Xin đừng nghĩ đó là một tên tuổi lẫy lừng, một “ngọn núi” hay một nhân vật từng ngồi “ghế” cao trong làng văn nghệ. Ngược lại, ông chỉ là một người bình thường, hầu như chưa giữ chức vụ gì ngoài danh vị “hội viên”. Vậy mà một năm nay vắng ông, “sân” văn nghệ Huế hiện ra một khoảng trống không ai thay thế được.
Không phải bây giờ tôi mới cảm thấy điều này. Mùa hè năm ngoái, sau khi dự Trại Sáng tác Đà Lạt trở về, từ trên tầng gác trụ sở Hội Văn nghệ nhìn xuống quãng sân dưới tán cây đào tiên chi chít những chùm quả trắng bóng, đã mấy lần tôi nhận ra “khoảng trống” ấy, dù bạn bè văn nghệ vẫn vào ra đông vui - người lắm chức vị cũng như hội viên vừa được kết nạp. Phải, chỉ vì vắng nhà thơ Hải Bằng! Những tháng ngày trước đó, tuy đã mấy lần phải vào bệnh viện cấp cứu, thân hình còm nhom chỉ còn da bọc xương, nhưng mỗi sáng, chiếc Chaly vẫn thường chở ông đến Hội; không còn đủ sức trèo lên gác, từ dưới sân, ông ngước hỏi cô văn thư: ”Hương! Chú có gì không?” Đã thành lệ, nên nhiều khi chẳng cần đợi ông gọi, nếu có thư, báo hay giấy mời lĩnh nhuận bút, vừa thoáng thấy chiếc Chaly ngoài cổng là có người đưa xuống cho ông. Một việc nữa cũng đã thành lệ, là mỗi lần đến Hội, ông kiếm một chiếc ghế trống ở sân, lặng lẽ ngồi thở lấy sức một lúc, rồi khẽ rút tờ giấy trong túi ra, đọc bài thơ mới sáng tác cho bạn bè nghe. Tôi là người không sành thơ mà hầu như mỗi khi có thơ mới là được ông đọc cho nghe; khen, ông cười vui, có chê câu chữ nào chưa ổn, ông cũng không giận, chỉ giải bày cách suy nghĩ của mình.
Nói đến sự “trống vắng” khi thiếu Hải Bằng, nhà thơ Ngô Minh cũng đã viết: “Đã có không ít người hàng ngày khó chịu vì bị ông phê phán, công kích về một việc gì đó, nhưng vài ba tuần không được gặp ông, không được nghe ông đọc thơ hay “chửi bới”, ai cũng cảm thấy trống vắng như bị thiếu một thứ gì đó...”
Tôi là người từng bị ông “công kích”. Lần đó, ông có chùm thơ tứ tuyệt 3 bài đăng tạp chí “Sông Hương”, thấy khoản nhuận bút chỉ bằng loại bài thơ dài đăng trong một trang, ông liền nổi nóng cự tôi. Là người ít nhiều đang có quyền mà bị công kích trực diện, lúc đó tôi giận ông, cho là ông không biết điều và là người nhỏ nhen nữa! Nhưng rồi nghĩ lại, thấy ông có lý. Trên văn đàn, thiếu gì những bài thơ dài vài chục câu người đọc quên ngay khi buông tờ báo; ngược lại, có những bài tứ tuyệt sống mãi với thời gian. Hơn thế, đáng phải nể trọng thái độ không chịu cúi đầu trước quyền lực của ông; đã có những cây bút mỗi khi có bài đăng là một lần hàm ơn tòa soạn và sẵn sàng nịnh bợ tổng biên tập; cả việc ông đòi hỏi được hưởng quyền lợi xứng đáng và công bằng cũng là điều đáng trọng. Trong đời sống xã hội, đã có bao nhiêu tệ nạn, hư hỏng chỉ vì thái độ tự ti, nhẫn nhục của lớp người lao động bình thường, để mặc cho quan chức lộng hành.
Dù vậy, sự “trống vắng” Hải Bằng để lại chủ yếu vẫn là niềm say mê sáng tạo không mấy ai sánh được. Cuộc đời gian truân với biết bao thiệt thòi vẫn không đè bẹp được ông, không làm tàn lụi hồn thơ ông đã nói lên điều đó. Chỉ một lần nghe ông đọc bài thơ dài “Cồn Cỏ” khi bệnh ung thư vòm họng đã làm sức ông suy kiệt cũng rõ điều đó. Đêm thơ ấy, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi cùng không ít bạn bè lắng nghe Hải Bằng đọc bài thơ “Cồn Cỏ” vừa xúc động, vừa hồi hộp lo lắng. Giọng khản đặc mà vẫn hào sảng, vòm ngực còm nhom và cổ họng mang thương tích của ông đã dồn tất cả sức lực còn lại cho những vần thơ; có cảm tưởng như ông sẵn sàng chết vì thơ. “... Người chiến sĩ nơi đây - Tóc xanh trong khói đạn - Lửa reo trong lời thơ - Đêm sờ lên cằm bạn - Râu dài căng tiếng ca - Mồ hôi đầy báng súng - Như muối mặn phù sa...”
Quả là ông đã vắt kiệt sức mình mới đọc trọn 113 câu thơ tôn vinh hòn đảo nhỏ tượng trưng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Ít hôm sau, ông phải vào nằm bệnh viện; nhưng rồi ông lại ra với một cuốn sổ dày khít những bài thơ mới viết. Có thể nói hầu như ngày nào ông cũng làm thơ và 10 năm cuối đời, năm nào ông cũng có tập thơ mới xuất bản. Không phải bài nào cũng hay, nhưng ông không dễ dãi; nhìn bản thảo có nhiều từ bị gạch xóa thay thế thì rõ. Thật không hiểu ông lấy sức đâu mà viết. Tập thơ này chưa in xong, ông đã “khoe” bìa tập mới. Biết là quỹ thời gian không còn nhiều, ông đã hối hả viết, cả trong những ngày nằm trên giường bệnh. Lại còn vì cả mấy chục năm, do những éo le của thời cuộc, viết không dễ mà in cũng khó. Làm bài thơ đầu tiên được chú ý từ chiến khu Ba Lòng năm 1948, rồi năm 1965 có bài “Cồn Cỏ” được giải thưởng của Báo “Văn nghệ”, nhưng mãi đến năm 1980, tròn 50 tuổi, ông mới được in chung trong tập “Hát về ngọn lửa”. Cho đến nay, 12 tập thơ của ông đã được xuất bản, trong đó, tập “Sóng đôi bờ” (1994) được Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trao tặng thưởng và tập “Thơ tình Hải Bằng” được giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô.
Có thể nói “Độc hành”, tập thơ thứ 12, tập thơ cuối đời ông (Nhà xuất bản Văn học-1998) là bản “tổng kết”, là hồi ký bằng thơ về cả cuộc đời sóng gió gần 70 năm của ông, bắt đầu từ chú bé Vĩnh Tôn 14 tuổi rời gia đình hoàng tộc giữa kinh thành Huế theo cách mạng. “Chia tay phố phường đạn réo sau lưng... Tôi ra đi - Đội lá trên đầu -Lá che chở hành quân gấp rút...” (Đoạn I: “Chia tay từ ấy” trong “Độc hành”) .
“Độc hành” cũng đã ghi lại những tìm tòi sáng tạo của tác giả trong thể loại tạo hình bằng rễ cây. “... Tôi nói với bàn tay - Tạo niềm vui cho rễ - Khi lá không còn xanh - Vẫn giữ ngày tháng trẻ... Mỗi mẩu rễ cây khô - Cho tôi trăm chồi biếc - Đằng sau mỗi ước mơ - Đường đi không biết mệt...” Đọc những dòng thơ này, chợt nhớ một chiều bên những hố bom, những trận địa pháo cao xạ trên đồi Phú Vinh (Quảng Bình) 20 năm trước, tôi gặp Hải Bằng tay ôm mấy gốc cây khô quăn queo. Cứ nghĩ là anh kiếm củi, nhưng trên gương mặt khắc khổ của anh, cặp mắt bỗng chớp sáng, miệng thoáng nụ cười: “... Tuyệt! Rồi cậu sẽ biết!...” Những gốc cây khô ấy đã không bị thiêu cháy mà hóa thành tác phẩm, nhờ ngọn lửa sáng tạo của Hải Bằng. Ngọn lửa ấy cũng là đôi cánh nâng chú bé liên lạc Vĩnh Tôn -cây bút Văn Tôn của Trung đoàn 101 - người câu cá ở Cảnh Dương-nhân viên phát hành sách Bình Trị Thiên... vượt lên những gian truân của cuộc đời, tạo dựng nên thi sĩ Hải Bằng với bút lực và tính cách không ai thay thế được. Phải, ở Hội văn nghệ cũng như bất cứ cơ quan nào, khuyết ông Chủ tịch này sẽ lập tức bầu ra ông Chủ tịch khác, thiếu vị “Thường vụ” này đã sẵn có người khác thế chân. Nhưng Hải Bằng với chức vị duy nhất “hội viên” - nhà thơ, chẳng ai có thể thay thế được.
Huế, Tháng 6/1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét