Cuộc đời thơ ấu của vua hề Sạc Lô
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay không ai là không biết đến vua hề Sạc-Lô (Charlot) với
những dáng vẻ đặc biệt khôi hài, với những kiểu cách độc đáo trong mọi cử điệu,
với những phim câm có thể gây những trận cười giòn giã, nhưng đồng thời cũng
làm cho người xem chua xót, bùi ngùi.
Từ xưa vai hề được xem như kẻ phụ thuộc, cốt để làm vui khán
giả hầu giúp đổi thay không khí trong các màn lớp của một vở tuồng. Nhưng với Sạc-Lô,
vai hề đã được nâng cao lên đến tột đỉnh vinh quang của một vai trò chủ yếu bằng
một nghệ thuật siêu đẳng. Bởi qua thiên tài Sạc-Lô, vai hề không chỉ giải trí
người xem mà còn đề cập đến nhiều vấn đề xã hội lớn lao, đồng thời bày tỏ một
quan niệm sống. Sạc-Lô đứng hẳn về phía những kẻ cùng khốn, thiệt thòi, để mà
phê phán cuộc đời. Chính quan niệm sống đúng đắn ấy giúp phát hiện được hết
khía cạnh của tài năng ông và làm nghệ thuật của ông gắn liền, hòa hợp với cuộc
sống chung quanh. Vì thế ông được ngưỡng mộ như một vĩ nhân, và trong phạm vi
nghệ thuật ông là thiên tài quốc tế được nhiều người biết đến nhất.
Chúng ta chỉ biết Sạc-Lô qua những phim câm và thường nghe
nói về ông như một con người có nhiều tài năng, danh vọng, nhưng chưa biết đến
những ngày khốn khổ của ông trong buổi thiếu thời. Có lẽ chưa có một vĩ nhân
nào đã trải qua một tuổi thơ đói nghèo như thế, và cũng có lẽ nỗi khốn khổ ấy
đã sớm giúp ông đạt đến thiên tài, một thiên tài gần gũi nhiều với đông đảo người
trên thế giới này.
Ở đây chúng tôi đã chọn trích dịch đoạn đầu quyển hồi
ký Chuyện Đời Tôi do chính vua hề Sạc-Lô viết về đời mình. Trong khi
chờ đợi điều kiện thuận tiện để in toàn bộ tập hồi ký ấy, chúng tôi mong rằng
đoạn trích dịch này có thể giúp các bạn trẻ suy nghĩ nhiều hơn về sự hình thành
của một thiên tài, và tìm thấy trong những nỗi gian nan mà chính cậu bé Sạc-Lô
trải chịu, nhiều sự khích lệ cho mình cầu tiến.
Sàigòn 1/5/1974
V. H.
Chương 1
Tôi sinh ra đời vào ngày 16 tháng 4 năm 1889 lúc 8 giờ tối, tại
miền Đông Lan (East Lane). Sau đó một thời gian, gia đình chúng tôi đến ngụ tại
khu Lâm-Bết (Lambeth). Cứ tin theo lời mẹ tôi kể lại sau này thì chỗ mà chúng
tôi tới rất là sung sướng. Ở đó có sẵn tiện nghi, chúng tôi được sống trong ba
gian nhà đầy đủ bàn ghế cùng các vật dụng. Một trong những kỷ niệm đầu tiên của
tôi là vào mỗi tối trước khi mẹ tôi đến hí viện, anh Xít-nê (Sydney) và tôi được
đặt nằm trong cái giường tử tế, có chị bồi phòng trông nom. Trong thế giới của
một đứa trẻ con mới ba tuổi rưỡi mà tôi đang sống, mọi việc có vẻ dễ dàng. Anh
Xít-nê, hơn tôi bốn tuổi, có thể làm đủ các trò ảo thuật như nuốt trọn một đồng
tiền và làm cho nó lọt ra ở đàng sau gáy. Tôi cũng có thể làm vậy, và một hôm
tôi đã nuốt trọn một đồng xu khiến mẹ tôi phải chạy tìm thầy thuốc cứu cấp.
Hôm nào cũng vậy, khi mẹ tôi từ hí viện về, bà có thói quen để
ở trên bàn những thứ ngon ngọt mà anh Xít-nê và tôi tìm thấy vào sáng hôm sau,
miếng bánh, hay những cây kẹo, và bù trở lại chúng tôi không được làm ồn vì bà
thường dậy rất trễ.
Mẹ tôi thủ vai trong những hài kịch, bà người xinh xắn, tuổi
tác xấp xỉ ba mươi, mặt sáng, mắt xanh, mái tóc vàng hoe và dài đến độ bà có thể
ngồi lên trên. Anh Xít-nê và tôi đều yêu quí mẹ chúng tôi hết sức. Dù bà không
có sắc đẹp khác thường, chúng tôi vẫn thấy bà thật kỳ diệu.
Thời ấy thành phố Luân Đôn là một đô thị yên lành. Nhịp điệu
sinh hoạt ở đó khá tĩnh, những xe công cộng do ngựa kéo đi cũng tiến chậm chạp.
Không khí nói chung vui vẻ, dễ chịu với những cửa tiệm đáng yêu, với những quán
rượu và những rạp hát.
Rồi một tai biến xảy ra, có lẽ một tháng hay là vài ngày sau
đó, thình lình tôi cảm thấy rằng mọi việc không thể dễ dàng thuận lợi giữa mẹ
tôi với cuộc đời bên ngoài. Bà ra đi suốt buổi sáng với một bà bạn, và khi trở
về tỏ ra kích động lạ thường. Tôi đùa nghịch dưới sàn gỗ và cảm thấy phía trên
mình có sự khua động nặng nề, như tôi đang nghe ngóng dưới từ một đáy giếng.
Tôi nghe mẹ tôi cất lên những tiếng than trách, thỉnh thoảng lại nức nở khóc và
cứ nhắc mãi tên ông An Trung (Amstrong) : Nào An Trung nói điều nọ, An Trung là
thằng quỉ! Sự kích động của bà kỳ lạ và dữ dội đến mức tôi phải khóc lên khiến
mẹ tôi phải ôm tôi vào lòng để mà dỗ dành. Vài năm sau đó, tôi mới hiểu được ý
nghĩa những gì xảy ra hôm ấy. Mẹ tôi ở tòa án về và bà đã kiện cha tôi vì ông
không chịu trả đủ món tiền trợ cấp ăn uống cho mẹ con tôi, và tòa xử không lợi
mấy cho bà. An Trung là luật sư của cha tôi.
Thật tôi cũng hiểu lờ mờ rằng tôi có một người cha, và tôi
cũng không nhớ thật rõ ràng ông ta có sống chung với chúng tôi một lúc nào
không. Ông cũng là một nghệ sĩ, một người trầm lặng, buồn rầu, có một cặp mắt u
tối. Mẹ tôi bảo rằng ông giống Nã Phá Luân. Thời ấy, ông đã lãnh lương khá cao,
bốn mươi đồng “liu” (livre) mỗi tuần. Cái nguy là ông uống rượu quá mức, và
theo mẹ tôi đó là nguyên nhân khiến bố mẹ xa nhau.
Thời ấy nghệ sĩ không sao tránh được say sưa, vì người ta bán
đầy rượu trong các rạp hát, và khi nghệ sĩ diễn xong màn lớp của mình thì họ
thường đến các “ba” ở rạp cụng ly với khán giả. Nhiều rạp thủ lợi nhờ vào bán
rượu hơn là trình diễn và có một số tài tử lãnh được thù lao khá lớn không chỉ
nhờ vào tài năng mà nhờ họ tiêu được khá nhiều tiền ở các “ba” đó. Do vậy, đã
có rất nhiều nghệ sĩ khánh tận vì rượu, và cha của tôi là một trong số người
đó. Vào năm ba mươi bảy tuổi, ông đã qua đời vì nhiễm độc rượu.
Về việc này, mẹ tôi đã kể khá nhiều câu chuyện vừa buồn lại vừa
hóm hỉnh. Khi bố tôi uống, tính tình của ông trở nên hung hãn khác thường. Gặp
một dạo nọ ông nổi cơn lên, mẹ tôi phải chạy đi trốn tại một nơi khác, và khi
ông đánh điện hoảng hốt hỏi bà : “Em làm gì đó? Trả lời ngay đi”, bà đã điện lại
như sau : “Nhảy nhót, ăn chơi, anh yêu dấu ạ”.
Mẹ tôi là người chị cả của hai chị em. Thân phụ của bà là một
thợ giày quê quán ở Ái Nhĩ Lan. Ông có đôi gò má hồng như quả táo, một mái tóc
bạc và một chòm râu giống như Cạc-Lin (Carlyle - Sử gia Tô Cách Lan, thế kỷ 19)
trong một bức họa. Người ông gập lại làm đôi vì bệnh phong thấp và theo ông bảo
là tại ông ngủ nhiều năm trong những cánh đồng ẩm ướt để trốn cảnh sát, vào dịp
các cuộc khởi nghĩa của những thành phần yêu nước.
Bà ngoại của tôi cũng gần như thuộc vào hạng du mục lang
thang. Đó là mối nhục ở trong gia đình. Bà vẫn thường khoe rằng gia đình bà
luôn luôn trả tiền thuê đất mà các đoàn du mục đã cắm trại. Về bà, tôi chỉ còn
ghi lại kỷ niệm của một cụ già nhỏ bé và đầy nhiệt tình, và cũng trò chuyện với
tôi như với một đứa sơ sinh. Tôi chưa lên được sáu tuổi thì bà đã qua đời rồi.
Bà đã sống xa ông tôi do những lẽ nào mà không ai chịu nói rõ. Nhưng theo dì
Cát thuật lại thì chính vì ông tôi từng bắt gặp bà tôi ngoại tình.
Phán đoán giá trị đạo đức gia đình chúng tôi theo những tiêu
chuẩn đạo lý thông thường là phạm vào một lầm lẫn quan trọng như đem một cái
nhiệt kế nhúng vào nước sôi. Thừa hưởng truyền thống như thế, hai cô gái đẹp của
ông thợ giày đã sớm rời bỏ gia đình ra đi, lôi cuốn bởi ánh đèn màu sân khấu.
Dì Cát (Kate), người em ruột của mẹ tôi, cũng là diễn viên
sân khấu, nhưng chúng tôi không được biết khá nhiều về bà, vì bà xuất hiện rất
ít ở trong đời sống chúng tôi. Xinh đẹp và nóng nảy, bà không hòa hợp được với
mẹ tôi. Thỉnh thoảng các cuộc thăm viếng của bà thường được kết thúc một cách đột
ngột, do một nhận xét khó chịu của bà về một đôi điều mẹ tôi đã nói hoặc là đã
làm.
Vào năm mười tám, mẹ tôi đã qua Phi Châu với một người trai
cũng độ tuổi ấy. Bà thường kể chuyện đời sống của bà ở đó, một đời nhung lụa giữa
các đồn điền, giữa các kẻ hầu người hạ, giữa những ngựa xe. Vào năm mười tám bà
sinh anh Sít-nê tôi. Người ta bảo rằng anh là con trai của một huân tước và khi
nào anh hai mươi mốt tuổi anh sẽ hưởng một gia tài độ chừng hai ngàn đồng
“liu”, điều này làm tôi thích thú nhưng cũng làm tôi khó chịu.
Mẹ tôi không nán lại Châu Phi mà quay trở về nước Anh và lấy
cha tôi. Tôi không hiểu rõ vì sao cuộc đời của bà ở nơi miền đất xa lạ đã được
chấm dứt, nhưng vì phải sống trong cảnh khốn cùng tôi thường phiền trách mẹ tôi
sao lại từ bỏ cuộc đời xa hoa như thế. Nghe vậy, bà cười và bảo lúc ấy bà còn
trẻ quá nên không có đủ khôn ngoan để biết lo xa.
Tôi cũng không rõ mối tình mẹ tôi đối với cha tôi ra sao,
nhưng mỗi khi nói về ông, giọng bà vẫn giữ một vẻ thản nhiên, điều đó khiến tôi
nghĩ rằng mẹ tôi không tha thiết lắm nên mới có một thái độ khách quan như thế.
Đôi khi bà gợi lại kỷ niệm cũ với lòng xót thương, đôi khi bà nhắc lại sự say
sưa và sự hung bạo của ông. Sau này, mỗi lần có điều gì phải giận tôi, bà nói một
cách buồn rầu : “Mầy sẽ kết thúc đời mầy trong rượu như cha mầy thôi”.
Mẹ tôi đã biết cha tôi trước khi bà đi Phi Châu. Hai người
yêu nhau và cùng đóng chung trong một gánh hát. Mới mười sáu tuổi, mẹ tôi đã thủ
một vai đào nhất trong gánh hát mình. Nhưng trong một chuyến lưu diễn của đoàn,
bà đã gặp được vị huân tước nọ và theo ông sang Phi Châu. Khi quay về Anh Cát Lợi,
bà đã gặp lại cha tôi và cùng ông nối lại đường tơ đã đứt rồi họ cưới nhau. Ba
năm sau đó, thì tôi ra đời.
Tôi không hiểu có yếu tố nào khác ngoài chuyện rượu chè đã
can dự vào đời sống của cha mẹ tôi, nhưng một năm sau khi tôi ra đời thì họ xa
nhau. Mẹ tôi không đòi phụ cấp gì cả, vốn là đào hát có hạng, mỗi tuần thù lao
tới hai mươi lăm đồng “liu” bà có thể tự lo liệu mọi sự chu cấp cho mình và cho
con cái. Chỉ đến khi gặp rủi ro bà mới tìm cách đòi hỏi cha tôi giúp đỡ, không
thì chẳng bao giờ bà quyết định nhờ tới pháp luật can thiệp.
Bà phải khổ sở vì cái giọng nói của bà. Giọng nói không được
lớn lắm và cứ mỗi lần cảm mạo thì lại bị sưng cuống họng kéo dài đến nhiều tuần
lễ. Nhưng bà bị bắt buộc phải làm việc đến nỗi giọng nói lần lần hư cả. Giữa một
bài hát, giọng bà bể đi, và bất thình lình giọng hát biến thành một tiếng thì
thầm khiến cho khán giả cười rộ rồi cùng la ó phản đối. Mối lo buồn đó khiến
cho sức khỏe của bà suy yếu và tinh thần bà tiều tụy thêm lên. Rồi những giao
kèo với những đoàn hát càng ngày càng giảm sút dần cho đến một lúc bà phải hoàn
toàn thất nghiệp. Chính vì lý do như thế mà lúc mới lên năm tuổi tôi phải xuất
hiện lần đầu ở trên sân khấu. Mẹ tôi thường thích mỗi tối dẫn tôi đến rạp hơn
là để tôi ở nhà một mình. Bà diễn xuất ở rạp Can-Ti-Ni (Cantini), thời đó là một
rạp hát tồi tàn, bẩn thỉu, khán giả chỉ gồm phần lớn là các binh lính. Họ là một
thứ công chúng ồn ào và dựa vào đủ cơ hội để mà diễu cợt diễn viên. Đối với nghệ
sĩ, phải đóng một tuần ở đó là cả một sự thử thách khó khăn. Tôi còn nhớ lúc
tôi đang ở trong hậu trường thì giọng hát của mẹ tôi bỗng dưng bị tắt, chỉ còn
là một hơi thở. Công chúng cười rộ, hát nhại lời bà rồi huýt sáo. Sự ồn ào cứ
gia tăng khiến mẹ tôi bị bắt buộc ra khỏi sân khấu. Khi bà bước vào hậu trường,
bà rất bối rối, rồi bà nói chuyện với viên giám đốc vốn từng thấy tôi hát trước
một số bạn hữu mẹ tôi nên ông bảo tôi đi ra thay thế cho bà. Giữa sự hỗn loạn
như vậy, ông dắt tay tôi bước ra và sau vài lời giải thích với đám khán giả, bỏ
tôi đứng lại một mình ở trên sân khấu. Rồi trước ánh sáng chói chang và những
khuôn mặt mờ khuất trong khói, tôi bắt đầu hát.
Trong khi tôi hát, một cơn mưa tiền rơi xuống sân khấu. Tôi vội
đứng lại, bảo rằng tôi cần phải lượm tiền trước mới tiếp tục được. Điều đó khiến
người ta cười nhiều hơn. Người giám đốc đoàn bước ra với chiếc khăn tay để giúp
đỡ tôi lượm tiền. Tôi tưởng rằng ông ta muốn giữ lấy số tiền đó. Khán giả hiểu
sự lo lắng của tôi càng cười hơn nữa, nhất là khi ông biến mất sau màn với chiếc
khăn tay và tôi ngơ ngác theo ông. Tôi chỉ tiếp tục hát lại sau khi ông đã giao
trọn số tiền cho mẹ tôi. Tôi thật sung sướng. Tôi nói chuyện với khán giả, tôi
nhảy nhót, tôi hát nhại đủ kiểu lối. Với sự ngây thơ của mình tôi nhại cả bài
mà mẹ tôi hát, tôi lại bắt chước giọng bà bị tắt nửa chứng và tôi hết sức ngạc
nhiên thấy điều đó tác động đến khán giả chừng nào. Có nhiều tiếng cười, những
tiếng tán thưởng và một trận mưa tiền khác tuôn xuống. Đến khi mẹ tôi bước ra
sân khấu để đưa tôi vào, bà đón được tràng vỗ tay như sấm. Đêm đó là đêm xuất
hiện đầu tiên của tôi ở dưới ánh đèn sân khấu và cũng là đêm cuối cùng của mẹ
tôi. Khi định mệnh đã bắt đầu chi phối số phận của người, định mệnh gần như
không biết đến lòng thương xót, đến sự cảm thông. Mẹ tôi không còn bao giờ tìm
được giọng nói của mình, rồi như mùa đông nối tiếp mùa thu, cảnh ngộ chúng tôi
càng khốn đốn thêm. Dù rằng mẹ tôi sớm biết lo xa và có dành dụm được ít nhiều
tiền để phòng thiếu thốn, món tiền ấy cũng được tiêu rất chóng. Rồi đến các món
nữ trang của bà và bao nhiêu đồ vật dụng nhỏ nhặt khác nữa cũng được bà đem cầm
đỡ để mượn món tiền nuôi sống qua ngày với niềm hy vọng ngày kia có thể tìm lại
giọng nói của mình. Trong cảnh chờ đợi như vậy, chúng tôi không còn ở ba căn
nhà như cũ mà thu gọn trong hai căn, rồi lại một căn, đồ đạc chúng tôi cũng
thâu hẹp lại và gian phố chúng tôi ở càng ngày trông càng buồn thảm.
Mẹ tôi bèn quay lại với tín ngưỡng, hy vọng nhờ thế bà sẽ tìm
lại giọng nói. Bà đi lễ rất đều đặn và chủ nhật nào tôi cũng phải ngồi ngoan
ngoãn để nghe giọng hát sùng đạo vang dội trong ngôi giáo đường như tiếng động
của bước chân kéo lết. Những bài hát ấy hình như là cảm động lắm vì tôi thỉnh
thoảng bắt gặp mẹ tôi yên lặng ngồi lau nước mắt, điều đó khiến tôi bối rối phần
nào.
Từ khi mẹ tôi lo chuyện tín ngưỡng, ít khi bà gặp lại bạn bè
hát xướng ngày xưa. Tất cả thế giới ấy biến tan rồi, chỉ còn là một kỷ niệm. Và
chúng tôi phải luôn luôn sống trong nghèo túng, thoi thóp sống trong hoàng hôn
u ám lạ thường. Việc làm tìm rất khó khăn, mẹ tôi chỉ chuyên về nghề trình diễn,
còn đau khổ thêm vì nhiều chuyện khác. Bà vốn bé nhỏ, tế nhị và đa cảm, phải chống
đối lại một cách khó khăn với những điều kiện sinh hoạt khủng khiếp trong cái
thời đại mà sự giàu sang cùng với nghèo nàn đạt tới biên giới tột cùng, ở cái
thời đại mà phụ nữ nghèo không có sự lựa chọn nào khác là làm tôi tớ hoặc kéo
lê lết như những nô lệ trong các xưởng thợ. Thỉnh thoảng bà cũng tìm được việc
làm như phụ tá trong bệnh viện nhưng chuyện đó rất hiếm hoi và không được bền.
Kể ra, bà cũng có nhiều khả năng : chính bà may lấy quần áo sân khấu của mình
và bà có thể sử dụng đường kim mối chỉ để may mặc cho kẻ khác, nhưng việc làm ấy
cũng không đủ bảo đảm được sự sống cho ba chúng tôi. Lại thêm cha tôi say sưa,
các đoàn hát ít chịu ký giao kèo với ông nên các món tiền phụ cấp hàng tuần của
ông cũng không đều đặn.
Mẹ tôi bây giờ đã bán hầu hết đồ đạc trong nhà, chỉ còn lại mỗi
chiếc rương với những áo quần sân khấu mà thôi. Bà vẫn bám víu vào đó với niềm
hy vọng tìm lại giọng nói của mình để quay về với sân khấu. Thỉnh thoảng bà lại
sục sạo trong rương tìm vật gì đó, chúng tôi thấy một chiếc áo dài rực rỡ, một
món tóc giả, và chúng tôi bảo mẹ tôi mang vào. Tôi còn nhớ lại hình ảnh của bà
khoác các áo mão vào mình và hát một trong những bài hát cũ do bà đặt lời đã được
trình diễn thành công.
Bà vừa nhảy vừa hát với sự thoải mái kỳ lạ, quên hết mọi việc
vá may, và chúng tôi lại có dịp thưởng thức những bài hát khác của bà, vừa nhảy
theo bà, cho đến khi bà hụt hơi và đuối sức hẳn.
Càng ngày chìm sâu hơn trong nghèo đói, tôi vẫn đem cái tấm
lòng ngây thơ con trẻ phiền trách mẹ tôi sao không trở lại hí trường. Bà mỉm cười
bảo đời sống sân khấu là một cuộc đời giả tạo, sai lạc, và trong cuộc đời như
thế người ta dễ dàng quên mất tín ngưỡng của mình. Tuy vậy mỗi lần có dịp nói về
sân khấu bà lại biểu lộ tấm lòng cuồng nhiệt khác thường. Nhiều ngày, gợi lại
những kỷ niệm cũ, bà bỗng ngồi yên rất lâu vừa cúi xuống để vá may, và tôi cũng
cảm thấy buồn vì chúng tôi không còn tham dự nữa vào cái cuộc đời xán lạn như
thế. Và khi mẹ tôi nhìn lên, thấy tôi buồn bã, mẹ tôi lại tìm mọi cách để an ủi
tôi.
Mùa đông vừa đến, anh Sít-nê không có đồ mặc ấm, mẹ tôi phải
lấy chiếc áo nhung cũ của bà, chiếc áo có những cánh tay sọc đỏ, sọc đen với những
nếp xếp ở vai mà mẹ tôi cố xóa bỏ nhưng không sao được như ý. Anh Sít-nê khóc
khi bị bắt buộc phải đeo chiếc áo khoác ấy:
- Nghĩ xem, bạn bè sẽ nghĩ ra sao về chiếc áo này?
Mẹ tôi bèn đáp:
- Người ta nghĩ gì, kệ họ. Hơn nữa, chiếc áo này có vẻ sang.
Mẹ tôi cũng có khiếu năng thuyết phục đến nỗi tới ngày hôm
nay anh Sít-nê vẫn không hiểu tại sao lại chấp nhận mặc món đồ như vậy. Nhưng
anh vâng lời, và áo khoác ấy với một đôi giày đã được mẹ tôi xén gót khiến anh
thành một đề tài sôi động ở trường.
Đó là thời kỳ mẹ tôi bắt đầu than phiền về chứng đau đầu và
không thể nào tiếp tục may vá được nữa.
Trải nhiều ngày liền bà phải nằm dài trong phòng u tối với
đôi mắt băng bó đầy xác trà. Họa sĩ Pi-Cát-Xô (Picasso) đã có một thời kỳ xanh,
chúng tôi đã biết một thời kỳ xám, trong thời kỳ này chúng tôi đã sống qua ngày
nhờ lòng thương hại của chốn giáo đường, những phiếu kiếm cháo và những món
hàng gởi đến do những cơ sở từ thiện. Giữa các giờ học, anh Sít-nê đi bán báo,
và dù sự đóng góp ấy chỉ như giọt nước trong biển cả cũng đem lại được an ủi phần
nào.
Một hôm, mẹ tôi đang nằm với một cuộn băng trên mắt thì anh
Sít-nê nhảy bổ vào phòng, vất báo trên giường và kêu to lên : “Con đã lượm được
túi tiền!” Anh đưa túi tiền cho mẹ mở ra, bà thấy có một chồng bạc. Bà vội khép
lại, và đuối sức vì xúc động bà ngã xuống giường.
Anh Sít-nê bán báo trong các xe buýt. Trên ghế của một chiếc
xe, anh bắt gặp được túi tiền ở một chỗ ngồi để trống. Anh vội thả một tờ báo
lên trên, làm như vô ý, rồi cúi xuống lượm cùng với túi tiền và bước xuống xe vội
vàng. Đến một vườn rào, nơi một khu đất bỏ hoang anh mở ra xem và thấy đầy bạc.
Anh kể cho chúng tôi nghe tim anh đã đập ra sao, và không kịp đếm số bạc anh đã
chạy thẳng về nhà.
Khi mẹ tôi bình tĩnh lại, bà rốc túi tiền lên giường. Bên
trong còn một túi khác bọc kín và bà mở ra, đếm được bảy đồng tiền vàng. May
thay không tìm thấy địa chỉ nào, nếu không mẹ tôi sẽ chẳng yên lòng sử dụng tiền
ấy.
Tôi cũng không hiểu căn bệnh mẹ tôi thuộc về thể xác hay là
tinh thần nhưng sau đó độ một tuần thì bà khỏi hẳn. Món tiền sớm hết, mẹ con
tôi lại đối diện với những thời buổi khó khăn. Mẹ tôi tìm việc nhưng kiếm không
ra. Tiền nợ chậm trễ, người ta lấy lại máy may. Và cả món tiền mười đồng mỗi tuần
cha tôi chu cấp, ông cũng thôi luôn.
Quá đỗi tuyệt vọng, mẹ tôi nhờ đến một luật sư khác nhưng vì
thấy không hưởng được gì nhiều trong vụ, ông khuyên mẹ tôi giao con cho nhà chức
trách ở khu Lâm Bết để buộc cha tôi thanh toán tiền thiếu.
Không còn phương cách nào khác : mẹ tôi có hai đứa con mà bà
lại đau yếu mãi, bà quyết định ba mẹ con vào hết trong Viện Tế Bần Lam-Bết để sống
qua ngày.
Chương 2
Khi nghe mẹ chúng tôi bảo phải vào trong Viện Tế Bần anh tôi
và tôi không hề cảm thấy nỗi tủi nhục nào vì cứ nghĩ rằng sẽ được bước chân vào
cuộc phiêu lưu, và từ lâu nay sống trong gian nhà chật chội nóng bức, bây giờ
được sự thay đổi cũng là điều may. Phải đợi đến lúc bước khỏi ngưỡng cửa thành
phố tôi mới hiểu được những gì sẽ phải xảy ra. Nơi đây tôi cảm thấy nỗi cô độc,
lạc loài, vì người ta liền chia rẽ chúng tôi, mẹ tôi đi về phía nhà dành cho
đàn bà, chúng tôi về phía dành cho trẻ em.
Tôi vẫn còn như thấy rõ nỗi buồn tê tái của ngày đầu tiên
chúng tôi đến thăm viếng mẹ : nhìn thấy mẹ bước vào phòng khách mặc những quần
áo của Viện Tế Bần tôi thực đau xót làm sao. Bà có vẻ gì lúng túng, lạc lõng.
Chỉ một tuần lễ bà đã gầy đi và già sọm đi. Nhưng khuôn mặt bà bỗng sáng chói
lên khi thấy chúng tôi. Anh tôi và tôi cùng òa lên khóc nức nở, làm cho mẹ tôi
khóc theo. Những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má hóp của bà. Cuối cùng bà tự
trấn tĩnh lại được, rồi mẹ con tôi ngồi trên một chiếc ghế gỗ, tay đặt trên đùi
và bà vỗ nhẹ lên tay chúng tôi một cách âu yếm, mỉm cười nhìn đầu tóc đã cạo ngắn
của anh em tôi. Bà vuốt ve đầu chúng tôi một cách an ủi vừa hứa hẹn rằng mẹ con
chúng tôi lại sớm có ngày hội ngộ cùng nhau. Từ trong tạp dề bà lôi ra gói mứt
dừa mua ở trong câu lạc bộ của Viện dưỡng lão nhờ tiền thêu đan cho một nữ khán
hộ. Khi chúng tôi phải từ giã mẹ để ra đi, anh tôi cứ lặp lại mãi một cách buồn
thảm là anh thấy mẹ già đi quá nhiều.
Dần dà anh em chúng tôi cũng quen thuộc dần đời sống trong viện
nhưng không tránh khỏi buồn thảm. Tôi không còn nhớ thật rõ cuộc sống trong
giai đoạn này, chỉ còn mường tượng những bữa ăn trưa nơi chiếc bàn dài cùng với
những đứa trẻ khác mà ai cũng đều nôn nóng đợi chờ. Một ông cụ chừng bảy mươi
lăm tuổi, với vẻ đĩnh đạc, một chòm râu trắng, một cặp mắt buồn, là người từng
sống lâu năm trong viện chủ tọa bữa ăn. Ông chỉ định tôi ngồi bên cạnh ông vì
ông bảo rằng tôi là đứa bé nhỏ nhất và tôi có những lọn tóc gút quăn nhiều nhất.
Ông gọi tôi là tiểu đồng và bảo khi nào lớn lên tôi sẽ đội mũ chóp cao với một
cờ hiệu và ngồi vòng tay phía sau xe ngựa bốn bánh của ông. Vui sướng trước lời
hứa hẹn như thế, tôi cảm thấy mến ông cụ lạ lùng. Nhưng chỉ một hai ngày sau, một
đứa bé hơn xuất hiện với những lọn tóc gút quăn hơn nhiều thay thế chỗ tôi bên
ông cụ già, và ông cười cợt bảo với tôi rằng những đứa thật bé và tóc thật quăn
luôn luôn giành được ưu tiên.
Ở được ba tuần, người ta đưa anh em tôi đến trường Hân-Huên
(Hanwell) dành cho những trẻ mồ côi và những đứa trẻ lạc loài, cách xa thành phố
Luân Đôn khoảng hai mươi cây số. Tất cả được nhốt trong chiếc xe bò chở bột, và
đó là cuộc du ngoạn dễ chịu lạ thường vì cánh đồng quê bao bọc Hân-Huên thời ấy
thật là xinh đẹp với những khóm cây xanh tươi, những đồng lúa mì chờ gặt, những
vườn cây trái trĩu quả trên cành. Tới nơi, chúng tôi ngồi trong phòng chờ và được
khám nghiệm sức khỏe trước khi cho vào nhập học. Lý do là vì trong số ba bốn
trăm đứa trẻ con nếu có một đứa bé nào bệnh tật hay là cằn cỗi sẽ gây ảnh hưởng
bất lợi cho những trẻ khác, đồng thời tự nó cũng không tránh khỏi những nỗi nặng
nề khổ tâm giữa một cảnh ngộ như thế.
Những ngày đầu tiên tôi thấy lạc loài khốn khổ vì sống trong
Viện Tế Bần tôi vẫn luôn có cảm tưởng gần gũi mẹ mình, điều đó làm tôi an lòng.
Nhưng ở Hân-Huên thì chúng tôi như xa cách quá nhiều. Anh tôi và tôi đều được
nhà trường thu nhận, và bước vào học chúng tôi đã bị cách ngăn, vì anh tôi theo
lớp lớn còn tôi ở lại lớp nhỏ. Chúng tôi cũng phải ngủ trong những khu vực khác
và họa hoằn lắm mới được gặp nhau. Ngày ấy mới trên sáu tuổi, và phải hoàn toàn
cô độc tôi thực khốn khổ không biết chừng nào. Những chiều mùa hạ, đặc biệt vào
những chiều oi bức này, vào giờ cầu nguyện trước khi đi ngủ, lúc quì gối với độ
hai mươi đứa bé khác giữa phòng nhìn qua những khung cửa sổ nghiêng dài, bầu trời
hoàng hôn dần dần tối lại và những đồi xa uốn lượn lờ mờ, tôi cảm thấy mình
hoàn toàn xa lạ với cảnh vật đó.
Nhưng mà ngạc nhiên thú vị biết bao, sau đó hai tháng mẹ tôi
đã tìm cách xin cho anh em tôi được gặp lại người. Nhà trường đưa bọn tôi đến
Luân Đôn rồi đến lại Viện dưỡng lão. Mẹ tôi đứng ở nơi cửa chờ đợi chúng tôi, vẫn
mặc những bộ quần áo ngày xưa của bà. Bà đã đòi hỏi để cho người ta cho chúng
tôi ra chỉ vì bà muốn gặp gỡ con cái trong ngày và bà định rằng sau vài giờ sống
cùng nhau ở ngoài, sẽ về nội ngày hôm đó. Mẹ tôi ở Viện Tế Bần, và chỉ có mỗi
cách ấy mới mong được gặp chúng tôi.
Trước khi bước vào trong Viện, người ta lấy hết quần áo chúng
tôi để bỏ vào nồi chưng hấp và trả lại cho chúng tôi không ủi chút nào. Mẹ tôi,
anh Sít-nê và tôi đều có một vẻ nhàu nát thảm hại khi bước qua ngưỡng cửa Viện.
Lúc ấy, hãy còn sáng sớm và chúng tôi không biết phải đi đâu, cuối cùng đến một
công viên gần đó cách xa một cây số rưỡi. Anh Sít-nê có chín xu gói kín trong một
chiếc khăn, chúng tôi mua nửa cân mận và suốt buổi mai ngồi trên chiếc ghế công
viên gặm nhấm mấy trái cây đó rồi anh tôi lấy một tờ giấy báo quấn thành cục
tròn, tìm một ít dây ràng cột chung quanh để làm quả bóng và ba mẹ con chúng
tôi cùng đùa với quả bóng ấy được một hồi lâu. Tới trưa chúng tôi kéo vào trong
một tiệm nước và đem mấy xu còn lại mua một bánh ngọt, một khúc cá mòi, hai
tách cà phê rồi chia nhau dùng qua bữa. Sau đó chúng tôi quay lại công viên và
anh em tôi nô đùa với nhau trong khi mẹ tôi đan áo.
Xế trưa, chúng tôi về Viện tế Bần. Vừa đi mẹ tôi vừa nói bằng
một giọng nhẹ nhàng : “Mình về vừa đúng giờ buổi trà chiều”. Ban quản trị Viện
tỏ ý bất bình vì chuyến đi ra của mẹ con tôi buộc họ phải chưng hấp lại quần áo
cho chúng tôi lần nữa, và anh Sít-nê với tôi còn phải lưu lại nơi đây trước khi
trở về Hân-Huên, điều này cố nhiên giúp cho chúng tôi được dịp gặp lại mẹ mình
thường xuyên.
Nhưng sau ngày ấy, anh em tôi phải ở lại Hân-Huên gần một năm
trường, một năm xây dựng cho tôi khá nhiều, tôi bắt đầu học và được người ta dạy
cho viết cái tên tôi là Sa-Pờ-Lanh (Chaplin), cái tên đã quyến rũ tôi và tôi cảm
thấy nó giống mình lắm. Trường học Hân-Huên được ngăn làm hai, một khu vực cho
trẻ nam, một cho trẻ nữ. Vào chiều thứ bảy phòng tắm được dành cho những trẻ nhỏ
và công việc trông coi tắm rửa được giao cho những cô gái lớn hơn. Tôi chưa lên
bảy và vào những dịp tắm rửa như thế tôi thấy mắc cỡ lạ lùng. Để cho cô gái vào
trạc mười bốn tuổi đầu chà xát trên cái thân thể trần truồng của mình là nỗi
ngượng ngùng đầu tiên mà tôi cảm thấy trong đời.
Lên bảy, tôi rời khu vực trẻ nhỏ để sang khu vực trẻ lớn, nơi
đây nhận thời hạn từ bảy tuổi đến mười bốn tuổi. Từ đây tôi sẽ có thể tham dự
vào mọi công việc của những cậu học trò lớn. Luyện tập thể dục, thể thao, và cứ
mỗi tuần hai lần tham dự các cuộc du ngoạn ở ngoài trường học.
Dù có làm gì chăng nữa thì cuộc sống ở nơi đây cũng thật cô
đơn. Khung cảnh thật buồn, người ta ngửi thấy sự buồn bã ấy trong những đường
quê quanh co mà hàng trăm đứa trẻ con như tôi sắp theo hàng hai tiến bước. Tôi
thấy ghê sợ những cuộc du ngoạn như thế, ghê sợ những làng mạc mà chúng tôi phải
đi qua, nơi đó dân làng nhìn ngắm chúng tôi một cách tò mò. Họ biết chúng tôi
là những đứa trẻ ở Viện Mồ côi.
Sân chơi của lớp trẻ lớn rộng độ chín mươi trên năm mươi mét,
lát những tảng gạch to lớn. Chung quanh là những tòa nhà bằng gạch có một tầng
lầu, trong đó là những văn phòng, những kho chứa đồ, bệnh xá, một phòng chữa
răng và một phòng thay quần áo. Trong góc u tối nhất của sân trường có một gian
trống từ lâu dùng để nhốt một đứa trẻ khoảng mười bốn tuổi. Đứa bé đã cố vượt
thoát khỏi trường bằng cách leo qua cửa sổ tầng lầu, trổ lên mái ngói, bất chấp
những viên giám thị và những tên pháo bắn lên để đuổi bắt lại. Sự việc này xảy
ra khi lớp trẻ chúng tôi đã đi ngủ rồi. Những đứa lớn hơn, qua ngày hôm sau, kể
lại cho chúng tôi nghe như một câu chuyện phi thường.
Đối với một tội nặng nề vào loại như thế, luôn luôn mỗi ngày
thứ sáu người ta đem ra xử phạt trong nhà thể thao rộng lớn, một phòng khủng
khiếp dài hai mươi mét, rộng mười hai mét, có trần khá cao với những sợi dây thật
dài bắc tới ngọn kèo. Cứ sáng thứ sáu từ hai đến ba trăm học sinh vào khoảng bảy
tuổi đến mười bốn tuổi bước vào và đứng thẳng hàng như lính dọc theo ba bức tường
phòng. Góc tường thứ tư, ở về phía cuối là nơi đặt một bàn dài lớn gần bằng bàn
đặt ở phòng ăn, và ở sau đó là những tội phạm chờ đợi tuyên xử, trừng phạt. Ở
bên tay mặt, trước chiếc bàn ấy, có một giá treo nhiều cuộn dây da và những chiếc
roi gân bò dữ dằn đủ loại.
Về những lỗi lầm không được xem như nặng lắm, người ta căng
dài đứa bé úp sấp ở trên mặt bàn, đôi chân cột lại, và giao cho một viên đội cầm
giữ, trong lúc một viên đội khác cởi ngược thân áo sau lưng đứa trẻ lên đầu. Một
viên Đại úy Hải quân hồi hưu cân nặng không dưới một trăm ký lô là chỉ huy trưởng
ở đây. Một tay đặt ở sau lưng, một tay cầm chiếc gậy bằng một ngón cái và dài
chừng một thước hai, ông ta tiến đến bên cạnh đứa trẻ vừa đo chiều dài chiếc gậy
vào cái khoảng rộng bộ mông của kẻ tội đồ. Rồi với một điệu bộ chậm chạp, trịnh
trọng một cách phường tuồng, ông ta giá cao chiếc gậy rồi giáng gục xuống trên
mông đứa trẻ. Quang cảnh thật là khủng khiếp và bao giờ trong hàng ngũ học sinh
cũng có một đứa ngã xuống bất tỉnh vì phải chứng kiến như thế.
Số lượng tối thiểu của những cú đánh là ba gậy, số lượng tối
đa là sáu. Thường kẻ tội phạm nhận đòn quá số ba ấy kêu lên những tiếng khủng
khiếp lạ thường. Đôi khi kẻ đó nín lại một cách đáng sợ hoặc đã bất tỉnh rồi.
Phải nói là những đòn đánh như thế có một tác dụng uy hiếp thật quá nặng nề, đến
nỗi đứa trẻ bị đánh phải được khiêng tới một tấm nệm lớn đặt nằm dài lên để nó có
thể vặn vẹo mình mẩy ít nhất trong vòng mươi phút đợi cơn đau đớn êm dịu dần
đi. Về những trận đòn bằng roi thì lại khác hẳn. Chỉ cần ba roi là kẻ nạn nhân
đã được hai viên đội tới dìu lấy đưa vào bệnh xá chữa trị.
Học sinh thường khuyên bảo nhau là hễ gặp ai vu cáo điều gì
cũng phải nhắm mắt nhận lấy, dù mình ngây thơ vô tội chừng nào đi nữa, bởi vì nếu
người ta đưa ra được bằng chứng buộc tội thì mình nhất định sẽ bị trừng phạt đến
mức tối đa. Hơn nữa, nói chung thì bọn chúng tôi cũng không biết cách diễn đạt
đầy đủ để tự biện hộ cho sự vô tội của mình. Tôi còn nhớ mãi cái ngày đầu tiên
đến dự một cuộc trừng phạt như thế tôi đã đứng lặng người đi, quả tim đập mạnh
khi phái đoàn ban quản trị trường tiến vào. Ở sau bàn giấy có gã trẻ con tuyệt
vọng đã toan trổ nóc vượt khỏi nhà trường. Người ta chỉ thoáng thấy đầu và vai
nó qua chiếc bàn vì nó có vẻ bé nhỏ lạ lùng. Mặt nó gầy ốm, xương xẩu, điểm những
con mắt thật to.
Sau khi đọc xong những lời cáo trạng một cách trang trọng đặc
biệt, ông hiệu trưởng hỏi to lên:
- Có tội hay không có tội?
Kẻ tuyệt vọng kia từ chối trả lời và chỉ nhìn ông hiệu trưởng
bằng một cái nhìn thách thức. Liền đó người ta dẫn ngay đứa bé lại cái giá kia,
và bởi vì nó quá nhỏ người ta phải kê dưới chân một cái thùng gỗ dùng chứa xà
phòng mới cột được tay của nó vào giá. Nó được lãnh đủ ba roi rồi lập tức được
đưa vào bệnh xá chữa trị vết thương.
Mỗi bữa thứ năm có tiếng kèn thổi vào lúc giờ chơi khiến cho
chúng tôi lập tức bỏ cuộc đứng yên tại chỗ như các pho tượng trong khi viên Đại
úy chỉ huy trưởng dùng máy phóng thanh tuyên bố danh sách những kẻ thứ sáu phải
đến trình diện để được xử phạt.
Vào một thứ năm, tôi thật hết sức kinh ngạc khi nghe tuyên đọc
tên mình. Tôi không sao tưởng tượng nổi tôi đã làm gì nên tội. Đến ngày xử phạt,
vị Hiệu trưởng tuyên bố lớn:
- Trò bị kết tội đốt lửa ở trong phòng tắm.
Quả là không có như vậy. Có vài đứa trẻ đốt mấy mẩu giấy ở
trên nền gạch và trong khi đốm lửa ấy còn cháy thì tôi vào phòng tắm rửa nhưng
tôi không giữ một vai trò nào trong cái vụ này. Ông ta hỏi tôi:
- Có tội hay không có tội?
Đã quá hốt hoảng và bị thúc đẩy bởi một sức lực vô hình tôi ấp
úng nói : “Có tội”. Tôi không cảm thấy chút căm thù nào và cũng không cảm thấy
đó là nỗi bất công nhưng chỉ có một cảm tưởng vô cùng khiếp sợ trong khi người
ta dắt tôi đến chiếc bàn dài để giáng xuống mông ba gậy. Nỗi đau đớn thật dữ dội
khiến tôi ngưng thở. Nhưng tôi không kêu lên một tiếng nào và dầu đau đớn đến
như tê liệt tôi tự thấy mình can đảm và kiêu hãnh, trong khi họ mang tôi lại tấm
nệm để lấy lại sức.
Anh Sít-nê tôi vì phải làm việc ở dưới nhà bếp của trường nên
mãi trong ngày anh mới hay được tin đó. Khi anh đi từng bước một cùng với chúng
bạn vào phòng xử phạt anh nhìn thấy chiếc đầu tôi nhô lên sau cái bàn dài và
anh lấy làm hoảng hốt. Sau này anh kể lại cho tôi hay rằng khi thấy tôi bị đánh
ba gậy anh đã khóc ròng vì nỗi uất hận tràn đầy.
Tôi thường gọi anh bằng tiếng “anh nhỏ của em”, điều đó làm
anh tự hào và anh cảm thấy được vững lòng nhiều. Thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp
lại người anh nhỏ của tôi khi rời khỏi căn phòng ăn. Nhờ anh làm việc bếp núc
anh đã lén cho tôi mẩu bánh nhỏ cắt đôi nhét một cục bơ khá lớn vào giữa. Tôi
giấu chiếc bánh dưới chiếc áo ấm của mình rồi đem về chia với một thằng bạn. Ở
đây không đói khát gì, nhưng cục bơ to ấy quả là món xa xỉ đặc biệt. Những cái
món quà dịu ngọt như thế và những săn sóc êm đềm như thế không kéo được dài vì
anh Sít-nê rời trường để đến dự học tại trại Thủy Quân Ích-Mao (Exmouth). Vào
tuổi mười một những đứa trẻ nhỏ ở viện cô nhi được quyền sung vào quân đội hoặc
vào trong ngành thủy binh.
Từ đó tôi còn ở lại một mình nơi trường Hân-Huên.
Tóc là yếu tố cần thiết đối với nhân cách trẻ em. Lần đầu khi
bị cắt tóc chúng tôi đã khóc sướt mướt và khi nó mọc trở lại, dù mọc cách nào
chăng nữa, cũng làm người ta có cảm tưởng bị rứt bớt một phần của thân thể
mình. Hồi đó tại trường Hân-Huên có một có một bệnh dịch về tóc và bởi vì bệnh
quá đỗi truyền nhiễm nên những trẻ nào cắt tóc đều được đưa tới ở những ngôi
nhà biệt lập tại cuối sân trường. Từ những cửa sổ nhìn ra chúng tôi thấy những
đứa trẻ đáng thương hại kia ngước nhìn chúng tôi một cách buồn thảm, đầu bị cạo
trọc bôi thuốc vàng khè. Quang cảnh ấy thật ghê tởm và chúng tôi thường nhìn
chúng với ý đề phòng. Vì thế khi một cô nữ khán hộ thình lình dừng lại ở sau
lưng tôi tại nơi phòng ăn ngắm nhìn tóc tôi và tuyên bố lớn : “Bệnh rồi” thì
tôi bỗng òa lên khóc nức nở. Cuộc chữa trị phải kéo dài nhiều tuần và đối với
tôi thật là dằng dặc như không bao giờ có thể dứt được. Người ta vội cạo đầu
tôi, bôi đầy chất thuốc và tôi phải mang chiếc khăn quấn vòng quanh sọ như những
công nhân đi nhặt bông vải. Nhưng điều mà tôi không muốn là nhìn qua khung cửa
sổ, như bao nhiêu đứa trẻ khác cùng nhốt với tôi, vì tôi hiểu rõ những sự gờm
nhớm của kẻ bên ngoài… Trong khoảng thời gian tôi bị an trí vì chứng bệnh này
thì mẹ tôi đến thăm tôi. Không hiểu bà làm cách nào mà rời được Viện Tế Bần và
cố gắng tạo được cho chúng tôi một nơi trú ngụ. Sự có mặt của mẹ tôi như sự xuất
hiện của một đóa hoa. Người có vẻ thật tươi đẹp khiến tôi càng thấy xấu hổ về sự
lôi thôi của mình, về cái đầu tóc cạo trọc bôi thuốc vàng khè. Cô nữ khán hộ liền
nói:
- Phải nên thông cảm cho nó nếu trông nó dơ dáy thế.
Mẹ tôi bật cười và bà ôm tôi, hôn tôi, siết trong vòng tay âu
yếm, rồi nói:
- Dầu con dơ dáy thế nào mẹ vẫn thương con.
Một thời gian sau anh Sít-nê tôi rời trường thủy quân còn tôi
từ giã Hân-Huên để về chung sống với mẹ. Mẹ tôi thuê được một chiếc phòng nhỏ ở
sau thành phố và trong một khoảng thời gian bà cũng tìm ra phương cách nuôi bọn
chúng tôi.
Nhưng không bao lâu chúng tôi lại phải vào Viện Tế Bần. Một
phần vì mẹ tôi khó tìm ra công việc làm ăn trong hoàn cảnh đó, một phần vì cha
tôi cũng gặp nhiều trở ngại trong nghề nên tiền cấp dưỡng không được thường
xuyên. Suốt khoảng thời gian chuyển tiếp khá ngắn ngủi này, chúng tôi đã phải dọn
nhà liền tay từ gian phòng này sang gian phòng kia, cuối cùng trở lại cái vòng
lẩn quẩn là chui vào Viện Tế Bần.
Vì có sự đổi thay ấy người ta không đưa chúng tôi vào trường
học cũ mà lại bắt vào một ngôi trường mới thê thảm hơn Hân-Huên nhiều. Ở đây
cây lá um tùm cao lớn, cánh đồng chung quanh bao la và bát ngát hơn nhưng không
khí chẳng có gì vui vẻ.
Một hôm giữa lúc anh Sít-nê tôi đang chơi túc cầu, hai cô điều
dưỡng tìm đến sân banh bảo anh ngừng cuộc ra ngoài, cho anh biết mẹ chúng tôi
đã bị điên rồi và được người ta gởi vào trong dưỡng trí viện gần đấy. Khi anh
Sít-nê nghe được tin ấy anh không hề có chút phản ứng nào và quay lại sân chơi
tiếp tục giữ vị trí mình cho đến mãn cuộc. Nhưng khi cuộc chơi tan rồi anh lặng
lẽ đến thu mình trong một góc sân vắng vẻ và ôm mặt khóc.
Khi anh báo tin cho tôi, tôi không thể nào ngờ được. Tôi
không hề khóc nhưng sự tuyệt vọng làm tôi sững sờ. Tại sao mẹ tôi lại đến nông
nỗi như vậy? Mẹ tôi vui vẻ là thế, linh hoạt là thế, làm sao mà có thể trở
thành người điên loạn? Tôi có cảm tưởng lờ mờ rằng bà đã bị mất trí và đã rời bỏ
chúng tôi mà đi. Trong nỗi tuyệt vọng tôi tưởng tượng thấy mẹ tôi đang nhìn tôi
với một vẻ xúc động khôn tả trước khi bị lôi cuốn mất vào khoảng vô cùng.
Chỉ một tuần sau chúng tôi mới nhận được tin chánh thức về sự
kiện ấy. Người ta cũng cho chúng tôi biết rằng theo quyết định của án tòa, từ
đây cha tôi phải lãnh nuôi dưỡng chúng tôi. Viễn ảnh sống chung với người cha ấy
kích động tôi thật lạ lùng. Trong khoảng đời tôi từ trước tôi chỉ gặp ông có mỗi
hai lần, một lần khi ông trình diễn ở trên sân khấu và một lần khác đi ngang
qua một ngôi nhà ở trong thành phố thấy ông qua vườn với một thiếu phụ. Tôi đã
dừng lại nhìn ông, hiểu theo trực giác rằng đó chính là cha mình. Ông ta làm dấu
gọi tôi lại gần và hỏi tên tôi là gì. Tự nhiên ý thức được cái cảnh ngộ có một
vẻ gì éo le như trên sân khấu, tôi làm ra vẻ ngây ngô và trả lời rằng : “Tên
cháu là Sạc-lơ Sa-pơ-lanh (Charles Chaplin)”. Liền đó ông ném cái nhìn qua người
thiếu phụ, đoạn lục lạo trong túi áo, cho tôi nửa đồng tiền vàng. Tôi không còn
nấn ná lại phút nào, đi thẳng một mạch về nhà và bảo cho mẹ tôi biết rằng tôi
đã gặp cha tôi.
Thế mà bây giờ tôi sắp trở về chung sống với ông. Dù sao đi nữa
thì thành phố ấy cũng là một nơi quen thuộc và không xa lạ tối tăm như chốn trường
này.
Chương 3
Người ta mang chúng tôi đi trong một chiếc xe chở bánh về cái
ngôi nhà ngày xưa, nơi tôi đã thấy cha tôi băng ngang qua vườn dạo nào. Chính
người đàn bà đã sống với ông ngày ấy mở cửa ra đón chúng tôi. Dù có vẻ gì mệt mỏi,
buồn rầu, bà ta coi cũng xinh đẹp, lớn người và cân đối với đôi môi dày, cặp mắt
giống như mắt hươu, ánh nhìn sầu thảm. Khoảng tuổi của bà có lẽ vào độ ba mươi
và tên bà là Lu-i (Louise). Bà bảo chúng tôi ông Sa-pơ-lanh không có ở nhà.
Nhưng sau những thứ nghi thức thông thường và ký vào các giấy tờ đủ loại, chúng
tôi được giao cho bà Lu-i, rồi được bà đưa vào trong phòng khách. Khi chúng tôi
vào, một đứa trẻ nhỏ đang ngồi đùa chơi một mình trên thảm, trạc chừng bốn tuổi
và thật xinh đẹp với những mắt lớn u tối, tóc nâu đầy những gút quăn. Đó là con
trai của bà Lu-i, đứa em cùng cha khác mẹ với tôi.
Gia đình này sống trong hai căn phòng và dù phòng trước có những
cửa sổ khá lớn, ánh sáng cũng lọt vào đó lờ mờ như trong một bể nuôi cá. Mọi vật
đều có vẻ buồn như bà Lu-i. Những giấy dán tường đượm một vẻ buồn, bàn ghế đượm
một vẻ buồn và con cá măng độn rơm ở trong tủ kính đã nuốt con cá măng khác to
ngang cỡ nó để lộ chiếc đầu ra khỏi mõm cũng có vẻ buồn một cách thảm hại.
Trong gian phòng cuối bà Lu-i đặt một chiếc giường nhỏ cho
anh em tôi. Anh Sít-nê thấy quá chật đề nghị được ngủ ở trên đi văng phòng
khách. Bà Lu-i bảo:
- Ngủ đâu cứ đợi người ta sẽ bảo cho biết.
Sau câu nói ấy có sự yên lặng thật là khó chịu và chúng tôi
quay trở lại phòng khách. Ở đây người ta không tiếp chúng tôi một cách niềm nở
và điều ấy chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Chúng tôi đến để báo cô người ta
và lại là con của một người vợ đã bị ruồng rẫy. Hai anh em tôi ngồi yên, chẳng
ai nói một lời nào, vừa nhìn bà Lu-i dọn bàn cho bữa tới. Bà quay sang bảo anh
tôi:
- Mày giúp chút việc coi xem. Đem cái thùng kia múc đầy than
đi.
Rồi quay sang tôi bà bảo:
- Còn mày đến tiệm chạp phô ở gần cửa hiệu Nai Trắng mua một
hào thịt bò muối.
Tôi rất sung sướng được tránh khỏi không khí ngột ngạt ấy, bởi
tôi bắt đầu sợ hãi và hối hận đã rời khỏi nhà trường. Lát sau, cha tôi trở về
và ông đón tiếp chúng tôi một cách nồng nhiệt. Ông có vẻ gì hấp dẫn và tôi đã bị
lôi cuốn một cách đặc biệt. Trong những bữa ăn tôi để tâm nhìn từng mỗi cử điệu
của ông, quan sát cách ăn của ông và cách cầm dao cắt thịt như ta cầm cây bút
chì. Và trong nhiều năm về sau tôi vẫn bắt chước y hệt như ông.
Khi bà Lu-i bảo với cha tôi là anh Sít-nê phàn nàn chiếc giường
quá hẹp, cha tôi bảo anh ngủ trên đi văng bằng sắt. Sự thắng thế ấy của anh
Sít-nê làm bà Lu-i càng thêm oán ghét và bà càng ngày càng tỏ ra thật cay nghiệt
đối với anh ấy. Thường xuyên bà cứ phàn nàn về anh cho cha tôi nghe. Nhưng dù
trông bà khó chịu, buồn thảm, bà không bao giờ đánh tôi cũng không hề đe
dọa tôi lần nào. Nhưng vì bà không thương anh Sít-nê nên tôi gờm sợ bà lắm. Bà
lại uống rượu khá nhiều, điều đó càng làm tôi sợ nhiều hơn. Khi bà say rồi bà
có dáng vẻ của người lạc lõng, mất trí. Bà mỉm nụ cười thích thú và nhìn đứa
con xinh đẹp của bà rồi vừa chửi nó vừa nói những lời dơ bẩn và tục tĩu nhất.
Tôi cũng không hiểu vì sao tôi không hề có sự tiếp xúc nào với đứa bé ấy. Dù là
anh em cùng cha khác mẹ, tôi nhớ hình như tôi cũng chưa từng trao đổi với nó một
lời nào cả, và tôi hơn nó độ chừng bốn tuổi. Đôi khi bà Lu-i uống rượu say và
ngồi yên lặng với một vẻ mặt thật là khó thương, khiến tôi lại sống trong cơn
khiếp sợ lạ lùng. Nhưng anh Sít-nê lại chẳng thèm để ý gì đến bà. Thường thường
anh trở về nhà rất trễ. Còn tôi, người ta buộc hết học phải về ngay để chạy đây
đó mua những thức này thức khác và làm công việc lặt vặt trong nhà.
Bà Lu-i đưa tôi đến học trường thành phố, điều này cũng làm
cho tôi thay đổi phần nào, bởi sự hiện diện của nhiều trẻ khác khiến tôi cảm thấy
bớt nỗi cô đơn. Vào ngày thứ bảy, chúng tôi chỉ học buổi sáng, nhưng cái ý nghĩ
buổi chiều ở nhà lau sàn, chùi dao và cái hình ảnh của bà Lu-i say sưa bí tỉ
khiến tôi cảm thấy chẳng thích thú gì trong cái thời khoảng được nhàn rỗi đó.
Trong khi tôi lo chùi cho sáng mấy con dao thì bà tiếp một bà bạn, nhậu vào, trở
nên khó chịu nhiều hơn, thở than vì phải săn sóc chúng tôi mà bà coi như là một
việc làm hết sức bất công. Tôi nhớ có nghe bà nói : “Với cái thằng này (muốn ám
chỉ tôi) nghĩ cũng còn được, nhưng cái thằng kia là một đống rác cần đem gởi
vào một nhà trừng giới… Hơn nữa, nó cũng không phải là con của anh Sác-li
(Charlie)”. Lối bà nhục mạ anh Sít-nê tôi làm tôi sợ hãi và thật chán nản. Tôi
đến nằm dài buồn thảm trên giường, không sao ngủ được. Lúc ấy tôi chưa tám tuổi
nhưng đó là chuỗi ngày dài nhất và buồn bã nhất của cuộc đời tôi.
Vào một buổi chiều thứ bảy, trong lúc cảm thấy bải hoải tinh
thần như thế, tôi nghe điệu nhạc vẳng ra từ một căn phòng nào đó xuyên qua cửa
sổ của căn phòng cuối, bản nhạc là một hành khúc Ái Nhĩ Lan, kéo dài giữa những
tiếng la náo động của những đứa trẻ và những tiếng cười của những đàn bà bán dạo.
Bao nhiêu sự sống hầu như thản nhiên trước sự đau khổ của tôi, thế mà tiếng nhạc
xa dần tôi lại thầm tiếc không được tiếp tục nghe nữa. Ở một tiệm nước cách đấy
không xa tôi nghe tiếng nói của những khách hàng vào giờ khép cửa, những kẻ nhậu
say hát hò, những câu điệp khúc một thời phổ biến. Khi anh Sít-nê về trễ –thường
thường thì anh vẫn đi về trễ – anh đến lùng ráp một lần trong cái tủ
đựng đồ ăn trước khi vào ngủ. Điều đó khiến bà Lu-i nổi giận và vào một tối nhậu
say bà bước vào phòng lôi hết chăn phủ ở trên giường anh, bảo anh phải cút đi
ngay. Nhưng anh Sít-nê chừng như chờ đợi việc xảy ra thế. Lập tức, anh thò tay
vào dưới gối rút ra một lưỡi dao nhọn ba khía, đó là cái vặn nút chai mà anh đã
mài nhọn mũi từ lâu. Anh nói:
- Nào lại gần đi, thử xem tôi có dám đâm cái này vào ngực bà
không.
Bà ta lùi lại, hết sức kinh ngạc:
- Thằng quỉ, nó định giết tôi.
Anh Sít-nê nói bằng giọng kiểu cách:
- Đúng vậy, tôi sắp giết bà.
- Đợi ông Sạc-li trở về coi nào.
Nhưng cha tôi ít khi về nhà lắm. Tôi còn nhớ lại một chiều thứ
bảy ông và bà vợ đã nhậu say mèm và cũng không hiểu tại sao chúng tôi cùng ngồi
với vợ chồng người chủ phố trong cái phòng khách của họ ở nơi tầng dưới. Dưới
ánh đèn hơi, cha tôi có vẻ xanh xao một cách thảm hại và đang lúc có những điều
buồn bực trong lòng ông cứ lầm bầm trong miệng không dứt. Đột nhiên ông thọc
tay vào túi áo lôi ra cả một nắm tiền, ném mạnh xuống đất, những đồng tiền vàng
tiền bạc chạy loạn khắp nơi. Tác động của sự việc ấy thật là lạ lùng. Chẳng ai
có một cử chỉ nào cả. Vợ người chủ phố ngồi yên với một vẻ mặt khó thương nhưng
tôi bắt gặp mắt nhìn soi bói của bà dõi theo một đồng tiền vàng ngoằn ngoèo chạy
vào dưới chiếc ghế bành đặt tại góc phòng. Mắt tôi cũng theo dõi nó như thế. Thấy
mọi người cứ như chết sững cả, tôi tự bảo mình tốt hơn là nên tìm lượm số tiền
bị vung vãi đó. Bà chủ phố và những người khác bắt chước tôi nhưng cũng không
dám hành động một cách ngang nhiên dưới cặp mắt nhìn đe dọa của cha tôi.
Vào một thứ bẩy, sau giờ tan học, tôi trở về nhà không thấy
ai hết. Theo như thường lệ thì anh Sít-nê suốt ngày đi đá bóng tròn và bà chủ
phố bảo cho tôi biết rằng bà Lu-i dẫn con đi đâu từ lúc sáng sớm. Phản ứng đầu
tiên của tôi là thấy nhẹ nhàng vì như thế là tôi khỏi lau nhà và khỏi chùi dao.
Tôi đợi khá lâu để được ăn trưa nhưng rồi tôi phải ngạc nhiên tự hỏi phải chăng
thiên hạ đã bỏ rơi mình. Rồi càng về chiều cũng vẫn không thấy ai cả. Chuyện gì
đã xảy ra đây? Gian phòng có một vẻ gì đáng sợ và sự trống rỗng của nó làm tôi
khiếp hãi. Tôi đã bắt đầu thấy đói cồn cào. Nhìn trong tủ đựng đồ ăn, không còn
chút gì. Khó lòng chịu đựng lâu hơn cảnh tượng của những chiếc cửa mở rộng
trong cảnh vắng không, và quá sầu não tôi ra khỏi nhà lang thang suốt cả buổi
chiều nhìn ngắm người ta bày bán trong các chợ búa gần đấy. Rồi tôi lang thang
trong các đường phố có nhiều cửa hàng, ném những tia nhìn thèm khát vào trong tủ
kính của những gian hàng thực phẩm, trong đấy những thịt heo quay, bò nướng, những
củ khoai màu vàng óng tẩm trong nước “xốt” hấp dẫn lạ thường. Tôi bỏ nhiều giờ
coi mấy người bán thuốc dạo rao hàng, quang cảnh khá nhộn nhịp ấy giúp tôi quên
được phần nào cơn đói đang giày vò mình và cái thảm cảnh hiện tại của tôi.
Khi tôi về nhà thì trời đã tối. Tôi gõ vào cửa nhưng không
nghe ai trả lời. Người ta đi hết cả rồi. Quá đỗi khốn khổ tôi đến một góc phố vắng
cách đấy không xa ngồi xuống vệ đường, nhìn xem thử có ai trở về không. Tôi thật
mệt nhọc và khổ sở, tự hỏi anh Sít-nê tôi bây giờ ở đâu. Gần khuya, đường phố vắng
người, chỉ có lang thang vài kẻ bộ hành về trễ trong đêm. Tất cả ánh đèn trong
các cửa tiệm dần dần tắt hẳn, trừ các ánh sáng nơi nhà bào chế và những tiệm nước.
Tôi thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Thình lình tôi nghe tiếng nhạc vang lên. Khúc nhạc say sưa
không biết chừng nào từ quán Nai Trắng vẳng lại lan truyền âm thanh vui nhộn
trên cả khu vực vắng vẻ. Đó là bài hát “Cây kim ngân hoa và con ong” do một tay
nhạc tài tình điều khiển trên dương cầm nhỏ, đệm theo giọng kèn. Từ xưa đến giờ
tôi chưa từng để ý đến nhạc khúc êm đềm nào cả nhưng bản nhạc này sao mà du
dương thơ mộng đến thế, vui vẻ và đầy nhiệt tình, ấm áp vỗ về khiến tôi quên được
nỗi niềm tuyệt vọng và tôi băng ngang qua đường tìm đến nơi có tiếng nhạc vang
ra. Tôi thấy người chơi dương cầm mù lòa, giương những hố mắt trống rỗng và một
người khác có một vẻ mặt đần độn, chán chường, sử dụng cây kèn.
Bản nhạc kết thúc mau quá và sau khi các nhạc công đi rồi đêm
tối lại càng buồn thảm chừng nào. Mệt nhọc, chân tay mỏi rời, tôi lội ngược về
đến nhà, không tự hỏi rằng bây giờ đã có ai chưa. Tôi chỉ muốn mỗi một điều là
được đi nằm. Nhưng trong lúc ấy tôi thấy lờ mờ hình bóng một người đang băng
qua vườn vào nhà. Đó là bà Lu-i với đứa con nhỏ chạy trước. Tôi rất kinh ngạc
thấy bà bước đi khập khiễng và bà nghiêng hẳn một bên. Ban đầu tôi đoán bà đã bị
thương nơi chân trong một tai nạn nào đó, nhưng rồi tôi mới nhận rõ là bà nhậu
say bí tỉ. Từ trước tôi chưa bao giờ nhìn thấy những người say sưa đi đứng xiêu
vẹo như thế. Tôi nghĩ giữa cái tình trạng bà ta như thế tốt hơn mình đừng nên
chường mặt ra và hãy cứ đợi bà ta vào nhà xem sao. Lát sau, bà chủ phố đi tới
và tôi đi vào với bà. Trong khi tôi rón rén bước lên cái cầu thang không có ánh
đèn, hy vọng có thể đi ngủ mà không ai chú ý đến thì bà Lu-i từ đâu hiện ra lảo
đảo ở trên bực thang. Bà nói:
- Mày vào đây để làm gì? Ở đây đâu phải nhà mày.
Tôi đứng lặng câm, không biết nói gì. Bà tiếp:
- Mày không được ngủ đây nữa, tối nay. Tao chán bọn mày quá rồi.
Cút đi. Cả mày và cả thằng anh mày nữa. Để cha bọn mày lo lắng cho bọn mày đó.
Không lưỡng lự một phút, tôi quay người lại bước xuống cầu
thang, ra ngoài. Tôi không còn mệt nhọc nữa, tôi như lấy lại sức lực. Tôi đã từng
nghe cha tôi là người khách hàng của một quán rượu cách đó non một cây số và
tôi tiến về hướng đó hi vọng tìm gặp ông. Nhưng tôi đã thấy bóng ông tiến lại,
nổi bật dưới ánh đèn đường. Vừa khóc thút thít, tôi nói:
- Bà ấy không cho con vào, chắc bà đã uống nhiều rượu.
Chúng tôi lại đi về nhà và tôi nhận thấy bước chân cha tôi
cũng đi lảo đảo. Ông mở cửa phòng khách bước vào, đứng đấy yên lặng với vẻ đe dọa
và nhìn vào bà Lu-i. Bà ta cũng đứng bấu tay vào thành lò sưởi, loạng choạng ở
trên đôi chân. Ông hỏi:
- Tại sao không cho chúng vào?
Bà ta nhìn ông với vẻ sợ hãi rồi hạ giọng nói:
- Anh nữa, anh muốn đi chơi nơi nào thì cứ việc đi.
Thình lình cha tôi với tay cầm lấy cái bàn chải áo khá nặng để
trên tủ nhỏ gần đấy ném mạnh vào bà. Bàn chải đập thẳng vào má của bà. Đôi mắt
của bà nhắm lại rồi bà té nằm bất tỉnh dưới đất như bà tiếp nhận với niềm an ủi
sự rơi vào trong quên lãng.
Hành động cha tôi khiến tôi bối rối. Một sự thô bạo như thế
khiến tôi mất hết tấm lòng tôn kính đối với ông ta. Sau đó, những gì xảy ra, kỷ
niệm của tôi thật là mơ hồ. Hình như lát sau khi anh Sít-nê trở về, cha tôi bảo
hai chúng tôi đi ngủ rồi ông ra đi trở lại.
Tôi được biết chuyện cha tôi và bà Lu-i có điều cãi cọ với
nhau vào sáng hôm ấy vì ông để bà ở nhà cả ngày và đến nơi người anh ruột, chủ
nhân của nhiều tiệm nước trong khu phố ấy. Ông có rủ bà cùng đi nhưng cảnh ngộ
bà khó xử nên bà từ chối, do đó cha tôi đã đi một mình, và để báo thù trở lại,
bà cũng bỏ đi nới khác.
Bà Lu-i yêu cha tôi. Dù tôi còn quá bé nhỏ nhưng tôi cũng cảm
nhận được điều đó khi thấy đôi mắt của bà buổi chiều mà bà đứng trước lò sưởi sững
sờ vì bị xúc phạm bởi cái thái độ của ông vừa qua. Tôi cũng chắc rằng cha tôi
cũng yêu bà ấy. Tôi được thấy những sự kiện chứng minh điều đó. Ông cũng thường
tỏ ra dịu dàng, tình tứ với bà, và mỗi buổi tối đi đến hí trường ông vẫn chào
bà cẩn thận với những tiếng nói ngọt ngào. Sáng chủ nhật nào không nhậu rượu,
ông dùng điểm tâm với chúng tôi, vừa kể lại cho bà nghe những màn diễn xuất của
các nghệ sĩ bạn hữu và chúng tôi nghe ông nói một cách say mê. Tôi ngồi quan
sát ông như con thú săn rình mồi, thâm nhập từng mỗi cử điệu của ông. Một hôm gặp
lúc vui vẻ ông lấy chiếc khăn quấn vào trên đầu và chạy đuổi bắt đứa bé chung
quanh chiếc bàn vừa nói : “Ta là vua xứ Thổ Nhĩ Kỳ đây”.
Vào tám giờ tối, trước khi đi đến hí trường ông thường ăn sáu
trứng sống đánh trong rượu vang. Ít khi ông dùng những thức ăn khác nặng hơn. Cứ
thế mà ông chịu đựng qua ngày. Ông cũng ít khi về nhà và nếu cần phải trở về là
để cho tiêu số rượu mà ông đã uống ở các quán.
Một hôm bà Lu-i phải đón tiếp đại diện của Hội Bảo vệ trẻ em
chống lại những sự ngược đãi. Điều này làm bà tức giận hết sức. Mấy người này sở
dĩ đến vì Cảnh sát đã báo cáo tìm thấy chúng tôi nằm ngủ lúc ba giờ sáng ở bên
vệ đường. Đó chính là đêm mà bà Lu-i đóng cửa không cho chúng tôi vào nhà. Cảnh
sát đã bắt buộc bà mở cửa để chúng tôi vào.
Sau đó ít lâu, trong lúc cha tôi đi trình diễn ở các tỉnh, bà
Lu-i nhận được một lá thư báo tin mẹ tôi đã ra khỏi nhà thương điên. Vài ngày
sau, bà chủ phố vào cho biết dưới nhà có người đàn bà muốn gặp Sít-nê và Sạc-lơ.
Bà Lu-i nói:
- Mẹ chúng mày đó.
Có một phút giây bối rối, rồi anh Sít-nê vọt xuống cầu thang
để nhào trong tay mẹ tôi, còn tôi thì quấn trên đôi gót chân của bà. Chúng tôi
đã tìm gặp lại người mẹ ngày xưa, người mẹ dịu hiền, tươi vui đang ôm chúng tôi
siết chặt vào lòng.
Bà Lu-i và mẹ tôi cảm thấy lúng túng trong chuyện gặp gỡ nên
mẹ tôi bước ra ngoài chờ đợi, trong lúc hai anh em tôi gom nhặt đồ đạc của
mình. Chẳng có chút gì thù hận bất bình ở giữa hai bên, vì bà Lu-i tỏ ra hết sức
ngọt ngào và cả khi bà nói lên lời chào tạm biệt với anh Sít-nê bà cũng dịu
dàng, thân thiện.
Chương 4
Mẹ tôi thuê được gian phòng trong một ngõ hẻm sau hãng sản xuất
dưa muối và tương hạt cải. Cứ mỗi buổi chiều, mùi chua của dấm tràn đầy không
khí. Nhưng tiền thuê nhà khá rẻ và bây giờ chúng tôi được đoàn tụ cùng nhau. Sức
khỏe mẹ tôi khá tốt và không bao giờ chúng tôi nghĩ rằng bà đã từng bị ốm đau
trầm trọng.
Tôi không còn nhớ được nhiều đời sống chúng tôi trong thời
khoảng ấy. Chừng như hồi đó cũng không có gì quá đỗi khó khăn và cũng không có
những vấn đề gì nan giải. Số tiền cấp dưỡng mười đồng hàng tuần lễ về phần cha
tôi trở lại tương đối đều đặn và dĩ nhiên là mẹ tôi bắt đầu trở lại công việc
thêu đan của bà.
Dầu sao ở thời kỳ ấy tôi còn giữ được kỷ niệm về một sự kiện
như sau : đầu đường mà chúng tôi ở có một lò mổ, người ta thường dắt cừu đi
ngang trước nhà của chúng tôi để đưa đến nơi xẻ thịt. Có lần một con trong đám
cừu thoát chạy, luồn trong hè phố làm lũ trẻ con ầm ĩ cả lên. Đứa thì cố đuổi bắt
nó, đứa thì trượt chân ngã té. Nhìn theo con thú vừa nhảy vừa kêu lồng lộn tôi
buồn cười quá, vì sự việc ấy có một vẻ gì hài hước. Nhưng khi người ta bắt được
nó rồi vội lôi nó về nhà mổ, thực tế của bi kịch ấy làm tôi đau lòng nên tôi chạy
vào trong phòng vừa khóc vừa kêu với mẹ : “Họ sắp giết nó mẹ ơi! Họ sắp giết nó
rồi mà!”. Nhiều ngày về sau tôi vẫn còn nhớ lại cuộc săn đuổi trong buổi xế chiều
mùa xuân dạo ấy. Tôi cũng tự hỏi sự kiện đã xảy ra ấy có hàm chứa những mầm mống
cho các cuốn phim mà tôi thực hiện về sau, là sự hỗn hợp của buồn và vui như
thường xảy ra trên đời này.
Bây giờ trường học mở thêm cho tôi những chân trời mới : tôi
được học sử, học thơ và học khoa học. Nhiều môn học này tôi thấy tầm thường và
chán nản quá, nhất là về môn toán học : môn toán cộng trừ khiến tôi hình dung một
gã nhân viên ngồi sau cái quầy thu tiền mà theo tôi nghĩ chỉ có nhiệm vụ duy nhất
là để ngăn ngừa khách hàng đánh cắp khi thối bạc lại. Sử ký chỉ chứa những chuyện
hung tàn bạo ngược, những chuyện đoạt ngôi, giết chúa, và những ông vua giết vợ,
giết anh, giết em, giết những con cháu của mình. Còn về địa lý thì toàn là những
bản đồ. Và về thi ca thì không có gì khác hơn là lối tập luyện thể thao cho cái
trí nhớ. Nền giáo dục nhồi nhét cho tôi những mớ tri thức và những sự kiện chỉ
làm cho tôi chán ghét mà thôi. Nếu có một kẻ nào đó chịu khó ít nhiều đọc cho
tôi nghe về mỗi môn học một lời khích lệ có thể kích động được trí não tôi, cho
tôi tiếp thu những gì vui vẻ hơn là sự kiện khô khan, giúp tôi giải trí và tò
mò hơn bằng cách xoay đổi con số, hoặc cho tôi học trên những bản đồ ít nhiều
thi vị, nếu người ta giúp tôi có cách nhìn mới lạ hơn về sử ký, nếu người ta dạy
cho tôi âm nhạc ở trong thi ca thì tôi có thể hy vọng trở nên một người thông
thái.
Từ khi mẹ tôi trở về sống với chúng tôi bà lại khởi sự khích
động nơi tôi khiếu thích đối với sân khấu. Luôn luôn bà cho tôi biết rằng tôi
không thiếu tài năng. Nhưng mãi đến cái tuần lễ trước ngày Giáng sinh, khi nhà
trường cho trình diễn “Cô Bé Lọ Lem” tôi mới cảm thấy muốn được phô bày những
gì mẹ tôi đã dạy cho tôi. Không hiểu vì lý do nào tôi không được dự vào việc
phân vai và trong thâm tâm tôi rất muốn thế vì tự nghĩ rằng mình giữ một vai
trong vở tuồng đó nhất định hay hơn những kẻ đã được chỉ định. Vai nam trong tuồng
thật là buồn rầu, khô khan. Vai nữ đã không có chút nhiệt tình lại thiếu năng
khiếu hài hước. Các câu đối đáp theo lối học bài ở trường, đôi lúc nhấn mạnh
các đoạn bằng một giọng điệu giả tạo hết sức khó nghe. Nếu được thủ vai một
trong những người chị xấu xa của cô Lọ Lem, với những lớp tuồng mẹ tôi vẫn thường
truyền dạy cho tôi thì tôi thích thú biết là chừng nào. Tuy vậy, cô bé thủ vai
Cô Bé Lọ Lem đã thu hút tôi. Cô ta vừa đẹp, vừa thanh, trạc mười bốn tuổi và
tôi thấy yêu cô ta lạ lùng. Nhưng cô ta thật xa tầm tay với của tôi nhiều quá,
kể trên bình diện xã hội cũng như cách biệt tuổi tác.
Khi tôi dự cuộc trình diễn tôi thấy vở tuồng thật là thảm hại,
cố nhiên không kể vẻ đẹp của cô đào chính đã khiến cho tôi buồn bã phần nào.
Nhưng hai tháng sau, khi người ta cho tôi đi các lớp để trình diễn bài “Con Mèo
của Cô Pri-Xi-La (Priscilla)” thì tôi gặt được thành công hết sức vẻ vang. Bài
đó là một độc tấu mẹ tôi thấy đem bày bán trong một tiệm sách và thấy nó quá ngộ
nghĩnh bà đã nhìn xuyên qua kính mà chép đem về để dạy cho tôi. Trong một giờ
chơi tôi đọc cho một thằng bạn tôi nghe. Ông Rết, giáo sư của tôi, đang ngồi
làm việc bỗng ngẩng đầu lên và ông cảm thấy thích thú nên lúc mọi người trở lại
chỗ ngồi ông bảo tôi trình diễn lại làm sao cho cả lớp vui vẻ cười vang. Sau lần
đó danh tiếng tôi vang dậy và qua ngày sau người ta đưa tôi đi từ lớp này sang
những lớp khác, ở những phòng học con trai cũng như con gái để mà trình diễn
bài độc tấu ấy. Kể ra tôi cũng đã từng bước lên sân khấu thủ một vai trò thay
thế mẹ tôi trước một khán giả đông đảo khi tôi chỉ mới lên năm nhưng đây mới là
lần đầu tiên tôi nếm được sự vinh quang của mình. Nhờ vậy trường học trở thành
một nơi hấp dẫn hơn nhiều. Và từ một đứa trẻ nhỏ khuất lấp, cả thẹn, tôi thành
một trung tâm điểm gợi sự chú ý của các thầy dạy cũng như bạn học. Tinh thần học
tập của tôi nhờ vậy mà cũng mở mang thêm lên. Nhưng sự học tôi phải đành bỏ dở
khi tôi nhập vào đoàn vũ “Tám Đứa Trẻ Con” ở Lên-Cát-Sia (Lancashire).
Cha tôi quen ông Giác Sơn, bầu gánh đoàn vũ, nên khuyên mẹ
tôi cho tôi gia nhập đoàn ấy để bước vào nghề sân khấu cho quen vừa kiếm được
tiền giúp đỡ gia đình : tôi được ăn ở và mỗi tuần lễ mẹ tôi lãnh được nửa đồng
cua-ron (couronne). Ban đầu nghe khuyên như thế mẹ tôi có vẻ dè dặt nhưng đến
ngày làm quen được ông bầu và gia đình ông, bà mới bằng lòng.
Ông bầu Giác-Sơn (Jackson) ở vào trạc tuổi năm lăm. Vốn là thầy
giáo trong vùng. Ông có ba trai một gái cũng đều gia nhập ban vũ. Ông là người
Thiên Chúa Giáo ngoan đạo và sau khi vợ qua đời ông đã tham khảo ý kiến bầy con
trước khi tục huyền. Bà vợ thứ hai này lớn hơn ông ít tuổi và ông kể lại cho
chúng tôi nghe một cách thành khẩn trang nghiêm ông đã cưới bà trong trường hợp
nào. Sau khi quyết định tục huyền ông đã cho đăng lời rao tìm vợ trên một nhật
báo và nhận được hơn ba trăm lá thư. Sau khi cầu trời hướng dẫn cho ông trong
cuộc tìm kiếm khá quan trọng ấy, ông chỉ mở ra một lá mà thôi và đó là thư bà vợ
hiện giờ. Bà cũng là cô giáo làng và như đáp đúng lại lời cầu nguyện của ông,
bà cũng là người Thiên Chúa.
Tạo hóa đã không ban phát cho bà Giác-Sơn đặc ân có được hình
thể hấp dẫn mà bà cũng chẳng có một chút gì gợi cảm. Tôi còn nhớ lại khuôn mặt
xanh xao gầy gò của bà với lớp da nhăn, có lẽ vì bà đã phải sinh con vào lúc tuổi
tác khá cao. Nhưng bà là một người vợ thủy chung và khá tận tâm. Dù vẫn con phải
cho con bú mớm bà đã cố gắng rất nhiều để giúp đỡ ông điều khiển đoàn vũ. Câu
chuyện bà gặp gỡ ông được bà kể lại với những chi tiết khác hẳn. Theo bà thì họ
cũng đã trao đổi thư từ với nhau nhiều ngày nhưng chưa hề thấy mặt nhau lần
nào. Mãi gần ngày cưới, khi cùng hội kiến ở trong phòng khách giữa lúc gia đình
của bà chờ đợi ở gian kế cận thì ông Giác Sơn chỉ nói với bà một câu : “Cô là tất
cả những gì mà tôi chờ đợi”. Và bà cũng nói với ông tương tự như thế. Để kết luận
lại, bà bảo với chúng tôi bằng một giọng nói có vẻ khó chịu : “Nhưng mà tôi chẳng
chờ đợi làm mẹ đến tám đứa trẻ thế này”.
Sau sáu tuần lễ học tập, người ta bảo tôi có thể ra nhảy
trình diễn được rồi. Bây giờ tôi hơn tám tuổi, tôi đã mất hẳn tự tin và ra công
chúng lần đầu tôi thật sợ hãi. Tôi nhấc chân lên một cách khó khăn lạ thường.
Trình diễn một mình như những đứa khác còn đòi hỏi phải học thêm nhiều tuần lễ
nữa.
Tôi cũng chẳng thích thú gì được làm vũ công trong đoàn tám
người. Cũng như mấy đứa trẻ khác, tôi muốn có màn diễn xuất riêng biệt cho
mình. Như vậy, không chỉ mình hưởng được nhiều tiền hơn nhưng còn vì tôi cảm thấy
điều đó thích thú hơn là chuyện vũ. Tôi vẫn muốn thành kịch sĩ nhưng phải có
gan diễn xuất một mình. Tuy thế, tấm lòng ưa thích làm một cái gì hơn là việc
nhảy đẩy tôi tìm tới yếu tố hài hước. Tôi mơ trình diễn một màn có hai nhân vật,
hai đứa trẻ mặc theo lối lang thang trong các hài kịch. Tôi bàn với một đứa
khác và cùng quyết định hợp tác với nhau. Chúng tôi sẽ tự xưng là “Những Tên
Triệu Phú Lang Thang”, sẽ mang thêm râu trên mép và những kim cương to bự trên
ngón tay mình. Chúng tôi cho rằng như thế là có đủ vẻ ngộ nghĩnh và kiếm ăn được,
nhưng mà than ôi, giấc mơ ấy không bao giờ có thể thực hiện.
Khán giả rất thích đoàn vũ vì theo lời ông bầu gánh thì chúng
tôi chẳng giống một chút nào với những trẻ con hoang đàng. Ông thường hãnh diện
tuyên bố là bọn trẻ của đoàn ông không hề hóa trang bao giờ và vẻ hồng hào trên
đôi má chúng là nét tự nhiên. Nếu có đứa nào ở trong chúng tôi có vẻ xanh xao
trước khi bước vào sân khấu, ông bắt buộc nó lấy tay bẹo má cho được hồng ra. Hồi
đến Luân Đôn sau khi trình diễn hai ba rạp tiếp trong đêm chúng tôi đã quên điều
đó mãi cho đến lúc ông bầu ở ngoài hành lang nhìn vào mở rộng miệng cười và đưa
tay chỉ lên má khiến chúng tôi sực nhớ lại cố dẹp cái vẻ mệt nhọc buồn thảm của
mình và nở những nụ cười tươi.
Khi chúng tôi đi lưu diễn các tỉnh, ban ngày chúng tôi vẫn đến
học ở các trường những nơi chúng tôi đi qua và điều này chỉ bổ sung thêm kiến
thức của tôi một cách chậm chạp.
Vào dịp Giáng Sinh chúng tôi được đưa tới một sân khấu lớn ở
Luân Đôn trình diễn một màn kịch câm trong vở “Cô Bé Lọ Lem”. Tôi được đóng
chung với Mác-Xơ-Lanh (Marcelin), một vai hề rất nổi tiếng của sân khấu và vở kịch
thâu gặt được kết quả hết sức khả quan. Mặc dù Mác-Xơ-Lanh không thủ vai gì
quan trọng nhưng ông ta là cái đinh thu hút mọi sự chú ý. Những năm về sau,
Mác-Xơ-Lanh sang Nữu Ước, tại đây ông rất thành công. Nhưng đến khi các rạp hát
loại những màn xiếc kiểu đó thì công chúng quên ông ngay. Vào năm 1918 khi tôi ở
Lốt Ăng-Jơ-Lết (Los Angelès), dự một buổi xiệc và biết có Mác-Xơ-Lanh trong
đoàn, tôi chờ đợi xem tên ông được quảng cáo lớn nhưng thật buồn lòng khi biết
ông chỉ là một vai hề trong số đông đảo các vai hề khác của gánh hát đó, một
gánh hát thật tầm thường. Sau khi vãn hát tôi có tìm đến phòng ông và tự giới
thiệu, nhắc lại ngày xưa tôi đã thủ vai với ông trong màn kịch câm ở tại Luân
Đôn, nhưng ông tỏ ra chẳng sốt sắng gì. Dưới lốt hóa trang của một vai hề ông vẫn
có vẻ thảm hại, chìm đắm trong nỗi buồn phiền. Cách một năm sau tôi nghe tin
ông tự tử ở tại Nữu Ước. Người ta chỉ đọc thấy trên mặt báo vài hàng ghi rằng một
người thuê nhà cùng chỗ với ông nghe một phát súng và đến nơi thấy ông nằm trên
đất, khẩu súng nơi tay, dĩa hát vẫn còn quay bản “Trăng Sáng Và Hoa Hồng”.
Khá nhiều kịch sĩ nổi danh người Anh đã phải tự tử. Đên-Vin
(Denville), một tay diễn viên hài kịch thượng hạng, ngày kia bước vào tiệm rượu
nghe người nào đó nhận xét về ông : “Thằng cha đó hết thời rồi”. Chỉ vài giờ
sau, ông đã bắn một phát súng vào đầu ở bên bờ sông Ta-mi. Xê-Ri-Đăng
(Sheridan), một trong những diễn viên gạo cội của sân khấu Anh cũng đã tự tử
như thế trong công viên Gờ-Lát-Gô (Glasgow) vì đến trình diễn ở đây không gặt
hái được thành công như ý. Phờ-Răng Côn (Frank Coyne)mà tôi đã từng hợp tác
trong sự trình diễn là một kịch sĩ vui vẻ, hăng hái rất được nổi tiếng. Ông rất
dễ thương, bao giờ cũng thấy tươi cười. Nhưng một buổi chiều khi sắp dạo chơi với
vợ trên chiếc xe ngựa ông ta bảo đã bỏ quên vật gì phải quay vào nhà. Hai mươi
phút sau, người vợ chờ đợi quá lâu trở lại tìm ông thì thấy ông đã nằm chết ở
trong phòng tắm giữa một vũng máu, trên tay còn lưỡi dao cạo : ông đã cắt cổ, gần
như cắt luôn đầu mình.
Khá nhiều nghệ sĩ mà tôi được xem khi còn nhỏ bé, nhưng người
đã gây ấn tượng sâu đậm nơi tôi, không phải luôn luôn là hạng thành công nhưng
thường là những người có nhân cách lạ lùng. Dát-Mô (Jarmo), người trình diễn
trò xảo thuật lăn cây thường tự buộc mình theo một kỷ luật hết sức chặt chẽ, và
buổi sáng nào ông cũng ép mình luyện tập trong nhiều giờ liền. Dù sống một cách
đạm bạc, cuộc đời tám đứa trẻ trong đoàn vũ thật dễ chịu. Thỉnh thoảng chúng
tôi vẫn có gây gổ cùng nhau nhưng điều đó chẳng có gì đáng kể. Ông Giác Sơn vốn
là người nhân hậu. Trước khi tôi rời khỏi đoàn độ chừng ba tháng, chúng tôi có
đến tham dự một buổi trình diễn kiếm tiền giúp đỡ cha tôi lúc đó đau nặng. Rất nhiều
nghệ sĩ tham dự và không nhận tiền thù lao, kể cả tám đứa trong đoàn của tôi. Tối
đó, cha tôi xuất hiện ở trên sân khấu, thở rất nặng nhọc và rán hết sức để nói
vài lời cảm tạ. Tôi đứng ở bên sân khấu nhìn ông và không ngờ rằng ông sắp lìa
đời.
Khi ở Luân Đôn, cứ mỗi cuối tuần tôi trở về thăm mẹ tôi. Bà
nhận thấy rằng tôi xanh xao quá, gầy rạc hẳn đi và công việc vũ rất làm hại phổi.
Vì quá lo lắng, bà viết thư gởi cho ông Giác Sơn nói về chuyện đó khiến ông nổi
giận trả tôi về nhà, bảo rằng tôi chẳng đáng gì mà phải gây nên lắm điều lo
nghĩ cho một bà mẹ quá ưu tư vậy. Chỉ vài tuần sau quả nhiên tôi bị bệnh suyễn.
Cơn suyễn khá nặng đến nỗi mẹ tôi cứ nhất định rằng tôi bị bệnh lao và bà mang
tôi lập tức vào bệnh viện để khám nghiệm. Người ta nhận thấy phổi tôi rất tốt,
nhưng tôi đang bị suyễn nặng. Trong nhiều tháng dài tôi phải chịu đựng cơn bệnh
dày vò, hô hấp thật là hết sức khó khăn. Nhiều lúc tôi muốn nhảy qua cửa sổ mà
chết cho rồi. Những lần xông hơi bằng các lá cây, chăn trùm kín đầu, giúp tôi dễ
chịu phần nào. Dần dần rồi bệnh cũng được thuyên giảm.
Những kỷ niệm về thời đó lúc sáng lúc mờ trong trì não tôi. Ấn
tượng rõ nhất vẫn còn lưu lại cho đến bây giờ là chúng tôi bị chìm ngập trong
cái vũng bùn nghèo khổ. Tôi cũng không sao nhớ lại hồi đó anh Sít-nê tôi ở đâu.
Vì anh hơn tôi bốn tuổi, anh chỉ bước vào trong tư tưởng tôi thỉnh thoảng mà
thôi. Có lẽ anh sống với ông ngoại tôi để giúp an ủi phần nào mẹ của chúng tôi.
Và cứ như thế chúng tôi dời nhà liên tục, tìm những nơi nào rẻ nhất, dù tồi tàn
nhất để sống qua ngày.
Tôi ý thức thật rõ ràng cảnh khổ ở trong đời sống xã hội mà sự
nghèo nàn đã buộc chúng tôi chấp nhận. Dù là những đứa nghèo khổ mạt hạng thì
vào những ngày chủ nhật, chúng vẫn có thể dùng bữa ở nhà. Kẻ nào không ăn tại
nhà vào những buổi chiều chủ nhật thuộc vào thành phần của kẻ ăn xin, và đó
chính là trường hợp của chúng tôi vậy.
Chương 5
Anh Sít-nê tôi bây giờ lên mười bốn tuổi, đã rời trường học
và giữ chân bưu tín viên ở nhà dây thép gần đấy. Nhờ cái đồng lương nhỏ nhoi của
anh và tiền mẹ tôi kiếm được trong sự may vá, chúng tôi cũng sống đắp đổi qua
ngày. Tiền mẹ tôi kiếm thật là ít ỏi mà công việc bà thật là nặng nề. Thường
thường, buổi tối, tôi thức nhìn bà cúi khòm người trên máy may, ngọn đèn dầu
hôi tỏa sáng lờ mờ chung quanh đầu bà và khuôn mặt bà cúi xuống trong khoảng
tranh tối tranh sáng, đôi môi của bà hé ra theo sự điều khiển đường may chạy
nhanh dưới mũi kim máy, và cứ như thế tiếng máy đều đều đưa tôi vào trong giấc
ngủ. Khi phải làm khuya như vậy, thường là cần phải thanh toán một món nợ nào.
Không kể hàng tuần phải trả tiền góp chiếc máy may đó.
Một cuộc khủng hoảng xảy ra : anh Sít-nê cần có bộ đồ mới. Mọi
khi anh vẫn mặc bộ đồng phục của bưu tín viên để mà đi làm, mặc luôn cả ngày chủ
nhật, cho đến một lúc bạn bè của anh diễu cợt quá sá điều đó. Suốt hai tuần liền,
vào ngày nghỉ việc, anh phải ở mãi trong nhà, cho đến khi mẹ chúng tôi tìm cách
mua về cho anh một bộ quần áo nỉ xanh. Tôi cũng không hiểu làm sao mà bà tìm được
mười tám “xi linh” để mua sắm. Số tiền ấy làm điên đảo đời sống kinh tế chúng
tôi, đến nỗi mẹ tôi cứ mỗi buổi sáng thứ hai lại đem bộ quần áo ấy gởi tiệm cầm
đồ vì vào ngày đó anh tôi đã đi làm việc với bộ đồng phục của sở, rồi đến thứ bẩy
bà lại mang tiền đến chuộc cho anh tôi mặc vào trong ngày nghỉ. Cứ thế cầm đi cầm
lại suốt một năm trời cho đến cái ngày bộ quần áo kia đã cũ mèm rồi. Và chúng
tôi gặp một nỗi khó khăn đáng kể.
Theo như lệ thường buổi sáng thứ hai hôm đó mẹ tôi đem bộ quần
áo đến tiệm cầm đồ. Ông chủ tiệm tỏ một ý lưỡng lự:
- Thưa bà, chúng tôi không sao đưa món tiền cũ cho bà mượn được.
Mẹ tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy, thưa ông?
- Thiệt là bất lợi cho chúng tôi quá, vì bà coi xem, cái quần
đã mòn hết rồi.
Rồi ông luồn tay dưới đáy:
- Nhìn xem, có thể ngó xuyên qua được đây này.
Mẹ tôi gặng lại:
- Nhưng thứ bảy sau chúng tôi sẽ lấy lại mà.
Người chủ tiệm vẫn lắc đầu:
- Cùng lắm chúng tôi có thể giao bà ba đồng là tiền chiếc áo
mà thôi.
Mẹ tôi rất ít khi khóc, nhưng sau chuyện đó bà đã đầm đìa nước
mắt. Bà vẫn trông vào bảy đồng cầm bộ quần áo để mà sống qua tuần lễ.
Quần áo của tôi thật ra cũng tả tơi rồi. Bộ đồ trình diễn ở
trong đoàn vũ được đem mặc mãi bây giờ coi thực hết sức nham nhở. Chỗ nào cũng
có miếng vá, ở cùi, ở quần, ở vớ.
Một hôm từ nhà thương về mẹ tôi thấy một đám trẻ chọc ghẹo một
bà cụ già tả tơi, dơ bẩn, nên dừng lại để la chúng. Tóc bà cụ bị cạo sạch, một
điều hiếm thấy vào thời đó, và lũ trẻ con vừa cười vừa xô đẩy nhau trước bà,
nhăn những bộ mặt gớm ghiếc làm như đụng chạm đến bà là bị truyền nhiễm lập tức.
Người đàn bà khốn khổ kia đứng yên như một con nai đã bị săn đuổi đến bước đường
cùng thì vừa kịp lúc mẹ tôi can thiệp. Liền đó bà ta cũng nhận ra được mẹ tôi,
kêu lên:
- Lin không nhìn ra mình sao? Ê-va đây mà!
Lin là biệt danh mẹ tôi dùng trong đoàn hát. Mẹ tôi nhận ngay
được người bạn cũ vào thời ở ca nhạc đường. Lúc ấy tôi bối rối quá nên tôi đi
thẳng và ngồi đợi mẹ tôi ở góc đường. Bọn trẻ đi qua trước tôi vừa cười và nói
những lời diễu cợt. Tôi giận không biết chừng nào. Tôi quay lại nhìn mẹ tôi xem
có việc gì xảy ra và thấy hai người đàn bà đang tiến dần về phía tôi. Rồi mẹ
tôi hỏi bà kia:
- Còn nhớ thằng bé Sác-li của mình đấy không?
- Nhớ chứ – Người đàn bà nói với giọng thấm đầy nước mắt –
tôi bồng nó hoài hồi nó còn nhỏ đấy mà.
Cái ý tưởng đó làm tôi khổ tâm vì người đàn bà trông thật dơ
bẩn và gớm ghiếc quá. Lại càng bối rối hơn nữa là cứ nhìn thấy trên đường mà
chúng tôi đi nhiều người quay lại để nhìn. Người đàn bà kia một thời đã được nổi
danh xinh đẹp. Nhưng khi đã tàn tạ rồi, không còn theo đuổi được nghiệp cầm ca
lại bị đau ốm nằm lâu ở trong bệnh viện nên lúc ra khỏi nhà thương phải ngủ ở
dưới gầm cầu và trong những nhà cứu trợ. Mẹ tôi dẫn bà đi tắm ở nơi phòng tắm
công cộng rồi đưa về nhà, điều đó làm tôi hoảng quá. Tôi không làm sao biết được
có phải bị bệnh mà bà lâm vào tình trạng như thế hay không. Có điều mà tôi nhận
thấy hết sức khó coi là bà nằm ngủ trên giường của anh Sít-nê. Mẹ tôi chia sớt
cho bà một ít áo quần, đưa cho bà mượn vài đồng xi linh, rồi sau ba ngày nghỉ
ngơi ở nhà chúng tôi bà lại ra đi. Kể từ ngày ấy tôi không bao giờ nghe nói về
bà ta nữa.
Tiệm nước Ba Con Nai ở trong thành phố không phải là nơi cha
tôi thường đến nhưng một buổi chiều đi ngang qua đấy tự nhiên tôi muốn dòm vào
bên trong xem có ông không. Tôi hé cửa nhìn vào và thấy cha tôi ngồi trong góc
phòng. Tôi tính bỏ đi nhưng sắc diện ông đột nhiên bừng sáng và ông làm dấu để
gọi tôi vào. Thái độ của ông làm tôi ngạc nhiên vì ông ít khi cởi mở như thế.
Trông ông có vẻ đau nặng. Đôi mắt hõm sâu và khắp người đều phù thũng. Một tay
ông đặt vô ngực, theo kiểu của Nã Phá Luân, có lẽ để cho dễ thở. Buổi chiều hôm
ấy ông tỏ ra rất ân cần với tội, hỏi thăm tin tức mẹ tôi và anh Sít-nê, và trước
khi tôi ra về ông còn ôm tôi vào lòng và lần đầu tiên ông đã hôn tôi. Đó cũng
là lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông trong cõi đời này.
Ba tuần sau người ta đưa ông vào bệnh viện Thánh Tô Ma. Phải
cho ông nốc rượu say rồi mới đưa ông đi được. Khi ông biết mình ở đâu, ông vùng
vẫy thật dữ dội, nhưng với bệnh tình như thế ông không thể nào thoát khỏi. Ông
đã qua đời vì chứng thủy thũng lúc còn quá trẻ, ba mươi bảy tuổi. Người ta đã
rút từ đầu gối của ông ra gần hai mươi lít nước. Mẹ tôi đã đến nhiều lần thăm
ông và những chuyến thăm viếng ấy càng làm cho bà buồn thêm. Bà kể rằng ông đã
nói với bà ước muốn được quay lại sống bên bà và cùng qua bên Phi Châu làm lại
cuộc đời. Khi tôi tỏ ra vui mừng trước một viễn ảnh như thế thì mẹ tôi bỗng lắc
đầu vì bà hiểu rõ tất cả sự tình. Bà nói : “Ông ta chỉ nói cho vui lòng mẹ đấy
thôi”. Một hôm bà từ nhà thương trở về có vẻ hết sức giận dữ vì cha Mác-Nên
(Mc. Neil) lúc thăm cha tôi đã nói : “Trời ơi, này anh Sác-Li, tôi nhìn thấy
anh tôi lại nhớ đến câu cách ngôn xưa : Gieo gió thì thế nào cũng gặt bão”. Mẹ tôi
nói tiếp : “An ủi một người sắp chết mà mở miệng nói như vậy cũng lạ đời thật”.
Vài ngày sau đó, cha tôi từ trần. Nhà thương muốn biết ai sẽ lo phần chôn cất.
Không còn một đồng xu nào trong túi mẹ tôi nhờ Hội Cứu tế nghệ sĩ lo liệu.
Nhưng ý kiến này gây nên nhiều sự chống đối dữ dội ở bên họ hàng cha tôi. Họ
quan niệm rằng giao cho cơ quan từ thiện chôn cất là điều xấu hổ. Người em nhỏ
nhất của cha tôi mới ở Phi Châu trở về ghé lại Luân Đôn cho biết ông sẽ chịu hết
phí tổn về việc tống táng.
Ngày đi đưa đám chúng tôi phải đến bệnh viện để gặp gỡ hết mọi
người ở trong họ hàng cha tôi rồi mới đi đến nghĩa địa. Anh Sít-nê không dự được
vì bận công việc ở sở. Mẹ tôi và tôi đi đến bệnh viện sớm trước hai tiếng đồng
hồ, vì bà muốn nhìn lại một lần cuối cha tôi trước khi người ta đậy nắp áo
quan. Quan tài được độn bằng xa ten trắng và ở nơi đóng khung lại khuôn mặt cha
tôi có những bông hoa cúc nhỏ. Mẹ tôi thấy cách trang trí ấy thật đơn giản và
thật cảm động nên bà hỏi ai đã khéo trình bày như vậy. Nhân viên bệnh viện bảo
có một người đàn bà đến từ lúc sáng tinh sương với một đứa bé. Người ấy là bà
Lu-i.
Ở trong chiếc xe đưa đám dẫn đầu, mẹ tôi, chú tôi và tôi cùng
ngồi. Hành trình đi đến nghĩa địa thật là gian nan vì mẹ tôi chưa bao giờ gặp
chú em đó. Ông ta là một kiểu loại con người tự cho phong nhã hào hoa, nói bằng
một giọng kiểu cách. Tuy rằng ông rất lễ độ nhưng cách đối xử thật là lạnh
lùng. Người ta bảo ông rất giàu, làm chủ nhiều trại nuôi ngựa lớn lao ở Nam Phi
và trong trận giặc chống người Bô E ông đã cung cấp ngựa cho chính phủ Anh.
Lúc khởi sự việc chôn cất thì trời tuôn mưa. Những phu đào
huyệt ném đất trên mặt áo quan gây những tiếng động thô bạo. Quang cảnh có gì
áo não và khủng khiếp quá khiến tôi bỗng òa lên khóc. Rồi đến những người ở
trong gia đình ném hoa và các vòng hoa lên mộ. Mẹ tôi, không có gì để ném cả, lấy
chiếc khăn tay rất quý của tôi và bảo : “ Này con, hãy ném khăn này cho phần mẹ
con chúng ta”. Sau đó họ hàng bên nội của tôi dừng lại quán nước ăn trưa, và
trước khi họ từ biệt chúng tôi họ cũng ngỏ lời lịch sự hỏi chúng tôi muốn về
đâu thì họ đưa xe đến nơi.
Khi chúng tôi trở lại nhà, chẳng còn chút gì bỏ vào bụng ngoại
trừ một tách mỡ bò, mẹ tôi không có một đồng xu nào trong túi. Còn lại hai xu
cuối cùng thì bà đã đưa anh tôi mang theo để ăn trưa. Từ ngày cha tôi lâm bệnh,
bà không còn có thì giờ rảnh rỗi để làm việc, và ngày hôm ấy, gần vào cuối tuần
bảy đồng hào lương của anh Sít-nê cũng tiêu hết rồi. Đi chôn cất về chúng tôi
thật đói. May thay một người mua đồ ve chai đi ngang qua đường và chúng tôi còn
một cái lò nấu dầu hôi đã cũ. Mặc dầu tiếc rẻ mẹ tôi cũng đem bán đi để lấy nửa
xu và mua nửa xu bánh mì ăn với mỡ bò.
Vì là vợ chính thức nên qua ngày sau mẹ tôi được gọi tới bệnh
viện nhận đồ đạc cha tôi. Đồ đạc gồm có một bộ quần áo màu đen dính đầy vết
máu, ít quần áo lót, một cái sơ mi, một cà vạt đen, một cái áo ngủ đã cũ và đôi
giày vải có mấy quả cam nhét ở bên trong. Khi mẹ tôi lôi mấy quả cam ra, nửa đồng
tiền vàng rơi theo. Thiệt là món quà hết sức bất ngờ.
Chương 6
Suốt nhiều tuần lễ tôi mang băng tang ở trên cánh tay. Dấu hiệu
tang tóc đó kể ra cũng thật có lợi, và tôi nhận biết điều đó vào một buổi chiều
thứ bảy khi tôi bán hoa. Tôi bảo mẹ tôi cho mượn một đồng xi linh, để tôi vào
trong chợ hoa mua chừng hai bó thủy tiên, rồi khi bãi học về nhà tôi cột bông lại
từng chùm, mỗi chùm tính giá một xu. Khi tôi đem bán hết số hoa đó tính ra tôi
đã lời được một trăm phần trăm. Tôi bước vào trong tiệm nước, vẻ mặt đau khổ,
nói như van lơn : “Xin mời mua hoa, thưa cô, xin mời mua hoa, thưa bà”. Những
người đàn bà thường hỏi : “Để tang ai vậy, chú nhỏ?” Và tôi trả lời bằng giọng
gần như thì thầm : “Cha cháu” và họ thường cho tôi tiền. Có một buổi chiều khi
tôi trở về mẹ tôi hết sức ngạc nhiên thấy tôi đếm được tới năm xi-linh (Shilling).
Vào một ngày nọ, tôi từ quán nước bước ra, gặp phải mẹ tôi, thế là hết chuyện
bán hoa. Với bà, để cho con mình bán hoa trong những tiệm nước là điều xúc phạm.
Bà bảo : “Rượu chè đã giết cha con và đồng tiền ở một nơi quán rượu chỉ đem tai
họa cho chúng ta thôi”.
Kể ra tôi cũng có khiếu thương mại. Trí óc của tôi luôn luôn
chứa đầy dự định : nhìn vào hàng quán vắng vẻ tôi thường tự hỏi mình sẽ buôn gì
để cho có lời, từ chuyện buôn cá, buôn món khoai chiên, đến các loại thực phẩm
khác. Điều tôi cần nhất là vốn nhưng làm sao kiếm cho ra được vốn bây giờ? Cuối
cùng tôi thuyết phục được mẹ tôi cho tôi nghỉ học để kiếm việc làm.
Tôi làm thật là nhiều nghề. Bắt đầu tôi đi chạy hàng cho tiệm
dược phẩm. Giữa hai chuyến đi, tôi chun một cách thích thú vào trong hầm chứa,
giữa những xà phòng, bột mì, đèn cầy, bánh kẹo, xực đến no nê mấy thứ ngọt ngon
đến phải sinh bệnh. Rồi tôi lại đến làm việc tại văn phòng của hai ông bác sĩ
phụ trách cho một công ty bảo hiểm. Chỗ này do anh Sít Nê nhường lại cho tôi. Kể
ra cũng kiếm được tiền : tôi chỉ làm việc tiếp khách và sau khi các bác sĩ đi rồi
tôi lau chùi nhà, mỗi tuần lãnh được mười hai xi linh. Trong việc tiếp khách
tôi thành công lắm vì tôi làm vui lòng mọi người bệnh đến đó. Nhưng về công việc
trong nhà thì tôi chẳng thích tí nào, anh tôi làm công việc ấy hay hơn. Tôi chẳng
ngại gì công việc đổ bình nước tiểu nhưng phải lau các cửa sổ cao hơn ba thước
quả là việc làm hết sức lớn lao. Càng ngày các cánh cửa ấy càng đen đúa hơn, bụi
bặm phủ đầy cho đến lúc người ta lịch sự bảo tôi rằng tôi còn quá nhỏ tuổi để
mà tiếp tục việc làm. Khi nghe tin ấy, tôi òa lên khóc. Bác sĩ phụ trách phòng
mạch ở đó đã cưới một bà rất giàu, có một tòa nhà khá lớn, thấy thương hại tôi
nên bảo tôi đến nhà ông làm người sai vặt. Tôi cảm thấy vui không biết chừng
nào. Hầu hạ trong một ngôi nhà đặc biệt và được trả thù lao nhiều, còn gì khoái
hơn. Vào làm nơi ấy, thật thích, vì tôi được tất cả chị bồi phòng cưng yêu. Họ
coi tôi như một đứa bé con và ôm hôn tôi từ giã vào mỗi buổi chiều. Không có định
mạng xui khiến có lẽ tôi đã trở thành đầu bếp. Một hôm bà chủ bảo tôi xuống cái
hầm chứa dọn sạch một nơi chứa đầy thùng gỗ và các mảnh vụn. Bất ngờ tôi tìm được
một ống sắt dài gần hai thước rưỡi và tôi cảm thấy thích thú ngậm lấy để thổi
như là thổi kèn. Giữa lúc tôi đang vui vẻ như thế, bà chủ xuất hiện… và tôi bị
đuổi khỏi nhà với lời báo trước ba ngày.
Khi vào làm việc trong tiệm sách của gia đình ông Xi-Mít tôi
thật hứng thú nhưng rồi người ta thấy tôi quá nhỏ lại cho nghỉ việc. Tôi lại
xin vào làm nghề thổi chai. Tôi có đọc được ở trường một bài nói về thổi chai
và qua bài tả tôi thấy nghề ấy thật là tuyệt diệu nhưng khi vào việc hơi nóng
làm tôi ngộp thở và tôi ngã lăn bất tỉnh khiến người ta phải khiêng tôi đặt nằm
trên một đống cát cho hồi tỉnh lại. Bấy nhiêu cũng là quá đủ, và tôi không dám
trở lại nơi đó để lãnh lương ngày hôm ấy. Rồi tôi vào làm trong một nhà in. Tôi
cũng nói dối rằng tôi biết chạy máy lớn, loại máy in dài sáu thước. Khi đứng
ngoài phố tôi có nhìn vào người thợ chạy máy và tôi thấy công việc ấy có vẻ đơn
giản dễ làm. Gặp một tấm biển có đề dòng chữ : Cần một thợ trẻ biết chạy máy Hoạt-phê-đan
(warfedale). Lập tức, tôi vào trình diện. Khi người cai xưởng dẫn tôi đến nơi
chiếc máy tôi thấy nó ở trước tôi như con quái vật. Muốn điều khiển máy phải
leo lên ngồi trên một mặt cao cách đất độ một thước rưỡi và tôi có cảm tưởng
như mình ngồi ở trên đỉnh tháp Ép-phên (Eiffel). Người cai xưởng bảo:
- Cho máy chạy đi!
Làm sao mà cho chạy được? Thấy tôi vẫn cứ lúng túng, ông ta bật
cười:
- Rõ là chú mày chưa chạy máy này bao giờ.
Tôi nói:
- Nhờ bác chỉ giúp tôi đi, tôi sẽ chạy được liền mà.
Ông ta chỉ cho tôi thấy cần máy rồi cho máy quay từ từ. Khi
máy lăn đều với những tiếng nghiến và những tiếng gầm tôi có cảm tưởng như nó sắp
nuốt sống tôi. Những tờ giấy in cũng thật là lớn. Chỉ mỗi một tờ cũng đủ gói
kín tôi rồi. Với một cây cào bằng ngà tôi tách các tờ giấy và nắm một góc đặt
nó cẩn thận trên các răng cưa vào lúc mà con quái vật chuẩn bị nuốt lấy. Làm
xong ngày đầu, tôi thật tơi tả vì quá căng thẳng thần kinh trong cái ý tưởng
con quái vật kia có thể xơi tái tôi mất. Tuy vậy người ta cũng chịu trả tôi mỗi
tuần mười hai xi linh.
Những buổi sáng mai trời lạnh, khi chưa hừng sáng, đi trên
các con đường phố vắng lặng, thỉnh thoảng mới gặp đôi bóng dáng người lướt qua
rồi tiến bước về tiệm trà đầu phố để ăn điểm tâm, thật có vẻ gì lãng mạn và đầy
ý vị phiêu lưu. Người ta có một cảm tưởng yên lòng trong sự chung đụng khi ngồi
uống tách trà nóng trong cái hơi ấm dịu dàng của phút chờ đợi một ngày công việc.
Và việc tôi làm ở tại nhà in cũng không có gì là khó khăn cả. Trừ cái phần việc
nặng nề ở mỗi cuối tuần là phải rửa sạch mực in trên những ống lăn to lớn mỗi
cái nặng hơn năm chục kí lô, còn thì những công việc khác thật là dễ chịu. Nhưng
chỉ hai ba tuần lễ tôi đã bị cúm và nằm liệt giường. Mẹ tôi ép tôi trở lại trường
học.
Bây giờ anh Sít-nê đã mười sáu tuổi rồi, và một hôm anh về
nhà tỏ ra hết sức vui vẻ vì đã kiếm được một chỗ thổi kèn trên một chiếc tàu chạy
sang Phi Châu. Phần việc của anh chỉ là báo hiệu giờ ăn, giờ nghỉ v.v… Hồi đến
học Trường Hải Quân Ích Mao anh đã có tập thổi kèn, nhờ vậy bây giờ mới có việc
làm. Mỗi tháng anh lãnh được hai đồng “liu” và hưởng thêm tiền quà nước khi anh
giúp phần dọn ăn ở ba chiếc bàn cho những hành khách hạng nhì. Trước giờ khởi
hành người ta chịu giao cho anh số tiền đặt cọc là ba mươi lăm xi linh, dĩ
nhiên anh đem về giao hết cho mẹ tôi.
Sau chuyến đi đầu tiên, lúc anh Sít-nê trở về, gia đình thực
vui như hội vì anh hưởng được món tiền quà nước khá lớn. Tôi còn nhìn thấy lại
anh móc tiền ở trong túi áo đổ xuống mặt giường. Tôi có cảm tưởng như chưa bao
giờ tôi nhìn thấy được nhiều tiền như thế trong cuộc đời mình. Tôi nhặt một mớ,
tôi thả rơi chúng, tôi lại xếp chúng thành chồng và tôi cứ đùa với tiền mãi cho
đến lúc mẹ tôi cùng với anh tôi đồng bảo rằng tôi quả là một tên hà tiện. Cuộc
sống lúc này kể thực là sang. Chúng tôi đang ở mùa hè, cũng là thời kỳ chúng
tôi được uống nước đá, được ăn bánh ngọt và nhiều thứ ngon khác nữa. Đó là thời
kỳ được ăn cá muối, thịt ướp, bánh nướng v.v…
Anh Sít-nê lại cảm lạnh và nằm liệt giường nhiều ngày. Mẹ tôi
và tôi thay phiên để săn sóc anh. Những ngày đó tôi tha thồ mà dùng nước đá.
Tôi mang một cái thùng lớn đến tiệm để mua một xu nước đá khiến ông chủ tiệm có
vẻ bực tức vô cùng. Khi tôi qua mua lần thứ hai ông bảo tôi hãy về mang theo một
bồn tắm để chứa. Một trong các món giải khát thích nhất vào mùa hè ấy của gia
đình tôi là dùng nước chanh pha sữa. Bọt li-mô-nát tung lên qua chất kem sữa tạo
thành một sự pha trộn tuyệt diệu. Anh Sít-nê ở lại nhà mãi cho đến khi tiêu hết
số tiền dành dụm. Rồi anh lại ghi tên vào một chuyến đi khác và lần này nữa lại
được ứng trước số tiền ba mươi lăm đồng xi linh, anh lại đem về cho mẹ. Nhưng bấy
nhiêu đó cũng không no đủ được dài. Độ ba tuần lễ chúng tôi hết tiền và phải đợi
chừng ba tuần lễ khác anh tôi mới về. Mặc dù mẹ tôi vẫn cứ tiếp tục may vá
nhưng tiền thu được chẳng đủ vào đâu. Chúng tôi lại lâm vào một cuộc khủng hoảng
khác.
Nhưng tôi không thiếu sáng kiến để mà đối phó với tình trạng
này. Mẹ tôi có đống đồ cũ và vào một sáng thứ bảy tôi bàn với bà để tôi mang ra
chợ bán. Mẹ tôi cảm thấy khó chịu phần nào và bảo mớ đồ cũ kỹ ấy không đáng giá
là bao. Tuy vậy tôi cũng tìm một mảnh chăn đã cũ gói hết chúng lại rồi mang ra
chợ. Tôi đặt món hàng của mình xuống một vệ đường rồi tôi bước xuống đứng trong
mương rãnh hè phố kêu lên : “Coi đây, bà con” vừa nói tôi vừa lôi ra một chiếc
sơ mi đã cũ vung lên trước mắt mọi người, rồi lại lôi ra một chiếc nịt vú tàn
phế… Tôi bảo những người qua đường : “Quý ngài muốn mua món này bao nhiêu? Bằng
lòng một xi linh không, hay là sáu xu, ba xu, hai xu?” Nhưng dù tôi hạ xuống đến
một xu cũng chẳng có ai thèm vào. Người ta dừng bước nhìn các món đồ một cách
ngạc nhiên rồi phá lên cười và bước đi luôn. Tôi đã bắt đầu cảm thấy lúng túng,
nhất là trong tiệm bán đồ châu báu trước mặt có một số người ngồi sau cửa kính
nhòm ngó tôi hoài. Nhưng tôi định không chịu nhượng bộ. Cuối cùng tôi đem đôi
ghệt coi mòi vẫn còn xài được bán lấy sáu xu. Nhưng càng đứng lâu, tôi lại càng
thấy khó chịu. Được chừng một lát, người chủ tiệm châu báu kia tiến về phía tôi
và hỏi tôi vào nghề được bao lâu. Mặc dù sắc diện của ông có vẻ trang nghiêm
nhưng trong câu nói của ông có một vẻ gì cười cợt và tôi trả lời ông ta tôi mới
tập tễnh bước đầu. Ông ta lững thững lại chỗ hai người đồng bọn ngồi sau tủ
kính nhìn tôi vừa nói vừa cười. Bấy nhiêu kể cũng đủ rồi. Tôi nghĩ đã tới cái
lúc cuốn gói đi về. Khi tôi nói lại cho mẹ tôi biết đã bán đôi ghệt với giá sáu
xu bà lộ ra vẻ bất bình và nói : “Đôi ấy còn tốt. Đáng lẽ phải bán với giá cao
hơn”. Trong tình trạng của chúng tôi bấy giờ, chúng tôi khỏi phải lo khoản tiền
nhà bao nhiêu. Vấn đề đã được giải quyết quá dễ là cứ đến ngày người ta tìm đến
thâu tiền thì mẹ con tôi dọn đi nơi khác.Đồ đạc chúng tôi cũng chẳng có gì.
Thuê cái xe bò để chở coi còn tốn kém hơn là giá trị của mớ đồ ấy.
Vào thời gian này tôi làm quen với ông cụ và người con ông
sinh sống trong những chuồng ngựa bỏ hoang sau thành phố. Cha con nhà này làm
những đồ chơi và đem bán dạo từ thành phố này sang thành phố khác. Họ thật hoàn
toàn tự do, chẳng phải vướng bận điều gì và tôi thèm muốn địa vị của họ. Nghề
nghiệp của họ cũng không cần vốn liếng nhiều, chỉ độ chừng một xi linh là đã
làm ăn được rồi. Họ nhặt nhạnh những miếng bìa lót dày mà các hàng tiệm sẵn
sàng cho họ cùng các miếng rẻo niềng niễng bỏ vãi khắp nơi, rồi bỏ tiền mua một
đồng xu keo, một đồng xu gỗ, chừng hai xu chỉ, một xu giấy màu là nhiều. Với
cái vốn liếng một đồng xi-linh họ có thể làm ra được bẩy tá tàu thủy đem bán mỗi
chiếc một xu. Thân tàu được cắt trên các bìa dày may lại trên một cái đáy cũng
bằng bìa ấy và ở trên mặt trơn ấy bôi keo và đổ các bột niềng niễng. Người ta
dùng dây chỉ có điểm những vảy nhỏ để dựng cột buồm và dán trên cao cờ xanh cờ
đỏ, cả ở phía trước, phía sau. Hàng trăm những chiếc tàu nhỏ như thế lấp lánh đủ
màu để làm vui mắt mọi người và họ tìm mua dễ dàng. Từ khi tôi làm quen họ, tôi
tìm mọi cách phụ việc và nhờ vậy tôi học được cách làm. Khi họ rời bỏ khu phố của
tôi đi về nơi khác, tôi bèn thế chỗ của họ mà làm nghề ấy. Với một số vốn sáu
xu và chịu phồng cả da tay nhiều lần để cắt đống bìa tôi đã làm xong ba tá tàu
thủy như vậy trong một tuần lễ.
Nhưng nhà chúng tôi quá nhỏ hẹp không đủ chỗ cho mẹ tôi may
vá và cho cả tôi thiết lập xưởng tàu. Lại thêm mẹ tôi không ưa mùi hồ nấu sôi
và cái chậu hồ của tôi trở thành một mối đe dọa thường trực các món đồ may hàng
lụa choán chật gian nhà. Số tiền thâu được của tôi tính ra thua mẹ tôi nhiều
nên tôi đành phải dẹp tiệm để chỗ mẹ tôi làm việc.
Chương 7
Suốt thời gian ấy chúng tôi ít gặp ông ngoại. Năm ngoái sức
khỏe của ông không tốt. Bàn tay ngoại tôi bị bệnh phong thấp không thể tiếp tục
hành nghề thợ giày. Trước kia thỉnh thoảng ông còn giúp đỡ được cho mẹ tôi chút
đỉnh. Đôi khi ông đãi chúng tôi ăn tối, bữa ăn nhà nghèo gồm bột lúa mạch dùng
để nuôi ngựa và những cũ hành nấu sữa nêm thêm muối tiêu. Vào những đêm dài mùa
đông lạnh lẽo những món ăn đó được coi như là căn bản để giúp chúng tôi chống lại
giá buốt. Khi tôi còn bé tôi vẫn nhìn thấy ông tôi như một cụ già nghiêm khắc,
ương gàn, bao giờ cũng chực xét nét việc làm của tôi và cách nói năng của tôi.
Qua những chuyện nhỏ hạch xách như thế tôi thấy không ưa ngoại tôi chút nào.
Nhưng bây giờ ông đã vào bệnh viện, bị chứng phong thấp hành hạ và mẹ tôi phải mỗi
ngày lui tới viếng thăm. Những chuyến thăm viếng như thế thật là có lợi vì bao
giờ bà cũng mang về được thức ăn, thường thường là một gói đầy trứng tươi, một
món xa xỉ đặc biệt trong cái thời buổi đói kém mà gia đình tôi đang phải trải
chịu. Hôm nào bà không đi được thì bà bảo tôi đi thay. Tôi cũng ngạc nhiên thấy
ngoại của tôi thật là đáng yêu, tỏ ra hết sức sung sướng được thấy tôi đến. Mấy
cô điều dưỡng ở đấy cưng ngoại tôi lắm. Ông có kể cho tôi biết ông thường đùa cợt
với các cô ấy, bảo với các cô rằng dù mang bệnh như thế ông cũng không phải
hoàn toàn vô dụng. Những chuyện đấu láo của ông khiến cho các cô vui vẻ. Những
lúc trong người khỏe khoắn ông cũng phụ việc bếp núc và điều đó cắt nghĩa tại
sao chúng tôi có trứng mang về. Những hôm chúng tôi đến thăm, ông thường nằm
trên giường bệnh, lén lút lôi ra một cái bì lớn và trao cho tôi, rồi tôi vội
vàng nhét vào phía trong áo khoác lính thủy trước khi ra về. Suốt nhiều tuần lễ
chúng tôi được sống nhờ trứng sử dụng theo nhiều hình thức khác nhau. Dù ngoại
tôi bảo mấy cô điều dưỡng đều là bạn thân của ông và họ cũng có hay biết chuyện
ấy nhưng tôi vẫn luôn sợ hãi và khi mang trứng ra về tôi cứ lo ngại mình có thể
trượt chân ngã trên sàn hoặc người ta sẽ nhận thấy con người bỗng nhiên to phồng
của tôi mà sinh ngờ vực. Điều thật lạ lùng là mỗi khi tôi ra về, các cô điều dưỡng
luôn luôn không thấy xuất hiện. Ngày mà ngoại tôi lành bệnh, rời khỏi nhà
thương, thật quả là ngày buồn thảm đối với gia đình chúng tôi.
Sáu tuần lễ đã trôi qua mà không thấy anh Sít-nê trở về. Ban
đầu mẹ tôi không lấy gì làm lo ngại nhưng một tuần nữa trôi qua bà vội viết thư
đến văn phòng hãng để hỏi tin tức và được họ trả lời lại cho biết anh tôi phải
ghé lại Cáp chữa bệnh phong thấp. Tin ấy làm cho mẹ tôi lo lắng và sức khỏe bà
sa sút hẳn đi. Bà vẫn cố gắng may vá và tôi may mắn tìm được chút công việc làm
là đến dạy vũ trong một gia đình gần trường với giá năm đồng xi linh mỗi tuần.
Chính thời kỳ đó gia đình ông Cạc-Ty (Carthy) đến ở tại khu
phố này. Bà Cạc-Ty vốn người Ái Nhĩ Lan, cũng là kịch sĩ bạn ngày xưa của mẹ
tôi. Chồng bà, ông Cạc-Ty, là một chuyên viên kế toán. Khi mẹ tôi rời sân khấu,
chúng tôi không gặp lại vợ chồng họ, và bảy năm sau, bây giờ chúng tôi thấy họ
đến ở khu vực sang trọng của khu phố này. Thằng bé Hoa-Ly, con của ông bà Cạc-Ty
cùng tuổi với tôi. Hồi còn bé, chúng tôi thích chơi theo lối đóng vai người lớn,
giả bộ như những nghệ sĩ ca kịch, hút những xì gà tưởng tượng, và ngồi trong những
chiếc xe tưởng tượng, chơi đùa thật là vui thích trước mặt cha mẹ chúng tôi.
Bây giờ họ về trú ngụ gần đây, mẹ tôi ít gặp gỡ họ nhưng thằng Hoa-Ly và tôi
thì lại thân thiết hơn nhiều. Cứ tan học tôi chạy bay về nhà hỏi xem mẹ có sai
bảo gì không, rồi tôi vội vàng đến nhà ông bà Cạc-Ty. Chúng tôi cùng ra sau nhà
chơi trò ca kịch với nhau. Tôi làm đạo diễn vừa là diễn viên nên tôi luôn luôn
nhận đóng các vai gian hùng vì tôi cũng hiểu lờ mờ rằng những vai ấy dễ nổi bật
hơn những vai anh hùng. Chúng tôi vui đùa như thế cho tới giờ ăn cơm tối của
gia đình này. Thường thường họ mời tôi cùng dùng bữa. Tôi có cái khiếu đặc biệt
là thường có mặt trong những giờ ăn. Nhưng cũng có khi những sự tính toán của
tôi gặp phải thất bại và tôi đành quay về nhà với sự tiếc rẻ trong lòng. Mẹ tôi
bao giờ cũng sung sướng được thấy tôi và bà tìm dọn cho tôi một món ăn nào đó,
miếng bánh chiên mỡ hay một quả trứng của ngoại tôi cho, thêm một tách trà. Mẹ
tôi đọc sách, hoặc ngồi bên cửa sổ và bà nhận xét những người qua đường để cho
tôi vui. Bà bịa đủ chuyện để diễu cợt. Nếu thấy một người đi thật chậm chạp, thảm
não, bà nói : “Hèm! Anh ta về nhà chắc phải ăn rau cho qua bữa tối và anh ta phải
ngán lắm”. Kẻ nào đi vụt qua mau, bà bảo : “Ông này vừa uống một liều thuộc xổ”.
Đến một kẻ khác dáng điệu bệ vệ thì bà lại nói : “Coi này, anh chàng kể cũng lịch
sự nhưng hiện giờ đang bận tâm vì cái lỗ rách ở dưới đũng quần”. Mẹ tôi cứ diễu
lối đó và tôi cứ ngồi hả họng để cười.
Thêm một tuần nữa trôi qua, vẫn không có tin tức gì của anh
tôi cả. Nếu tôi không quá bé bỏng và nếu tôi bén nhạy hơn trước nỗi âu lo của bà
thì tôi có thể đoán biết những gì rồi sẽ xảy ra. Tôi phải chú ý rằng mấy ngày
qua bà cứ ngồi yên, vẻ mặt xa vắng, nhìn ra cửa sổ không còn muốn lo việc bếp
núc nữa và càng ngày càng câm lặng hơn lên. Đáng lẽ tôi phải quan tâm khi các
người chủ hiệu may giao đồ cho mẹ tôi làm đã nhận thấy bà làm hỏng và không chịu
giao hàng nữa. Rồi họ lấy lại bàn máy vì mẹ tôi đóng tiền trễ trong lúc tôi
không còn dạy được nữa để lãnh năm đồng xi linh mỗi tuần. Đáng lẽ tôi phải nhìn
thấy giữa bao nhiêu sự việc đó mẹ tôi vẫn cứ thản nhiên, không một chút xúc động
nào.
Rồi bà Cạc-Ty thình lình từ trần. Bà đã đau ốm trong một thời
gian nhưng rồi sức khỏe suy sụp rất mau. Lúc ấy có nhiều ý tưởng chợt hiện
trong đầu óc tôi. Giá ông Cạc-Ty chịu cưới mẹ tôi thì thật là tuyệt. Hoa-Ly và
tôi lại là bạn thân. Được vậy, tất cả vấn đề khó khăn mẹ tôi đang phải trải qua
sẽ được giải quyết êm đẹp. Sau khi chôn cất bà Cạc-Ty được vài ngày tôi bảo với
mẹ tôi rằng:
- Mẹ nên thu xếp để thường xuyên đến viếng thăm ông Cạc-Ty
đi. Con chắc ông ấy mà cưới được mẹ thì ông ta rất sung sướng.
Mẹ tôi đáp lại với một nụ cười xanh xao:
- Thôi con, hãy để cho người đàn ông đang đau khổ ấy có thì
giờ thở với chứ.
- Nếu mẹ ăn mặc sửa soạn một chút, trang điểm như là ngày
xưa, con chắc ông ta sẽ cưới mẹ liền. Nhưng tại mẹ không cố gắng gì hết, mẹ cứ
ngồi mãi ở trong gian phòng tiều tụy với vẻ mặt thảm não quá.
Tội nghiệp, người mẹ đáng thương của tôi. Tôi đã hối hận vì
đã nói lên những lời như thế. Tôi đâu hiểu sự ăn uống thiếu thốn kéo dài nhiều
ngày đã làm mẹ tôi kiệt sức hẳn rồi. Thế mà qua ngày sau đó, với một cố gắng
khác thường, mẹ tôi vẫn gắng lo việc bếp núc.
Lúc ấy, vào dịp nghỉ hè. Từ mỗi sáng sớm tôi đã đến nhà của
ông Cạc-Ty, với cái ý định trốn cho khuất mắt cảnh nghèo cùng cực của gia đình
tôi. Hôm ấy, họ mời tôi ở lại dùng bữa trưa, nhưng linh tính tôi buộc tôi về
nhà tìm gặp lại mẹ. Mới đi được một đoạn đường tôi gặp nhiều đứa trẻ nhỏ ngăn
tôi lại bảo:
- Mẹ mầy điên rồi.
Tôi có cảm tưởng như vừa bị ai tát mạnh. Tôi hỏi:
- Nói cái gì vậy?
Một đứa gái nhỏ bảo tôi:
- Thiệt đó, bà ta đi đến gõ cửa từng nhà rồi lấy từng cục
than ra để chia cho họ và bảo là quà sinh nhựt cho lũ trẻ con. Mày lại hỏi mẹ
tao xem.
Không còn muốn nghe gì nữa, tôi vội chạy ngay về nhà, leo lên
cầu thang, xô cửa bước vào. Tôi đứng yên lặng một lát lấy lại hơi thở và nhìn
chăm chú mẹ tôi. Đó là buổi trưa mùa hè, trời nắng và nóng ngột ngạt. Mẹ tôi vẫn
ngồi theo như lệ thường ở bên cửa sổ. Bà quay đầu lại từ từ nhìn tôi, vẻ mặt
xanh xao bối rối. Tôi gần như kêu to lên:
- Mẹ!
Bà hỏi lại tôi với giọng lạc lõng:
- Cái gì vậy kìa?
Tôi vội chạy đến quì gối bên bà, úp mặt vào những nếp áo của
bà rồi nức nở khóc. Vừa vuốt mái tóc của tôi, mẹ tôi dịu dàng:
- Nào, nào, con có chuyện gì sao con?
Tôi kêu lên trong tiếng khóc:
- Mẹ đau rồi mà!
Mẹ tôi trả lời với giọng an ủi:
- Nào có gì đâu, thật đó con à.
Giọng bà có vẻ mơ hồ, có vẻ âu lo…
- Không, không, con nghe nói mẹ đã đến gõ cửa từng nhà…
Rồi không thể nói hết câu, tôi lại nức nở. Mẹ tôi thì thầm:
- Mẹ tìm anh Sít-nê con. Người ta đem giấu nó rồi.
Bây giờ tôi hiểu những đứa trẻ ngoài đường đã nói sự thật.
- Mẹ ơi, mẹ đừng có nói như thế, con van mẹ mà. Để con đi tìm
một người thầy thuốc.
Bà vẫn vuốt ve đầu tôi và bảo:
- Bọn nhà Cạc-Ty biết rõ anh mày ở đâu nhưng đã đem giấu nó rồi.
Tôi kêu to lên:
- Mẹ đừng nói vậy, mẹ ơi, để con đi tìm thầy thuốc.
Tôi vừa đứng dậy, đi về hướng cửa, mẹ tôi nhìn tôi với vẻ mệt
mỏi:
- Đi đâu đó con?
- Con tìm ông thầy thuốc, con về ngay mà.
Mẹ tôi không nói lời nào, nhìn tôi với vẻ đăm chiêu. Tôi vội
xuống nhà vào gặp người chủ phố. Tôi nói:
- Mẹ cháu đau nặng, cháu phải đi tìm thầy thuốc bây giờ.
Bà chủ phố bảo:
- Có đi gọi rồi.
Người thầy thuốc ở khu phố là một ông già khó tính, sau khi
nghe bà chủ phố kể lại câu chuyện, ông ta khám qua mẹ tôi rồi bảo:
- Bà ta điên rồi. Cho vào dưỡng trí viện thôi.
Rồi ông kê một cái toa, ghi chú mẹ tôi vì bị ăn uống thiếu thốn
mà lâm vào tình trạng ấy. Để an ủi tôi, bà chủ phố bảo:
- Thôi vào nhà thương là tốt, ở đó người ta cho ăn uống đầy đủ.
Bà giúp đỡ tôi mặc áo vào cho mẹ tôi và thu dọn ít đồ đạc đem
theo. Mẹ tôi vâng lời như một đứa trẻ. Bà suy yếu đến nỗi gần như không còn
chút ý chí nào. Chúng tôi ra khỏi căn nhà trong khi người lớn cũng như trẻ con
bu ở trước cửa nhìn mẹ con tôi với vẻ sợ hãi.
Bệnh viện cách đó một cây số rưỡi. Mẹ tôi vừa đi vừa bước lảo
đảo như người say rượu mặc dù tôi đã đỡ bước cho bà. Mặt trời vào buổi xế trưa
chói chang trên đầu. Nhiều người đi đường cứ tưởng mẹ tôi say rượu nhưng về phần
tôi thì tôi thấy họ chập chờn như những ma quỷ trong giấc chiêm bao. Mẹ tôi
không nói lời nào, nhưng hình như bà cũng biết đang đi về đâu nên tỏ ra ý vội
vàng mong cho chóng đến. Vừa đi tôi vừa tìm lời để an ủi bà, và bà mỉm cười
nhưng suy yếu quá không sao nói được. Khi đến bệnh viện, một bác sĩ trẻ cầm lấy
tay bà dắt vào. Sau khi đọc xong mảnh giấy của người thầy thuốc khu phố, ông ta
dịu dàng nói với mẹ tôi:
- Tốt lắm, bà hãy đi vào ngõ này.
Mẹ tôi nghe theo một cách ngoan ngoãn. Nhưng lúc những cô
khán hộ dẫn bà đi vào thì bà bỗng quay ngoắt lại đột ngột cảm thấy khổ tâm về nỗi
xa tôi. Tôi cố gắng nói một giọng vui vẻ:
- Đến mai, con lại gặp mẹ.
Bà để cho họ dẫn đi, cứ quay nhìn tôi với vẻ lo lắng. Khi bà
đã khuất, người bác sĩ quay lại tôi và hỏi:
- Còn cháu, bây giờ cháu định thế nào?
Vốn đã quá sợ những viện cô nhi, tế bần, tôi trả lời lại ông
ta một cách lễ phép:
- Dạ được, cháu về ở với dì cháu.
Ở nhà thương ra, nỗi buồn làm tôi ngơ ngẩn. Đồng thời tôi
cũng cảm thấy an ủi nghĩ rằng mẹ tôi vào dưỡng trí viện sẽ được săn sóc còn hơn
là ngồi cô độc ở nhà chẳng có gì ăn. Nhưng tôi không bao giờ quên được cặp mắt
nhìn đau đớn của mẹ tôi khi bị người ta dẫn vào bệnh viện. Tôi nghĩ ngợi mãi về
những gì đã khiến tôi yêu quý mẹ tôi, tôi nghĩ đến tính vui vẻ của bà, đến sự dịu
dàng, đến tình yêu thương của bà đối với chúng tôi.
Hôm ấy tôi không đi ngay vào nhà, tôi không thể nào làm vậy.
Tôi ra phía chợ dòm ngó những đồ bày bán cho đến xế chiều. Khi tôi phải trở lại
nhà tôi thấy nó thật trống vắng và có cảm tưởng như nghe một lời quở trách.
Trên một chiếc ghế đặt một chiếc thau đổ nước lưng chừng trong đó mẹ tôi ngâm
hai chiếc áo của tôi và một bộ đồ của bà. Tôi đi lục soát khắp nơi, chỉ còn tìm
thấy trong tủ đồ ăn nửa gói trà thôi. Không còn một thức gì khác để bỏ vào bụng.
Tôi lại sục sạo ở trên lò sưởi, tìm gặp túi tiền mẹ tôi cất đấy trong đó có một
xu rưỡi, mấy cái chìa khóa và mấy mảnh giấy cầm đồ. Ở một góc bàn còn sót lại
vài cây kẹo mà bà đã mua cho tôi. Tới đó, tôi không thể nào nén được, và òa lên
khóc.
Gần như kiệt lực bởi những xúc động trong ngày hôm ấy, tôi
chìm vào trong giấc ngủ mê mệt. Hôm sau, tỉnh giấc, tôi cảm thấy nỗi trống vắng
lạ thường đè nặng gian phòng. Mặt trời đã lên tràn ngập sàn nhà như làm sự vắng
mẹ tôi thêm rõ ràng hơn. Lát sau, bà chủ phố lên bảo tôi có thể cứ ở lại đấy
cho đến khi nào bà tìm được người thuê khác, và nếu đói lắm thì hãy xuống nhà
nói cho bà hay. Tôi cám ơn bà chủ phố, thưa rằng anh tôi khi về sẽ trang trải hết
tiền nợ cho bà. Nhưng tôi không dám xin bà một thức ăn nào, vì tôi cảm thấy mắc
cỡ.
Qua ngày sau đó tôi không thể đến thăm mẹ tôi được như tôi đã
hứa. Không đến thăm được, điều đó làm tôi bối rối lạ lùng. Nhưng bà chủ phố đã
gặp bác sĩ và ông ta bảo cho bà hay rằng mẹ tôi đã được đưa vào trong dưỡng trí
viện Kên-Hiu (Cane Hill). Cái tin khá buồn thảm này làm cho lương tâm của tôi
an ủi phần nào, vì dưỡng trí viện ở cách xa trên ba chục cây số ngàn và tôi
không có cách nào tới được. Tôi nghĩ anh tôi rồi sẽ trở về và chúng tôi cùng đi
thăm. Trong mấy ngày đó tôi chẳng gặp ai quen biết và tôi cũng không mở miệng để
nói với ai lời nào. Vào buổi sáng sớm, tôi bước lén lút ra khỏi gian nhà và suốt
cả ngày lang thang đây đó. Tôi cũng xoay xở tìm được chút gì bỏ bụng, vả lại nhịn
đói một bữa cũng chẳng có gì là gớm ghê đâu. Một buổi mai nọ tôi rón rén xuống
cầu thang, bà chủ phố đã tình cờ bắt gặp và hỏi tôi ăn gì chưa. Thấy tôi lắc đầu,
bà nói bằng giọng nặng trịch:
- Vậy thì xuống đây.
Tôi cũng tránh gặp gia đình của ông Cạc-Ty vì tôi không muốn
cho họ biết rõ tình trạng mẹ tôi. Tôi trốn mọi người như kẻ có tội phải sống
lén lút.
Mẹ tôi đi được một tuần và tôi cứ lê cuộc sống như vậy. Nỗi
lo âu duy nhất của tôi là bà chủ phố, vì nếu anh tôi không về thế nào bà cũng
báo cáo với nhà chức trách để họ đem tôi nhốt vào trong viện Cô nhi. Tôi phải
luôn luôn lánh mặt để khỏi gặp bà, nhiều lúc phải ngủ ngoài đường không dám về
nhà. Tôi làm quen được mấy người thợ củi sống trong ngõ hẻm ở sau khu phố. Đó
là những người hết sức bi thảm, chui rúc trong một kho chứa tối tăm, nói chuyện
với nhau bằng những lời lẽ gần như thì thầm, cả ngày cưa gỗ, cắt gỗ, để bó lại
từng bó nhỏ đem bán với giá nửa xu. Tôi đứng lê la trước cửa coi họ làm việc. Họ
lấy một khúc gỗ lớn rộng độ chừng ba mươi phân, cưa thành từng mảnh dày hai ba
phân, rồi lại cắt nhỏ thành từng miếng vụn. Họ cưa xẻ gỗ thật mau và tôi nhìn họ
làm việc một cách say mê. Rồi tôi mon men vào giúp đỡ họ. Họ tìm mua những ván
rời tháo bỏ các nơi chở về kho chứa, trữ lại, công việc mất khoảng một ngày, rồi
qua ngày sau cưa gỗ. Vào ngày thứ sáu, thứ bẩy, họ mới bán củi. Điều đã làm tôi
ưa thích ở đấy là cái không khí tập thể bao trùm nơi họ làm việc. Những người dễ
thương và ít lời đó tuổi cũng xấp xỉ bốn mươi nhưng trông già nua hơn nhiều.
Người chủ trong đám có lỗ mũi đỏ của người mắc bệnh đi tiểu ra đường và nơi hàm
trên chỉ còn mỗi cái răng cửa. Tuy vậy vẻ mặt ông ta bao giờ cũng dịu dàng. Ông
có lối cười khó coi, hô cái răng nhọn ra ngoài một cách kỳ lạ. Khi thiếu tách để
uống trà, ông lấy một hộp sữa không, rửa sạch, và mỉm cười nói : “Kể ra nó cũng
được việc đấy chứ”. Người bạn của ông mặc dù dễ thương nhưng thật ít lời, màu
da vàng ngâu, đôi môi thật dày và nói thật chậm. Vào khoảng một giờ, người chủ
quay lại, hỏi tôi:
- Chú bé đã ăn món bánh bằng váng sữa mặn chưa đấy?
Tôi đáp:
- Cháu cũng thường ăn đấy ạ.
Liền đó ông kêu một tiếng vui vẻ, mỉm một nụ cười và đưa cho
tôi hai xu để chạy tới một hàng quán góc phố mua một xu váng sữa mặn và một xu
bánh. Người chủ quán này mến tôi và bán rất rẻ. Sau khi cạo rửa miếng sữa mặn
xong chúng tôi cho thêm nước vào, bỏ tiêu và muối. Đôi khi người chủ còn trộn
thêm vào cục mỡ và một củ hành thái nhỏ. Tất cả món ấy thêm vào với nước trà
nóng làm thành bữa ăn tuyệt hảo.
Dù tôi không bao giờ xin tiền họ nhưng trước cuối tuần người
chủ cho tôi sáu xu khiến tôi ngạc nhiên thú vị chừng nào. Người bạn cùng làm có
cái màu da vàng ngâu thường hay bị chứng động kinh và người chủ phải tìm giấy đốt
ở dưới mũi anh ta cho hồi tỉnh lại. Đôi lúc anh lên cơn nặng sùi cả bọt mồm bọt
miếng và cắn chặt lưỡi nhưng khi tỉnh lại anh có vẻ gì xúc động và xấu hổ nữa.
Những người thợ củi này bắt đầu việc từ bảy giờ sáng cho đến mãi bảy giờ chiều,
đôi khi họ còn làm trễ hơn nữa và tôi thường cảm thấy buồn khi họ khép kho chứa
lại để trở về nhà. Một buổi chiều nọ, người chủ có ý định cho chúng tôi mua vé
hai xu vào dạo vòng ngoài trong rạp ca nhạc phía nam thành phố. Người bạn cùng
làm và tôi đã rửa ráy xong, đứng đợi ông ta. Tôi rất nôn nóng đi xem vì tuần đó
gánh Cạc-nô (Karno) trình diễn một vở hài kịch rất hay (và đó là đoàn mà mấy
năm sau tôi đã gia nhập). Người thợ bạn đứng trước tôi bỗng kêu một tiếng rồi
ngã lăn xuống, lại bị động kinh. Người chủ muốn ở lại nhà săn sóc anh ta nhưng
anh một hai bảo chúng tôi cứ đi xem và để anh nằm dưỡng bệnh ở nhà.
Trong thời khoảng đó sự đe dọa của trường học như một ông kẹ
ám ảnh tôi mãi. Thỉnh thoảng mấy người thợ củi cũng hỏi han tôi về chuyện học
hành. Nghỉ hè sắp hết, họ lại thắc mắc về tôi, nên tôi đành phải đợi đến bốn giờ
rưỡi chiều là giờ tan học mới đến gặp họ. Thành thử gần suốt cả ngày tôi phải
lang thang một mình trong ánh sáng những đường phố không chút tình thương và cứ
canh chừng đến giờ tan học để quay về lại những người thợ củi bạn hữu của tôi.
Một tối, khi tôi rón rén lên ngủ thì bà chủ phố gọi tôi.
Trông bà có vẻ nóng nảy và bà trao lại cho tôi một bức điện tín trên có mấy
dòng : “Sẽ đến ga Hoa-tơ-lô (Waterloo) mười giờ sáng mai. Thân mến. Sít-nê”.
Ra đón anh tôi ở tại nhà ga, vẻ mặt của tôi buồn bã hơn là
vui mừng. Áo quần của tôi vừa dơ vừa rách, đôi giày há miệng và lớp vải bọc bên
trong của cái mũ kết thò ra như cái váy ngắn ở dưới áo ngoài của người đàn bà.
Tôi đã rửa nhờ nơi vòi nước của mấy người thợ củi để khỏi nhọc sức mang một
thùng nước lên đến căn phòng ở tầng thứ ba và phải đi ngang qua bếp của bà chủ
phố. Khi tôi gặp anh Sít-nê, tai tôi, cổ tôi không sạch sẽ mấy. Anh nhìn ngắm
tôi và hỏi:
- Có việc gì xảy ra sao?
Tôi không thể nói dài dòng:
- Mẹ bị điên rồi và đã gởi vào trong dưỡng trí viện.
Mặt anh tối sầm nhưng anh tự trấn tĩnh được.
- Em sống ở đâu?
- Vẫn ở nhà cũ.
Anh quay lại để dọn các hành lý và tôi thấy anh xanh xao gầy
gò. Anh gọi chiếc xe và mấy người phu chất những đồ đạc của anh lên mui, đặc biệt
có một thùng chuối. Tôi hỏi:
- Của mình hở anh?
Anh gật đầu, bảo:
- Chuối còn xanh lắm, phải đợi một hai ngày nữa mới ăn được.
Trên quãng đường về anh bắt đầu hỏi tôi về chuyện mẹ. Tôi xúc
động quá nên kể cho anh chẳng mạch lạc gì, nhưng đủ cho anh thấy rõ thực trạng
gia đình. Anh bảo anh bị đau phải dưỡng bệnh tại Cáp và chuyến về này anh đã
dành được hai mươi đồng liu đem về cho mẹ. Anh có được món tiền ấy là nhờ anh
đã tổ chức xổ số ở trong binh lính. Anh lại nói về dự định của anh. Anh không
muốn đi biển nữa mà muốn trở thành kịch sĩ. Với số tiền nhỏ dành dụm được này,
chúng tôi có thể sống được chừng hai mươi tuần và trong cái thời khoảng ấy anh
sẽ tìm một chỗ làm trong các đoàn hát. Chuyến trở về nhà bằng xe của anh em tôi
với một thùng chuối có một tác động đặc biệt đối với bà con láng giềng cũng như
đối với gia đình chủ phố.
Ngay chiều hôm ấy anh tôi mua sắm cho tôi, trang bị trở lại từ
đầu đến cuối, và tối hôm ấy chúng tôi mua vé để đi xem hát. Suốt buổi trình diễn
anh tôi cứ lặp lại mãi : “Tưởng tượng hôm nay có mẹ cùng dự thì vui biết là chừng
nào”. Tuần ấy chúng tôi đến dưỡng trí viện thăm mẹ. Chúng tôi ngồi đợi ở trong
phòng khách và sự chờ đợi lâu dài trở nên khó chịu lạ lùng. Tôi còn nhớ lại
nghe một tiếng động ở nơi ổ khóa và tiếng mẹ tôi bước chân vào phòng. Bà có vẻ
xanh, đôi môi bà tím và dù nhận ra chúng tôi, sắc diện của bà không có vẻ gì là
phấn khởi cả. Sự vui tươi xưa đã biến mất rồi. Một cô khán hộ đi theo sau bà,
cô vốn hiền lành nhưng lắm chuyện, cứ đứng túc trực tại chỗ chực xen vào trong
câu chuyện giữa mẹ con tôi. Cô nói:
- Tiếc quá, lại nhè đến thăm vào những lúc như thế này vì sức
khỏe của bà ở đây chưa được khá lắm. Có phải vậy không, hả bà?
Mẹ tôi liếc nhìn về phía người nữ khán hộ với một dáng vẻ lịch
sự và mỉm nụ cười như muốn quay lại về phòng. Cô khán hộ nói:
- Hôm nào bà ta khá hơn thì sẽ lại thăm.
Cuối cùng cô ta quay vào và mẹ con tôi được ngồi với nhau. Mặc
dầu anh tôi cố gắng mọi cách để làm cho mẹ vui lòng, anh kể chuyện may của anh
trong công việc làm, giải thích vì sao anh phải vắng mặt khá lâu, bà chỉ yên lặng
ngồi nghe, thỉnh thoảng gật đầu với vẻ bận rộn lạc loài. Tôi bảo mẹ tôi thế nào
bà cũng sớm lấy lại được sức khỏe. Bà trả lời tôi bằng giọng tiếc rẻ:
- Chắc vậy, nhưng nếu con cho mẹ được mỗi một tách trà vào bữa
trưa đó thì mẹ đã khá lắm rồi.
Sau đó bác sĩ bảo cho anh tôi biết mẹ tôi suy nhược thần kinh
vì thiếu ăn nhiều ngày, bà cần phải được săn sóc nhiều hơn, và dù có những phút
giây tỉnh táo cũng phải đợi nhiều tháng nữa mới bình phục được. Và trong nhiều
ngày sau đó tôi cứ bị ám ảnh mãi bởi câu mà mẹ đã nói với tôi : “Nếu con đã cho
mẹ được tách trà, mẹ đã khỏe rồi”.
Chương 8
Tôi nhớ văn hào Công-Rát (Conrad) đã viết cho một người bạn rằng
cuộc sống cho ông ta cảm tưởng như mình là con chuột mù nằm ở góc nhà, chờ đợi
giờ phút người ta đập chết. Sự so sánh ấy có thể coi như phù hợp vào biết bao
nhiêu cảnh ngộ bi thảm mà chúng ta đây có thể trải qua. Nhưng trong chúng ta
cũng có nhiều người gặp được một dịp sung sướng, một dịp may mắn, và đó là điều
đã xảy ra cho bản thân tôi.
Tôi đã bán báo, làm thợ nhà in, bán đồ chơi cho trẻ con, thổi
chai, chạy việc cho thầy thuốc v.v… nhưng trong những cuộc phiêu lưu nghề nghiệp
như thế, tôi cũng như anh Sít-nê, không bao giờ quên cái đích tối hậu đời mình
là thành kịch sĩ. Vì vậy, gặp được dịp rảnh nào là tôi đánh giày, chải áo tìm đến
xin việc tại sở kịch nghệ Bờ-Lắc-Mo (Blackmore). Tôi đã đi lại như thế mãi cho
đến ngày áo quần của tôi không cho phép tôi được xuất hiện nữa. Nhưng một tháng
sau ngày anh Sít-nê tôi về, tôi được nhận vào đoàn hát. Khi được chấp thuận và
hẹn ngày giờ làm việc tôi lên xe buýt về nhà, say sưa vì hạnh phúc. Người ta chịu
trả cho tôi số tiền thù lao hai liu và mười xi linh mỗi tuần. Như thế, tôi đã đột
ngột rời khỏi cuộc đời nghèo khổ và bước vào trong giấc mơ ôm ấp từ lâu, giấc
mơ mà mẹ tôi từng nói đến với một niềm vui lạ lùng. Tôi sẽ trở thành diễn viên
sân khấu. Tất cả điều ấy xảy tới đột ngột chừng nào, bất ngờ bao nhiêu. Suốt
cái thời gian ngồi trên xe buýt tôi cảm thấy mình đã vượt qua được một giai đoạn
thật là quan trọng. Tôi không còn là nhân vật vô danh lê lết trên các ngoại ô.
Bây giờ tôi đã thuộc vào thế giới kịch nghệ. Nghĩ thế, tôi chỉ chực khóc.
Khi tôi trở về kể lại đầu đuôi câu chuyện người ta đã tiếp nhận
tôi ra sao cho anh tôi nghe, nước mắt anh tôi bỗng chảy đầm đìa. Anh ngồi nơi
giường nhìn ra cửa sổ với vẻ suy nghĩ, vừa lắc lư đầu và vừa gục gặc rồi nói một
cách trang trọng:
- Chúng ta đang ở vào một khúc quanh quan trọng của cuộc đời
mình. Ước gì có mẹ ở đây để cùng vui với chúng ta.
Tôi tiếp lời anh một cách phấn khởi:
- Anh thử nghĩ coi, họ đã chịu ký giao kèo để mình trình diễn
bốn mươi tuần lễ mà cứ mỗi tuần là hai đồng liu và mười xi linh. Em cũng đã bảo
ông bầu về việc giao kèo ký kết này nọ đều do anh quyết định cả, như thế mình
còn có thể đòi được cao hơn. Ít ra năm này anh em mình để dành được sáu chục đồng
liu là ít.
Sau khi sự phấn khởi đã dịu bớt, anh em chúng tôi nhận định
là tiền thù lao hai liu và mười xi linh thật không xứng với vai trò quan trọng
mà tôi nhận lãnh trong vở tuồng đó. Tôi bảo anh tôi cố gắng đòi thêm, nhưng cuối
cùng ông bầu gánh tỏ ra không chút nao núng nên chúng tôi cũng thấy thế là quá
tốt rồi. Anh tôi đọc hết vai kịch, giúp tôi học thuộc. Đó là một vai đáng kể,
dài độ ba mươi lăm trang nhưng chỉ ba ngày tôi đã thuộc lòng. Đến ngày trình diễn
để mà duyệt xét trước khi chính thức vào rạp người đạo diễn của đoàn hát tỏ ra
hết sức ngạc nhiên hỏi tôi đã từng trình diễn lần nào ở trên sân khấu hay chưa.
Mọi người trong đoàn tỏ ra hết sức hài lòng. Tôi chỉ còn mỗi khuyết điểm phải sửa
chữa lại là hơi ngọ nguậy cái đầu và hay nhăn nhó trong khi phát biểu.
Đến khi thực sự trình diễn, vở kịch không được thành công.
Các nhà phê bình sân khấu nặng lời chỉ trích, chỉ riêng mình tôi được vài lời
khen. Một tờ báo viết : “Có một chi tiết đáng kể đã gỡ gạc được rất nhiều cho vở
kịch, ấy là vai em bé bán báo đã gây vui nhộn và lôi cuốn được khán giả. Vai đó
đã được Sạc-Lơ Sa-Pơ-Lanh, một kịch sĩ trẻ có tài thủ lấy”. Anh tôi đã mua mười
hai tờ báo như vậy để mà lưu giữ. Suốt cái thời gian trình diễn hai tuần, chúng
tôi vẫn ở nhà cũ vì trên phương diện kinh tế chúng tôi thấy chưa có gì thật sự
bảo đảm. Vào một dịp rảnh, chúng tôi đến dưỡng trí viện thăm mẹ. Mấy cô khán hộ
đều nói là mẹ tôi không được khỏe trong ngày hôm đó nên không thể nào thăm được.
Họ kéo anh tôi lại chỗ khác để nói chuyện và tôi nghe anh trả lời:
- Không, tôi chắc nó không muốn đâu. (Đoạn, anh quay nhìn tôi
với một vẻ mặt buồn bã) Em có muốn gặp mẹ trong biệt phòng không?
Tôi bước lùi lại, kêu lên:
- Ồ, không. Em không thể nào chịu nổi cảnh đó.
Nhưng anh tôi đến thăm mẹ, bà nhận ra được anh tôi và tìm lại
được một sự tỉnh táo bình thường. Vài phút sau đó một cô khán hộ ra bảo nếu tôi
muốn thăm hãy cứ theo vào và chúng tôi cùng gặp nhau ở trong biệt phòng. Trước
khi anh em chúng tôi ra về mẹ tôi kéo riêng tôi ra một chỗ và bà thì thầm bảo
tôi với một giọng nói tuyệt vọng:
- Nhớ đừng mất trí nghe con, nếu không họ sẽ nhốt con ở đây.
Mẹ tôi phải ở trong dưỡng trí viện đến mười tám tháng mới tìm
lại được sức khỏe. Nhưng trong thời gian tôi đi trình diễn khắp nơi thì anh tôi
vẫn thường xuyên đến viếng thăm bà.
Trong chuyến trình diễn đầu tiên ban Quản trị của đoàn hát bảo
tôi cùng ở chung với vợ chồng ông Gờ-Rin (Green). Ông là thợ mộc của đoàn, bà
phụ trách việc may mặc. Ở chẳng vui gì mà ông bà này lại còn có tật nghiện rượu.
Tôi không thích ngồi ăn chung với họ, và cũng không ưa được cách ăn uống của họ.
Tôi nghĩ cuộc chung sống này đã chẳng vui gì cho họ mà cũng chẳng vui gì cho
tôi. Được ba tuần lễ, chúng tôi đồng ý ở riêng và bởi tôi còn quá trẻ để chung
sống với các đào kép khác nên tôi phải ở một mình. Như thế, tôi sống đơn độc
trong một thành phố xa lạ, một mình ở trong chiếc phòng nhỏ bé và trước khi đêm
trình diễn bắt đầu tôi cũng ít khi tiếp xúc với một ai khác, tôi chỉ được nghe
có mỗi giọng nói của tôi mỗi khi tôi nói mà thôi. Thỉnh thoảng tôi cũng bước
vào tiệm nước mà các đào kép cũng như nhân viên của đoàn tụ tập, để xem họ chơi
bi da. Nhưng tôi luôn có cảm tưởng sự tôi hiện diện làm họ không thích chuyện
trò và họ cũng tìm cách cho tôi thấy rõ ràng điều ấy. Khi họ đùa cợt, nếu tôi
hòa tiếng cười theo thì họ nhìn tôi một cách thật là nghiêm khắc.
Dần dần nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi. Một tối thứ bảy khi chúng
tôi đến những thành phố về phía Bắc tôi chỉ còn nghe những hồi chuông reo thảm
đạm trong khi tôi dạo bước trên đường lớn. Bóng tối xuống dần, và nỗi cô độc của
tôi cũng không có cách gì xoa dịu. Những ngày trong tuần tôi đi lang thang vào
trong các chợ địa phương mua sắm này nọ và mua thức ăn để về cho người chủ trọ
nấu nướng. Đôi khi tôi đến thuê một phòng trọ và tôi cùng ăn với gia đình chủ.
Việc này làm tôi thích thú vì cách nấu ăn của người miền Bắc thật là sạch sẽ và
rất ngon lành.
Tôi đi trình diễn trong vòng sáu tháng. Trong thời gian đó
anh Sít-nê tôi vẫn chưa thành công trong ước vọng thành kịch sĩ nên tạm kiếm việc
làm khác và được thu nhận vào bán trong một tiệm lớn. Trong số một trăm năm chục
người xin vào làm, người ta chỉ chọn mỗi anh. Vậy mà anh vẫn cảm thấy đó là một
sự thất bại nặng nề. Anh thường xuyên viết cho tôi để cho tôi biết tin tức về mẹ
nhưng tôi ít khi trả lời thư anh, trước hết vì chữ tôi viết quá kém. Có một bức
thư của anh làm tôi hết sức cảm động. Anh đã trách tôi về việc vắng bặt thư từ,
gợi lại bao nhiêu đau khổ mà chúng tôi đã trải chịu cùng nhau, và những tủi nhục,
những khổ nghèo ấy đáng lẽ phải làm chúng tôi gắn chặt vào nhau. Anh viết “Từ
ngày mẹ của chúng ta lâm bệnh, mỗi người trong chúng ta đây chỉ còn có nhau
trên cõi đời này. Em hãy thường xuyên viết thư cho anh, để nhắc nhở anh nhớ rằng
anh vẫn còn có đứa em”. Thư anh thật là cảm động, và tôi vội vàng trả lời. Kể từ
ngày ấy, tôi nhìn anh tôi với một tâm tình khác hẳn. Bức thư của anh làm gắn chặt
thêm tình anh em giữa chúng tôi và mối tình ấy bền chặt suốt cuộc đời tôi.
Tôi đã tập thói quen để sống một mình. Nhưng tôi đã mất thói
quen ăn nói đến nỗi thình lình gặp một nhân viên đoàn hát tôi thấy lúng túng một
cách khủng khiếp. Tôi không thể nào tìm lại ý nghĩ cho kịp để trả lời thật
thích đáng những câu người ta hỏi tôi, và khi người ta đi rồi tôi chắc họ cũng
ngờ tôi mất trí. Cô đào chánh của đoàn tôi thật đẹp, thật là dễ thương và thật
tử tế, vậy mà đi ở ngoài phố trông thấy cô ta đi về phía mình tôi phải vội vàng
quay lưng giả bộ chăm chú nhìn trong tủ kính và tìm rẽ sang lối khác để tránh
chạm mặt. Dần dà tôi không chú trọng tới sự ăn mặc, trở thành hết sức lôi thôi.
Cùng đi với đoàn bao giờ tôi cũng trễ lại sau cùng, và đến phút cuối tôi mới chạy
đến sân ga, tóc tai bù xù, nên thường xuyên bị trách mắng. Để cho có bạn, tôi
bèn mua một con thỏ, và dừng lại một nơi nào tôi tìm cách đem nó nhốt chung vào
phòng mình mà không cho chủ nhà biết. Con thỏ thật xinh nhưng không quen sống
trong nhà. Bộ lông của nó vừa trắng vừa sạch đến nỗi không ai ngờ rằng nó lại
có thể hôi hám đến thế. Tôi nhốt nó trong một cái lồng bằng gỗ nhỏ, giấu ở dưới
giường. Bà chủ bước vào trong phòng thật là vui vẻ, mang các thức ăn cho tôi,
nhưng cũng liền đó bà ta đánh hơi thấy mùi khác lạ và vội vàng bước ra ngoài với
vẻ ngạc nhiên, lo lắng. Đợi bà ra khỏi, tôi phóng thích ngay con thỏ để nó vọt
qua khỏi phòng. Từ đó, tôi tìm cách dạy nó biết vọt ra khỏi chuồng mỗi lần có
người gõ cửa. Khi bà chủ nhà khám phá được bí mật đó, tôi bèn trình bày sự việc
khiến bà cũng thấy cảm động và bà cố gắng chịu đựng chúng tôi trong một tuần lễ.
Nhưng lúc tôi đến Tô-Ni Pân-Đi sau khi tôi đã trình bày cho bà chủ nhà biết rõ
tài nghệ của con thỏ tôi, bà ta mỉm một nụ cười bí mật không nói năng gì. Nhưng
tối hôm đó, khi tôi trở về, thì con thỏ đã biến mất. Tôi có gặng hỏi, bà chủ lắc
đầu và bảo:
- Chắc là nó trốn đâu đó hay ai đánh cắp mất rồi.
Nhưng chính bà đã tìm ra một cách giải quyết vấn đề thật là
công hiệu.
Sau khi trình diễn bốn mươi tuần lễ vòng quanh các tỉnh, đoàn
của chúng tôi quay về trình diễn tám tuần trong vùng ngoại ô Luân Đôn. Vở kịch
chúng tôi đang diễn thâu gặt kết quả hết sức rực rỡ, nên hết chuyến lưu diễn
này sẽ tổ chức thêm một chuyến thứ hai độ ba tuần lễ. Anh tôi và tôi quyết định
rời khỏi chỗ cũ quá sức chật chội để tìm thêm một ngôi nhà ở trong khu phố
khang trang hơn nhiều. Như những con rắn, chúng tôi cũng muốn thay da, rời bỏ
những vết tích của quá khứ. Có một vai phụ ở trong vở kịch trong chuyến lưu diễn
sau này và tôi đề nghị với viên quản lý đoàn hát thâu nhận anh tôi thủ vai trò
đó. Anh tôi đã được chấp thuận với tiền thù lao mỗi tuần là ba mươi lăm xi
linh. Lần này chúng tôi được đi chung trong đoàn hát. Mỗi tuần anh tôi đều viết
thư về cho mẹ, và sau chuyến lưu diễn này chúng tôi nhận được lá thư của dưỡng
trí viện cho biết mẹ tôi đã bình phục rồi. Thật là một tin hết sức vui mừng.
Chúng tôi sắp xếp mọi việc để mẹ tôi rời bệnh viện và về ở với chúng tôi. Để mừng
sự đoàn tụ ấy, chúng tôi thuê một ngôi nhà thật sang gồm có hai phòng và một
phòng khách, có một dương cầm trong phòng mẹ tôi cùng với nhiều hoa, và chúng
tôi đặt một bữa ăn tối thật là sang trọng. Anh tôi và tôi ra ga đón mẹ, hớn hở
sung sướng, nhưng tôi vẫn tự hỏi lòng với ít nhiều nỗi âu lo không hiểu mẹ tôi
trở về lại với cuộc sống chúng tôi sẽ như thế nào, vì tôi hiểu rằng những sợi
dây đã ràng buộc chặt chẽ chúng tôi như là ngày xưa không bao giờ tìm lại được.
Cuối cùng tàu đến. Chúng tôi nhớn nhác dò xét từng khuôn mặt
người bước xuống từ các toa tàu. Rồi mẹ tôi đến, tươi cười bước tới một cách trầm
lặng. Bà không lộ một vẻ gì xúc động khi anh em tôi gặp bà, mà đã đón tiếp
chúng tôi với sự phải phép thân tình. Rõ ràng mẹ tôi cũng cần phải có thời gian
để mà hòa hợp.
Trên chuyến xe ngựa ngắn ngủi từ ga về nhà, mẹ con chúng tôi
nói hàng trăm chuyện. Sau phút phấn khởi dẫn dắt mẹ tôi xem nhà, xem căn phòng
dành riêng cho bà, chúng tôi họp lại ở trong phòng khách, nhìn nhau nghẹn ngào.
Đó là một ngày đẹp trời, căn phòng chúng tôi nhìn ra đường phố yên tĩnh, nhưng
sự vắng lặng bây giờ trở thành nặng nề và mặc dù tôi cảm thấy muốn được toại
lòng tôi cũng phải chống chọi lại một nỗi ngột ngạt. Người mẹ khốn khổ của tôi
chỉ đòi hỏi thật ít ỏi trong cuộc đời này để được sống vui, gợi tôi tưởng nhớ lại
cái quá khứ buồn thảm của mình. Và mẹ tôi là con người cuối cùng trên cõi đời
này có thể tác động đến tôi như thế. Tôi tìm mọi cách che giấu những cảm nghĩ ấy.
Mẹ tôi có phần già hơn và nặng nề hơn. Tôi thường lấy làm kiêu hãnh về cái dáng
đi của bà, về cách ăn mặc của bà và tôi muốn đem bà đến trình diện với đoàn,
nhưng bây giờ bà có vẻ xuềnh xoàng. Chừng đoán được ý nghĩ tôi bà quay lại nhìn
với một ánh mắt dò hỏi. Tôi đưa tay vén mái tóc mẹ tôi một cách ngượng ngập và
mỉm cười nói với bà:
- Trước khi đưa mẹ đến gặp đoàn hát, con muốn mẹ thật khỏe
đã.
Mẹ tôi nhìn tôi, rồi cầm búp phấn xoa lên mặt bà vui vẻ nói:
- Mẹ thật sung sướng vì còn được sống.
Chỉ một thời gian ngắn sau, chúng tôi hòa hợp và nỗi buồn rầu
của tôi cũng tan biến đi. Mẹ tôi hiểu rõ hơn chúng tôi nhiều rằng cái thời kỳ
âu yếm thân mật khi chúng tôi còn ở tuổi ấu thơ giờ đã qua rồi, và điều đó làm
cho bà trở thành yêu quý đối với chúng tôi hơn nữa. Trong cuộc lưu diễn mẹ tôi
lo các công việc mua sắm về phần chợ búa, bà thường mua các kẹo bánh, trái cây
và hoa về cho chúng tôi. Vì ở ngày xưa, trong cái thời gian khốn khổ nghèo nàn
là vậy, khi có dịp đi mua gì vào chiều thứ bảy mẹ tôi cũng vẫn cố gắng mua về
cho chúng tôi một bó hoa nhỏ giá độ một xu. Nhưng cũng đôi khi mẹ tôi ít nói, tỏ
ra dè dặt và thái độ ấy làm tôi buồn lòng. Mẹ đã xử sự như một người khách
trong nhà hơn là mẹ của chúng tôi.
Được chừng một tháng mẹ tôi muốn quay trở về Luân Đôn vì bà
nóng lòng muốn lo thu dọn để khi hết chuyến lưu diễn anh em chúng tôi có một
ngôi nhà tươm tất để ở. Bà còn bảo rằng đi theo đoàn hát chỉ thêm tốn kém.
Mẹ tôi thuê một căn nhà khá tốt, tìm cách trang trí thật đẹp.
Hai anh em tôi mỗi tuần lãnh được bốn liu và năm xi-linh, chúng tôi cùng trích
để gởi cho mẹ một liu và năm xi-linh. Hết kỳ lưu diễn lần thứ hai này anh em
tôi sẽ cùng ở với mẹ trong nhiều tuần lễ. Dù rất sung sướng trong cảnh sống ấy,
thâm tâm chúng tôi vẫn thích được đi lưu diễn trở lại. Hẳn là mẹ tôi cũng hiểu
điều đó. Khi bà tiễn anh em tôi ở tại sân ga trông bà rất vui nhưng chúng tôi
thấy bên trong như ẩn nỗi buồn. Trong kỳ lưu diễn lần thứ ba này mẹ tôi viết gởi
chúng tôi có cho biết về một sự éo le do chính định mệnh gây nên là bà Lu-i,
người vợ thứ hai của cha tôi đã chết ở viện Tế bần Lâm Bết, cùng nơi mà mẹ con
tôi đã từng trú ngụ ngày xưa. Sau khi cha tôi qua đời được chừng bốn năm thì bà
nối gót, để lại đứa bé một mình, và nó cũng được gởi đến trường học Hân Huên mà
anh em tôi ngày xưa đã phải trải qua. Mẹ tôi viết rằng bà có đến thăm đứa bé,
cho nó biết bà là ai, nhắc lại anh tôi và tôi đã cùng chung sống với cha mẹ nó ở
phu phố cũ. Nhưng nó hầu như không nhớ được gì, vì vào thời đó nó mới lên bốn.
Nó cũng không còn giữ lại một hình ảnh nào về cha nó nữa. Bây giờ nó đã lên mười.
Nó mang tên của mẹ nó khi bà còn bé, và theo như mẹ tôi biết thì nó không còn
ai là bà con thân thích. Mẹ tôi tả nó như một đứa bé xinh đẹp, ít nói, cả thẹn
và vốn ưu tư. Mẹ tôi đem đến cho nó kẹo bánh, trái cây và hứa hẹn sẽ thường
xuyên thăm nó, điều mà chúng tôi chắc chắn là bà giữ lời, mãi cho đến lúc bà bị
mất trí trở lại và phải đưa vào dưỡng trí viện.
Cái tin mẹ tôi đau lại làm anh em tôi thực là khổ tâm. Chúng
tôi không bao giờ biết rõ được chi tiết của sự việc ấy. Anh em tôi nhận được một
thông báo vắn tắt cho biết người ta tìm thấy mẹ tôi lang thang ở ngoài đường phố
miệng nói lảm nhảm. Chúng tôi không còn có thể làm gì khác hơn là phải chấp nhận
số mệnh của người mẹ khốn khổ ấy. Bà không bao giờ tìm lại hoàn toàn được tâm
não mình. Trong nhiều năm dài bà đã héo mòn trong dưỡng trí viện cho đến ngày
anh em tôi có đủ phương tiện đưa bà chữa trị trong một bệnh viện.
Đôi khi những vị hung thần chuyên gieo tai họa cho người cũng
thấy mệt mỏi và lại rũ lòng thương hại, như trong trường hợp mẹ tôi. Trong bảy
năm sau của cuộc đời bà, bà đã sống trong tiện nghi đầy đủ, giữa hoa và ánh
sáng, và thấy những đứa con bà đạt được danh vọng và sự giàu sang ở ngoài mọi sự
mơ ước của bà.
Sạc-Lơ Sa-Pơ-Lanh
(Vũ Hạnh dịch).
Năm 1974Charlie ChaplinVũ Hạnh dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét