Thứ Hai, 10 tháng 2, 2020

Tu bụi - Lời mở

Tu bụi - Lời mở
LỜI MỞ
Tu bụi là tu giữa bụi trần
Tu giữa đời thường, sen trong lửa,
“Tu bụi” là tu giữa bụi trần.
Xin được viết đôi dòng cảm nghĩ của mình về tác phẩm Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn.
Số là rất tình cờ, tôi và anh Đoàn cùng dạy lớp mùa Hè ở trường Lutheran Pacific University tại Olympia, Washington State, tháng 6 năm 2001. Hai chúng tôi được xếp chung hai phòng sát nhau trong cư xá giáo sư trường đại học LPU và cũng là hai người Việt duy nhất ở đây. Anh Đoàn dạy môn Psychotherapy và tôi dạy môn Physiotherapy nên có dịp làm việc chung trong khóa học. Tôi ham thể thao, anh Đoàn ham viết lách, nhưng trời Olympia mưa nhiều hơn nắng, nên tôi thường bị bó chân trong cư xá sau giờ dạy. Ở nhà nhiều, tôi đâm ra tò mò vì thấy ngày nào, đêm nào, ngoài giờ lên lớp, người ở phòng bên cạnh cũng say sưa gõ máy.
Hỏi ra, mới biết anh Trần Kiêm Đoàn đang viết một cuốn truyện dài bằng tiếng Việt. Sống xa quê hương từ năm 1965, tiếng Việt đối với tôi là một “linh tự” vì đó là tiếng nói yêu thương của ngày xưa Quê Mẹ. Đến khi đi mòn chân, gần khắp hết các nẽo đường xứ người, tôi mới hiểu và cảm thấy yêu một nhân vật trong sách Giáo Khoa thuở nhỏ tôi học, khi ông ta đi khắp bốn phương và trở lại làng cũ nói rằng: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta!” Đẹp, vì đó là nơi mẹ tôi đã sinh tôi ra và tập cho tôi tiếng nói đầu đời bằng tiếng ru của Mẹ. Tôi yêu Quê Hương, yêu Mẹ nên yêu Tiếng Nói của Mẹ mình.  
Học tiếng người, nói tiếng người, viết tiếng người, dạy tiếng người, nên tôi thèm tiếng Mẹ. Tôi đã năn nỉ với anh Đoàn cho tôi đọc những trang tiếng Việt mà anh đang viết. Lúc đó, tuy anh mới viết 3 chương bản thảo trong số vài ba chục chương dự định cho tập sách, nhưng cũng đồng ý cho tôi xem. Tập sách tương lai chưa có tên. Tác giả chỉ cho biết đơn sơ rằng, anh muốn đem tinh thần hóa giải của Phật giáo để giải quyết những vấn đề khúc mắc trong tâm lý nhân vật của cuốn truyện.
Khi tôi hỏi về nhan đề cuốn sách, anh Đoàn đưa ra nhiều tên mà anh đang nghĩ đến để hỏi ý tôi. Trong số những tên làm tôi chú ý, có tên “Tu Giữa Bụi Trần”. Tôi liền đề nghị với tác giả rút gọn 4 chữ thành 2 chữ là… Tu Bụi! Vốn là nhà giáo và cựu huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, anh Đoàn hơi giật mình vì cụm từ “tu bụi” nghe có vẻ “phiêu bạt giang hồ” quá. Nhưng tôi đã cố thuyết phục và đã được tác giả chấp nhận. Tôi đã đưa ra ý kiến rằng: Về nội dung, “Tu Bụi” mang một hình tượng dấn thân của kẻ hành đạo giữa thế giới Ta Bà; về hình thức, “Tu Bụi” có một độ bám đặc biệt, khó chìm trong một thế giới đầy chữ nghĩa và danh từ hoa mỹ. Nó níu được sự tò mò và chú ý của người đọc. Nếu so với những tên khác nghe có vẻ thuần thành, văn vẻ hơn nhưng lại trơn tuột, đọc xong sẽ quên ngay.
Thế là khái niệm “tu bụi” ra đời như một cái duyên vừa thuận vừa nghịch. Thuận, vì nói lên được tinh thần nhập thế của sự tu hành; đồng thời, nắm bắt được sự tò mò chú ý và quan tâm của người đọc. Nhưng nghịch, vì hình tượng chữ nghĩa quá mới mẻ và đầy tính phiêu lãng, chưa hề có ai dùng.
Chờ mãi cho đến 4 năm sau tôi mới được đọc chương cuối cùng của Tu Bụi.
Tôi rời  xứ Việt và nhập vào dòng Phật giáo Sri Lanka đã hơn 40 năm nay. Tôi thuộc Đạo Tràng Tân Tích Lan Thiền Tông (New Theravada Sangha of Ceylon). Đây là một đạo tràng chủ trương đổi mới, tu và tìm sự giải thoát ngay giữa cuộc đời nầy.
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố. Từ vị trí của một vị hoàng thân, được tiên vương tin tưởng, nhưng lại bị tân vương nghi ngờ, nhân vật Trí Hải từ địa vị cao sang, bước vào cuộc đời gió bụi. Ông ta cũng có khi bị trôi nổi, vùi dập trong từng chặng đời khi lên, khi xuống qua hoàn cảnh sống và qua suy tư của riêng ông. Gặp những lúc khó khăn và khúc mắc nhất trong cuộc sống, Trí Hải phải dựa vào tinh thần hóa giải của đạo Phật để tìm ra phương hướng  giải quyết. Hóa gỉải theo tinh thần đạo Phật trong Tu Bụi có ba cấp độ:  Biết rõ vấn đề là gì; hiểu và có khi sống thật với vấn đề; và sử dụng toàn trí, toàn tâm để chuyển hóa trong tinh thần từ bi và trí tuệ. Đấy là cách giải quyết  vấn đề ít thiệt thòi nhất và không gây đau khổ cho mình và cho người bởi vì cốt tủy của sự thay đổi hay “tu” là chuyển hóa thực tế chứ không tiêu diệt vấn nạn bằng danh từ suông hay bằng sự ỷ lại siêu hình, dễ dãi nào cả. Như lối thoát cho một cuộc tình đầy đam mê, thơ mộng nhưng ngang trái giữa Trí Hải và Ba Gấm không phải là một ngõ cụt của tuyệt vọng, hủy hoại mà là một sự chuyển hóa từ dục vọng tầm thường qua lòng thương quý và sự hy sinh cao thượng cho mình và cho người. Từ gốc rể, Trí Hải, nhân vật chính trong truyện, không phải là người theo đạo Phật, nhưng ông đã học và đã thực hành tinh thần đạo Phật qua hai nhân vật tu sĩ là sư Trúc Lâm và thầy Tiều. Tuy phương pháp tu hành khác nhau, thầy Tiều đi vào đời sống xô bồ đời thường và sư Trúc Lâm đi vào đời sống thanh tịnh ẩn dật, nhưng cả hai vị tu sĩ nầy đều thấy rõ được bản chất cá nhân để chọn pháp môn thích hợp cho mình và cho đời. Tôi có cảm tưởng như hai nhà sư xuất hiện giữa đời nầy khác nhau như Sao Hôm, Sao Mai; nhưng từ trong cội nguồn, họ là Sâm Thương, là một, là hai lữ hành cùng bước đi trên một con đường Trí Tuệ dẫn về phương giải thoát.
Về hình thức văn chương, Tu Bụi không phải là một tác phẩm tiểu thuyết (fiction) đúng nghĩa; mà cũng chẳng phải là một tác phẩm biên khảo hay lịch sử mang tính phi tiểu thuyết (non-fiction) thực sự.  Nhiều đoạn văn đẹp và giàu vần điệu trôi chảy như thơ. Nhiều đoạn văn lý luận mang tính triết học và phân tích tâm lý rất sâu và trừu tượng. Cũng có những đoạn văn trình bầy sự kiện lịch sử, dữ kiện xã hội và khoa học có thật để làm bối cảnh cho dòng tưởng tượng trôi chảy.
Theo tôi, đây là một tác phẩm mang đậm nét tinh thần đạo Phật, lý giải được một số tín điều cũng như quan niệm triết học vẫn còn nằm sâu trong góc khuất tư tưởng. Với cảm nhận nghệ thuật riêng, tôi nhận định rằng, Tu Bụi vừa lôi cuốn, vừa khéo, vừa đẹp về cả ba phương diện văn học, triết học và đạo học. Đây là một đạo Phật gần với triết lý sống thật giữa đời hơn là chìm sâu trong thế giới tâm linh thuần tôn giáo.
Tuy nhiên, điểm nổi bật hơn cả là cái tâm của người viết. Đấy là tấm lòng hướng đến điều thiện. Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã dùng một lối hành văn trôi chảy uyển chuyển, giàu hình tượng và ví von đầy cảm xúc. Ngay cả trong lý luận thì hình ảnh và cảm tính nghệ thuật cũng đã được vận dụng một cách tài hoa. Lắm lúc, sự lãng mạn tràn trề hay phẫn nộ bùng vỡ, nhưng vẫn giữ được vẻ tròn trịa, quý phái và cổ kính trong ý, trong từ và trong điệu văn.
Trong một e-mail từ Colombo gửi cho anh Trần Kiêm Đoàn trong ngày Tết năm nay, tôi có đùa rằng: “Nếu khi đọc Tu Bụi xong mà người ta nôn nóng muốn thử ‘tu bụi’ như thế nào và muốn gặp một ‘thiền sư tu bụi’ coi thử ra sao… thì tác phẩm mới được xem là thành công. Và biết đâu rồi sẽ có một dòng… Tu Bụi ra đời về sau này.”
Có muôn vàn thứ bụi và lớp bụi trong Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn: Bụi đời, bụi tham, bụi danh, bụi tình, bụi nghĩa… cấu kết thành bụi vong tình. Mỗi thứ bụi đều khoác bằng những lớp áo nhiều vẻ, nhiều mầu đầy cuốn hút. 
Gần một nghìn năm trước, năm 1096, trong lễ trai tăng của hoàng thái hậu Phù Cảm Linh Nhân ở Giao Châu, thiền sư Trí Không đã nói đến ý nghĩa tu và giác ngộ rằng: "Tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ, chỉ vì bụi vong tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mãi trong vòng ngũ thú. Phủi được hàng hàng lớp lớp bụi vong tình ấy thì chân tâm hiển hiện, Phật tính tỏ bày.”
Nếu chỉ phủi bụi bằng đôi tay và cây chổi của đời thường thì chỉ làm cho những lớp bụi có cơ dầy thêm. Bụi đời chỉ có thể rửa sạch bằng đôi mắt thương (từ nhãn) và bằng tấm lòng trung chính (chân tâm).  Tác phẩm Tu Bụi đã thành công trong việc gợi ý “quét bụi trần gian” qua nghệ thuật kết cấu mang tính biểu tượng (symbolism) và tâm lý nhân vật được xây dựng mang tính cường điệu sáng tạo (creative exaggeration) gây ấn tượng sâu và đậm cho người đọc.
Tu bụi để phủi được lớp bụi vong tình.
Trong dòng suối cũ tâm linh, có một con nước vừa lên, rất mới.
Mahinda Phúc Nguyên [1]
Colombo, Tích Lan - mùa Xuân 2006
Chú thích:
[1] Trong bài tựa bằng tiếng Việt của Bác sĩ Mahinda Phúc Nguyên, có một số lỗi chính tả và ngữ pháp do tác giả đã sống xa quê hương quá lâu, hơn 40 năm, không thường xuyên tiếp cận với ngôn ngữ Việt. Tôi đã xin phép được hiệu đính khi in lại thành “Lời mở” trong tập sách này và cắt bớt những phần có liên quan đến trang web, nhưng không liên quan đến tập sách. Mọi sự hiệu đính và thêm bớt cho thích hợp với một Bài tựa đều căn cứ theo tinh thần căn bản của bài viết nguyên văn bằng tiếng Anh nhan đề "DUSTING OFF THE ENEMIES WITHIN" của Mahinda Phuc Nguyen, Ph.D; MD. đăng trên mạng lưới Đạo Tràng Tân Tích Lan (NewCeylonSangha.org  Số January. 2006). Xin cảm ơn và đồng thời xin cáo lỗi với tác giả.  
TKĐ
Bạt: Đọc Tu bụi của Trần Kiêm Đoàn
Tôi hân hạnh được làm một trong số vài độc giả đầu tiên của tác phẩm TU BỤI ngay sau khi nó vừa được đánh máy xong. Nhìn qua nhan đề tác phẩm, tự nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ vui vui. “Tu” thì hiểu đại khái rồi. Tác giả Trần Kiêm Đoàn là người quán triệt triết lý và lịch sử Phật Giáo - trên hai địa hạt này ông có cái nhìn bao quát hơn nhiều vị trong hàng tăng lữ Phật Giáo - nên ông có đi thêm một bước tới chỗ “tu” thì cũng không làm ai ngạc nhiên cả. Nhưng còn “bụi” nghĩa là gì? Phải chăng Trần Kiêm Đoàn bỗng dưng đâm ra lập dị đến nỗi phải bỏ công viết sách xui giục đạo hữu và độc giả kéo nhau vào chốn lùm bụi mà tu hành? Sự suy đoán khôi hài này chưa kéo dài tới nửa phút thì tôi sực nhớ lại cái nghĩa thông thường mà tín đồ Phật Giáo ưa dành cho chữ bụi: bụi bậm trần gian. Nhưng phải đọc xong tác phẩm TU BỤI tôi mới kết hợp được “tu” với “bụi” qua hình ảnh những con người chấp nhận dấn thân, sẵn sàng lăn xả vào giữa bụi bậm trần gian mà không để cho nó bám chặt vào tâm của mình. Lao thân vào bụi, đồng thời phủi bụi khỏi tâm, đó chính là tu bụi vậy!
Thật là một sự trùng hợp lý thú. Cách đây mấy tháng, bốn tác giả Cao Thanh Tâm, Lưu Trần Nguyễn, Tôn Thất Sang và Ngô Viết Trọng đã cùng nhau “Khuấy Bụi Thời Gian”. Giờ đây tới phiên Trần Kiêm Đoàn phủi bụi thời gian! Bụi thời gian, bụi trần gian, cũng đều là bụi thôi, có người khuấy, phải có người phủi! Mới ghé mắt vào chỗ tựa đề, chưa tới đâu xa trong tác phẩm, thế mà đã phải suy nghĩ rồi! Suy nghĩ nhưng vẫn thoải mái, vui vẻ, không biết mệt nhọc chi cả.
Đã hết đâu! Nhìn xuống dưới một chút tôi chỉ thấy một khoảng trống không ở nơi thông thường dành cho phần giới thiệu thể loại của tác phẩm. Tôi đinh ninh đây là một sơ sót về kỹ thuật ấn loát chớ tác phẩm này nhất định phải là tiểu thuyết rồi. Có lý do khiến tôi tin như thế.
Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chứng tỏ tài năng qua nhiều thể loại tản văn như tùy bút, truyện ký, truyện ngắn, bút luận (triết lý, tôn giáo, văn nghệ, chính trị) v.v... Nếu chỉ nhìn văn phong bút pháp chớ không kể tới tư tưởng thì nhiều người thấy Trần Kiêm Đoàn đã kết hợp lại được nơi ông những gì có thể nói là tinh hoa của Nguyễn Tuân, Thạch Lam và Vũ Khắc Khoan. Tuy nhiên, dù mến mộ văn tài của Trần Kiêm Đoàn, độc giả vẫn trông chờ nơi ông một con người văn nghệ mới lạ chưa từng gặp, một tiểu thuyết gia. Bởi thế nên khi thấy tác phẩm nào của ông mà có độ dày, người đọc đương nhiên yên trí đó là tiểu thuyết. Phần tôi, khi đọc xong chương cuối của TU BỤI, tôi cảm thấy ngần ngại không biết nên xếp nó vào thể loại nào và tôi nghĩ ông Trần Kiêm Đoàn có lý do chính đáng để không công bố thể loại tác phẩm ở ngay phía dưới tựa đề. Khoảng một tháng sau ngày tôi tiếp nhận bản thảo TU BỤI, tuần báo Làng số 397 ngày 4/8/2006 đăng tải bài Duyên Tu của Trần Kiêm Đoàn, phía dưới có ghi câu “Trích chương 27, truyện dài TU BỤI”. Thế là tác giả Trần Kiêm Đoàn đã chịu xếp loại cho tác phẩm của mình rồi. Nhưng tôi có cảm tưởng ông vẫn chưa được hoàn toàn thỏa mãn với lối xếp loại này, bởi lẽ truyện dài TU BỤI của ông không giống các truyện dài khác trong cấu trúc tổng quát. Thật vậy, theo quan niệm thông thường thì truyện dài hay tiểu thuyết cũng chỉ là hai từ khác nhau dùng để nói về một thể loại mà căn bản là một cốt truyện thuần nhất, liên tục, trong đó phần này liên hệ chặt chẽ với phần kia chớ không tách rời nhau được. Yếu tính trên đây hiện ra khá mờ nhạt trong tác phẩm TU BỤI. Lấy đại một chương nào đó của TU BỤI ra mà xem riêng, độc giả vẫn hiểu được như thường! Người đọc không biết trước và sau chương đó các nhân vật làm gì, nói gì, nghĩ gì, nhưng người đọc không hề cảm thấy bứt rứt nôn nóng muốn biết những chuyện đó như khi đọc một truyện dài thông thường. Thật là kỳ lạ! Độc giả bị lôi cuốn vào từng chương một đến nỗi không còn quan tâm tới cốt truyện tổng quát nữa. Trần Kiêm Đoàn đã lần lượt cho đăng báo một số chương trong TU BỤI, xem như đó là những truyện ngắn riêng biệt với nhau. Tôi không nghĩ ông muốn quảng cáo trước những tác phẩm của mình. Tôi tin đây là một trắc nghiệm khả dĩ giúp tác giả thẩm định lại độ biệt lập giữa các chương; qua kết quả trắc nghiệm, tác giả sẽ định tính chính xác hơn thể loại mà ông vừa sáng tạo ra. Có thể nói không quá lời rằng tác phẩm TU BỤI là một bộ trường thiên tiểu thuyết nhiều tập (roman à cycles) được cô đọng lại, mỗi chương tương đương với một tập. Đặc tính các bộ trường thiên tiểu thuyết [chẳng hạn như bộ Đi Tìm Thời Gian Đã Mất (À La Recherche Du Temps Perdu) của Marcel Proust hay bộ Xóm Cầu Mới của Nhất Linh] là các tập có thể được xem riêng rẽ với nhau bởi lẽ chúng có chung nhau các nhân vật chính nhưng lại được xây dựng trên những cốt truyện khác nhau. Phải chăng Trần Kiêm Đoàn tạo thể loại mới để dùng nó làm bàn đạp nhảy vọt sang trường thiên tiểu thuyết? Nhìn cấu trúc tác phẩm một cách bao quát thì thấy như thế, đào sâu vào từng chương một thì lại gặp nhiều kỳ thú lạ lùng hơn nữa (sẽ đề cập tới sau), khiến tôi không ngăn được ước ao tác giả không xếp loại cho tác phẩm của mình mà dành công việc này cho từng độc giả một.
Bây giờ xin thử nhìn vào cốt lõi của vấn đề là giá trị của tác phẩm. Như đã nói trên, có thể độc giả không tha thiết với sự liên tục của cốt truyện, thái độ này cho thấy sức cuốn hút của tác phẩm không đến từ cốt truyện. Cũng phải thôi! Vài ba nhân vật tình cờ gặp nhau, sống với nhau trong  những hoàn cảnh không có chi éo le lắm, rồi tất cả lần lượt rời bỏ trần thế, ngoại trừ một vài người không ai biết đi đâu, không ai biết sẽ làm gì... Câu chuyện đòi hỏi ít động tác, lại diễn ra trầm trầm. Đã vậy tác giả không nỗ lực phân tích tâm lý nhân vật đến tận cùng. Có vẻ như ông muốn tạo ra ấn tượng về sự nhẹ nhàng trống không trong nội tâm của họ. Các yếu tố dùng làm lực thôi tống cho một truyện dài thông thường đã vắng bóng ở TU BỤI. Ấy thế mà độc giả vẫn cứ muốn đọc tiếp tiếp theo mãi. Vậy cái ma lực nào đã thúc đẩy độc giả đi tới tận cùng của tác phẩm? Nhìn đi nhìn lại, tôi không tìm thấy ma lực nào khác ngoài cái ma lực toát ra từ những suy tư triết lý nằm rải rác khắp nơi trong tác phẩm không cần theo thứ tự nào cả. Độc giả muốn đọc tiếp theo mãi không phải để biết câu chuyện diễn biến và kết thúc ra sao, mà để mong gặp được một vài chân lý thấm thía đang chờ đợi họ ở một nơi nào đó trong tác phẩm. Trần Kiêm Đoàn đã đến với độc giả Việt Nam như Jean Paul Sartre và Albert Camus đã đến với độc giả Pháp hơn nửa thế kỷ trước đây!
Trong TU BỤI, các diễn biến, các nhân vật thật ra chỉ còn là những cái cớ, cái dịp để giúp độc giả tiếp nhận suy tư triết lý. Chẳng hạn như trận cờ quyết đấu trên sông Hương giữa Trí Hải và Hàn Kỳ Vương được xây dựng để chuyển đạt tới độc giả những suy tư về định kiến, về những quan hệ giữa tâm tư và hành động... Tương tự, trận dịch hạch đang tàn phá kinh thành cũng tạo điều kiện để xét lại ý nghĩa cuộc sống, để nhìn lại chuyện nhân, chuyện quả... (Đọc chương Tu Giữa Bụi Trần nói về chuyện dịch hạch không thể không liên tưởng tới truyện dài Dịch Hạch (La Peste, 1947) của Albert Camus, mặc dù nếp suy tư của hai tác giả Pháp, Việt có khác nhau).
Nhân tiện xin đề cập tới bản chất dòng tư tưởng mà Trần Kiêm Đoàn đã cho tuôn chảy qua TU BỤI. Ở phần đầu tác phẩm, ông suy nghĩ mông lung về con người, về cuộc đời. Tới phần cuối, ông chuyển hướng rõ rệt qua phía giáo lý Phật Giáo. Độc giả thấy ông tha thiết muốn trở về với những gì là tinh túy nhất của Phật Giáo thời nguyên thủy, thời chưa bị tha hóa biến chất, đồng thời cũng muốn thích ứng đạo mình vào đời sống hiện tại trên thế giới. Ở phần đầu, TU BỤI là một tiểu luận triết lý được tiểu thuyết hóa, ở phần cuối nó là một giảng luận Phật học cũng được tiểu thuyết hóa! Thêm một lý do nữa để không áp đặt quá sớm tên thể loại của tác phẩm này. Dành công việc đó cho độc giả là ổn nhất...
Viết tới đây tự nhiên tôi sực nhớ lại một chuyện vui vui về Tu Bụi mà tôi đã sống qua: dùng cảm quan để thưởng lãm và dùng lý luận để phê phán nhiều khi dẫn tới kết quả trái ngược nhau. Chẳng là sau khi đọc xong quyển TU BỤI, tôi cố nặn óc tìm xem (để giải trí vậy thôi) tác giả có để lộ sơ hở nào không khi viết quyển này. Cố tìm thì phải ra thôi. Và ra được bốn điểm sau đây:
Trước nhất, câu chuyện của TU BỤI xảy ra khoảng thời gian mấy mươi năm từ khi Gia Long thống nhất sơn hà tới sau khi Minh Mạng lên ngôi, nhưng ngôn ngữ của các nhân vật lại lắm khi là ngôn ngữ của triết gia, chính khách, nghiên cứu gia thời cuối thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt.
Thứ hai, hình ảnh một vài nhân vật đã mang nét hư cấu đậm hơn hẳn so với các nhân vật khác. Chẳng hạn như Ba Gấm trước là cung nữ, sau là phu nhân của quan Tổng Chánh Chưởng Thân Binh. Trang phục, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, tư tưởng v.v... tất cả nơi Ba Gấm đều thắm đượm phong vị Tây phương khiến tôi hơi hoài nghi về khả năng hiện hữu của một người mệnh phụ phu nhân như vậy vào thời Minh Mạng, mặc dù tác giả có giải thích là nhờ thường xuyên buôn bán tiếp xúc với người ngoại quốc nên Ba Gấm mới có được cái phong cách đó.
Thứ ba, một số hiện tượng mô tả trong tác phẩm e không hề được thực sự trông thấy trong lịch sử. Điển hình là chuyện hai chị em ruột cùng cư ngụ tại kinh thành nhưng lại “không thể nhìn được mặt nhau” chỉ vì một người là tín đồ của Phật Giáo của Bắc Tông (được triều đình nhìn nhận và nâng đỡ), còn người kia là tín đồ của Phật Giáo Nam Tông (tự cho rằng mình bị triều đình “cấm đoán hành đạo”). Thật ra hầu hết dân Việt Nam đều theo Đại Thừa Bắc Tông, chỉ riêng ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng của miền Tây Nam Việt mới thấy có sự hiện hữu của phái Tiểu Thừa Nam Tông mà tất cả tín đồ đều có gốc gác là người Miên. Tín đồ Đại Thừa và Tiểu Thừa lại không thấy quyết liệt chống đối nhau bao giờ cả. Có lẽ tác giả Trần Kiêm Đoàn bị ám ảnh bởi sự phân hóa của Phật Giáo ngày nay tại Việt Nam nên ông chuyển vị nó vào lịch sử, rồi cường điệu hóa thêm một chút để có lý do nỗ lực đi tìm cho nó một giải pháp thỏa đáng.
Thứ tư, các nhân vật đều thông minh, sâu sắc, kiến thức rộng rãi, thường xuyên ở tư thế suy tư và xét lại. Cứ soi mói nhìn kỹ một chút, người ta sẽ thấy thấp thoáng ngoài sau mỗi người trong họ bóng dáng của tác giả Trần Kiêm Đoàn! Họ vui sướng hay ưu tư phiền muộn, họ đàm đạo hay tranh luận với nhau, tất cả chỉ là hiện tượng biểu kiến. Thực chất chính là ông Trần Kiêm Đoàn đang vui sướng, đang phiền muộn, đang suy tư, đang nói với chính mình!
Mới hý hửng được mấy phút về những điều mình khám phá ra thì tôi lại cảm thấy buồn cười về cái vô duyên của chính mình. Phải mà, khi đang đọc TU BỤI tôi đâu có nghĩ ngợi chi ly về các tiểu tiết trên đây. Tôi cũng đâu còn nhớ tới Trí Hải, Phạm Xảo, Thầy Tiều... và cả Trần Kiêm Đoàn nữa, tôi cũng quên luôn! Tôi cứ tưởng tượng như thể tôi đang nói với chính tôi chớ không phải họ đang nói với nhau. Y như trường hợp một người nghe đàn, chỉ lắng nghe tiếng đàn chớ không tự hỏi ai là người đang đánh đàn, ai là người đã soạn ra bản nhạc, họ làm ăn sinh sống ra sao. Chỉ sau khi tiếng đàn chấm dứt thì cá nhân người đánh đàn và người soạn nhạc mới có thể được quan tâm tới. Tương tự như vậy, khi đọc truyện võ hiệp thấy một kiếm khách phóng mình bay lên nóc nhà đuổi theo địch thủ, có ai phì cười bảo rằng tác giả phịa chuyện nói dóc đâu? Người ta cứ tưởng tượng mình chính là tay kiếm khách đó chớ!
Thật ra khi viết lách, không tác giả nào tránh khỏi sơ sót, tránh khỏi cường điệu cả. Nhưng lắm lúc phải dùng tinh thần “chẻ sợi tóc ra làm tư” mà nhìn thì mới thấy được các khuyết điểm này. Phê bình gia có thể làm việc đó với tác giả, nhưng độc giả thì không. Độc giả (bao gồm luôn cả các phê bình gia đang thưởng thức tác phẩm) luôn luôn thông cảm và lắm khi đồng lõa với tác giả nữa (trong việc tưởng tượng ra chuyện hư cấu).
Một tác phẩm văn nghệ được đánh giá qua dư âm mà nó để lại nơi lòng người. Thông thường dư âm đó được tạo nên bằng sự mô tả cuộc đời một cách tinh tế. Trong TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không mô tả cuộc đời, ông chỉ mượn cuộc đời để chuyển đạt nhân sinh quan và vũ trụ quan của ông mà thôi. Nhưng ông vẫn tạo được dư âm trong lòng độc giả bằng những suy tư về kiếp người. Sáu mươi bốn năm trước đây, văn triết gia Albert Camus cũng đã chuyển đạt suy tư triết lý của mình đến độc giả Pháp qua tiểu thuyết Người Xa Lạ (L'Etranger, 1942). Lúc đầu, tác phẩm này bị độc giả tiếp nhận trong thờ ơ lạnh nhạt vì họ chưa hiểu được Camus, thời đó chỉ là một tác giả mới, chưa có tên tuổi. Với tác phẩm TU BỤI, Trần Kiêm Đoàn không lâm vào hoàn cảnh của Albert Camus bởi lẽ ông đã lỡ nổi tiếng rồi. Nhưng ông cũng không hưởng được niềm vui sướng, nỗi xúc động của một nhà văn lúc đầu bị xem thường, về sau lại được hoan nghênh!
Khi TU BỤI ra mắt độc giả, dư luận ắt sẽ thắc mắc về chuyện ông Trần Kiêm Đoàn sẽ làm gì trong tương lai? Ông sẽ đi rao giảng và thực hành cái giáo lý Phật Giáo canh tân mà ông vừa sáng tạo ra? Ông còn say sưa giúp đỡ các chiến hữu tư tưởng của ông nữa hay không, các chiến hữu vốn dĩ đã và đang đặt trọn sự tin cậy của họ nơi ông?. Hay ông lại tiếp tục suy tư mông lung như một người trí thức suốt đời đi tìm chân lý mà chưa bao giờ gặp được chân lý? Thời gian sẽ giải đáp câu hỏi đó.                                                        
Tống Diên
Tháng 8 năm 2006
Vài cảm nghĩ viết vội về truyện dài
Bạn cứ giở ra bất cứ một trang nào trong cuốn truyện dài 500 trang này đi, thế nào bạn cũng bắt được một tư tưởng, một ý niệm phật giáo loáng thoáng, lang thang đâu đó, và một cách nhẹ nhàng , khi bạn sang trang, bạn bất ngờ nhận thấy hình như cái ý niệm đó bỗng trở nên có hình dáng, có chiều rộng, có chiều sâu, và thật gần gũi với bạn như thể bạn đã từng nghĩ đến nó tự bao giờ. Tu Bụi đã bằng một cách nào đó đã đem những tư tưởng và lý thuyết nhà Phật đến với bạn một cách êm ái không ngờ.
Bạn nhắm mắt mà lật đến một chương nào đó đi, bạn sẽ ngạc nhiên thích thú vì những sinh hoạt chung quanh bạn, nhờ Tu Bụi mà bỗng trở nên giàu có màu sắc, sống động với từng chi tiết cỏn con, ví dụ như một mảnh gấm dệt, một tiếng trống chầu, một quân tốt đỏ, và cả ngay chính tâm tư của bạn nữa.
Bạn vô tình chỉ vào một đoạn nào đó của Tu Bụi đi, bạn sẽ thấy, sẽ nếm được nét thi vị của văn chương mượt mà, của tấm lòng nhân hậu, cho dù khi nói đến những mối thù gần như truyền kiếp, hay khi đề cập đến những trăn trở, những đam mê của con người ở chốn đời thường.
Bạn không tin ư? Vậy thì mời bạn đọc thôi. Giả thử bạn không đọc từ trang đầu tiên. Giả thử bạn vô tình mở cuốn sách ở trang... Mời bạn đọc thử đi, rồi bạn cho biết bạn có tìm được một câu nào thú vị ở trang đó không nhé.
Đúng vậy, thưa bạn. Gần như đoạn nào cũng đầy những ý tưởng thâm trầm lồng giữa những lời văn đẹp đẽ.
Tu Bụi: Cuộc hành trình tìm lại chính mình
Nghiêm Xuân Cường       
Sai lầm lớn nhất của đời người là tự đánh mất chính mình.
Lời Đức Phật Thích Ca
Ở một góc nhỏ nào đó trong tiềm thức của tôi là một cậu học trò lớp đệ lục, đệ ngũ mê đọc sách, và - cũng như rất nhiều người Sàigòn của thập niên 60 và 70 - mê đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung. Tôi vẫn nhớ rõ cái thú vị thả hồn vào trong những trang sách nói về một vùng đất xa xôi có những cái tên lạ hoắc như Đại Lý, Thiểm Tây, Giang Nam… và những nhân vật càng lạ hơn trong gió bụi của thời mạt Tống, hay Thanh Cung Mười Ba Triều… Tôi say mê theo dõi từng chi tiết về cuộc đời của những người anh hùng như Quách Tĩnh, Hoàng Dung Đoàn Dự, Kiều Phong… và càng kính phục họ bao nhiêu thì lại càng căm hận những kẻ gian ác trong truyện, những Đoàn Diên Khánh, Nhạc Bất Quần, Tần Cối… Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi không chỉ say mê những tình tiết lớp lang của câu truyện mà còn thích thú những chi tiết về địa lý và lịch sử được lồng trong cốt truyện. Những giai thoại về rượu, về thức ăn, người dân v.v... của những vùng mà các nhân vật trong truyện đã đi qua. Tất cả những chi tiết thú vị này giúp đưa tôi vào trong thế giới nhỏ bé, xa xôi mà kỳ diệuấy, như một chiếc thảm thần trong nháy mắt đưa người vượt ngàn trùng trời đất. Dòng thời gian trôi mau… gần bốn chục năm trời ở nơi xứ người, tôi không còn cái thú đọc sách bằng tiếng mẹ đẻ. Sách tiếng Anh thì đọc nhưng phần lớn vì nhu cầu nghề nghiệp; những tiểu thuyết tình cảm thỉnh thoảng tôi cũng đọc nhưng vẫn chưa bao giờ tìm lại được sự thích thú như những ngày xa xưa ấy - có phải bởi vì “người ta không thể  tắm hai lần trong một dòng sông” như một triết gia nào đã nói?
Thế rồi cách đây vài tuần, tôi được anh Trần Kiêm Đoàn gởi tặng cuốn sách có cái tên thật lạ “Tu Bụi”, mà cũng thật dầy, ngót năm trăm trang sách về những nhân vật thời Gia Long - Minh Mạng. Vì bận đi làm nên mãi hai tuần sau tôi mới giở sách ra. Cầm quyển sách lên, tôi như lạc vào một thế giới khác thường. Thế giới của Triều Nguyễn đầu thế kỷ 18, của tranh chấp và quyền hành, thế giới xa lạ mà sao tự nhiên gần gũi qua ngòi bút tài tình của tác giả.  Trần Kiêm Đoàn có lối viết thật nhẹ nhàng làm ta có cảm tưởng như đang nghe mẹ kể truyện thần tiên bên tai. Từng chương, từng chương tôi tiếp tục giở, mong đuợc biết thêm về cuộc đời của các nhân vật trong truyện. Cũng dễ hiểu thôi, vì anh đã theo “nghiệp bút nghiên” từ gần bốn thập niên qua. Thế nhưng có một cái gì khác trong văn phong của anh. Đơn giản mà nghiêm túc. Bình dị mà uyên bác. Anh không giống như một người thầy giáo nghiêm khắc đứng trên bục gỗ giảng bài cho học trò. Trái lại, cách thuật truyện cho ta có cảm tưởng anh là một người dẫn đường trẻ tuổi náo nức muốn đưa bạn bè về thăm chốn quê nhà yêu dấu, nơi mà anh đã cảm nhận trong từng mạch máu, từng tế bào của mình mà người khác thì chưa hề hay biết.   
Người đọc có cảm tưởng đang xem một cuốn phim chầm chậm quay đưa mình đến những khung trời xa lạ. Điều khác thường ở đây là cái “khung trời xa lạ” ấy tuy xa mà thật là gần. Nó là cái tâm của chính ta. Sống với nó mỗi ngày mấy chục năm trời mà bấy lâu nay vì mải mê theo đuổi hết giấc mơ này đến cuộc phiêu lưu khác mấy khi ta được dịp tiếp cận với chính lòng mình. Những nhân vật trong truyện: Trí Hải, Phạm Xảo, Thầy Tiều, Ba Gấm, Thiện Giả Tâm An... mỗi người đều có một tâm sự, một hoàn cảnh riêng nhưng tất cả đều mang một kiếp con người và vấn nạn của họ thì tựu chung cũng có ít nhiều dáng dấp của chính ta. 
Hiển nhiên là khi bước vào một thế giới xa lạ chưa từng đặt chân đến, ta không biết có nên tin những gì mình đang thấy. Kỳ lạ thay! ta không có cảm giác ấy bởi người bạn dẫn đường thân thương kia đã chuẩn bị hành trang chu đáo trước khi đi. Đến mỗi nơi, mỗi chốn, anh ân cần kể cho ta nghe về người, về vật, và khung cảnh chung quanh. Ta mỉm cười đồng tình nếu đôi lúc có những chi tiết hơi khó tin - một liên hệ cần có trong bất cứ một cuộc thuật truyện nào, cái mà các nhà bình phim Tây Phương gọi là "a willing suspension of disbelief". Dĩ nhiên là sự đồng tình ấy không tự nhiên mà có, bởi nếu quả như thế thì tập truyện nào cũng như nhau, một điều không có và không thể xảy ra trong đời thường. Ta mỉm cười dễ dãi vì tác giả đã dầy công dàn dựng những chi tiết thật lý thú về các nhân vật trong truyện, xếp đặt các dữ kiện sao cho hợp lý, và nhất là anh đã viết bằng cả tấm lòng mình. Viết tới đây, tôi lại nhớ đến một truyện ngắn thật sâu sắc của nhà văn Sơn Nam về một người lái đò.
Đại khái là bà có một biệt tài làm một món ăn thật đơn giản là món thịt luộc mà không ai bắt chước được, dù cũng chỉ là một chút hàn the, chút mắm muối. Bí quyết của bà là "chỉ cần một tấm lòng". Cũng vậy, Trần Kiêm Đoàn đã đem hết tấm lòng của hơn nửa thế kỷ gắn bó và sống với cái lẽ tự nhiên, chân thực của Phật Pháp, những thao thức nhiều năm về các vấn nạn của cuộc sống hằng ngày của chính mình, của đạo và đời để từ đó qua ngòi bút sáng tạo tài tình thăng hoa các suy nghĩ của mình thành các nhân vật hư cấu mà sống thực. Từ trang mở đầu của Tu Bụi, tác giả kể cho ta:
“... Cuộc binh đao giữa Tây Sơn và Nguyễn Vương chấm dứt trên chiến trường và thanh bình đã đến với lê dân, chim muông, cây cỏ.  Nhưng một cuộc chiến mới âm thầm, không biên cương, không tuốt gươm trần và không vang rền vó ngựa lại bắt đầu khai diễn ở chốn cung đình…" 
Đúng là đã có một cuộc chiến mới trong những tranh giành quyền tước bổng lộc ở chốn cung đình và đó là bối cảnh của Tu Bụi, nhưng người đọc cũng không thể không thấy sự tương đồng của những tình huống ấy với đời sống thường ngày của mình. Những ghen tuông, tranh chấp, dằn vặt đau đớn… ai đã chẳng có nhiều lần từng chứng kiến. Ta được biết về con người lạ kỳ có cái tên rất thiền là Trí Hải
… Trong số những người hiếm hoi chọn lựa thái độ “công thành, thân thoái”, theo gót Phạm Lãi, Trương Lương thuở đó là một vị hoàng thân nổi tiếng tài cao học rộng. Vị hoàng thân sống như một nhà ẩn sĩ tại Phủ Ông Hoàng khiêm tốn phía Tây Bắc Chùa Linh Mụ, ít người được gặp mặt nhưng hầu như mọi người đều biết tiếng qua tin đồn và giai thoại. “Trí Hải” - là biệt hiệu mà người đời đặt cho ông để chỉ trí óc ông rộng mênh mông như biển cả. Tin đồn rằng trong phủ của ông hoàng Trí Hải không có vàng bạc châu báu mà chỉ chứa toàn sách vở bút nghiên. Sách ông đọc chất cao như núi và mực ông mài để chép sách làm thơ nhiều đến nỗi làm đen thẩm cả nước đại hồ. Trí Hải đam mê sách vở đến độ có những gia nhân phục dịch tại Phủ Ông Hoàng đã hơn ba năm mà chưa hề được gặp tận mặt để vái chào chủ nhân lần nào…
Song nếu Trí Hải chỉ là kẻ mọt sách như trăm ngàn chàng hủ nho khác, câu truyện cũng chẳng có gì đáng nói. Sau cái chết đau thương của cha con người bạn thân là Nguyễn Văn Thành và Ấm Thuyên, Trí Hải lên đường, dấn thân vào một cuộc đời mới. Ta hãy nghe tác giả thuật lại điểm khởi đầu của cuộc chuyển hóa:
Sau thảm họa Ấm Thuyên, Trí Hải càng nhận rõ hơn cái phù phiếm của sách vở từ chương và cái bọt bèo phi lý của thân phận con người. Đã có tiếng thở dài trăn trở trong thơ ông:           
Bắt chước người xưa ta vây màn đọc sách,
Ba năm trường không thấy mặt nhân gian.
Khi ngoảnh lại thấy hồn bay mây trắng,
Và quanh ta cỏ dại mọc hoang đường! P.Đ.T                                   
Rồi đến một ngày đầu xuân không lâu sau đó, cả kinh thành và hoàng cung nhốn nháo khi nghe tin Trí Hải cùng đám tùy tùng lặng lẽ rời tư dinh trong một cuộc hành trình đi về hướng Tây Bắc, tìm lên núi Huyền Trang cách xa kinh thành cả năm bảy ngày đường.
Đến gặp Thiền Sư Trúc Lâm, Trí Hải mong được những lời chỉ giáo thâm sâu nhưng vị thầy nổi tiếng chỉ nói vỏn vẹn "Con gà" Hai tiếng "Con gà" đơn giản làm kẻ học giả Trí Hải trằn trọc thao thức tìm câu giải đáp trong sự suy nghĩ thường tình. Trí Hải triệu tập "Đại Hội Con Gà" mong tìm ra những điều mới lạ từ con vật tầm thường nhưng cũng vô ích. Đến một ngày kia, hai tiếng "Con gà" như một tia sáng lóe lên xua tan bóng tối đã lâu nay bao trùm cuộc đời ông, để rồi: 
Giữa không gian vô cùng và thinh không lắng đọng, tiếng chuông công phu buổi sớm của chùa Thiên Mụ từng tiếng thong thả nối đuôi nhau. Từ lặng im, một tiếng chuông bỗng vang lên, ngân nga, nhỏ dần rồi tắt lịm như biểu hiện cho một kiếp người.
Từ trong Thái Ấp, một tiếng gà gáy sáng vừa cất lên. Tiếng gà gáy như một thứ âm thanh nẩy mầm từ lòng đất, vắt qua bầu trời và rơi vào một thế giới xa xăm. Hồi chuông công phu quyện với tiếng gà gáy sáng có một sức hút lạ lùng làm cho Trí Hải lắng nghe. Tiếp theo là tiếng gà gáy sáng thi nhau rộn rã đủ sức lay động cả bình minh và tâm hồn Trí Hải. Có tiếng gà thanh thoát cao vút với nhiều cung bậc u trầm như tiếng hò ru con của người cô phụ. Có tiếng gà trong suốt mời gọi tươi vui. Có tiếng gà vừa cất lên đã vội vàng rơi xuống. Có tiếng gà khàn khàn như tiếng ho hiu hắt của cụ già. Trong một khoảnh khắc thời gian, trí óc của vị hoàng thân lênh đênh, chơi vơi rồi bùng vỡ ngập tràn ánh sáng. Ông ngạc nhiên nhìn lại chính mình rồi tự hỏi:
- Ta là ai? Ta chỉ là thân xác của một đứa trẻ sơ sanh với linh hồn một cụ già đã chết? Hay ta là một sinh vật vô cớ rớt xuống giữa đời và mọc mầm, đâm nhánh, ăn ngủ, làm việc rồi theo thời gian lụi tàn như một thân gỗ mục? Ta hiện hữu giữa đời mà đời không hiện hữu ở trong ta? Tại sao mấy chục năm qua ta chưa hề nghe được một tiếng gà gáy sáng? Phải chăng chỉ vì ta quên hiện tại rồi loay đào bới một dĩ vãng xa xăm và sống mơ mộng cho một tương lai chưa đến nên đã bao năm qua ta không biết trên đầu có một bầu trời xanh, bên cạnh ta có những con người thân thương đang sống, và trong xóm kia có những tiếng gà?
Tiếng chuông chùa vẫn ngân nga trong gió, tiếng gà vẫn rộn rã trong sương, Trí Hải cảm nhận sự hiện hữu của thế giới, của chính mình và bỗng nhiên cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên tràn đầy trong hơi thở… 
Từ đây, chúng ta bắt đầu thích thú theo dõi sự chuyến hình thoát xác của học giả Trí Hải thành hành giả Trí Hải, một con người hành xử theo đúng tinh thần ung dung của đạo trong từng giây phút đi, đứng, nằm, ngồi. Nếu có một sự tương đồng giữa truyện kiếm hiệp Kim Dung và truyện dài Tu Bụi của Trần Kiêm Đoàn là sự cân xứng giữa những đoạn văn hồi hộp gây cấn - những cảnh đấm đá võ hiệp ly kỳ - và những đoạn nói về sông núi, tình người và thân phận con người… làm ta thích thú theo dõi câu truyện, thì cũng có một điểm khác biệt lớn giữa tác phẩm của anh và những truyện kiếm hiệp ta đọc để tìm quên cho qua ngày đoạn tháng, đó là trong hình ảnh của những nhân vật của Tu Bụi ta thấy thấp thoáng đâu đây bóng dáng của chính mình. Đây không phải là vì các nhân vật là người cùng xứ sở, sống tại những nơi có những cái tên rất thân thương quen thuộc, mà còn vì những nghĩ suy của họ về những câu hỏi hết sức căn bản của cuộc sống cũng chính là những điều mà ta đã từng băn khoăn, có khác chăng là, không như Trí Hải, quá bận rộn chuyện công danh, bương bả với cuộc sống hằng ngày ta đã cố gạt nó ra khỏi tâm trí của mình. Ta sống vội vàng nên thực ra không biết mình đang sống, ăn ngấu nghiến mà đâu biết mình đang ăn, đâu biết là chỉ cần một giây phút khai ngộ mà cuộc đời mình có thể hoàn toàn đổi khác: 
Bao nhiêu năm qua, người lão bộc và vị hoàng thân sống kề cận nhau như hình với bóng nhưng chưa một lần nhìn thấy nhau. Vị hoàng thân như một hòn núi Thái Sơn sừng sững nhưng lạnh lùng và cô quạnh. Người lão bộc như một khe suối nhỏ nhoi róc rách chảy dưới chân cầu. Sự “khai ngộ” hôm nay như một trận đại hồng thủy để cho khe suối và núi cao biết nhau rằng, mỗi giọt nước tầm thường đều mang tính chất của đại dương và mỗi ngọn núi uy nghi đều đến từ hạt bụi.…
Cũng vẫn là tiếng chuông Thiên Mụ của trăm năm trước, cũng vẫn là tâm hồn Trí Hải của trăm năm sau sao bây giờ lại khác. Trí Hải sống với tiếng chuông như sống với một em bé nhỏ hay một bác nông phu. Chuông và người cùng sống, cùng ăn và cùng thở. Đêm khuya ông vẫn nói chuyện rì rào với chuông. Ông hiểu chuông hơn bao giờ hết. Trí Hải không cần phải thức khuya dậy sớm mới nghe được tiếng chuông khi trong lòng ông có nắng hòa với tiếng chuông sâu thăm thẳm phát khởi tự tâm hồn.
Tôi hết sức trân quý những đoạn văn như thế của Trần Kiêm Đoàn.  Nó đơn giản mà xúc tích, nhẹ nhàng như thơ mà gợi cho ta nhiều suy nghĩ và cùng lúc giúp ta hiểu cái lý trong sáng của đạo vốn ở nơi những cái thường ngày - Phật pháp bất ly thế gian pháp. Những kinh, luận có giá trị của nó nhưng không phải ai cũng có đủ duyên hay khả năng để thâm nhập.  Đọc "Tu Bụi" giúp tôi thấy rõ ràng con đường mình đang đi, thấy ấm lòng hơn. Tôi vẫn luôn kính mến những nghệ sĩ sáng tạo bởi họ là người vẽ những nét chấm phá điểm tô cuộc đời, giúp kẻ phàm phu nhận ra cái đẹp lạ thường giữa cái bình thường. Nhà văn Trần Kiêm Đoàn đã vẽ nên một câu truyện đầy ý nghĩa về cuộc đời của những con người đảm lược bằng cây cọ là chính ngòi bút của mình và mầu là sự thật vi diệu của Pháp.  Bởi lẽ "đời là bể khổ", mỗi nhân vật của anh đều đối diện với những nỗi khổ của cuộc đời như những người bình thường khác. Đức Phật đã dạy chúng ta "đời là bể khổ" nhưng Ngài cũng xác định là chắc chắn là có một con đường thoát khổ, con đường của Bát Chánh Đạo và Ngài còn dạy "Nước biển chỉ có một vị, đó là vị mặn, đạo của ta chỉ có một vị, đó là vị giải  thoát". Cũng vậy, các nhân vật của "Tu Bụi" biết rõ đời là bể khổ bởi bản thân họ đã chứng nghiệm được điều ấy, nhưng khác với chúng ta, họ vượt qua bóng đêm của khổ đau ấy bằng sự nhận thức được cái phù phiếm hời hợt của đời thường và dấn thân vào đời bằng những hành động lợi mình, lợi người.
Qua cuộc đổi thay, Trí Hải trở nên một con người đơn sơ mà thân thiện, sẵn sàng ứng đáp với mọi tình huống. Ông nhận thấy một chiều sâu chưa từng thấy từ người đến cảnh, sự kiện ở chung quanh mình. Khi xóa đi cái lằn ranh giới giả tạo, cái phân biệt giữa ta và người, đó cũng chính là lúc Trí Hải bắt đầu sống với cái chân thật:
Chính lúc Trí Hải không bắt chước mà sống thực hồn nhiên như tiếng gáy con gà thì cũng là lúc ông đã quên đi bản thân mình là ông hoàng, là chủ Thái Ấp, là người đã ba năm vây màn đọc sách, là nhà quý tộc muốn cúi xuống thật thấp, “hạ cố” đi vào cuộc đời và bị cuộc đời quay lưng từ khước. Khi ông thôi không còn quay quắt vào đời thì chính cuộc đời tự động mở ra và vây bủa lấy ông. Người dân Thái Ấp đã nhận được tín hiệu từ trái tim nên tự động tìm đến với Trí Hải. Họ vẫn dành trọn vẹn cho ông lễ nghi, cung kính nhưng không còn sợ hãi vì mối giao tình phát khởi từ những tấm lòng chân thành và nhân hậu với nhau, đó là sự tương kính gần gũi và yêu thương.
Ta gặp những đoạn văn cô đọng như thế rải rác trong từng chương của Tu Bụi. Với tôi, người đang đi thưởng lãm cảnh đẹp của đất Thần Kinh qua các nhân vật trong truyện, chúng như một làn gió sớm đem lại hương đồng cỏ nội, làm sảng khoái cả tâm và thân.  Như một người đi chơi xa, càng đi càng thấy nhiều cảnh hay vật lạ, càng đọc ta càng khám phá những liên hệ qua lại của những nhân vật trong truyện. Có những sự kiện trong đời ta không nghĩ có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của mình nhưng thật sự lại có giá trị rất then chốt quyết định đời mình. Giả thử như Quang Trung Đại Đế đã không chiến thắng hai mươi vạn quân Thanh trong Mùa Xuân Kỷ Dậu, bây giờ thì nguời Việt Nam chúng ta có mang thân phận là người Việt không? Giả sử vì lý do nào đó cha mẹ ta đã chưa gặp nhau thì bây giờ ta là ai? Cũng vậy, ta dần dần khám những chi tiết lớp lang trong truyện, việc này đưa đến việc kia, những cái thấy vậy mà không phải vậy…, những danh phận như “Hoàng Thân, Danh Tướng, Công Thần, Phản Tặc, Chủ, Lão Bộc, Bạn, Thù…” đều là tạm bợ. Khi Trí Hải khám phá ra người lão bộc trung thành nhiều năm ở cạnh mình chính là danh tướng Phạm Xảo, ông mất một người “lão bộc” nhưng bù lại đã được một người bạn đồng hành giúp ông tìm lại chính mình. Trần Kiêm Đoàn đã tóm tắt cái liên hệ ấy bằng những lời văn nhẹ như thơ…
Trí Hải nhìn thẳng người đối diện rồi nhìn bâng quơ vào bếp lửa đang cháy bập bùng, trả lời:
- Huynh và tôi cũng như bếp lửa này. Lửa nóng bao nhiêu rồi cũng sẽ tắt như con người sống già sẽ chết. Tất cả chỉ là tạm bợ nên xưa nay tôi chẳng coi gì quan trọng ngoài cái giao tình chân thật với nhau. Có huynh là có thêm một cây củi trong bếp lửa đời mình. Bếp lửa đời sẽ sáng hơn và ấm hơn, thích lắm chứ.…
Khi Hàn Kỳ Vương, một cao thủ cờ tướng trăm trận trăm thắng đến thách đố Trí Hải trong một trận cờ quyết liệt, ông buộc lòng phải nhận lời nhưng vẫn chưa biết lối ra. Vì biết tất cả đều là tạm bợ nên Trí Hải đã dễ dàng lãnh hội được lời chỉ dạy của người tiều phu (Thầy Tiều) "từ trong cái cũ, nhưng thoát ly cái cũ" và "Đừng dính mắc". Thái độ hoàn toàn buông xả vô chiêu thắng hữu chiêu đó đã giúp Trí Hải thoát ra khỏi cái oan khiên của một cuộc đại bại. Bài học lớn cho một đời người phải chăng cũng là thái độ buông xả, đừng dính mắc. Đừng dính mắc hư danh, đừng vương vấn tình lụy. Bát Nhã Tâm Kinh đã chẳng nhắn nhủ ta "Bồ Tát Quán Tự Tại khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật (tức diệu pháp trí độ) bỗng soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong, Ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn. 
Không vướng mắc còn có nghĩa là làm điều lành bởi vì biết là đó là điều ngay lẽ phải, không phải vì mong cầu được một cái gì đền bù theo tinh thần “cục đất ném đi, hòn chì ném lại” của thế gian thường tình. Ở một đoạn sau ta gặp một cuộc trao đổi giữa Trí Hải và vị thiền giả ung dung, Thầy Tiều:
- Nghiệp do mình tạo chứ có ai trừng phạt hay ban phát cho mình đâu. Rượu không bắt mình say, tiền không bắt mình mắc nợ. Say vì tự mình uống quá chén; mắc nợ vì mình xài quá nhiều. Đừng uống rượu quá đà thì khỏi say. Làm tiền ra nhiều hơn tiêu tiền thì có tiền dành để lại trong tay.
- Nghĩa là mình có thể làm chủ nghiệp của mình?
- Ồ, tất nhiên rồi quý hữu à. Người ta có thể cải nghiệp, giải nghiệp hay không tạo nghiệp.
- Hành động hôm nay là hạt giống cho số phận ngày mai hay đời sau. Tu không phải là chỉ có hình thức vào chùa để làm trụ trì, lên sư ông, thành sư cụ mà tu là tự mình làm thanh sạch cho cái tâm của mình để giải bớt nghiệp chướng cho chính mình bằng cách gieo hạt giống cho ngày mai.
- Có chăng một vùng đất lý tưởng để gieo giống cho đời sau?
- Ba ngàn thế giới, gieo đâu mà chẳng được, miễn sao là giống lành.
“Ba ngàn thế giới, gieo đâu mà chẳng được, miễn sao là giống lành.” Thật là đơn giản mà cũng hết sức sâu sắc bởi đây chính là tinh thần bố thí Ba La Mật của đạo Phật, cứ làm với tinh thần hoàn toàn không dính mắc thì mọi sự sẽ đâu vào đó. Cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn biết bao nhiêu, sẽ không còn chiến tranh, chém giết, hận thù... Đi theo bước thăng trầm của Trí Hải chúng ta được thấy và biết thêm đuợc những nét văn hóa đặc thù của đất dân tộc như nghệ thuật hát chèo, hoặc những chi tiết lý thú về cuộc sống trong cung cấm, nghệ thuật trồng cây kiểng, đánh cờ tướng. Dưới ngòi bút khéo léo của Trần Kiêm Đoàn chúng không chỉ là những chi tiết lạnh lùng mà là những nét khéo léo làm các nhân vật trong truyện kể thêm phần sống động để người đọc như có thể hình dung ra họ trước mắt mình. Ở mỗi một chương, người đọc được đưa từ những ngạc nhiên này đến những ngạc nhiên khác khi được giới thiệu những nhân vật khác của câu truyện. Chúng ta đã gặp Phạm Xảo, Sư Trúc Lâm ở chương 1 và 2, Hàn Kỳ Vương, Thầy Tiều ở các chương 4, 5 và 6 và Tâm An ở các chương 10,11 và 12.  Ờ mỗi một cuộc gặp gỡ, người đọc lại được học hỏi thêm những điều lý thú. Cuộc tranh tài về cờ tướng cho ta được biết về nguồn gốc của các loại cờ từ Đông sang Tây và quan trọng hơn là việc giữ sao cho tâm được an tịnh:
… Trong tâm y lý thường lấy khinh an để trị tác loạn. Trong binh thư cũng có nói: “Biết dấy động đến chín tầng trời, cũng bằng biết dấu mình dưới chín lớp đất.” Ra quân với Hàn Kỳ Vương không phải chỉ đấu cờ đơn giản bằng cách di chuyển, tạo thế  những quân cờ sắp sẵn trên bàn cờ mà cần phải biết dùng “đạo kỳ” để đem cái tâm lặng lẽ mà dẹp cái gốc ồn ào dấy loạn. Nhưng biết tìm cái tâm lặng lẽ ở đâu mà dựa; biết tìm cái trí an tịnh ở đâu mà làm vũ khí. Trí Hải càng cố nhắm mắt trầm tư thì những vọng tưởng lại hiện đến. Tạp ý khi phất phơ như gió nhẹ, khi khởi động như đám mây giông. Chúng kéo đến ùn ùn làm cho trí óc xiêu đổ như muốn nổ tung thành sấm dậy.
Trí Hải càng cố giữ tâm não trống không, những tạp ý càng khởi lên cố lấp đầy chỗ trống. Trí Hải cố quay đi để tránh, những tạp ý cứ săn đuổi bén gót. Người ta có thể dễ dàng xua đuổi một con voi nơi bìa rừng, nhưng lại khó khăn rũ bỏ bầy kiến trong ý niệm. Chân cứ sải dài bước đi thoăn thoắt, nhưng đầu không biết đi về đâu. Ra khỏi Thái ấp, qua khỏi mấy đồng lúa và theo lối mòn của vùng nương rẫy, Trí Hải men theo con đường đất đỏ, đá sỏi nhấp nhô. Cuối dốc lên độn sim, độn móc là lối mòn dẫn tới chân núi Trường Sơn. Mặt trời đang xuống dần bên phía Trường Sơn Tây nhắc nhở cỗ xe thời gian đang tụt dốc bên kia sườn đời của tuổi năm mươi. Nắng xế chiều cắt ngang những ngọn cây cao, trả hai phần bóng mát lại cho phía đông Trường Sơn xanh mướt cây rừng trùng điệp… 
Càng quan trọng hơn là ý nghĩa của việc hơn, thua:
Sự chiến thắng trước thiên nhiên là dấu hiệu tích cực của con người. Nhưng sự chiến thắng của con người trước con người thường mang nỗi xót xa tiêu cực của sự sống còn trên hủy diệt. Tự bản chất, chiến thắng có nghĩa là đè bẹp, loại bỏ, chôn vùi đối thủ yếu hơn. Sự vinh quang náo nức của người chiến thắng là nỗi tủi nhục ê chề của người chiến bại. Nụ cười của kẻ được là tiếng khóc của kẻ thua. Đôi mắt trong ngần không váng vất chút mê mờ tham vọng và nụ cười vô tư của người đốt than không ngừng hiện lên trong tấm gương soi mình tưởng tượng của Trí Hải. Trận cờ thư hùng sắp đến cứ sau mỗi đêm suy nghĩ lại nhạt dần ý nghĩa ban đầu của nó. Trận cờ như một thách đố phù du. Người thua sẽ bị chôn vùi tên tuổi và sự nghiệp. Người thắng cũng sẽ bị chôn vùi trong tham vọng và kiêu căng. Càng gần đến ngày hẹn đấu, Trí Hải càng ít quan tâm hơn. Không còn những buổi tập trận trên bàn cờ với Phạm Xảo và các danh thủ đất Thần Kinh. Trong lúc Phạm Xảo và mọi người ở phía phe nầy hay phe kia đang bị thiêu đốt vì sự nôn nóng lẫn lo lắng đang cháy ngùn ngụt về số phận của trận cờ sắp đến thì Trí Hải càng kéo dài hơn những phút ngồi tĩnh tọa trong rừng vắng. Tâm không dính mắc với cuộc cờ nên trí cũng chẳng tư lự với giới hạn hay thế cờ của phe địch, phe ta…
Người đọc thích thú những chi tiết về cờ tướng, cây kiểng, hát chèo cổ… bởi nó khiến cho các nhân vật trong truyện thêm phần sống động. Ta có cảm tưởng như họ đang trực diện với ta, đang nói với ta những suy nghĩ của họ về cuộc đời, về nhân sinh quan. Những chi tiết mà tác giả đã dầy công tìm tòi nghiên cứu để lồng vào câu truyện hiển nhiên là những điều cần thiết song tự bản chất chúng vẫn chỉ là một mớ kiến thức không hồn ví như những lọ mầu rực rỡ nằm lẫn lộn trước giá vẽ chờ bàn tay người họa sĩ khéo léo biến chúng thành bức họa tuyệt vời. Người đọc cảm thấy chất sống động ở trong các nhân vật trong truyện bởi lẽ Trần Kiêm Đoàn đã gởi vào đấy tất cả tâm sự cũng như lòng tha thiết yêu nghệ thuật và đạo pháp của anh. Bằng sự nồng nàn chân thành ấy anh đã thổi một làn hơi ấm vào các nhân vật, đem đến cho họ cái chất sống thực của đời thường chứ không phải những nhân vật hư cấu của hai trăm năm trước. Ở đầu chương 10, tôi gặp một lời đối thoại thật tâm đắc của Thầy Tiều: 
“Mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, vậy mà biết bao nhiêu người đã xài cuộc sống nầy một cách phí phạm như thể là họ còn có một cuộc đời khác đang cất để dành trong tủ không bằng…” 
Một nhận xét đơn giản mà cũng thật chí lý khiến người đọc sững sờ nghĩ đến bản thân mình. Chính ở trong những cái nhận xét đơn giản mà sâu sắc ấy là một trong những điểm đáng trân quý của Tu Bụi.  Một điều thú vị của việc đọc sách là được khám phá ra ở câu truyện những gì mình đã không thấy khi đọc qua lần đầu, lần thứ hai... Tôi bắt gặp mình ở trong tâm trạng đó khi kiếm được những nét của các nhân vật mà khi nhìn thoáng qua mình đã chưa nhận biết. Ở các chương 14 đến 20 chúng ta được biết thêm một nhân vật hết sức đặc biệt đó là Ba Gấm. Trong Cung Oán Ngâm Khúc, văn hào Nguyễn Gia Thiều đã viết:...
Tuồng huyễn hóa đã bầy ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì…
Trên chín bệ có hay chẳng nhẻ
Khách quần thoa mà để lạnh lùng…
Và:
Thù nhau chi, hỡi đông phong
Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào
Tay Tạo Hóa cớ sao mà độc
Buộc người vào kim ốc mà chơi…          
Dưới ngòi bút mô tả của ông, người cung nữ là một người đàn bà đáng thương, lỡ mang phận liễu yếu đào tơ, lọt vào mắt xanh của thiên tử song cuối cùng phải mỏi mòn trong cung cấm than thân trách phận hẩm hiu đen bạc. Đó là hình ảnh của một nạn nhân thụ động khiến người đọc mủi lòng thương xót. Ở người cung nữ Ba Gấm chúng ta thấy một mẫu người hoàn toàn trái ngược. Nàng không phó mặc cuộc đời cho sự đẩy đưa của số phận mà vươn lên tự mình lèo lái đời mình. Khác hẳn với mẫu người phụ nữ đòi bình quyền (feminists) của xã hội Âu Mỹ vào những thập niên cuối của thế kỷ 20, những người có châm ngôn sống là cái ta trên hết - “me first”, sẵn sàng làm tất cả, miễn là có lợi cho mình và chỉ riêng mình.  Trái lại Ba Gấm đã phấn đấu vượt lên trên hoàn cảnh tự mình giải thoát ra khỏi kiếp tôi đòi, một là thân phận nữ nhi trong thời đại phong kiến, hai là sự khắc nghiệt của chế độ tam cung lục viện. Song không giống như một người đàn bà bình thường khác khi lọt vào địa vị Chánh Chưởng phu nhân chắc hẳn sẽ lạm dụng thế lực của chồng để gây lợi cho bản thân, cho gia đình giòng họ mình theo tinh thần “một người làm quan, cả họ được nhờ” của xã hội đương thời, Ba Gấm đã sử dụng cái khôn khéo của người phụ nữ đảm đang, cái kiến thức về tơ lụa cũng như quan chức của chồng mình để tạo dựng cho mình một cơ nghiệp đồ sộ với một mục đích duy nhất là để giúp người, cứu khổ mà không phân biệt như người đọc sẽ được biết ở phần kết câu truyện. Tình cảm giữa Trí Hải và Ba Gấm được tác giả mô tả một cách hết sức nên thơ và tự nhiên, một sự hòa hợp ắt phải xẩy ra giữa đôi trai tài gái sắc: 
Không cần phải nói gì cả; cũng chẳng cần phải giải thích gì cả mà ngọn lửa tình bên nầy và bên kia, dẫu ngăn sông cách núi, vẫn cảm thấy hừng hực hơi nóng khi chỉ cần nghĩ đến.
Tình yêu nửa đời là một sự sáng thế giữa trần thế vốn khô lạnh và quạnh quẽ nầy. Khi người ta yêu, thế giới nầy bỗng nhiên đổi khác.  Mọi người, mọi vật quanh ta đều như có tâm hồn thánh thiện và dáng dấp đẹp đẽ, dễ yêu. Người ta có thể cười rất vô cớ với một đám mây trên trời xa hay rung động vì tiếng con dế mèn thấp thỏm trong đêm. Người ta có một tâm hồn lúc nào cũng đầy vị tha. Thể xác được tắm trong tình yêu sẽ thành tươi mới. Dòng máu luân lưu rần rần trong cơ thể làm cho người ta đẹp hơn. Chàng trai sẽ nhìn đời bằng tia nhìn hiệp sĩ và cô gái má chín ửng hồng, xinh xắn tự nhiên hơn mười lần son phấn. Chỉ cần nghĩ đến người tình, da thịt đã gây gây như thể có bàn tay đang ve vuốt vô hình. Trí Hải đã từng sống đời vợ chồng, nhưng người đàn bà chỉ là người vợ, chưa phải là người tình. Khá lắm thì cũng chỉ là đi song song chứ chưa bao giờ thật sự ở trong nhau. Ngưòi vợ truyền thống là người em để phục tòng, người chị để chăm sóc, người mẹ để an ủi bao dung, người đàn bà để làm tình và sinh đẻ. Vợ chồng là để thương nhau chứ không phải để yêu nhau; để chăm sóc và lo lắng cho nhau như một người vợ, người chồng chứ không phải để chia sẻ, mơ mộng, nhớ nhung, xao xuyến, tình tự, lãng mạn như một người tình. Vợ chồng cưới nhau rồi là giống như sắm một cỗ xe song mã. Cô dâu và chú rể trở thành hai con ngựa ngoan ngoãn và miệt mài cùng cong lưng kéo cổ xe gia đình nặng trĩu cho đến ngày cả hai cùng răng long đầu bạc, con cháu đầy đàn. Hầu hết những cặp vợ chồng Việt xưa có tất cả, biết tất cả, trừ chất vị tuyệt vời sóng sánh của tình yêu.
Tình yêu tự nó là một nghệ thuật, nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo và tô điểm thường xuyên như những đóa hoa tươi vẫn nở mỗi ngày. Tình yêu cũng là sự ngạc nhiên khám phá. Khám phá ra nét phù du, niềm cảm xúc ẩn chứa trong mỗi con người. Khám phá ra sự bùng vỡ mong manh của thể xác để đập vỡ biên cương của thể xác cho hai thế giới đam mê cùng tan loãng và hòa quyện với nhau.
Ba Gấm khám phá thế giới tri thức và tâm hồn của Trí Hải từ hơn mười năm trước qua những tác phẩm văn chương mà chàng hoàng thân một thời tuổi trẻ đã viết. Trí Hải khám phá Ba Gấm qua giấc mơ dài hơn nửa đời. Giấc mơ của những mối tình vương giả từ trăng và thơ, từ những chuyện tình trong cổ sử, từ bóng dáng tình tự lãng mạn trong đời sống Paris và cung điện Versailles. Gặp nhau, không phải tình cờ mà cũng chẳng phải định số. Đấy là sự đợi chờ của một viên ngọc quý nằm ẩn trong tim. Viên ngọc không tên, không hình dáng, trong suốt như chẳng có gì. Nhưng khi có luồng sáng đợi chờ dọi đến, viên ngọc sẽ ánh lên nghìn hào quang. Tia hào quang mắt thường của nhân gian không thấy, nhưng hai người yêu nhau bỗng thấy chói lòa và tan biến trong nhau. Từ đó, kẻ có tình yêu nhìn trăng không phải là trăng; nhìn mây không phải là mây... vì tất cả đều đã đổi khác. Cả hai cùng cười trong khổ đau, cùng khóc trong sung sướng, cùng quằn quại trong nỗi đam mê cùng tột mà kẻ đứng ngoài thấy không đáng ba xu…
Ở Tu Bụi, người đọc có thể cảm nhận là Trần Kiêm Đoàn đã chau chuốt từng đoạn văn, từng ẩn dụ như trong đoạn trích dẫn ở trên về tình yêu, về viên ngọc quý của tình yêu, về trăng và mây v.v... Một điều rất đáng trân quý là sự tôn trọng người đọc của tác giả. Ông không nhắm vào những thị hiếu thấp hèn của ta mà sử dụng văn chương như một phương tiện để thăng hoa tâm hồn. Trong đoạn mô tả tình cảm giữa Trí Hải và Ba Gấm, ngay cả việc hai người chung đụng thể xác, tác giả đã mô tả sự việc tự nhiên như nó là, để rồi trong một chương sau đó biến nó thành một tình yêu cao thượng: yêu nhau là cùng nhìn về một hướng, cùng đi về một hướng. 
Người đọc thích thú được hướng dẫn qua các tình tiết, xếp đặt của tác giả, những ngã rẽ đi vào lịch sử của nghệ thuật hát chèo thí dụ như giai thoại về một tướng Tàu tên là Lý Nguyên Cát được Hưng Đạo Đại Vương giao lại cho Tướng Trần Nhật Duật để hướng dẫn người nước ta về nghệ thuật ca hát hoặc những điều kỳ bí đằng sau những bức tường của cung cấm, những chi tiết tường tận về thú chơi cây kiểng, uống trà, đánh cờ… Tất cả các chi tiết này tự chúng quả thực là những điều hết sức thú vị song nói chung đó cũng chỉ là những kiến thức vụn vặt nếu không được lồng vào một bố cục chặt chẽ và hợp lý như tác giả đã làm thành công trong Tu Bụi. Những tình tiết, bối cảnh lịch sử ở đây được dung như một phương tiện để tác giả có cớ đưa ta đến một đỉnh cao (climax) của câu truyện: đó là những đoạn đối thoại về đạo về đời. Những liên hệ giữa các nhân vật của câu truyện bắt đầu từ Trí Hải và Phạm Xảo, Trí Hải và Hàn Kỳ Vương-Tử Du-Thiện Giả, Trí Hải-Ba Gấm, Phạm Xảo-Trần Minh đều là những xếp đặt tình tiết hết sức khéo léo nhắm về một mục đích làm sáng tỏ những lý lẽ của đạo, những nghiệp và quả trùng trùng điệp điệp. Trong trường hợp của Trí Hải và Hàn Kỳ Vương, hai người đã từng là địch thủ trong trận tranh đua cờ tướng một mất một còn. Sau trận cờ Hàn Kỳ Vương ngậm ngùi nhận ra mình cũng chỉ là môt nạn nhân của một sự lừa bịp và bắt đầu một cuộc đi tìm lại chính mình. Ở một chương sau đó ta gặp lại nhân vật Thiện Giả với một vai trò là vị cứu tinh của Trí Hải khi ông bị lâm vào tình trạng “tẩu hỏa nhập ma” tự xưng mình là Đấng Giác Ngộ. Như vậy một kẻ trước đây là “kẻ thù”, có lúc sẽ trở thành bạn hay cứu tinh. Liên hệ giữa Trí Hải và Ba Gấm là một chuyện tình thơ mộng nhưng nếu vướng vào vòng tình lụy thì duyên sẽ trở thành nợ. Ở các liên hệ này tác giả đã xếp đặt các gút mắc rất tỉ mỉ ở một đoạn trưóc để rồi gỡ rối ở một chương sau trong tinh thần từ bi và trí tuệ của đạo Phật.   
Đọc nhiều lần các đoạn văn, ta tự hỏi đâu là đạo và đâu là đời, có một lằn ranh giới chăng? Cái lẽ tự nhiên ở đời chính là đạo - Phật pháp bất ly thế gian pháp là vậy. Đọc xong câu truyện, người ta có cảm tưởng đã trải qua một chuyến đi thú vị, ngồi ôn lại những đoạn đường đáng nhớ vừa qua. Đọc xong Tu Bụi, tôi như một người vừa ăn xong một món ăn ngon, muốn chia sẻ với những người bạn thân quen của mình tất cả những vị ngọt của nó một áng văn hay. Đây là một điều nói thì đơn giản nhưng không dễ làm, bởi lẽ mỗi chương của Tu Bụi đều có những lời hay ý đẹp về đạo, về đời, hạnh phúc, hơn thua, được mất… trích dẫn bao nhiêu mới là đủ? Vả lại cũng như khi ta diễn tả một vị ngon ngọt của một món ăn, chỉ có người đang ăn mới thực sự cảm nhận được cái vị ấy, còn diễn tả chẳng qua chỉ là tường thuật lại.   
Cuộc đời là một chuỗi những mâu thuẫn không ngừng. Một trong những mục đích tối hậu của mọi người, mọi vật là mưu cầu hạnh phúc vậy mà chính ở trong sự mưu cầu hạnh phúc ấy người ta đã đi thật xa cái mục tiêu mình tự đặt ra. Mọi việc, mọi sự, muôn loài muôn vật nương tựa nhau mà có, không có việc gì hay sinh vật nào có thể đứng riêng biệt. Vậy mà người ta chấp vào cái ngã đó để rồi tìm đủ mọi cách để thỏa mãn nó. Càng muốn làm thỏa mãn "cái tôi" thì càng không toại nguyện vì lòng ham muốn là cái thùng không đáy - cầu mong mà không được thì sinh ra sầu khổ- lòng lúc nào cũng ở trong  trạng thái "cầu bất đắc" mà cầu bất đắc liên miên thì sẽ khổ liên miên. Bản chất cuộc đời vốn là một dòng sinh diệt không ngừng, các hình tướng đều là tạm bợ, bám vào cái hình tướng ấy người ta chỉ tự gieo sầu chuốc khổ cho mình và người chung quanh. Điều oái oăm trong công việc tôi đang Tu Bụi bản chất là một truyện dài nói lên cái lẽ tự nhiên của đạo, đạo tự nó phải được chứng nghiệm, chứ không thể giải thích, không thể nói bằng lời - như Lão Tử đã nói “Đạo khả đạo, phi thường đạo - Đạo mà ta có thể gọi được không phải là đạo”. (Đạo Của Vật Lý - The Taos of Physics, bản dịch Việt ngữ Nguyễn Tường Bách, NXB Trẻ, Việt Nam 2004). Nhà nhân chủng học và thám hiểm lừng danh người Na Uy Thor Heyerdahl (1914-2001), người đã từng dùng một chiếc bè vượt đại dương đi từ Nam Mỹ đến Polynesia, đã nhận định “Cuộc thám hiểm có ý nghĩa nhất chính là cuộc hành trình vào nội tâm” (The most meaningful journey is the journey inward). Trong tất cả các nhân vật của Tu Bụi, Trần Kiêm Đoàn đã làm nổi bật ý nghĩa của sự thật này. Ở đầu tác phẩm, Trí Hải là một người suốt ngày say mê với chữ nghĩa, say mê đến độ không biết những người ở cùng nhà với mình mặt mũi ra sao. Qua những va chạm với cuộc đời và nhất là qua cách giải quyết với tinh thần vô ngã, ông đã tìm được hướng đi cho cuộc đời của mình. Từ một kẻ lạc đường, Trí Hải đã biết mình đi lạc để hướng về một cuộc sống đầy ý nghĩa như Trần Kiêm Đoàn đã viết thật hùng hồn:
Lạc đường thì cả trăm con đường vẫn không có một lối đi. Khi đã lạc đường thì dù là nhà thông thái, người hoang dã, bà giàu sang, ông bần cùng... cũng chỉ là kẻ lạc đường. Lạc đường là lạc đường. Không có lạc đường cao hay lạc đường thấp; lạc đường giỏi hay lạc đường kém. Lạc đường càng lâu, càng cách xa nơi đến hơn. Tu một trăm năm mà bị lạc thì khoảng cách với bờ giác ngộ càng xa một trăm lần so với người mới đến mà nhận ra rằng, mình bị lạc, để quay về đúng hướng. Mê muôn kiếp mà ngộ nhất thời vì đi lạc suốt muôn kiếp. Bỗng có một giây phút nào đó tỉnh thức quay về đúng hướng để tiến ngay vào điểm chuẩn đã nằm sẵn đợi chờ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp ngay chính trong tâm mình. 
Tác giả viết rất đơn giản và cô đọng, tuồng như ông đã suy nghĩ rất từ lâu về các vấn nạn này. Đúng như thế, ai cũng có Phật tánh, ai cũng có thể thành Phật vì: 
- Cõi Phật ở ngay trong lòng quý hữu. Vậy nên ngoài quý hữu ra, không ai đủ sức làm cho cái tính Phật trong quý hữu hiển lộ. Ai cũng có thể thành Phật trong chính mình, chứ không ai thành Phật trong người khác hay phải biến thành người khác mới thành Phật cả.
- Phải bắt đầu từ đâu để có thể làm cho tánh Phật trong ta hiển lộ?
- Quét những lớp bụi mờ mỗi ngày trong kiếp sống hiện tiền và tích lũy từ bao kiếp trước. Quét mỗi khắc, quét mỗi canh, quét mỗi ngày không bao giờ ngưng nghỉ. Coi chừng lá rụng nhiều hơn lá quét và bụi bám dày hơn bụi lau. Quét dọn siêng năng không bằng ngưng xả rác.
- Phủi bụi hay tu?
- Tu là phủi bụi!
- Tu bụi?
Cảm ơn tác giả Trần Kiêm Đoàn đã đem hết tâm tình của mình ra để viết nên trường thiên tiểu thuyết này bởi đây là những lời tâm sự của anh. Cũng cảm ơn anh đã cho tôi những phút thật ấm lòng trong một mùa đông giá buốt đến tận xương của vùng Midwest mấy tuần qua và trên hết xin đa tạ anh đã giúp tôi thêm vững tin trong tình người và tình đạo trong cuộc đời đầy gió bụi này.
Michigan 2-10-2007       
TRẦN THÙY MAI
TIẾNG VỖ MỘT BÀN TAY
Đọc Tu Bụi của Trần Kiêm Đoàn, 

Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 2007
Ta thường nói “Cơm bụi” “Đi bụi”... Nhưng giờ đây, Trần Kiêm Đoàn đưa ra một khái niệm mới: Tu bụi!
Tu là tìm đường thoát tục, là hướng về vĩnh cửu. Nhưng ở đây, tu là lấm láp gian nan để gánh lấy cõi đời phiền tạp trong đó mình đang sống.
Tu bụi, tức là tu giữa bụi trần. Một câu chuyện thiền được xây dựng trong khung cảnh cổ xưa của một thời trong lịch sử triều đình Huế. Hoàng thân Trí Hải, người đã từng tháp tùng Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin viện binh khi vua Gia Long còn nương náu ở Bangkok, nay trở thành nhà quý tộc tao nhã phong lưu nhất của Kinh thành Huế. Tư chất tài hoa, căn bản văn hóa phương Đông cọng với những kiến thức và kinh nghiệm nếm trải qua những ngày chu du ở châu Âu đã giúp chàng có cái nhìn rộng thoáng về thời chàng đang sống. Những suy nghĩ, chiêm nghiệm về thời cuộc, những phân biệt chân giả ở đời đã khiến chàng phải đối diện với những sự thật sâu thẳm, nhưng có lẽ, chủ trương “tu bụi” đã không đến với chàng nếu không có tiếng gõ cửa thôi thúc từ một mối tình...
Một phụ nữ đẹp, tài hoa, lại rất giỏi làm kinh tế; một nữ doanh nhân cỡi thương thuyền đi Tân Gia Ba, Thái Lan, Trung Quốc để tự lập cho mình một sự nghiệp riêng dù bản thân đã ở địa vị phu nhân quan Chánh Chưởng, có thể an nhàn hưởng phú quý trong dinh thự xa hoa... Một thiếu phụ Việt Nam thế kỷ 19 có dám mặc “áo đầm” phương Tây , có dám sống trọn tính cách của mình như nàng Ga Gấm chăng? Con người Việt Nam thế kỷ 19 có thể có tầm nghĩ như Trí Hải chăng ? Trần Kiêm Đoàn dám xây dựng những nhân vật như thế, vì với anh, con người Việt Nam trong lịch sử thời ấy hoàn toàn có khả năng đạt được những điều như vậy...
Nói chuyện tu hành nhưng trong tác phẩm này Trần Kiêm Đoàn không chủ trương đi quá sâu vào những chiêm nghiệm tâm linh, mà đặt mỗi nhân vật của mình trước một hành trình riêng từ đó làm hiện rõ những mâu thuẫn tiềm tàng trong sự tồn tại của mỗi người. Đi tận cùng số phận của những nhân vật này mới thấy đường tu là đường đến với cuộc đời, một cuộc đời đa đoan, phiền tạp, nhiều oan trái nhưng cũng là cõi người ta hết sức thân thương. Vì vậy tu không phải là trốn tránh cõi người mà là mở lòng ra cưu mang nó, ôm ấp nâng đỡ nó, là viên thành cái Phật tính tiềm tàng nơi mỗi trái tim người.
Người đọc đã quen với cách viết trong các tập ký của Trần Kiêm Đoàn trước đây như Chuyện khảo về Huế, Con yêu bánh nậm và Từ ngõ Huế xưa sẽ phần nào bỡ ngỡ khi đi vào thế giới truyện của Trần Kiêm Đoàn, nơi đây tác giả đã thay đổi cách viết với quyết tâm thử nghiệm một con đường mới trong cả thể loại, bút pháp và ý tưởng. Cũng là xứ Huế với ký ức thăm thẳm và một cái nhìn soi dõi vào quá khứ, nhưng ở những tập ký trước đây là một giọng trữ tình hoài cảm chen lẫn nụ cười trào lộng dí dỏm, còn với tập truyện này là những chiêm nhiệm lắng sâu về đời người và con đường đi tới miền an trú cho mỗi tâm hồn.
Tu Bụi vì thế chính là công án Thiền của một Trần Kiêm Đoàn trăn trở và tìm kiếm trong hành trình sống, trải nghiệm và nhận thức về chính tâm hồn mình. Với hơn 600 trang in, Tu Bụi đến với chúng ta với rất nhiều âm vọng từ một khởi động tâm linh mà tác giả cho ta thấy qua hình tượng Tiếng vỗ một bàn tay:
Vỗ với quá khứ nghe buồn vì ngày qua đã mất;
Vỗ với tương lai bỗng nhạt vì hoài niệm trống không;
Vỗ với hiện tại mới nghe tiếng vọng của trái tim mình và tiếng đập của đôi cánh bướm…
TU BỤI của Trần Kiêm Đoàn
Tôi có duyên được đọc truyện dài Tu Bụi của Trần Kiêm Đoàn ở dạng bản thảo chờ in. Từ khi “download file” được cuốn truyện do cô Đặng Lệ Khánh chuyển qua hệ thống điện thư vi tính, tôi miệt mài đọc cho hết cuốn truyện. Nói chung là một truyện dài thú vị từ đầu tới cuối. Truyện kể về một thời điểm cụ thể (đời vua Gia Long và Minh Mạng) về những con người cụ thể; tuy hư cấu nhưng lại gắn với những nhân vật có thật nên trở thành như thật (giống như Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung vậy.)
Truyện viết theo lối viết chương hồi phù hợp với bối cảnh lịch sử giống như Hoàng Lê Nhất Thống Chí, hay loại truyện tàu Tam Quốc Chí, Thủy Hử, truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ở đây có một điều khác xa với truyện chương hồi nói trên là mỗi chương có một tiêu đề ngắn gọn hầu hết là những vấn đề liên quan đến Tu, đến Thiền và những cõi miền triết lý đạo Phật. Có 28 chương thì có 28 tiêu đề dẫn người đọc dần dần đến một chương cốt yếu của truyện dài: “Tu giữa bụi trần” hay nói một cách gẫy gọn hơn, theo ý tác giả, là Tu Bụi.
Mặc dầu tiêu đề của mỗi chương là các vấn đề liên quan đến Đạo Phật nhưng nội dung của truyện lại rất hấp dẫn với các tình tiết có khi nhẹ nhàng, có khi đầy “kịch tính” qua sự chuyển biến bất ngờ mà người đọc không thể đoán ra được kết cục như lối viết truyện trinh thám. Như trong hai chương Nhập Cuộc và Một Cuộc Cờ. Sự xuất hiện rồi biến mất; rồi xuất hiện lại của nhân vật Hàn Kỳ Vương thật là sự phiêu du thú vị đầy tưởng tượng và suy tưởng. Rồi trong chương 26, Bờ Bên Kia, với trận đấu sinh tử giữa Phạm Xảo và Trần Minh là một tuyệt xảo của lối dẫn truyện tài tình và đưa diễn biến câu chuyện đến đỉnh điểm, rồi kết thúc bằng cái chết của Phạm xảo rất nhân văn. Những diễn tiến tình huống “kịch” như thế lại diễn ra không kịch một tí nào như các chương Nợ Ân Tình, Lửa Tình. Sự xuất hiện của Ba Gấm trong đời của Trí Hải qua một tình huống lạ lùng đã được dẫn dắt với một bút pháp đầy chất thơ. 
Sự xuất hiện của các vị sư Trúc Lâm từ đầu câu chuyện; và sự xuất hiện của Thầy Tiều giữa truyện, rồi đi suốt câu chuyện đã ghi ấn tượng vừa sâu, vừa đậm về đạo lý và triết lý. Ở những thời điểm khó khăn của Trí Hải, tư tưởng hóa giải của đạo Phật đã giúp giải quyết các gút thắt trong đời sống cũng như giúp cởi trói dần dần cho Trí Hải thoát ra khỏi cái áo đời chật chội đầy dính mắc và chấp trước.  Trí Hải, vô hình chung, tiến dần đến với tự tánh chân như bằng cái tâm rỗng lặng. Từ đó, nhận ra Tánh không để trở lại đời thường hành Đạo. Diễn tiến tâm lý nhân vật tiệm tiến theo thời gian và sự việc rất tự nhiên như nó vốn có.
Cuối câu chuyện, độc giả chứng kiến 3 cái chết:
Cái chết đầy chất thơ bi tráng của Phạm Xảo vừa như một lời sám hối muộn màng, vừa là việc đi trọn con đường của một vị tướng vào sinh ra tử nguyện lấy cái chết để nuôi dưỡng cái tâm của một cuộc sống mới.
Những cái chết xót xa đầy lý tưởng “vì nghĩa quên mình” của Ba Gấm và Thầy Tiều là biểu tượng làm dấu nhấn cho việc Tu Bụi giữa đời, đem cái Tâm Giác Ngộ để xả kỷ hành thiện theo lối hành trì bố thí Ba La mật mới cao cả làm sao.
Độc giả còn bắt gặp những đoạn văn nghiên cứu sâu sắc đậm chất tri kiến bác học mới lạ viết về nghệ thuật cờ tướng, về trà đạo, về cây kiểng đượm mùi thiền, về thư pháp như một dòng chảy tài hoa, về nghệ thuật hát bội và cầm chầu như nỗi đam mê đầy cảm tính nghệ thuật, về đời sống cung nữ và học nô bi hài trong nội cung triều Nguyễn, về những lễ nghi triều đình đã bị phôi pha quên lãng với thời gian. Tác giả mượn lời của các nhà sư để viết ra những lý giải đầy tính thuyết phục về Triết lý đạo Phật, những kiến giải minh triết về Thiền tập, phá chấp và tánh Không.
Nói chung, truyện dài Tu Bụi có nhiều điều hấp dẫn cả về cốt truyện, về nhân vật và triết lý Phật giáo. Tất cả hòa quyện nhau nhuần nhuyễn dưới ngòi bút chín tới của Trần Kiêm Đoàn.
Lê Duy Đoàn
Việt Nam, tháng 6 năm 2006.
Tháng 5/2006
Trần Kiêm Đoàn
Theo http://www.trankiemdoan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những mùa nắng Nha Trang

Những mùa nắng Nha Trang Nếu tôi là họa sĩ, có lẽ những giọt nước mắt xa Nha Trang sẽ được vẽ bằng một mầu sắc nào đó rất lung linh trong mộ...