Bụi đời và thục nữ
Tiểu thuyết của Nguyễn Trí.
Nxb Văn hóa - Văn nghệ Tp HCM. 2017
Có thể coi Bụi đời và thục nữ là tiểu thuyết ca ngợi người thục nữ thời đại. Từ
hoàn cảnh gia đình bi đát, phải bỏ học dở dang, Huỳnh Yên đã vượt qua bao khó
khăn và nước mắt, vươn lên đạt được hạnh phúc của đời mình.
Bụi đời và thục nữ gồm hai phần, phần kể chuyện “bụi đời” và phần kể về cuộc đời
của “thục nữ”. Phần “bụi đời” làm nền để tôn lên vẻ đẹp của “thục nữ”. Trên cái
nền của những xô bồ “dưới đáy”, đã nở tươi một bông hoa đẹp ngát hương.
Chuyện “bụi đời” là những câu chuyện được kể trên bàn nhậu của những kẻ vô
công rỗi nghề (tr.116) ở tiểu khu Ba Ba thuộc liên hiệp lâm trường rừng X, một
phần của chiến khu Đ. Nơi đây “Tứ xứ 64 tỉnh hợp lại, đủ chuyện trên trời dưới
đất” (tr.8), “ba chuyện tầm phào”(tr.77), kể về những kẻ “dưới đáy” (tr.71). Phần
còn lại từ chương 5 trở đi (từ trang 178) do Trí Khùng (tác giả) kể. Tác giả
nói rõ: “Kể từ đây không còn chuyện của các bợm rượu ở tiểu khu Ba Ba nữa, đến
lượt Trí Khùng kể chuyện”, “những chuyện chính tôi mục sở thị” (tr. 180). Đó là chuyện gặp lại các nhân vật Mẫn Tàn và cô
gái Huỳnh Yên.
Trục chính của truyện xoay quanh cảnh ngộ của các nhân vật: Mẫn Tàn, vợ chồng
Chín Đẩu, và Huỳnh Yên. Mẫn Tàn từng là một tay lâm tặc có tiếng (tr.30), bỏ rừng
đi làm thuê cho lò heo: Ba giờ sáng mổ heo, ban ngày dong xe thồ đi bắt heo
thuê. Nhờ biết tiếng Anh, Mẫn được giới thiệu vào dạy hợp đồng ở một ngôi trường
vùng sâu. Mẫn cũng dạy thêm, nhưng vẫn nghèo, vì nhậu. Chín Đẩu là sĩ quan Cộng
Hòa. Do mất giấy chứng nhận cải tạo, Chín không được đi định cư nước ngoài diện
H.O. Vợ Chín là gia đình Việt cộng nòi. Vì má vợ chết, nên không ai xác nhận
cho Chín có công với Cách Mạng. Bao nhiêu tài sản của Chín bị vợ xài hoang, phá
hết. Chín buồn đời sinh ra uống rượu, “ngày ba cữ rượu, sáng xị, trưa xị, chiều
là uống chừng nào lết bánh mới thôi. Can rượu dự trữ cho một tuần mới ba ngày
đã không còn một giọt” (tr.18). Con trai lớn làm ăn thất bại, tự vận. Con gái bỏ
nhà đi lúc 16 tuổi. Chín là dân sông nước, không biết làm rẫy nên thất bại…Yên
là con Chín Đẩu. Yên buồn vì cha mẹ cãi nhau, anh Thắng tự tử chết, chị Vui bị
chửi oan nên bỏ đi, anh Bình đi làm lâm tặc. Hai đứa em Tám Hoàng và Út Hậu lem
luốc thất học. Bà Chín không cho Yên đi học nữa. Yên treo cổ trên cây mít ở góc
khuất trong vườn. Bình đi tiểu phát hiện. Yên được cứu. Được thầy Mẫn và nhiểu
người giúp đỡ, Yên cố gắng học. Đến lớp 11, vì bị cha mẹ ép lấy Út Trung, con của
vợ chồng chủ cây xăng Ngọc Bình, Yên đã bỏ đi. Lúc đầu, Yên làm ở chỗ sản xuất
phở, suýt nữa bị cưỡng hiếp. Rồi Yên đến làm công ty, được giao coi kho xuất nhập
vật liệu. Yên không chịu ký nhận những lô hàng gian lận, nên gây ra xô xát và bỏ
đi. Do chuyện xô xát được báo chí đưa tin, Yên gặp lại chị Vui, cùng chị làm
ăn. Yên lấy chồng là Dũng, kỹ sư điện toán làm việc cho công ty Nhật (tr.273). Yên
có shop hàng quần áo và cửa hàng ăn uống. Vợ chồng Yên có 3 con. Họ cho con học
trường quốc tế…
Những chuyện được bợm nhậu kể hầu hết là những chuyện tiêu cực của xã hội đương
thời sau Giải phóng 1975. Chuyện Hùng Thiên Lôi chết vì bị cướp cò súng, Hoàng
Anh chết vì phạm phòng (tr.12), Huy chết vì hổ mang bành (tr.16). Chuyện đánh
nhau ở quán Karaoke vì không nhường mic, chuyện gian lận xăng (tr.184), chuyện
Yên đi làm ở công ty: “Trước tiên là phải đẹp và chịu đi nhà nghỉ với thằng phó
tổng bụng phệ”(tr.253), chuyện gian lận vật liệu ở công ty (tr.256), có cả chuyện
thắng thua trong chiến tranh Việt Nam (tr.75)…
Bụi đời và thục nữ nói nhiều đến những chuyện thối nát trong nhà trường… Học
trò con nhà nghèo bị ức hiếp. Thầy giáo hủ hóa (thầy Thông Ma Thiên lãnh), thầy
Lam quấy rối tình dục học trò. Cô Hiệu trưởng Lesbian (đồng tính nữ), trộm cắp ở
nhà nội trú, nhà trường bị phụ huynh mua chuộc bao che cho con cái hư hỏng. Thấy
Thống - Hiệu phó, thua cá độ, đã khai khống sĩ số những lớp xóa mù để lấy tiền.
Thầy Đậm trọ ở nhà Tám Tàng, đã hủ hóa với Tám là vợ Tàng, bị Tàng bắt quả tang
phải viết giấy nhận tội. Sự phân biệt đối xử với người dạy hợp đồng khiến thầy
Mẫn phải bỏ trường ra đi. Lý do Mẫn ra đề thi môn tiếng Anh lớp 7 bị sai một
câu (tr. 133).
Có thể nói cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là phê phán những hiện tượng tiêu
cực của xã hội ở miền Nam những năm sau 1975.
Tác giả tập trung ghi nhận và mổ xẻ rất nhiều hiện tượng. Chẳng hạn, những tiêu
cực trong giáo dục có nguyên nhân là do thiếu chữ Tâm (tr.169). Tác giả cũng so
sánh với giáo dục miền Nam trước 1975: “nền giáo dục cũ (miền Nam) tốt là bởi
đãi ngộ dành cho giáo chức rất tốt… Giáo chức thời chế độ Cộng Hòa toàn tâm
toàn ý cho giảng dạy không lo chi cơm áo gạo tiền…”(tr. 170). Tuy nhiên nhiều hiện
tượng chỉ là “chuyện tầm phào”, kiểu như chuyện lão Tổng có vợ nhỏ là cháu gọi
vợ cả là dì. Ả 28 tuổi, cắm sừng chồng. Hoặc chuyện “tán gái” của Trung, được kể
dài suốt 4 chương. Đó là hành vi của những đứa trẻ hư, nhưng xã hội lại dung
túng. Đôi khi tác giả có dùng triết lý dân gian (triết lý vặt) để soi chiếu,
như triết lý nhân quả: “Gieo nhân nào gặt quả ấy”, triết lý về sức mạnh đồng tiền:
“Xưa nay kẻ làm ra tiền nói bậy nói bạ người ta còn dỏng tai nghe…”(tr.129),
triết lý về nhan sắc: “Xưa nay nhan sắc luôn có một quyền lực vô hình, nó thống
trị mọi thế giới theo kiểu riêng không thể lý giải được” (172), có cả những câu
triết lý rất “buồn cười”: “Đời mà không có tình yêu thì như chiếc xe đạp mà
không có pê-đan”(tr.199), “Nhất lé nhì lùn, mấy tay lùn trí tuệ luôn hơn người”
(tr. 204)…
Tôi chú ý đến nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Trí.
Việc kể lại những câu chuyện của bợm rượu, chuyện của Yên kể mà không trực tiếp
dựng lại số phận nhân vật trong một bối cảnh không gian thời gian đang vận động
ở thì hiện tại thì đó là truyện kể. Nói cho đúng, Bụi đời và thục nữ chỉ là một
truyện dài, chắp nhặt nhiều truyện ngắn, không phải tiểu thuyết.
Dường như tác giả tập trung ghi cho được những cảnh ngộ, những con người mình
đã giao tiếp, đã tận mắt nhìn (sở mục) và những gì mình đã trải nghiệm, nhờ thế,
hiện thực được bày ra khá bề bộn và sống động. Tuy nhiên kể truyện là để nói điều
gì, tức là thể hiện tư tưởng. “Những điều trông thấy” mà tác giả kể dẫn đến tư
tưởng gì thì tác giả chưa vươn tới được.
Nhà văn tư tưởng sẽ miêu tả sử thi bối cảnh miền Nam sau 1975 khi mà chất “R”
(rừng) còn bao trùm lên toàn xã hội, sẽ đi sâu vào bi kịch của người sĩ quan Cộng
Hòa Chín Đẩu trong thân phận “bên thua cuộc”, sẽ làm cháy lên khát vọng “làm
người lương thiện” (tư tưởng của Nam Cao) của tay lâm tặc Mẫn Tàn và dẫn người
đọc theo những trầm luân của Huỳnh Yên như một thục nữ “tài tình chi lắm cho trời
đất ghen”trong bối cảnh mới (tư tưởng của Nguyễn Du).
Trái lại, Nguyễn Trí say sưa miêu tả những chuyện hủ hóa của thầy
giáo, khoái trá trong việc bày binh bố trận cho Út Trung cưa gái!... Tác phẩm
phản ánh hiện thực chỉ để phản ánh (và cũng chỉ phản ánh những cái tiêu cực),
và hiện thực chưa được chuyển hóa thành tư tưởng-thẩm mỹ. Người đọc tác phẩm cảm
thấy hụt hẫng khi gấp trang sách lại. Những “cái ngày xưa” ở miền Nam sau 1975
nay đã thành “cổ tích”. Độc giả miền Nam chẳng ai muốn nhớ lại cái quá khứ khốn
khổ ấy. Đừng làm cho những thương tâm chảy máu thêm, bởi cuộc sống luôn hướng về
phía trước. Vì thế những chuyện trên bàn nhậu chỉ “mua vui” được những kẻ vô
công rỗi nghề như chính tác giả miêu tả. Tác phẩm không chuyển tải được giá trị
hiện thực cần phải có như Thời xa vắng của Lê Lựu hay Thiên sứ của Phạm Thị
Hoài…
Việc mượn lời các bợm rượu kể chuyện “dưới đáy”(hoặc tác giả hóa thân vào nhân
vật hay chính tác giả là nhân vật) giúp tác giả đem ngôn ngữ đời thường của người
bình dân vào tác phẩm, giúp tác giả viết được nhiều trang chữ (để in). Nhưng đọc
Thục nữ và bụi đời, tôi bị ngộp trong bầu khí dày đặc những lời thô tục,
chửi thề. Tôi lắng nghe xem đâu là giọng của tác giả, bởi giọng của tác giả
chính là cốt cách nhà văn, nhưng Trí Khùng cũng đang ngồi trong bàn nhậu,
nói ngôn ngữ của bợm rựơu, tôi thất vọng.
Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng, trước hết “Văn phải là văn”. Nhà văn là người làm
cho ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ văn chương. Nguyễn Tuân đã viết những
áng văn chương rất đẹp về con người Việt Nam. Nếu ngược lại, thì đó không phải
là văn chương. Ngôn ngữ “bụi” trong Bụi đời và thục nữ làm cho tính văn chương
của tác phẩm trở nên mờ nhạt, mặc dù tác giả có khả năng viết những trang văn
hay như các chương: Con ông cháu cha, Uy quyền, Một góc đời khác.
Vì sử dụng ngôn ngữ “dưới đáy” làm ngôn ngữ chính, lấy những nhân vật dưới đáy
làm nhân vật chính nên khi tác giả đưa những tri thức văn chương vào, (có thể
là để làm sang trang văn chăng?), nó trở nên kệch cỡm, nếu không nói là gây ra
phản cảm. Chẳng hạn, việc so sánh tình lụy của Trung với chuyện tình lụy của
các nhân vật trong sách sử xưa như: Tình sử Võ Tắc Thiên, Trụ vương, Hạng Vũ
(tr.195). Tác giả luận về tình yêu: “Xưa nay ba cái vụ yêu đương ba láp ba xàm
là tốn của thiên hạ nhiểu giấy mực…Chuyện anh hùng vì nhan sắc mà phơi thây thì
vô thiên vô lủng…Vậy thì -xin thưa với ba đào sóng dữ - thằng du côn kiêm bất
hiếu tử tên Trung có lụy tình âu cũng thường, chẳng có chi phải bàn cho nhọc
xác.”(tr. 196) Có lẽ chỉ những bợm rượu khi cao hứng vung tay tới trời mới so
sánh Trung với Trụ Vương, Hạng Vũ. Làm sao một thằng du côn trẻ ranh như Trung
có thể so sánh với tầm vóc Hạng Vũ trong lịch sử được! Viết những dòng này, tôi
biết, tôi sẽ cãi không lại với “bợm” khi rượu đã bốc!
Bợm rượu có thể nói đủ thứ ba láp ba xàm, chuyện tầm phào, nhưng dùng lời bợm rựơu
để nói những chuyện nghiêm túc thành không nghiêm túc thì đó lại là chuyện
khác. Chuyện thắng thua trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975) đã được nhiều
chuyên gia lịch sử, quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới nghiên cứu,
đến nay việc tranh cãi vẫn chưa dứt, vậy mà tác giả phán một câu “rốp rẻng” rằng,
Việt Nam Cộng Hòa thua vì: “toàn bộ những người cầm súng cho Cộng Hòa quá chán
nản cuộc chiến huynh đệ tương tàn, quá chán cảnh con ông cháu cha ở phố đi bar
chơi xì ke xì cọc, quá chán những chỉ huy của họ tham những và buôn lậu”. Xin hỏi
có ai trong cả hai “bên thắng cuộc và bên thua cuộc” muốn cầm súng bắn giết anh
em mình bên kia chiến tuyến không? Nếu nói người lính Việt Nam Cộng Hòa quá
chán nản cuộc chiến huynh đệ tương tàn, thì hóa ra người lính Việt Cộng thích
thú cuộc chiến này sao? Bụi đời và thục nữ chưa đạt tới tầm vóc tư tưởng khi
nói về chiến tranh như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thực ra, dựa vào ý đồ
sáng tác, người đọc hiểu Nguyễn Trí chưa tập trung viết về chiến tranh Việt
Nam.
Khi miêu tả những bước gập ghềnh của số phận Hùynh Yên, tác giả đã can thiệp trực
tiếp vào sự phát triển của số phận ấy, khiến ngòi bút hiện thực bị bẻ cong. Yên
bị gia đình ép lấy Trung, cô bỏ nhà đi. Yên được cô Trang (mẹ của cô Linh là
giáo viên chủ nhiệm của Yên) giới thiệu đến khu công nghiệp Y, gặp cô Minh Tâm.
Đây là nơi sản xuất phở. Yên được sắp xếp chỗ ở, công việc làm hết sức thuận lợi,
vì gia đình Minh Tâm là gia đình Công giáo nề nếp, “ông Thắng chủ nhà là ông
Trùm rất nghiêm túc việc Chúa, thành kính và cần mẫn”. (tr.237) “Năm giờ sáng
ngày Chúa nhật, ông Thắng cùng các thành viên, kể cả mấy đứa đang tuổi ăn tuổi
ngủ đều phải đi lễ”. Người đọc tạm mừng cho Yên. Nhưng đùng một cái! Ông trùm đạo
hạnh ấy lại trốn lễ ở nhà để cưỡng hiếp Yên, may mà Yên thoát được. Viết
như thế thật khó thuyết phục, bởi tác giả miêu tả không logic, nếu không nói là
cố ý phỉ báng người Công giáo? Nếu ông Thắng là kẻ rượu chè trai gái thì
còn có thể giải thích cho hành vi bỉ ổi của ông ta, họăc đứa con nghiện ngập của
ông ta làm bậy với Yên thì còn có thể hiểu. Một ông trùm “rất nghiêm túc việc
Chúa, thành kính và cần mẫn” thì thói quen đạo đức và đức tin không cho phép họ
làm bậy. Bỏ lễ Chúa Nhật và cưỡng hiếp Yên là một tội rất nặng đối với người
Công giáo. Ông trùm luôn biết rõ điều này. Ông trùm là gương mẫu đạo đức cho cả
xứ đạo thì không thể “đại diện” xứ đạo làm điều tồi tệ. Viết về ông Thắng như vậy,
tác giả đã xúc phạm đến đời sống đức tin của người Công giáo. Bởi vì, theo
logic truyện, không cần thiết phải miêu tả ông Thắng phải là một ông trùm thì số
phận của Huỳnh Yên mới nguy hiểm, tác giả chỉ cần cho một công nhân trong nhà
Minh Tâm làm điều này cũng đủ. Tác phẩm là diễn ngôn của tác giả. Thái độ
diễn ngôn của Nguyễn Trí là không thể che dấu.
Kể tiếp chuyện của Yên: Sau đó Minh Tâm lại giới thiệu Yên đến một người bạn
làm ở công ty, nơi đây Yên suýt nữa bị bán cho lão phó Tổng Đài Loan bụng phệ.
Người đọc mơ hồ thấy rằng, tác giả đã miêu tả những người tốt như cô Trang,
Minh Tâm thành những kẻ “môi giới” buôn bán gái. Họ trở thành những người xấu
có vỏ bọc bên ngoài đức hạnh? Bước đường sau đó của Yên hoàn toàn may mắn và
thành công. Yên gặp lại chị Vui, lấy chồng là kỹ sư làm cho công ty Nhật, việc
kinh doanh thành đạt, có 3 con cho học trường quốc tế…Tôi tự hỏi, một cô gái có
trình độ lớp 11, lớn lên ở vùng sâu vùng xa, băng vào đời một thân một mình giữa
phức tạp phố thị, lại có thể thành đạt như những cô gái được học hành tử tế
trong môi trường kinh doanh? Điều ấy thật khó lý giải, nếu không nói rằng tác
giả muốn nhân vật của mình thành “thục nữ”.
Tôi hiểu, việc tạo ra những biến cố của số phận Yên là để làm cho câu chuyện trở
nên ly kỳ, giật gân nhằm câu độc giả. Tác giả đặt tác phẩm của mình vào dòng
văn chương thị trường thì phải đáp ứng những thị hiếu của thị trường, có vậy mới
bán được sách. Tôi chợt nhận ra, những gì tôi bàn về văn chương ở đây thật
vô nghĩa, bởi văn chương thị trường là văn chương giải trí, chỉ thế thôi. Nhưng
lại nghĩ, văn chương giải trí cũng cần có tư tưởng-thẩm mỹ, không chỉ là giải
trí đơn thuần. Bụi đời và thục nữ mới chỉ là chuyện tầm phào trên bàn nhậu!
Tôi đã đọc được một số truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Trí (Bãi vàng, đá
quý, trần hương; Đồ tể; Ảo và sợ; Thiên đường ảo vọng, Bụi đời và thục nữ…)
cùng những truyện ngắn đăng rải rác trên các báo. Rất đễ nhận ra văn chương của
Nguyễn Trí. Bụi đời và thục nữ có đầy đủ những đặc điểm văn chương của Nguyễn
Trí. Những chuyện anh kể là những người, những cảnh, những công việc mà Nguyễn
Trí đã trải qua. Đó là chuyện của những người bình dân, chuyện kiếm sống, kể
“cho bà con cô bác nghe chơi”(Ảo và sợ, tr.78), kể lan man từ chuyện này đến
chuyện khác, nên truyện ngắn lại rất dài (Truyện Quả báo trong Ảo và sợ dài 31
trang in). Nhân vật được tô đậm là kiểu nhân vật yêng hùng, hành xử có chất
giang hồ, bụi đời ngoài vòng pháp luật. Ngôn ngữ kể và góc trần thuật là lời ăn
tiếng nói của người bình dân (có rất nhiểu tiếng chửi thề), không phải ngôn ngữ
văn chương. Không có ngôn ngữ riêng của tác giả. Nguyễn Trí chỉ tập trung miêu
tả hiện tượng mà không thâm nhập lý giải bản chất của hiện tượng, đôi khi có
triết lý vặt. Cho nên tác phẩm tuy có “phản ánh” được một góc hiện thực, nhưng
không có chiều sâu tư tưởng-thẩm mỹ.
Nếu Bụi đời và thục nữ được viết để ca ngợi sức sống của một cô gái, một trang
thục nữ, trong hoàn cảnh bi đát, cô gái ấy đã mạnh mẽ vươn lên, thành đạt những
mơ ước, thì đó là một thông điệp có sức cổ vũ người trẻ khởi nghiệp. Và nếu
sách của Nguyễn Trí bán chạy, nghĩa là đáp ứng được thị hiếu của công chúng thị
trường thì đó là sự thành công. Nhiều “nhà văn Nhà nước” muốn viết được nhiều
và bán được nhiều sách như “Trí Khùng”, nhưng không làm được.
Tôi lại nghĩ, nhà văn hôm nay cần phải lăn mình vào thị trường và thử sức với
thị trường để từ đó viết những áng văn chương mới như Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa
đã làm.
Chú thích:
Tác phẩm này đạt giả 3 cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5 của Hội Nhà Văn Việt Nam
(2020). Người đọc buộc phải hoài nghi về "con mắt tinh đời" của Ban
gíam khảo, và "giá trị" giải thưởng của HNV.
Tháng 3/2018
Bùi Công Thuấn
Theo http://buicongthuan.blogtiengviet.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét