Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2021

Đỗ Lai Thúy, nhà phê bình lai ghép

Đỗ Lai Thúy, nhà phê bình lai ghép

PGS-TS Đỗ Lai Thúy là Tiến sĩ Lịch sử Văn hóa Nghệ thuật, Phó Giáo sư Văn học. Ông viết nhiều công trình về văn hóa và phê bình văn học. Lã Nguyên nhận xét: “Nhìn vào nhan đề sách của Đỗ lai Thúy, độc giả có thể thấy rõ, trong hoạt động khoa học, phạm vi quan tâm của ông khá rộng, mở ra ở nhiều khu vực. Ông xuất hiện trước độc giả chủ yếu như một nhà văn hóa học. Ông có nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng ngay ở đây, văn học chỉ là chất liệu khảo sát để ông đưa ra những kết luận về văn hóa” [1].
Tôi quan tâm đến ông với tư cách ông là nhà phê bình văn học. Ở ông, có sự lai ghép Văn hóa học với Văn học, lai ghép Phân tâm học với Thi pháp học, lai ghép nghiên cứu hệ hình với cách nhìn truyền thống. Ông đề xuất nhiều ý tưởng trong đó có phương pháp phê bình ông gọi là phê bình văn học từ văn hóa: “thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ…Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[2]
THAM VỌNG LẬP THUYẾT
Các nhà nghiên cứu định vị Đỗ Lai Thúy là nhà phê bình Thi pháp- Phân tâm học. [xin đọc chú thích 3,4,5].Theo tôi, ông tập trung phân tâm tác giả, không phải phân tâm văn bản. Ông có quan niệm riêng về nghệ thuật.
Ông cho biết, nếu như Cái Khác là bản mệnh của nghệ thuật, thì, quy luật tạo ra Cái Khác, đó là tính lai ghép. Tính lai ghép trong phê bình cũng là chỗ độc đáo trong ngòi bút Đỗ Lai Thúy. Ông vận dụng tất cả các phương pháp phê bình để thiết lập thành mô hình tiếp cận tác phẩm. Trong cuốn “Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy”, mô hình tiếp cận của ông gồm ba bước: Tiếp cận tiền văn bản, văn bản và hậu văn bản.
Ở mỗi bước ông thực hiện như sau:
Tiếp cận tác phẩm từ tác giả: Phê bình tiểu sử học, Phê bình văn hóa-lịch sử, Phê bình xã hội học, Phê bình phân tâm học.
Tiếp cận tác phẩm từ văn bản: Phê bình phong cách học, Phê bình Thi pháp học,Phê bình Cấu trúc-Ký hiệu học,Phê bình phân tâm học, Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa.
Tiếp cận tác phẩm từ người đọc: Phê bình theo lý thuyết tiếp nhận, Phê bình hậu/ Giải cấu trúc. Phê bình Thông diễn học, Phê bình Nữ quyển luận, Phê bình hậu thực dân, Phê bình phân tâm học.
Ông nói về công việc viết phê bình văn học của mình: “…dù là ngưởi mê lý thuyết, nhưng những hiểu biết lý thuyết của tôi, chủ yếu là những tri thức ‘tiên thiên’, có tính chất siêu nghiệm, nên khi phê bình, tôi bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn tác phẩm, dựa vào trực giác nghệ thuật, chỉ đến khi cần xây dựng các mô hình nghiên cứu, cần khoa học, tôi mới cầu viện đến lý thuyết…”(Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy)[6].
Đọc kỹ Đỗ Lai Thúy, người đọc nhận ra Đỗ Lai Thúy có ý thức lập thuyết trong phê bình văn học. Để thực hiện điều này, ông tập trung vào lập luận, phân tích vấn đề sao cho sâu sắc, có tính khoa học và viết đầy tự tin về mỗi luận điểm của mình (giống kiểu viết của Bakhtin, Sartre hay Derrida…), sau đó phân tích tác phẩm minh họa cho luận thuyết[7].
Đây là luận giải của Đỗ Lai Thúy về “Cái Khác”:
“Áp dụng vào thơ, đặc biệt thơ Việt, cái Khác còn thêm một số thuộc tính cụ thể hơn. Thơ, trước kia, là một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt, không bình thường so với văn xuôi, nhất là với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Bởi thế, thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác. Cái Khác này đồng nghĩa với cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cho nên luôn có nguy cơ bị cái chính ngạch (to lớn, đồng bộ, chính thức) đồng hóa. Cho nên, cái Khác, một mặt phải chống lại sức hút của quyền lực trung tâm của cái chính thống và chính thức để bảo vệ sự tồn tại độc lập của mình. Mặt khác, nó phải chống lại chính bản thân nó. Bởi lẽ, cái Khác, sau một thời gian bị nghi kị, ghẻ lạnh, bắt đầu được chấp nhận, rồi quảng diễn ra đại chúng, thì đã trở thành quen mòn, không còn là khác nữa. Vì thế, để bảo vệ mình mãi là một cái Khác, thơ trong tiến trình của nó, phải luôn luôn đổi khác. Thơ Việt, mỗi lần đổi khác, ngoài sự tự thân vận động của nó, bao giờ cũng phải có sự trợ lực, nhiều khi là cú hích quyết liệt, của các yếu tố bên ngoài. Thơ Việt, bởi vậy, luôn là sự lai ghép. Nó lớn lên bằng những yếu tố ngoại sinh, tức cái Khác của cái Khác. Thậm chí, có thể nói, thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó…
…Sự gặp gỡ giữa thơ và hệ hình hậu hiện đại không chỉ đưa cái Khác lên thành phạm trù chủ đạo của mỹ học hậu hiện đại, mà còn, quan trọng hơn, giúp ta nhận thức được chính cái Khác mới là thực chất của thơ. Bởi thế, có thể lấy cái Khác làm hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ, từ đó, đưa ra một cái nhìn khác, một lối viết khác lịch sử thơ. Thơ Việt, cho đến nay, ít nhất có đến 11 lịch sử: 1) Thơ chữ Hán, 2) Thơ chữ Nôm, 3) Thơ quốc ngữ lúc giao thời, 4) Thơ Mới, 5) Thơ đầu kháng chiến chống Pháp, 6) Thơ Nhân văn và hậu Nhân văn, 7) Thơ thành thị miền Nam 1955 - 1975, 8) Thơ chính thống và chính thức, 9) Thơ Đổi mới và hậu Đổi mới, 10) Thơ đương đại, 11) Thơ hải ngoại…”(Thơ như là mỹ học của cái khác)
Đoạn văn trên có thể coi là một lập thuyết về thơ. Nhưng trong lập thuyết ấy, người đọc thấy Đỗ Lai Thúy lấy nhiều khái niệm của lý thuyết văn học nước ngoài (mà ông không ghi nguồn), trộn lẫn vào nhau, (cũng có thể là ông không phân biệt được sự khác biệt của các lý thuyết ấy) làm của mình. Chỉ khác ở hình thức diễn đạt. Có thể tìm thấy lý thuyết về sự khác biệt (difference)/ Cái Khác (The Others) từ F. Saussure đế trường phái Hình thức Nga, Edward W. Said (Chủ nghĩa Hậu thực dân), Derrida (différance-Giải Cấu trúc), phi tâm hóa (decenteralization - Hậu hiện đại)…
Vì thế cái Khác không phải là lý thuyết do Đỗ Lai Thúy đề ra. Nó cũng không phải là thực chất của thơ, càng không phải là hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ. Nâng vai trò của Cái Khác lên thành một lý thuyết để từ đó làm hệ quy chiếu nghiên cứu, phê bình văn học, viết lại lịch sử thơ (Chủ nghĩa hình thức Nga đã làm khi phân biệt nghệ thuật Phục Hưng, thời Lãng Mạn, thời Hiện thực trong văn học phương Tây), chỉ là cách vay mượn để Đỗ Lai Thúy làm mới mình mà thôi.
Nhìn cách ông phân biệt 11 lịch sử thơ Việt, người ta thấy tất cả cái hỗn độn, bát nháo trong tư duy lý thuyết của ông. Thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, thơ chữ Quốc ngữ là phân biệt theo hình thức ký tự. Thơ Mới, thơ đầu kháng chiến chống Pháp, thơ Nhân Văn và hậu Nhân văn là phân biệt theo tiến trình thời gian. Thơ thành thị miền Nam và thơ hải ngoại là phân biệt theo không gian. Còn Thơ Đổi mới và hậu Đổi mới, Thơ đương đại, tôi không rõ ông xếp theo tiêu chí nào, bởi thơ Đổi mới và Hậu đổi mới cũng chính là thơ đương đại! Vậy “Cái Khác” mà Đỗ Lai Thúy dùng làm tiêu chí phân biệt 11 lịch sử thơ Việt là cái gì?
Ông viết về nhiều nhà thơ trong nhiều cuốn sách khác nhau, mỗi cuốn cần có cái gì khang khác với cuốn khác. Thực ra, những cuốn sách này chỉ là khác nhau về cách đặt tên sách. Những nhà thơ trong Bút pháp của ham muốn (Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm) cũng khác nhau như các nhà thơ trong Thơ như là mỹ học của cái khác (Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng). Trong Hé gương cho người đọc, Đỗ Lai Thúy cũng dùng Phân tâm học để lý giải Nguyễn Du, như là dùng phân tâm học trong Bút pháp của ham muốn.
Khi ông nhận định rằng: “Cái Khác ở thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tự do”thì tôi hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa rằng ông không hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền, và càng không hiểu gì về Hậu hiện đại. Ông luận: “thơ hậu hiện đại đích thực không dừng lại ở cấp độ thủ pháp, mà đã tiến tới cấp độ quan niệm thực tại. Có như vậy mới sản sinh ra được cái Khác hậu hiện đại. Một cái Khác không phải là khác biệt, khác lạ trong quan hệ với cái ngoài nó, mà là một cái Khác trong quan hệ với chính nó, mang tính tự thân, là sản phẩm của một cá nhân tự lập và tự trị. Chính cái Khác này không chỉ cứu sống cái chết của tác giả, mà còn bội nhân tác giả, vì giờ đây người đọc cũng là tác giả. Một cái Khác như vậy, hẳn không nằm sẵn trong bài thơ, cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả, mà được sinh ra trong tiến trình bập bênh giữa tác giả, văn bản và người đọc. Thơ trở thành mỹ học của cái Khác.”
Những đoạn “lập thuyết” như thế này chỉ làm người đọc hoa mắt mà thôi, vì nó vô nghĩa (do ông thẩm thấu một cách xô bồ các lý thuyết văn học). Thí dụ, trong đoạn văn trên, ông lấy ý của R. Barthes về “cái chết của tác giả”, trộn với lý thuyết tiếp nhận, nhưng ông không ghi nguồn. Bởi làm gì có Cái Khác “không nằm sẵn trong bài thơ (văn bản), cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả”(ý thức sáng tạo), mà ”bập bênh giữa tác giả, văn bản và người đọc”. Trước đó ông đã khẳng định: “thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác “! Tôi nghĩ Đỗ Lai Thúy đang “xoay” người đọc trong trò chơi chữ?
Các nhà thơ khác nhau ở kiểu tư duy nghệ thuật, ở bút pháp, phong cách, ở cách sử dụng ngôn ngữ (thi pháp), ở nội dung tư tưởng, ở “cái tạng” riêng…, những điều này do cá tính sáng tạo làm nên và văn hóa, thời đại chi phối. Đọc câu văn: “thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó…”, thực sự tôi không hiểu Đỗ Lai Thúy định nói gì. Thơ Việt khác từ trong trứng nước là khác với cái gì? Và những thành phần cấu tạo nên nó là thành phần nào? Hầu như tính hàm hồ là một thuộc tính trong lý luận của ông. Điều này hoàn toàn trái với tính khoa học của một lý thuyết.
Có thể nói việc lập thuyết về “Cái Khác” của Đỗ Lai Thúy không giúp lý giải bản chất nghệ thuật của thơ ca, vậy sử dụng thuyết này, Đỗ Lai Thúy có dụng ý gì?
Đỗ Lai Thúy viết: “Mỗi cái Khác làm nên một lịch sử, một lịch sử thơ./…nhìn thơ Việt dưới dạng những lịch sử thơ có thể thấy được sự phong phú, đa dạng của thơ. Mỗi lịch sử đều có ý nghĩa và giá trị của nó, kể cả các dòng thơ nhỏ, lẻ, phụ mà trong cái nhìn nhất thể hóa không đáng coi là lịch sử. Đồng thời cho thấy sự vận động đa chiều và đan xen vào nhau của một lịch sử số nhiều. Cái nhỏ, phụ như là cái Khác rồi cũng lớn lên, phổ thông hóa, không còn là cái khác nữa, nhưng lại làm điều kiện cho một cái Khác khác ra đời. Như vậy, sự khác nhau của mỗi lịch sử chỉ là ở mức độ tự phản tỉnh của nó. Với sự đa lịch sử mà không có lịch sử nào là trung tâm như vậy, thơ Việt vẫn là một tổng thể, nhưng là một tổng thể mở: tổng thể phi tổng thể.”
Viết đoạn văn trên, Đỗ Lai Thúy muốn giải trung tâm thơ Việt. Ông ôm vào thơ Việt tất cả mọi ngọn nguồn sáng tác trong mọi không gian, thời gian (không gian địa lý, không gian xã hội, không gian văn hóa, không gian song ngữ, không gian nghệ thuật hàng xóm, không gian công cộng, không gian mạng- trong nước, hải ngoại, trung tâm, ngoại biên, cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cái chính ngạch...). Đó là cái nhìn “hợp lưu”, đa nguyên, và cái nhìn Giải trung tâm của Hậu hiện đại.
Người đọc đương thời hiểu những ý nghĩa không nói ra của cả Đỗ Lai Thúy và Nguyễn Mãnh Tiến về những thực thể thơ Việt đương đại. Nguyễn Mạnh Tiến kết thúc bài viết bằng lời kêu gọi: “người ta có quyền nghi ngờ mỹ học của cái Khác, hay phương pháp hệ hình như quan niệm của Đỗ Lai Thúy. Hơn thế, tôi còn thiết tha muốn độc giả nên biết khoác cho sự đọc của mình đôi cánh của hoài nghi. Vì biết hoài nghi, đó là con đường vương đạo dẫn đến cái khác trong nhận thức...” [5-đd]
Sự nghi ngờ những “lý thuyết”, những nhận định của Đỗ Lai Thúy là có cơ sở. Sau đây là một trường hợp cụ thể:
Đỗ Lai Thúy đề xuất phương pháp tiếp cận văn học từ văn hóa. Ông viết: “...thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ. Phương pháp phê bình này có nhiều thuận lợi, bởi nó dẫn nhà phê bình (cũng như người đọc) đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ cái biết nhiều đến cái biết ít, từ cái toàn thể đến cái bộ phận bằng con đường loại suy khoa học. Bởi lẽ, văn học với tính cách là một yếu tố của hệ thống văn hóa thì phải chịu sự chi phối hoặc sự quy định (chứ không phải quan hệ nhân quả đơn thuần của quyết định luận) của văn hóa. Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[8]
Mặc dù ông có dẫn Truyện Kiều, bám víu M.Bakhtin, thì những luận điểm của ông cũng bị các nhà phê bình phản bác, Nguyễn Hòa cho rằng ”tình trạng hời hợt, cảm tính, thiếu vắng một số căn cốt lý thuyết cơ bản về đối tượng” dẫn đến những “kiến giải nhì nhằng”, và đặc biệt là Đỗ Lai Thúy“sáng tạo” ra ý tưởng oái oăm…” [9].
GS-TS Trần Đình Sử cũng “phản biện” rất thẳng thắn về bài viết “Khi người đọc xuất hiện” của Đỗ Lai Thúy [10], dù trước đó ông vui mừng giới thiệu Bút pháp của ham muốn.
GS-TS Trần Đình Sử nhận định khái quát bài viết:
“Trong bài này anh Thuý muốn xác lập cơ sở lý luận cho một hệ hình phê bình văn học hiện đại, tức tiếp cận tác phẩm văn học từ phía người đọc, giới thiệu vai trò quan trọng của thông diễn học đối với nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Đáng tiếc là nó có quá nhiều chỗ trái với logich khoa học và thực tế, chứng tỏ một lối làm việc (tuỳ tiện) đáng buồn…/ Quan niệm về “người đọc cổ điển” của anh là một đề xuất tuỳ tiện.”;
“Đỗ Lai Thuý thiếu kiến thức về người đọc trung đại và hoạt động đọc của họ cho nên có nhiều chỗ sai…”
…GS-TS Trần Đình Sử kết luận: “Điều chúng tôi muốn nói là làm khoa học thì không được tuỳ tiện, lại càng không được hư cấu.”
Như vậy, xét từ cách tiếp cận thơ theo hệ hình, theo tiêu chí của Cái Khác, đến cách tiếp cận văn học từ văn hóa của Đỗ Lai Thúy, nhìn ở góc độ “lập thuyết”, Đỗ Lai Thúy còn cần nhiều thời gian nghiên cứu, nghiền ngẫm hơn nữa, và nhất là đừng tự huyễn hoặc chính mình. Rất tiếc là thời đại đã vượt qua ông rất xa.
NĂNG LỰC CỦA NHÀ PHÊ BÌNH
Tôi quan tâm đến những bài phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy. Bởi ở đó giúp tôi nhận ra tài năng của nhà phê bình.
Đỗ Lai Thúy viết về nhiều nhà thơ (4 tập sách với trên 30 nhà thơ) sao chỉ có bài viết về Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hồ Xuân Hương được TS Nguyễn Thị Thanh Tâm và PGS-TS La Khắc Hòa đánh giá cao? Tôi thử đi tìm lời giải.
Nguyễn Du là một tác giả đã được nghiên cứu nhiều, Đỗ Lai Thúy có khám phá gì mới? Bài Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả”[11], Đỗ Lai Thúy chứng minh nhận định này: “Nguyễn Du là một thiền sư-cư sĩ, vừa giống như mọi người, tuân theo lẽ thường tình, vừa khác với mọi người, sống theo sự giác ngộ của mình, dìm một ai đó trong không ai cả.”.
Đỗ Lai Thúy chọn bài thơ Ngã độc Kim cương thiên biến linh của Nguyễn Du để khẳng định con đường giác ngộ của ông: “Phương pháp mà Nguyễn Du chọn tu là độc tụng và chiêm nghiệm (Ngã độc Kim cương thiên biến linh - Ta đọc kinh Kim cương nghìn lượt). Đọc, đọc nữa, đọc mãi rồi sẽ sinh ra nghi tình, tức một tình trạng mâu thuẫn với lý trí, hay lẽ phải thông thường, mà không giải quyết được. Đây chính là công án thiền. Rồi hôm nào đó tình cờ gặp một duyên sống mà bỗng nhiên bừng ngộ. Nguyễn Du đã chứng ngộ như vậy khi đứng trước Đài đá phân kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương.”
Nhưng do đâu Nguyễn Du tìm đến Phật để trở thành Thiền sư? Đỗ Lai Thúy dùng phân tâm học để lý giải: “Thực ra, những mất người thân, mất điều kiện sống ổn định, mất tính vĩnh cửu của vương quyền khiến Nguyễn Du, nhìn từ phân tâm học Freud, rơi vào mặc cảm bị tước đoạt. Điều này tạo ra một trống rỗng lớn trong tâm hồn ông. Để lấp đầy khoảng trống nỗi sợ /nỗi sợ khoảng trống ấy, Nguyễn Du nhất định phải nhanh chóng trở thành một ai đó… Có thể nói, đến đây, về mặt tâm thần, Nguyễn Du chẳng những không lấp đầy được trống rỗng mà còn lún sâu vào tình trạng phân rã, hoặc phân liệt, hay khủng hoảng tâm thần. Chứng u uất, âu lo, trạng thái tâm thần bất định “đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” là dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie) như Trương Tửu đoán định. Đây hẳn là thời điểm Nguyễn Du tìm đến với đạo Phật,
Nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại hoài nghi: “Thực ra, việc Nguyễn Du đã là một thiền sư hay vẫn chỉ là một nhà Nho, đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến các thiền sư-học giả Vạn Hạnh”
Đỗ Lai Thúy lý giải việc làm quan của Nguyễn Du và đưa ra một nhận định làm sửng sốt những người đã đọc kinh Phật: “…ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Du, với tính cách là một thiền sư-cư sĩ, vẫn ra làm quan, vẫn sống cuộc đời quan trường như mọi người, nhưng khác mọi người ở chỗ dù tận tụy với công việc nhưng ông vẫn giữ được khoảng cách với quan trường, nghĩa là ông không ngụp lặn trong đó và không lấy sự thăng quan tiến chức làm mục đích sống của mình.”; May mắn là thiền sư-cư sĩ Nguyễn Du còn là một nghệ sĩ nữa, nên ông thấu hiểu và đầy cảm xúc với cuộc đời. Tức là bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên”
Thú thực là tôi không sao “nuốt trôi” những suy diễn chủ quan, bịa đặt của Đỗ Lai Thúy khi ông lý giải về Nguyễn Du. Sự vận dụng Phân tâm học cùng với việc giải thích về kinh Phật, về sự giác ngộ của Nguyễn Du của Đỗ Lai Thúy là không có cơ sở. Tôi không rõ Đỗ Lai Thúy tìm đâu ra chứng từ y khoa về bệnh lý của Nguyễn Du để nhận định rằng Nguyễn Du bị “khủng hoảng tâm thần, có dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie)”? Cốt tủy của kinh Kim Cang là để hàng phục Tâm và an trụ Tâm. Khi xưa ngài Huệ Năng đọc kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”thì liền hoát nhiên đại ngộ. Như vậy ta có thể hiểu mục đích đọc Kinh Kim Cang của Nguyễn Du. Người đã hàng phục tâm và an trụ tâm như Nguyễn Du mà “bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên” , giải thích như thế thì không thể thuyết phục?
Đỗ Lai Thúy gọi Bùi Giáng là “nhà thơ của các nhà thơ”[12], là “Thi sĩ-triết gia”. “Bùi Giáng ở những mười năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại”.
Đỗ Lai Thúy viết về Bùi Giáng như sau: “Một trong những cách sống thể hiện sự nhất quán của thi cách và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi nhân”, nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại tự phủ định: “chuyện Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm gác sang bên vấn đề bất khả giải”.
Thế nhưng Đỗ Lai Thúy lại nói khá kỹ về bệnh điên của Bùi Giáng: “Bùi Giáng, trước hết, rất ý thức về cái điên của mình”; “Bùi Giáng còn dấn thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ, thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”; “Điên của Bùi Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách tồn tại ở đời.”.
Và Đỗ Lai Thúy kết luận: “Người điên cũng như người chứng ngộ đều cùng chung một cõi vô trí.”; “Ông như một Bồ Tát không bước hẳn vào cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.”
Đọc bài viết của Đỗ Lai Thúy viết về Bùi Giáng, tôi trông chờ ông giảng một bài thơ nào đó của Bùi Giáng, nhưng tuyệt nhiên không. Bài viết của Đỗ lai Thúy chỉ toàn là những nhận định võ đoán, Đỗ Lai Thúy không sao thâm nhập vào được thế giới tư tưởng và nghệ thuật của Bùi Giáng. Ngay cả luận điểm cốt lõi của bài viết là: Bùi Giáng là “thi sĩ- triết gia” cũng không được Đỗ Lai Thúy lý giải. Rất tiếc là, Bùi Giáng bị điên mà Đỗ Lai Thúy lại không dùng phân tâm học để đọc thơ ông. Đỗ Lai Thúy và Phân tâm học sẽ hòan toàn bất lực trước thơ Bùi Giáng vì thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng, tư tưởng của Bùi Giáng là tư tưởng của Hoa Nghiêm, cách diễn ngôn của Bùi Giáng là cách nói vô ngôn của Thiền.[13]
Bùi Giáng không hề là Hậu hiện đại như Đỗ Lai Thúy cố gán ghép cho ông (thực ra ý kiến này Đỗ Lai Thúy cũng vay mượn của người khác). Thụy Khuê cho rằng: “Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu Kiều”[14]
Thanh Tâm Tuyền là một hiện tượng cách tân thơ ở miền Nam trước 1975. Thơ ông là một cõi riêng thách đố trí tuệ người đọc. Trong bài viết “Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói” [15], Đỗ Lai Thúy, bằng thi pháp học, có những phát hiện tinh tế, sâu sắc về lớp vỏ chữ:
“Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền để tương ứng với một thực tại vỡ vụn, rời rạc, cũng trở nên rời rạc, vỡ vụn. Thi nhân tước bỏ hầu hết những từ nối, từ gối, từ cú pháp, khiến mạch liên kết giữa chữ và chữ bục đứt, các từ rời ra. Thi nhân cũng lược bỏ các ý chuyển tiếp, các hình ảnh chuyển tiếp, khiến mạch câu, đoạn bị đứt gãy đột ngột, bất ngờ. Như vậy, các từ, các cụm từ, các câu, các hình ảnh, các ý tưởng rời nhau, trở thành những đơn vị độc lập, tự thân, đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, tự sắp xếp với nhau hoặc liên hệ với nhau một cách tình cờ…
…Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, mang tính rời rạc, tự thân, chưa có nghĩa, hoặc chỉ mang nghĩa tự điển của vật liệu…”
“Bài thơ câu dài ngắn, tồn tại như những khả thể, đằng sau bài thơ được hiện hữu ấy còn thấp thoáng, ẩn khuất những bài thơ khác ở dạng tiềm/ tiền sinh. Câu thơ thì chảy tràn từ dòng trên xuống dòng dưới như những chiếc đồng hồ Dali. Còn từ thì luôn vượt thoát hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thuỷ, do "trung tâm tạo nghĩa" sinh ra, để lang thang trong không gian bên ngoài trúc tìm nghĩa mới. Thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, vượt qua ngữ học cấu trúc của Saussure để đến với ngữ dụng học của Witgenstein.”
Đỗ Lai Thúy cũng nhận xét về Cái Tôi, về cấu trúc thơ, về nhịp điệu thơ của Thanh Tâm Tuyền (phân tích thi pháp hoc). Ông lần đến tư tưởng sáng tạo của Thanh Tâm Tuyền là: “Sáng tạo, theo Thanh Tâm Tuyền, là sự nổi loạn”
Tôi mong được đọc một bài Đỗ Lai Thúy phân tích thơ Thanh Tâm Tuyền, nhưng trong bài viết, tuy ông có dẫn chứng bài thơ Phục Sinh (để nói về Cái Tên và Cái Tôi của Thanh Tâm Tuyền), và bài Lệ đá xanh (để nói về nhịp điệu làm xô lệch cấu trúc bài thơ - nghĩa là những yếu tố hình thức thơ), ông không hề phân tích ý nghĩa bài thơ (chủ nghĩa hình thức không quan tâm đến nội dung?).
Tôi ngờ rằng Đỗ Lai Thúy không đọc được thơ Thanh Tâm Tuyền. Bởi thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tư tưởng, mỗi bài thơ là một “dòng ý thức” về hiện sinh được diễn đạt bằng nghệ thuật Siêu thực. Cái Tôi trong thơ Thanh Tâm Tuyền là Cái Tôi đang trôi chảy trong dòng ý thức, khác với Cái Tôi trong Thơ Mới là Cái Tôi tâm trạng. Ông mơ hồ rằng: “thơ Thanh Tâm Tuyền thao thiết một ý thức, ý thức hiện sinh, ý thức về thời cuộc, về tự do, về hôm nay, về một hiện thực cực thực, về thân phận nhược tiểu, về da đen, về Việt Nam và về thế giới”và sau cùng ông ca ngợi: “Thanh Tâm Tuyền cho đến nay, vẫn là một quả núi, đột khởi, sừng sững, gây kinh ngạc. Bởi, với những cấu trúc bị xô lệch, những nhịp điệu bị trôi chảy..., thơ ông đã đạt tới văn chương hiện đại giai đoạn cuối kỳ.”
Thanh Tâm Tuyền hiện lên trong bài viết của Đỗ Lai Thúy là một con người siêu hình. Ông gạt bỏ tất cả bối cảnh xã hội, thời cuộc trong đó Thanh Tâm Tuyền chìm nổi. Ông cũng bỏ luôn mảng thơ Thanh Tâm Tuyền viết trong thời gian đi cải tạo, như vậy làm sao Đỗ Lai Thúy có thể hiểu tiến trình thơ Thanh Tâm Tuyền. Thi pháp học và Phân tâm học chỉ giúp Đỗ Lai Thúy hiểu đặc điểm thơ Thanh Tâm Tuyền về ngôn ngữ, nhịp điệu, cấu trúc, còn những tầng lớp khác của cấu trúc thế giới nghệ thuật thơ Thanh Tâm Tuyền, Đỗ Lai Thúy không đọc được.
Tôi định dừng đọc Đỗ Lai Thúy ở đây, song có người khen bài Đỗ Lai Thúy viết về thơ Hoàng Cầm, tôi đành phải dành ít phút để đọc Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm [16].
Đỗ Lai Thúy nhấn vào vài luận điểm: “Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Không chỉ do Hoàng Cầm viết trong trầm mộng, mà chính vì thi phẩm có đường nét của giấc mơ”; “Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; Mặc cảm Oedipe chi phối toàn bộ tập thơ Về Kinh Bắc nói riêng và cả đời thơ Hoàng Cầm nói chung”; “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu đã phổ vào thơ Hoàng Cầm”; “Lá Diêu bông là ước mơ tình dục bất hợp pháp đã chi phối suốt cả đời Hoàng Cầm”
Do đâu Hoàng Cầm có mặc cảm Oedipe, Đỗ Lai Thúy lý giải: “Hoàng Cầm là một người có tuổi thơ không bình thường. Mẹ Hoàng Cầm là một cô gái làng Bựu, một làng quan họ nổi tiếng, Ông bà lấy nhau rồi chê nhau đến hơn mười năm trời… khi Hoàng Cầm sinh ra, mẹ nhà thơ phải vượt cạn một mình, rồi cũng một mình tần tảo nuôi con… Nhà thơ đã sớm cảm nhiễm cái gia cảnh của mình… Nỗi buồn ấy thực ra là mặc cảm Oedipe, yêu mẹ ghét bố, mà nhà thơ, chưa nói bấy giờ mà ngay cả bây giờ, vẫn chưa ý thức được”
Đỗ Lai Thúy kết luận về thơ Hoàng Cầm: “Tóm lại, Về Kinh Bắc hội đủ các yếu tố của một thi phẩm siêu thực: giấc mơ, ẩn dụ, huyền thoại, viết tự động…, nhưng vẫn chưa phải là một tác phẩm đúng nghĩa của chủ nghĩa siêu thực như ở phương Tây”.
Thú thực là tôi thấy Đỗ Lai Thúy áp đặt quá đáng nhận thức chủ quan của mình về thơ Hoàng Cầm. Ông sử dụng Phân tâm học một cách méo mó để giải thích vấn đề. Từ hoàn cảnh riêng cha mẹ của Hoàng Cầm ông suy ra mặc cảm Oedipe, con trai yêu mẹ, ghét bố. Từ nhận định Về Kinh Bắc là một giấc mơ, ông dẫn đến ý tưởng Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; ông cho rằng “ham muốn vô thức” ấy là “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu” của Hoàng Cầm…
Ai cũng biết đâu phải giấc mơ nào cũng chứa những ẩn ức tình dục! Người ta sẽ hỏi, đứa trẻ được thỏa mãn ẩn ức tình dục như thế nào? Và được thỏa mãn ẩn ức tình dục, nên trẻ con không bị buồn bực dồn nén chăng. Mặc cảm Oedipe và Ẩn ức tình dục là hai khái niệm Phân tâm học khác nhau. Mẹ Hòang Cầm một mình tảo tần nuôi con, Hòang Cầm sớm cảm nhận gia cảnh mà thương mẹ, đó là một thứ tình cảm tinh thần, đâu phải là “ẩn ức tình dục”, đâu phải mặc cảm Oedipe, con trai ghét bố khi thấy bố gần gũi âu yêm mẹ! Bố Hoàng Cầm đi xa, bỏ rơi mẹ Hoàng Cầm, làm sao có mặc cảm Oedipe được!
Đỗ Lai thúy đã không hiểu mặc cảm Oedipe là gì, vì thế những kiến giải của ông dẫn người đọc đi vào cõi lầm lạc. Chẳng nhẽ Hoàng Cầm làm thơ chỉ là để thỏa mãn ẩn ức tình dục của riêng nhà thơ? Vậy đâu là giá trị những sáng tạo nghệ thuật của Hoàng Cầm đối với cộng đồng xã hội, cộng đồng văn hóa và lịch sử thơ Việt?
Tôi thực sự hoài nghi cái cách mà Đỗ Lai Thúy sử dụng phương pháp Phân tâm học. Đỗ Lai Thúy chỉ dùng thơ Hoàng Cầm làm chứng cớ cho nhận định của mình về Hoàng Cầm, tức là dùng tác phẩm như vật chứng, lời chứng để quy kết về tác giả, hơn nữa là những quy kết áp đặt, giả định, chủ quan. Một phương pháp đọc thơ như vậy, liệu có đem đến những thông tin đáng tin cậy hay không?
Tất nhiên tôi không phủ định những phân tích thi pháp của Đỗ Lai Thúy trong bài này. Ông có những phát hiện thú vị. Tuy nhiên đó chỉ là những phát hiện về vỏ chữ của thơ, còn giá trị tư tưởng, sáng tạo nghệ thuật của thơ Hoàng Cầm đều bị Đỗ Lai Thúy bỏ qua.
“KẺ THÍCH CHIA RẼ DƯ LUẬN”[17]
Đỗ Lai Thúy đã viết về các nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm (Bút pháp của ham muốn); Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Dương Khuê, Tú Xương, Tản Đà (Hé gương cho người đọc); Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Thu Nhã Tập (Mắt Thơ); Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng (Thơ như là mỹ học của cái khác).
Nhìn vào công trình của Đỗ Lai Thúy, Mai Anh Tuấn cho rằng Đỗ Lai Thúy “cặm cụi trục vớt những danh thi”. Đúng là Đỗ Lai Thúy viết về những nhà thơ (hầu hết) đã thành người của thiên cổ. Tôi không thấy mặt những nhà thơ đương đại, những nhà thơ trong hệ hình Hậu hiện đại nối tiếp Bùi Giáng như ông nói, chẳng hạn Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Văn Cầm hải, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Hồng Minh... Chẳng nhẽ họ không có gì cho ông đáng viết?
Lý giải điều này thế nào?
Phải chăng đó là thái độ né tránh vì ông sợ phiền phức đối với người đang sống? Ông kể: “khi tôi viết bài về Xuân Diệu đăng đầu tiên trên một tờ báo điện tử, con trai Huy Cận đến tận toà soạn doạ sẽ kiện Đỗ Lai Thuý vu khống Xuân Diệu, vu khống Huy Cận. Tôi bắn tin, muốn kiện cứ kiện Tô Hoài trong Cát bụi chân ai trước.”. Đỗ Lai Thuý nói vui, rằng “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh, lì lợm, thậm chí, mặt dày mày dạn” [17-đd]
Đỗ Lai Thúy không viết về những nhà thơ hệ hình Hậu hiện đại theo chân Bùi Giáng, là vì ông không đọc được họ (hạn chế về năng lực và phương pháp phê bình). Trước đó, ông đã không đọc được thơ siêu thực-dòng ý thức của Thanh Tâm Tuyền và thơ vô ngôn viết theo mỹ học Thiền của Bùi Giáng thì sao ông đọc được Siêu thực của Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, làm sao ông đọc được những tác phẩm thơ bị phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian, thời gian, nhân vật và thi luật, và xen vào những ngẫu nhiên, hoang tưởng, những mảnh vỡ (thơ Hậu hiện đại) của thơ Văn Cầm Hải, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly. Ngay cả thơ Tân hình thức của Khế Yêm mà ông khen ngợi, ông cũng không hề chạm vào…Bởi Thi pháp học và Phân tâm học không giúp ông thâm nhập được vào thế giới thơ của những nhà thơ này. Cho nên ông khai quật thơ những người đã chết (thời đại đã vượt qua họ) là vì vậy.
Ông thích “chia rẽ dư luận” là vì, như GS-TS Trần Đình Sử và nhà phê bình Nguyễn Hòa nhận xét, ông “hư cấu” những lý thuyết không có cơ sở, ông đưa ra những nhận định áp đặt lên đối tượng phê bình trái với lý luận và thực tiễn (trường hợp Nguyễn Du, Hoàng Cầm chẳng hạn), và ở việc ông “xoay trục” liên tục từ Thi pháp sang Phân tâm học, rồi nghiên cứu hệ hình chuyển sang tiếp cận văn học từ văn hóa, nó lộ ra rằng chưa phương pháp phê bình nào giúp ông khám phá được bản chất, giá trị đích thực của sáng tạo nghệ thuật.
Dẫu thế nào, có thể khẳng định điều này, Thi pháp học cùng với năng lực bẩm sinh (trực giác nghệ thuật) đã giúp ông khám phá được nhiều điều thú vị về nghệ thuật ngôn từ của các nhà thơ, từ đó ông có những trang viết bay bổng, giàu cảm xúc, có thể làm say mê người đọc.
Còn những điều khác…, như ông nói: “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh,…”
Chú thích:
[1] Lã Nguyên-Đỗ Lai Thúy và phê bình phân tâm học Việt Nam:
https://languyensp.wordpress.com/
[2] Đỗ Lai Thý-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa:
http://www.vanhoahoc.vn/
[3] Lê Sử-Đỗ Lai Thúy và phê bình Thi pháp học
https://www.facebook.com/
[4] Trần Đình Sử- Đỗ Lai Thuý và bút pháp ham muốn
http://vietvan.vn/
[5] Đọc thêm: Nguyễn Mạnh Tiến- Chú giải ngắn về phê bình văn học Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác,
-Tham luận tại tọa đàm: “Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác” do Khoa Viết văn – Báo chí (ĐHVH HN) tổ chức ngày 26/4/2013)
http://vietvan.vn/
[6] Đọc thêm: Lê Thị Thanh Tâm-Phê bình thơ xác lập đẳng cấp thưởng thức nghệ thuật
http://vietvan.vn/
[7] Mai Anh Tuấn- Đọc thơ như là mỹ học của cái khác.
http://vannghequandoi.com.vn/
[8] Đỗ Lai Thúy-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa-Nguồn : Tạp chí VHNT số 305, tháng 11-2009
http://www.vanhoahoc.vn/
[9] Nguyễn Hòa- PGS TS Đỗ Lai Thuý: từ những tiền đề sai đến một kết quả… đúng!?
http://www.nhandan.com.vn/
[10] Trần Đình Sử- Những luận lí khó tin (Đọc Khi người đọc xuất hiện của Đỗ Lai Thuý)
https://trandinhsu.wordpress.com/
[11] Đỗ Lai Thúy- Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả
vanviet.info/
[12] Đỗ Lai Thúy-Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ:
http://tiasang.com.vn/
[13] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Bùi Giáng, ai người chia sẻ
http://vanchuongviet.org/
[14]Thụy Khuê-Hiện tượng Bùi Giáng
http://thuykhue.free.fr/
[15] Đỗ Lai Thúy-Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói
http://www.vanchuongviet.org/
[16] Đỗ Lai Thúy-Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cấm
http://tqtrung1010.blogspot.com/
[17]- Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy - Kẻ thích chia rẽ dư luận
http://www.tienphong.vn/
-Đọc thêm: Nguyễn Tôn Hiệt-Đỗ Lai Thúy và trường phái “luộc văn”
talawas.org/
Tháng 4/2017
Bùi Công Thuấn
Theo http://buicongthuan.blogtiengviet.net/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...