một xu hướng mạnh mẽ cho sắc màu xanh và có sọc và các dấu hiệu tái xuất hiện ở các con lai. Tôi đã phát biểu rằng giả thiết dễ có khả năng xảy ra nhất để giải thích cho sự tái xuất hiện các đặc điểm từ rất xa xưa rồi là - có một xu hướng trong các con nhỏ của mỗi thế hệ kế tạo lại các đặc điểm đã bị mất từ lâu, và rằng xu hướng, nguyên nhân vẫn chưa được biết tới, đôi khi thắng thế. Và chúng ta đã thấy trong một vài loài ngựa cùng họ, những sọc vằn hoặc là rõ hơn hoặc là hay xuất hơn trong các con bé hơn là trong các con già. Chúng ta hãy nhớ lại các con chim bồ câu giống, một số con đã tạo ra trong nhiều thế kỷ loài thực sự; và một trường hợp không sai khác tý gì của loài họ ngựa! Đối với bản thân tôi, tôi dám tin tưởng nhìn lại hằng nghìn, hằng nghìn thế hệ trước, và tôi thấy một con vật có sọc giống như ngựa vàn nhưng có lẽ nếu không phải thế thì có cấu trúc rất khác biệt, cha mẹ chung của các con ngựa thuần hóa của chúng ta liệu có đúng hay không, chúng bắt nguồn từ loài nguyên thủy, của con lừa, con hemionus, con lừa vằn và con ngựa vằn. 
Ai mà tin rằng mỗi loài được tạo ra riêng biệt sẽ, tôi đoán là như vậy, khẳng định rằng mỗi loài đã được tạo ra với xu hướng để biến đổi, cả trong điều kiện tự nhiên và trong điều kiện thuần dưỡng, theo cách đặc biệt này, khiến cho chúng có sọc giống như các loài khác thuộc cùng họ; và rằng mỗi loài đã được tạo ra với một xu hướng mạnh, khi lai ghép với các loài sinh sống ở vùng đất xa xôi trên trái đất, để sản sinh ra những con giống, trong các sọc vằn, không phải với cha mẹ chúng mà với các loài khác cùng họ. Đe chấp nhận quan điểm này, như đối với tôi, là để loại bỏ đi một nguyên nhân thực mà không thực hay ít nhất vẫn chưa được biết đến. Nó làm cho các tác phẩm của Chúa chỉ là những sự bắt chước và lừa đảo; tôi suýt tý nữa tin cùng với những người theo nguồn gốc vũ trụ rằng các thân sò hóa thạch không bao giờ sống nhưng đã được tạo ra trong đá và bắt chước thân sò bây giờ đang sống trên bờ biển.
Tổng kết - Sự hiểu biết của chúng ta về các quy luật biến đổi là rất ít. Không chỉ trong một trường hợp mà trong hàng trăm trường hợp chúng ta có thể cố tình gán ghép lý do tại sao phần này hay phần kia biến đổi ít hơn hoặc nhiều hơn so với phần tương tự của bố mẹ. Nhưng mỗi khi chíng ta có phương cách để so sánh, các quy luật tương tự dường như đã có tác động trong việc tạo ra các khác biệt nhỏ hơn giữa các biến thể của cùng loài, và các điểm khác biệt lớn hơn giữa các loài cùng chi. Điều kiện sống bên ngoài, chẳng hạn như khí hậu và thức ăn... có vẻ như đã gây ra những hiệu chỉnh nhỏ. Thói quen trong việc tạo ra các sai khác thể trạng và sự sử dụng làm mạnh thêm và sự không sử dụng làm yếu đi các phần hay bộ phận, có vẻ như có ảnh hưởng quan trọng hơn. Các phần tương ứng nhau có xu hướng biến đổi theo cách tương tự nhau và chúng có xu hướng tụ hợp lại. Các điểm chỉnh đổi của những phần cứng và trong các phần bên ngoài đôi khi ảnh hưởng đến các phần mềm hơn và ở bên trong. Khi một phần phát triển mạnh có lẽ nó có xu hướng hút các chất dinh dưỡng từ các phần dính với nó; và mọi bộ phận của cấu trúc mà có thể được giữ lại mà không gây ra sự diệt vong của cá thể sẽ được giữ lại. Những thay đổi của cấu trúc tại giai đoạn phát triển ban đầu sẽ thông thường ảnh hưởng tới các phần được phát triển kết tiếp và có rất nhiều mối quan hệ tăng trưởng khác trong tự nhiên mà chúng ta không thể hiểu hết hoàn toàn.
Các bộ phận phức tạp biến đổi trong số lượng và trong cấu trúc, có lẽ nổi lên từ các bộ phận đã không được chuyên môn hóa để thực hiện một chức năng cụ thể khiến cho các biến đổi của chúng bị sự lựa chọn của tự nhiên kiểm soát chặt chẽ. Có lẽ là cũng do cùng nguyên nhân này các cơ thể sống bé có cấu tạo đơn giản trong tự nhiên biến đổi nhiều hơn là những cơ thể sống mà toàn bộ cơ quan tổ chức của chúng đã được chuyên môn hóa cao hơn, và có cấu trúc phức tạp hơn. Những bộ phận thô sơ, do không được sử dụng sẽ bị sự lựa chọn của thiên nhiên bỏ qua, và do đó có lẽ biến đổi. Những đặc điểm riêng biệt - tức là những đặc điểm trở nên khác nhau kể từ khi vài loài thuộc cùng một chi bắt đầu tách ra từ cha mẹ chung - là biến đổi nhiều hơn các đặc điểm chi hay những đặc điểm mà đã được di truyền lại từ lâu, và không thay đổi trong cùng giai đoạn đó. Trong các nhận định này, chúng tôi muốn nói đến các bộ phận hay phần đặc biệt vẫn còn đang biến đổi bởi vì chúng gần đây mới biến đổi và do đó trở nên khác nhau nhưng như chúng ta cũng đã thấy ở chương hai là chính nguyên lý đó áp dụng cho tất cả các cá thể; bỏi vì ở một nơi mà nhiều loài thuộc cùng một chi được tìm thấy - tức là nơi mà có số lượng các nhiều biến đổi và sự khác biệt trước đó, hay là nơi mà sự sản xuất ra các dạng thức cụ thể mới vẫn đang tiếp tục hoạt động hiệu quả - thì trung bình chúng ta tìm ra các biến thể hay loài mới hình thành nhiều nhất.
Các đặc điểm giới tính thứ cấp cấp tính biến đổi cao và những đặc điểm như vậy biến đổi nhiều trong các loài cùng nhóm. Tính biến đổi trong các phần giống nhau của tổ chức thường là đã được sử dụng đến trong việc tạo ra các đặc điểm khác biệt giới tính thứ cấp giữa giống đực và giống cái của cùng loài, và các điểm khác biệt cụ thể cho vài loài thuộc cùng họ. Bất cứ phần hay bộ phận nào phát triển tới mức độ hay cách kỳ lạ so với các phần hay bộ phận tưomg tự của các loài họ hàng, thì chắc chắn đã phải trải qua những chỉnh sửa vô cùng lớn kể từ khi chi đó xuất hiện; và do đó chúng ta có thể hiểu tại sao nó thường biến đổi ở mức độ cao hơn so với các phần khác bởi vì biến đổi là quá trình liên tục, lâu dài và chậm chạp và sự lựa chọn của tự nhiên trong những trường hợp như thế cho tới nay sẽ chưa thể vượt trội hơn xu hướng tiến tới tính biến đổi lớn hơn nữa và quay trở lại tình trạng ít biến đổi hơn. Nhưng khi một loài với bất kỳ con cháu biến đổi dị thường nào - mà theo quan điểm của tôi phải là một quá trình liên tục, lâu dài và chậm chạp, đòi hỏi thời gian dài - trong trường hợp đó, sự lựa chọn của tự nhiên có thể đã sẵn sàng lúc nào cũng thành công trong việc tạo ra nhưng đặc điểm cố định cho một bộ phận, dù trong cách vô cùng đặc biệt mà nó có thể phát triển. Những loài thừa hưởng một thể trạng gần như giống nhau của loài khác từ cùng chung một cha mẹ và chịu tác động của những ảnh hưởng tương tự nhau một cách tự nhiên sẽ thể hiện các biến đối tương đồng, những loài giống nhau này có thể đôi khi quay trở lại các đặc điểm của tổ tiên. Mặc dù những chỉnh sửa mới và quan trọng có thể không xuất hiện từ việc quay trở lại và biến đổi tương đồng, những chỉnh sửa đó sẽ thêm vào tính đa dạng cân xứng và tuyệt đẹp của tự nhiên. 
Cho dù nguyên nhân của sự khác biệt nhỏ có thể là gì đi chăng nữa trong đứa con so với cha mẹ - và một nguyên nhân cho mỗi con phải tồn tại - chính là sự tích tụ đều đặn, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, những biến đổi như thế, khi có lợi cho cá thể, mang đến tất cả các biến đổi quan trọng của cấu trúc mà nhờ đó vô số các cơ thể sống trên bề mặt trái đất có thể tranh đấu với nhau và những cơ thể sống thích nghi tốt nhất sẽ sống sót.
CHARLES DARWIN
Ngọc Linh dịch 
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh 
"The origin of species" Darwin, London 1933
Theo http://darwin-online.org.uk/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...