Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Ta đã làm chi đời ta 2

Ta đã làm chi đời ta 2

Vớt lại trần ai…

Khó mà quên được Tết năm đó, mỗi khi ngồi uống trà một mình. Không bắt buộc phải trà ướp sen. Quý hồ đợt khói trên miệng chén trà có hồn sen là đủ!
Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm
Ai biết mình sen rụng xác xơ… 1
Năm đó, phải chăng năm Quý Mùi, tây lịch 1943? Hoàng ăn Tết dưới mái gia đình, như thường lệ. Nhưng khác thường lệ ở chỗ ngay từ mồng Hai Tết, Hoàng đã lấy xe lửa di chuyển từ Nam Định lên Hà Nội, và có mặt giữa đám anh em làng Say ròng rã từ chiều mồng Hai cho đến hết tháng Giêng mới rã đám.
Chẳng hiểu vì lý do nào mầu nhiệm, mà Tết năm ấy xem chừng bạn văn của Hoàng, anh nào cũng phong lưu cả. Không dám nói là tiền bạc như nước, nhưng cái khoản chi phối vào tửu quán ca trường thì ai cũng đủ sức chu biện cho ba ngày tròn là ít.
Thoạt tiên chỉ có bốn người, Hoàng cũng ở trong số ấy. Rồi sau bốn ngày, mỗi người lại tìm được ba người khác để tách rời ra khỏi nhóm nguyên thủy. Rồi cứ thế… cứ thế! Mấy chốc mà chẳng bay vèo hết sạch cái "tháng ăn chơi".
Tuổi Hoàng chưa đến ba mươi; chẳng cần mang kính màu hồng màu biếc, Hoàng cũng thấy cảnh trước mắt toàn hoa nở lá tươi, vừa đẹp vừa say như chén rượu Đào-viên-kết-nghĩa.
Huống hồ từ lâu nay Hoàng đã quyết mang vào thân cái nghiệp của một kẻ làm thơ viết kịch! Nên càng tin rằng cảnh trước mắt kia đang là "cảnh khói", đúng như câu văn bất hủ của Lý Bạch: "Dương xuân triệu ngã dĩ yên cảnh, Đại khối giả ngã dĩ văn chương".
Cảnh xuân tại Hà đô mướt dịu như khói, mình được triệu thỉnh đến thưởng thức, không lẽ mình chối từ! Lại được trời đất kia cho vay tạm cái hồn văn trong một kiếp người, đâu lẽ mình để cho khối ngọc bị hoen mờ nơi bùn bụi trên các nẻo lợi danh! Có ngọc quý – dầu chỉ vay tạm trong thời hạn một trăm năm – tất phải đưa nó lên những đỉnh cao nhất của tình cảm để nó có dịp hội tụ được tối đa những tia sáng vạn năng từ đó bùng cháy lên ngọn lửa sáng tạo.
Các bạn văn bạn chơi của Hoàng dĩ nhiên cũng chung một ý nghĩ. Mà không thể sao được, khi bốn chung quanh, thời tiết đang mê hoặc mọi cảm quan, và miền ngoại ô Hà Nội đang biến dần thành giấc mơ những sự thật phũ phàng nhỏ mọn nhất.
Ôi, mùa rét ngọt mưa bay rượu,
Thành gấm thôn hoa mộng nở bừng!...
Hoa thôn với Cẩm thành nào đây mà nghe như trong kịch Tây sương hoặc truyện Liêu trai chí dị? Không! Nơi đây chỉ là một ngã tư, trông lên phía Bắc là đô thành Hà Nội, nhìn xuống phía Nam là nối tiếp nhau từng thôn xóm có lũy tre xanh bao bọc. Còn hai ngả kia thì một dẫn tới ngoại ô Bạch Mai và một đưa bước kẻ du hành qua vùng Láng, vòng sang Cầu Giấy, hồ Lãng Bạc, đường Cổ Ngư. Giống như hai cánh tay mở rộng ôm lấy cố đô Thăng Long. Ngã tư đó, nơi Hoàng họp bạn lúc bấy giờ – tháng Giêng năm Quý Mùi – chính là Ngã tư Sở.
Và câu chuyện phải bắt đầu từ nhà văn họ Lê, tác giả cuốn tiểu thuyết "Cánh sen trong bùn". Người đã từng nổi danh trên văn đàn cũng như trong cái thế giới đặc biệt của khói men, của xênh phách. Người giữ được tiếng tăm rất lâu, chứng minh được rằng ba chữ "sống để viết" có thể kéo theo chúng cả một định lý đảo: "viết để sống"; và chứng minh rất hùng hồn nữa kia! Người mà tuần báo Phong hóa đã giễu cợt bằng cách gọi đích danh để mắc theo vào một biệt hiệu dễ gây ngộ nhận: "Lê Văn Trương, huênh-hoang-tôn-ông".
Phải! Cái dáng điệu hùng dũng như sắp "thanh gươm yên ngựa" đến nơi, cái giọng điệu "đao to búa lớn" vang dậy trong câu hỏi ngắn và sắc đi liền theo tiếng gọi như sấm nổ:
"Hoàng Say đại huynh, vi hành đâu đấy? Chẳng phải Lê Văn Trương thì còn ai!"
"Lê tôn ông đó ư? Tiểu đệ đang "lêu têu", và sẵn sàng nghe lệnh".
Câu trả lời của Hoàng – có vẻ phường chèo đối với người khác – đã được Trương đón nhận như những lời nghiêm chỉnh nhất của một kẻ đồng điệu, một bạn tri âm. Và Trương quay về phía sau nói như quát:
"Anh em, sửa soạn nghênh tiếp Hoàng đại huynh nghe! Nói với chị Ba rằng chuyện gì cũng phải dẹp đi hết. Nếu cần, đuổi bọn tục khách ra đường! Khách quen cũng đuổi. Nhớ nhé! Bảo rằng lệnh của "anh".
Lúc này Hoàng mới kịp nhận diện hai người bạn tháp tùng họ Lê. Tưởng ai xa lạ, chẳng hóa ra vẫn Hồng với Hiến, tả hữu mà cũng đồng thời là tâm phúc, là "anh em kết nghĩa vườn đào" với Trương. Nhưng Hoàng chưa kịp chào hỏi thì họ đã quay gót chạy vụt đi như một cơn gió.
Mà… mà… gió lên thật, mới thú chứ! Vì chỉ năm phút sau, hai người "anh em" đã hoàn tất sứ mạng, trở về phụng chỉ rất đàng hoàng.
"Nào, xin mời đại huynh!"
Trương vừa nói vừa kéo mạnh tay Hoàng dắt đi, lại còn ngoái cổ dặn tả hữu:
"Hiến, về báo cho cả bọn nó biết rồi ra ngay. Còn Hồng, đi chu biện gấp. Hôm nay đại yến, phải một "quả cà" mới đủ được, nghe! Thêm một cóng "ngoại thủy" nữa cho đậm. Nhớ chứ?"
Rồi chẳng cần "hướng đạo quan", Hoàng và Trương – oai vệ như hai bậc đế vương – từ xóm Vĩnh Hồ đổ xuống ngã tư, rồi rẽ tay trái. Lầu hao của Bạch Liên thư thư.
Đêm ấy họ Lê "hùng" lắm. Ăn nhiều, nói lớn, uống cũng khỏe và… mây khói đi về cũng tan tác Vu Sơn…
"Quả cà" do Hồng đem tới mới lợi hại làm sao! Ít khi Hoàng say đến thế. Tự hỏi: Không biết có phải là "cà độc dược" chăng?
Cơn say "lơ mơ" kéo dài qua những cung bậc quen thuộc, đến độ rơi hẳn vào cõi "vô cùng thiên địa" lúc nào chẳng hay…
Kịp đến khi phân biệt nổi nhịp phách "Dựng" líu ríu đổ theo cung đàn tuôn thác lũ xuống ghềnh, và phảng phất nghe như rơi rụng từng hạt châu hiện thành tiếng:
Xa… từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm dương đất trích ư… ư… gối sầu hôm mai.
Thì mở mắt nhìn ra đã… "đông tây lặng ngắt". Lê Tôn Ông, nhị vị Hồng, Hiến và cả bọn đã rút lui từ bao giờ.
Hoàng định thần một phút, toan ngồi dậy. Nhưng Bạch Liên đã dồn phách dứt câu, rồi đặt phách xuống, khoát tay cho nghỉ đàn, và thong thả tiến lại, nơi Hoàng cao ngọa…
Khoảng cách giữa hai cái sập gụ trải chiếu hoa chỉ vào khoảng ba thước rưỡi Tây, thế mà Hoàng có cảm giác nó dài như dãy núi nào ở miền Trung nước ta, hay con sông nào ở miền Nam nước Tàu. Mới lạ chứ!
Hẳn là vì Hoàng nằm đối diện với chiếc gương lớn chạy dọc theo bức tường phía bên này. Trong khi, chênh chếch về phía bên kia, Bạch Liên đang hài tơ nhẹ chuyển.
Mắt Hoàng dán vào gương. Như muốn giữ chặt lấy màu da vẻ tóc… Như muốn giữ luôn cả hơi hướng tiết ra từ đàng sau nét son, cả những rung động truyền đi từ chiều sâu khóe hạnh của người đẹp… Con người bao năm trước, tháng trước, tuần trước, Hoàng chỉ thấy đẹp có một vài phần, đáng tin cũng chỉ một vài phần hay ít hơn nữa. Thế mà lúc này, giây phút này, Hoàng bỗng thấy đẹp cả mười, và đáng tin cả trăm ngàn ức triệu…
Giây phút quý báu thật. Lẽ nào không bắt nó ngưng lại, đứng hẳn lại! Nếu dòng thời gian chẳng thuận tình, thì tách nó ra khỏi thời gian. Bằng đủ mọi cách. Đủ mọi cách… Đủ mọi cách…
Và lần này, Hoàng mê đi khá lâu.
Trong cơn mê, hồn Thơ tỉnh táo hơn lúc nào hết. Vì khi thức giấc, đêm đã quá khuya, Hoàng phải khêu lại bấc để ghi vội tám câu lục bát vừa lẻn vào tâm trí như một mùi hương nhẹ thoáng mà lấn át cả "hương nâu". Ghi vội kẻo sáng mai quên hết mất. Lấy gì tạ lòng ai cho xứng đáng bằng?
Nhưng sáng hôm sau, chờ mãi chẳng thấy Bạch Liên xuất hiện. Các em trong "Lầu hoa" đều không biết rõ "mợ" đi đâu và đến bao giờ mới về. Hoàng đành gửi lại tám câu đó:
Gót sen vừa nở đã tàn
Bóng gương chết lặn âm đàn phai theo
Mùi hương sứ giả bay vèo
Dễ đâu tâm ý cùng gieo ngắn dài
Chông chênh vần lạc phách sai
Lỡ nhau Bông trắng lầm ai Thơ vàng
Ôi, nàng… sen dời lầu trang
Đường tơ ai nối cho chàng say đây.
Bẵng đi đến cả tháng. Một hôm bất ngờ dậy sớm, Hoàng ra đứng ngoài bao lơn nhìn xuống lòng đường. Con đường nhỏ hẹp của phố Hàng Đàn, chỗ sắp rẽ ra Hàng Quạt. Chừng chín giờ thì phải. Đường vắng hoe. Chợt thấy một chiếc xe nhà từ miệt Cửa Nam đi tới. Người kéo xe thả chậm bước, chừng như người ngồi xe đang muốn tìm nhà ai. Cứ thế, chiếc xe tiến dần về ngã ba Hàng Quạt. Rồi… xe quay trở lại. Vừa lúc Hoàng nhận ra được Bạch Liên, bệ vệ như một "bà lớn".
Tiếng Chu Ngọc vang lên sau lưng Hoàng:
"Chết cha! Cậu còn "kẻ râu" ở dưới ấy hả?"
Hoàng chột dạ, toan quay vào. Nhưng không kịp nữa. Bạch Liên đã nhanh mắt trông lên và nhận diện được cả hai gã rồi.
Tuy nhiên, căn gác này Hoàng và Ngọc bày ra bề bộn quá; chỗ thuê để tập kịch ấy mà! Đồ đạc có thứ nào vào với thứ nào đâu! Mời người đẹp lên thì bất tiện quá. Ấm chén cọc cạch, lại chẳng có gói trà nào ra hồn; chẳng lẽ mời khách lầu hoa uống nước theo kiểu dân lao động?
May sao lúc đó Hoàng đã đóng bộ được một nửa 2. Nghĩa là chỉ cần xỏ giày, thắt cờ-ra-vát nữa là xong. Liền vội vã xuống đường. Ngọc còn dặn với theo:
"Chớ có mời lên đấy!"
Rõ khéo anh chàng Ngọc vô duyên! Đã dễ "người ta" lên cái ổ chuột này đâu mà mời với chẳng mời!
Hoàng nghĩ thế mà đúng. Vì xe dừng phía bên kia đường. Hoàng vượt sang hội diện.
Câu chuyện trao đổi rất nhanh. Vì Bạch Liên vẫn ngồi trên xe chứ không xuống…
Thế rồi xe lại "như bay trong cõi hồng trần" đưa nàng "trở gót trướng hoa"… Phố xá lại vắng ngắt. Hoàng lại vượt qua đường, vào nhà, lên gác. Như không có chuyện gì xảy ra.
Mà… không có chuyện gì thực! Đâu phải Hoàng nói dối ai. Mùa xuân đã sắp ngả màu, thiên hạ đều vô sự. Cả cái sự "diễn kịch" của Ngọc và Hoàng. Ban Kịch Hà Nội vừa tái diễn hai vở Vân Muội (của Hoàng) và Cái tủ chè (của Vũ Trọng Can) ở rạp Hàng Bạc. Thuê căn gác phố Hàng Đàn này là để nghỉ xả hơi, và sửa soạn tập vở mới. Lần này định diễn một vở thoại kịch dài: Lệ chi viên (của Vi Huyền Đắc). Các vai đã phân phối đâu và đấy rồi. Hoàng Cầm sẽ thủ vai vua Lê; Lê Trọng Quỹ vai Nguyễn Trãi, được quá đi chứ! Vai Thị Lộ – cái đinh của vở kịch – thì đã thương lượng với cô Hạc Đình, ái nữ nhà thơ ngụ ngôn họ Bùi, thanh sắc gồm đủ, thế là nhất còn gì! Tuần sau mới bắt đầu tập. Vả lại tập thì tập chứ Hoàng có ăn thua chút nào vào đấy đâu. Diễn viên, không! Đạo diễn, cũng không! Chạy hiệu, cũng không nốt! Thế thì Ngọc lấy quyền gì ngăn trở Hoàng. Người ta muốn đi đâu thì đi chứ. Kể cả đi theo tiếng gọi của… Bạch Liên, nữ chúa Mê Cung. Huống nữa, từ ba hôm nay, Hoàng cứ như người bị ma ám, lúc nào cũng gật gù lẩm nhẩm, ai kéo ra đường thì ra, đưa cơm rượu đến tay thì đỡ lấy ăn, uống, đưa thuốc đến miệng thì hút liên miên; chẳng cần biết mùi vị ra sao nữa. Và nhất là không cần biết ai trả tiền. Hoàng đang "làm thơ" đó! Bài hát Cuồng viết mới được một nửa. Mới đến những câu:
Sao chiều xuống chênh song, hề, còn đau thân thế?
Còn tủi bình sinh, hề, khi gió lên đầy trời?
Ngọc sốt ruột quá. Ra đường đã mất công dẫn đi, lôi đi. Về đến nhà lại khổ cái lỗ tai vì phải nghe từng nhịp bách bộ quanh sân gác. "Thôi, cho ông mãnh xuống núi, càng đỡ mệt. Cũng chẳng đòi theo hắn làm gì!". Ngọc nghĩ vậy là biết điều quá. Vì theo Hoàng thế nào được lần này!
Xuống đến Ngã Tư Sở cuối giờ Tỵ, Bạch Liên chờ đã nóng lòng. Ấy là nàng bảo thế, Hoàng có tin nổi thì cứ tin.
"Có chuyện gì mà triệu thỉnh gấp vậy? Để đến chiều tối không được sao?"
"Chiều tối lại là chuyện khác…"
"Thế còn chuyện này?"
"Cứ thong thả. Hãy lên gác đã nào!
Thì ra Bạch Liên không chịu bốn chữ trong câu thứ hai của bài thơ Hoàng gửi lại hôm tháng Giêng.
"Sao lại "… âm đàn phai theo"? Rất có thể Hoàng định nói những tiếng đàn đáy hòa theo nhịp phách. Nhưng lỡ thiên hạ lầm tưởng đó là tiếng đàn của chính Liên? Mà… đàn của Liên thì… phai… thế nào được! Liên tin rằng nếu Hoàng lắng nghe – để hết tâm hồn mà nghe cơ! – Tất phải nhớ mãi. Bóng gương có thể chết lặng, như lời Hoàng viết, nhưng âm đàn thì chẳng bao giờ phai theo được, nhớ chưa?"
"À, ra thế, hôm nay Liên định "nối đường tơ" cho "chàng say" đó hẳn? Đã hỏi kỹ lại lòng mình, và lòng… người ta… chưa?"
"Làm gì có "người ta" nào vào đấy! Đã bảo chuyện này khác kia mà!"
Lại cái điệp khúc "chuyện này khác!". Nào thử xem nó khác ở chỗ nào, ranh giới có phải là Dòng-sông-nước-mắt chăng?
Trước hết, căn gác này không phải căn gác Lê Văn Trương đưa Hoàng tới hôm đầu năm. Đây không phải "nhà hát", mà chính ra là "phòng loan" của Bạch Liên thư thư. Chẳng có trống phách đèn đóm gì cả! Nhưng có khói trầm, có hoa tươi cắm trong bình, có trà mạn sen ngưng thẫm màu trong những chiếc chén cổ, trà đãi "quý khách" do đích thân "bà chủ" pha mời…
Trên tường, một cây nguyệt cầm óng ả đang chờ tay ai với xuống. Khói trầm và khói trà đã như quyện lấy dây tơ, và hồn của con tằm đã muốn bật ra tiếng gọi tri kỷ.
Ánh mắt Hoàng chưa kịp thu về, Bạch Liên đã đứng dậy, trân trọng đỡ cây đàn xuống. Và rồi:
So dần dây Vũ dây Văn…
Khiến cho Hoàng có cảm giác như đang ngồi trên sân khấu, đóng vai trò Kim Trọng nơi Vườn Thúy, lắng nghe khúc Bạc mệnh của Kiều nương.
Hoàng vốn ít khi chịu nghe đàn của ai, mặc dầu ai đó là tay danh cầm thượng thặng. Nhưng lần này Hoàng đã chịu nghe, và nghe thật sự, chứ không phải lơ là chiếu lệ đâu. Vì Hoàng thấy rõ Bạch Liên chỉ đàn cho một mình Hoàng nghe thôi. Lại tha thiết đến độ phải thân hành đi triệu thỉnh để Hoàng chịu đến và chịu "lắng tai" cho. Khác hẳn trường hợp của Thúy Kiều, phải đợi chàng Kim van nài mới phô bày "tiện kỹ":
Đã lời dạy đến, dạy thì phải vâng.
Cho nên Kim Trọng có thể quên được khúc Bạc mệnh, chứ Hoàng thì không bao giờ quên được tiếng đàn Bạch Liên. Đó là những "âm đàn" chẳng sao "phai" được trong ký ức Hoàng. Nghe chỉ một lần ấy cũng đủ cho bao kiếp trầm luân sau này. Không cần phải nghe lại một lần nào khác nữa.
Bởi thế, khoảng nửa năm sau đó, ở nhà Chu Thị xóm Khâm Thiên, Nguyễn – lúc ấy đang là bác trai của nhà này – đã bị một phen ngạc nhiên không ít. Nguyễn cứ tưởng có Hoàng phải có Bạch Liên; và đã phái người đi mời cho kỳ được, lại yêu cầu mang cả nguyệt cầm theo. Đành rằng cũng nhân dịp đó, Hoàng viết được những câu:
Mơ xanh đắng vị thu già
Sắt vàng chen, ngón tay ngà gió mưa.
Chiều nay gợi nhớ chiều xưa…
Nhưng thật ra cái dáng ngồi:
Lòng hoa nghiêng dáng cầm trăng
Phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm…
của Bạch Liên, Hoàng đã in sâu vào tâm khảm ngay từ buổi trưa hôm nào rồi. Cả những tiếng âm đàn gió mưa. Cả mùi hương sứ giả. Chỉ còn việc nâng niu chúng, đau khổ vì chúng, là chúng kết nụ và nở ra thành Thơ liền. Đâu cần đến Nguyễn và Chu Thị phải mối manh, thúc đẩy!
Thành ra Nguyễn tưởng chiều Hoàng lại suýt nữa bị Hoàng gây sự. Mà cái hận của Hoàng cũng vô nghĩa lắm cơ! Từ buổi "lắng tai Chung kỳ" tại xóm Ngã tư, Hoàng không muốn tiếng đàn của Bạch Liên bị lọt vào thính giác bất cứ ai nữa cả. Huống hồ lại phải tham dự cái cảnh "nghe đàn hội chợ" thì còn ức đến đâu! Nói ra không được càng ức, càng hận.
Nguyễn cứ phải vuốt mãi. Rồi khi tiệc tan, hoàng hôn xuống, Nguyễn rủ Hoàng lên Đông Hưng Viên, sau đó lang thang mãi đến khuya mới tạt qua Tự Hưng Lâu mua chim quay làm thức nhắm. Về đến Khâm Thiên, vừa nửa đêm. Bài thơ "Ý đàn" của Hoàng cũng hoàn tất, tổng cộng hai mươi bốn câu lục bát. Ngâm vang cả gian gác của Chu Thị. Nguyễn gọi một cô em trao cho cái sứ mạng đem bài thơ xuống nhà Bạch Liên tức khắc. Quả là chí tình với nhau! Lúc ấy Hoàng mới thật nguôi hận 3.
Nguyễn nhìn trong chiếc áo dài trắng, như biểu lộ hết cái tinh thần của những kẻ đa tình mang lấy nghiệp "bác trai’, Hoàng đã bất giác phá lên cười. Và ngâm lớn đoạn kết bài Qua áng hương trà, cũng vừa sáng tác, ngay sau khi Bài hát cuồng thành tựu:
Nâng chén mời anh thưởng vị trà
Đừng quên tan tác mấy đời hoa
Cạn từng hớp nhỏ cho SEN đượm
Vớt lại trần ai một chút ta.
Sài Gòn 1971
--------------------------------

1

Trích bài "Qua áng hương trà" (trong tập Mây, Hà Nội, 1943).

2

Trích "Bài hát cuồng" (cũng trong tập Mây).

3

Trích bài Ý đàn , mãi sau mới in vào tập Hoa đăng (Sài Gòn 1959).

Người xưa giờ đâu?
Phi la đới lệ, Tam lư thị cảm nhi vi Tao. Ngưu quỷ sà thần, Trường trảo lang ngâm nhi thành tích.
Câu văn biền ngẫu trên đây của Bồ Tùng Linh, nhiều người đã dịch Nôm, nhưng Tản Đà dịch hay nhất. Thú vị nhất.
"Đai cây áo lá, họ Tam lư ngùi cảm viết văn Tao. Thần rắn ma trâu, cậu Dài móng ngâm nga thành bệnh Nghiện".
Hay thật! Thú vị thật! Ít ra là "hay", là "thú" riêng với hai đứa tôi: Thứ lang họ Đinh, và Hoàng lang họ Vũ.
Lý do: Một đứa mang bệnh kinh niên ở con Tỳ, một đứa cũng từ thuở học trò mang bệnh nơi con Tâm, rồi dần dần cả hai cùng tiến vào hành lang ma quái để cùng rước lấy một chứng bệnh chung: bệnh của "Cậu Dài móng"!
Đồng bệnh tương liên, đã hẳn rồi. Nhưng việc đời bối rối quá, gặp nhau rất ít, thật sự vui cười lại càng hiếm. Có thể đếm trên đầu ngón – mà chưa chắc đã sang được bàn tay thứ hai – những lần họ Đinh hoàn toàn cởi mở với bạn.
Thế mà hôm ấy – cũng chẳng nhớ rõ hôm nào, ở ngõ hẻm nào của Sài Gòn – họ Đinh đã cười một trận mê tơi, cười khoái trá, cười thích thú… như vừa đạt được cái điều mong mỏi ngộ nghĩnh nhất đời mình.
Hôm ấy, nhân bàn phiếm về các nhân vật của sông Vị non Côi – thời sông này chưa bị lấp và non kia chưa bị án ngữ bởi con đường sắt cùng Ga Núi Gôi – chủ nhân họ Vũ thao thao bất tuyệt: "Thiên hạ kỳ quá! Họ tưởng đâu làng Vị Xuyên chỉ có ông Tú Xương. Người học rộng hơn chút thì chỉ biết thêm được ông Tam nguyên Trần Hy Tăng là cùng. Danh sĩ Vị Xuyên, trong mắt ngu huynh, còn một người nữa, đáng lẽ thiên hạ phải đặt lên trên cả hai người kia, nếu quả thật không lấy cái chuyện "có tên trong văn học sử" làm vinh – như thiên hạ đời nay! – hoặc lấy cái chuyện "kim bảng đề danh" làm thước tấc khuôn mẫu cho văn tài – như thiên hạ đời trước! – Nói thế, đâu phải ngu huynh ác cảm gì với ông Tú Xương hoặc ông Tam nguyên Trần. Không! Trái lại là khác! Ngu huynh chỉ cốt nhấn mạnh ở điểm: danh sĩ "thần tượng" của ngu huynh chẳng liên quan gì tới văn học sử, mà cũng chẳng hề lưu lại tính danh trên bất cứ một bảng nào – bảng vàng, bảng hổ, hay bảng mai đi nữa!"
Họ Đinh nằm lim dim, vội tán thành ngay, giữa hai đợt khói ngát:
"Đúng! Tại sao cứ hẹp hòi quanh quẩn mãi trong cái vòng mê cờ ấy nhỉ? Đã đành ông Tam nguyên là bậc có khí tiết, ông Tú Xương là tay trào phúng cừ khôi, nhưng thảo dã anh hùng, ta cũng phải kể đến chứ! Thế… thế… "đệ tam nhân" của Vũ là ai nào?".
"Là cậu Ba, em vợ ông Tam nguyên, vừa nói trên đó!"
"Vậy hả?"
"Mà ông anh rể lừng lẫy tiếng tăm kia lại phải hạ bút viết vào cuốn thơ của ông em vợ mình hàng chục lần những chữ "Hy Tăng bái phục, bái phục" mới là tuyệt chứ!"
"Thử đọc bài trong tập ấy coi! Xem có "bái phục" thật không. Hay chỉ là ông Tam nguyên muốn đẹp ý lão bà nên đã quá lời tâng bốc "cậu nó" đấy?"
Vũ trầm ngâm, không đáp. Rồi chăm chú khêu lại ngọn đèn. Rồi nằm xuống… theo đúng thế nằm "cao ngọa". Nhiên hậu mới cao ngâm:
Mỗi đam yên xúy bị nhân trào,
Vạn khổ thiên tàn bất khẳng phao,
Tọa áp sàng đầu nga dẫn cảnh,
Phân lại chưởng thượng yến quy sào.
Thủ tiêm đã toái phương thành khối.
Tân địch xuy can thủy hợp dao.
Mao ốc bán thiềm đăng nhất chản.
Kê minh phong vũ thoại cùng giao.
Tiếng ngâm của Vũ chưa dứt, Thứ lang đã phá lên cười, chảy cả nước mắt. Rồi đang nằm ở phía bên kia ngọn đèn bỗng ngồi bật dậy, tự thưởng một chén trà Thiết la hán. Rồi… kéo chiếc điếu lại gần:
"Thú thật đệ chỉ lỗ mỗ về Hán tự thôi, nhưng bài thơ này có "thần" đến cực điểm, cho nên vì lẽ "thần giao" đệ mới "trực cảm" một cách thấm thía đến vậy chứ".
Rít một hơi thuốc lào xong, họ Đinh lại tiếp:
"Uổng quá! Nếu dịch nôm được mà "ngâm Tao đàn" thì hay biết bao!".
Vũ từ nãy giờ chưa phát ngôn, vội ngồi nhỏm dậy:
"Có dịch chứ sao không! Nhưng đọc nghe chơi thôi đấy nhé! Chớ có mà "ngâm Tao đàn". Thơ là Ngọc, đồng ý; nhưng Ngọc này kỵ nhiều thứ lắm, đem ra bày giữa chợ, đâu được!".
"Ừ thì nghe chơi thôi. Đọc đi!"
"Khoan! Còn điều kiện thứ hai nữa: phải nằm xuống cái đã, rồi hãy ngâm, hãy nghe".
Và đây, bản dịch nôm của Vũ:
Mặc chúng cười, say vẫn cứ say.
Quản gì trăm đắng với ngàn cay!
Trao tiền, ngỏng cổ cò bên sập!
Vơ thuốc, tung mình én tới mây.
Sái phải hà hơi khô quắt ruột,
Tiêm cho thành điếu mỏi rừ tay.
Nửa thềm mưa gió đèn leo lét
Chuyện vãn canh gà bạn khố dây.
Lại một cơn cười dài, đến rung chuyển cả tinh đẩu… Hoa đèn cũng rung theo, như giễu cuộc "thông cảm" trái thường lệ đó, một cuộc thông cảm ầm ĩ nhất thế gian.
Rồi Đinh nhìn Vũ bắt nọn: "Dịch ‘thơ tri kỷ’ không thể chỉ dịch một bài. Hẳn còn nhiều bài khác mà huynh giấu đệ?".
"Chịu thầy, chịu thầy! Nhưng chỉ sợ dịch không lột được tinh thần của nguyên tác, thì mang tội thất kinh với tiền nhân. Tâm huyết của người ta mà! Kể cả thơ ngâm vịnh!"
"Thì một bài nữa thôi vậy. Ngâm hoa vịnh nguyệt cũng được đi!"
"À, có bài thơ Vịnh hoa cúc".
"Hay! Hay lắm! Hoa đèn vừa kết thì hoa cúc đến ngay, đồng khí tương cầu có khác! Nào, ta thử "tái đáo Thiên thai phỏng ngọc…" xem sao! Đâu phải ai cũng xấu số như hai chàng Lưu, Nguyễn!"
"Đành thế rồi. Nhưng bản động chủ xin mời khách hãy "tái cao ngọa" cái đã! Thơ ở đây không có lệ ngồi nghe, ngồi ngâm!
Thời gian lại qua đi, bóng chiều bắt đầu vẽ trứng gà trên vách ván, chủ nhân họ Vũ mới ngâm bài thơ thứ hai.
Thơ rằng:
Khai hướng thu thiên phẩm dị thường
Như hà Đào kinh nhất thời hoang?
Tẫn giao tùng bách cô lăng tuyết
Tòng thử sơn hà chỉ kiến sương.
Nhất khứ đốn giao không Lão phố
Trùng phùng ưng nghĩ hự Trùng dương.
Cận lai tiêu tức tri hà tự;
Đa thiểu tinh thần phó Túy hương.
Và dịch rằng:
Phẩm vượt trời thu đáng tiếc thay
Một phen Đào lệnh để hoa gầy!
Non sông từ đó mờ hơi rét
Tùng bách tha hồ được tiếng hay.
Ngơ ngác Cố viên đời ngóng hão,
Lân la Trùng cửu chuyện cầu may.
Nghe như đã tối nào trăng sáng,
Trút cả hồn thơm cho nước say.
Bài dịch Nôm thứ hai vừa đọc dứt, thì khói xanh cũng tràn ngập gian phòng, xóa luôn cả mấy chục chiếc "trứng gà" trên vách.
Họ Đinh thở dài. Chủ khách cũng im lặng.
Đột nhiên cả hai cùng nhìn nhau, và nhìn về phía ngoài trời đen kịt bóng tối.
Đưa khách ra đầu con ngõ hẻm, Vũ còn đọc thêm hai câu thơ của bậc danh sĩ tiền bối kia, người đáng được sắc phong là "Cậu Dài móng can đảm nhất". Vâng, chỉ can đảm thôi!
Vì nói đến tâm huyết, khí phách, thì cậu đã có thừa! Con ông Nghè Vị Xuyên mà nghèo nhất tỉnh Nam, thế cũng đủ biết!
Hai câu thơ như sau:
Giang sơn nhập dạ trùng vi chính
Thiên địa phi thu thụ hữu thanh.
Và dưới đây là Vũ tạm dịch:
Sâu bọ nắm quyền, lâu mới sáng;
Cỏ cây khóc hận, cứ gì thu!
Chỉ mười bốn chữ thôi mà như vẽ ra "cái thuở ban đầu Pháp thuộc", khi mà ông Tam nguyên Vị Xuyên đã thà chết không đi sứ Tây, cũng khi mà ông Tú Vị Xuyên mới chập chững vác lều đến cổng trường thi Nam Định.
Tuy nhiên, đó chỉ là ý nghĩ thầm kín của Vũ. Chứ còn Đinh Thứ lang thì đã lê gót ra khỏi ngõ, hồn mộng bay tới tận nơi nào rồi, thời gian và không gian đều bất chấp.
Nhất Thống tiên sinh
Viết xong bài "Người xưa giờ đâu?", nằm đọc lại dưới ngọn đèn tàn không đủ sức tỏa chiếu, tôi chợt xúc động triền miên, không tự ngăn nổi, hai giòng dư lệ.
Tôi vừa nghĩ đến người con trai độc nhất của "Cậu Ba Vị Xuyên", người mang tên Thống – mà tôi đã từng gán cho mỹ hiệu: Nhất Thống tiên sinh – cũng là một người "nghèo nhất thiên hạ", như Cậu Ba trước kia; và ngay từ thuở còn học trường tiểu học tỉnh Nam tôi đã coi là một "vong niên tri kỷ".
Chính bậc "vong niên tri kỷ" này đã khuyến khích tôi trên bước đường sáng tác; và ngay khi tập Thơ say của tôi được ấn hành (1940), đã tìm đến tặng tôi một chiếc quạt trên có đề thơ. Nét bút nặng trịch u hoài, quằn quại như cả một thân thế không lối thoát; nét bút ấy, tôi không lạ lùng gì cho lắm; nhưng bài thơ đề trên quạt đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Thế ra lần này Nhất Thống tiên sinh "phá cựu lệ"? Cũng hạ bút, cũng sáng tác như ai?
Nguyên ủy là tiên sinh vẫn thường tuyên bố: "Tôi là con của một danh sĩ, như thế đủ rồi. Cần chi đến tôi phải làm thơ! Mà thí dụ tôi có gắng làm đi nữa, thì thơ ấy cũng chỉ là những cái bóng mờ, những tiếng vang yếu ớt của thơ cha tôi mà thôi. Muốn gặp tiên, phải vào sâu tận cuối hang chứ! Sao lại quanh quẩn nơi dòng suối gấm, rừng hoa đào làm chi!".
Ấy thế mà hôm nay tiên sinh lại vẽ ra cho tôi thưởng thức cả một giòng suối rừng hoa… Tôi không ngạc nhiên sao được!
Sáng tác của tiên sinh như sau:
Hành ca cổ phúc cánh xương cuồng
Không tác ngang tàng nhất túy vương.
Trần ai chân vật sắc
Thiên địa nhất không nang
Càn khôn phiếu diểu
Hồ hải thương mang.
Phong vũ chi Lưu Lang đắc cú
Đăng lâm chi Đỗ Mục tha hương.
Học cổ nhân phong lưu mộng trung chi túy hề hà thương!
° ° °
Ngay tại trận, tôi đã có bài "dịch nguyên điệu" và đúng cả số câu số chữ, như sau:
Hát ngao vỗ bụng khoái cơn cuồng,
Làm cái "Không-làm"… Một túy vương!
Đất trời kia: túi rỗng!
Cát bụi này: kim cương!
Trước sau mù mịt
Rừng biển đầm hang…
Mưa gió chàng Lưu thơ lất phất
Quê người Đỗ mục rượu lang thang.
Học cổ nhân có hề chi mà!... dòng Say ta đi hoang.
° ° °
Cộng tất cả năm mươi tám chữ, chia làm chín câu. Bài dịch này, Nhất Thống tiên sinh khen là có "phong cốt" lắm. Nhưng ngâm đi ngâm lại hàng chục lượt, qua đến mấy tuần trà và mấy phen ngồi dậy khêu đèn sửa bấc, tiên sinh bỗng cười lớn, vung tay:
"Đã thế, tội gì anh tôn trọng nguyên điệu! Cứ phóng bút rồi nó muốn ra điệu gì thì ra, mấy câu thì mấy chứ, cần gì nào!".
Tôi chịu quá. Nhưng "hứng bất khả ép", đành để dịp khác thôi. Kẻo rồi lại đường cùng, phải khóc mà quay về như Nguyễn Tịch, thì mất cả thú!...
Cái "dịp khác" này, phải 8 năm sau mới chịu lững thững lê gót đến. Mà lúc đó, giang sơn đã đổi chủ, đào kép đã thay tuồng; Nhất Thống tiên sinh và tôi đã trở thành "dân tản cư, dân chạy loạn".
Dầu sao cũng vẫn còn chút phong độ cuối mùa: trà vẫn pha, đèn vẫn thắp, và khói thơm vẫn tỏa rộng, bất chấp ngọn lửa chiến cuộc đang bùng cháy từ Hà Nội lan ra.
Và cuối cùng thì "hứng thơ" lại nổi dậy, tôi hoàn thành bản phóng dịch bài "Hành ca cổ phúc…" như sau:
Vỗ cái trống bụng
Ta nằm ta ca.
Rằng điên cũng đúng
Rằng ngóng cũng là!
Ngang tàng giữa cõi người ta
Một Vua Say… Mấy ai mà, ngàn xưa?
Đất trời: túi rỗng.
Ngày đêm: bụi nhơ.
Ngọc vùi đáy động
Cần chi bến bờ!
Trùng lai mưa gió thành thơ
Mười năm gánh rượu say mờ cố viên…
Học theo người trước
Say thánh say hiền,
Phất phơ lan nhược
Say "tĩnh’ say "yên".
Và say vang bóng thuyền quyên
Say luôn cả cái "hư huyền"… đã sao?
Nghe tôi đọc xong, Nhất Thống tiên sinh vỗ đùi tán thưởng:
"Ừ, đã sao? Hỏi rằng đã sao nào? Say luôn cả cái Hư huyền đi… cũng được lắm chứ!".
Rồi đột nhiên tôi cảm thấy giọng nói giọng cười của tiên sinh có chút gì lạnh lẽo ghê rợn. Lửa trong hỏa lò đã vạc dần. Lửa trên ngọn bấc cũng nhạt nhòa tê tái, như có sương mù vây quanh.
May sao, một tiếng chuột rút phá tan bầu không khí nặng nề. Tôi cười giọng, buông một câu nửa an ủi, nửa cợt đùa:
"Ông sắp giàu rồi, lo gì! Có điềm báo trước đấy".
Tiên sinh không trả lời, nhưng vẻ mặt đang lạnh như mồ hoang bổng đổi ra trịnh trọng, cầu khẩn:
"Anh còn trẻ, duyên nợ với thơ còn dài. Mong anh đừng quên nhau. Và cũng mong anh nhớ cho cái việc tôi nhờ anh… từ lâu lắm rồi thì phải!".
"À… Bài thơ đó hử? Đệ không quên đâu, nhưng khó dịch quá, vận dụng chữ nghĩa không nổi? Nhất là hai câu tam tứ và câu cuối cùng".
"Thế là tôi chẳng bao giờ được nghe chứ gì? Đáng hận thật!"
"Ơ hay! Chẳng bây giờ thì tháng sau, năm sau. Thế nào ông cũng được thưởng thức cái tài "dịch liều lĩnh bất chấp" của tôi mà!".
"Làm gì có tháng sau, chứ đừng nói năm sau nữa! Tôi chỉ còn mấy ngày trước mặt thôi. Nhưng… cũng chả sao! Miễn đừng quên nhau là được. Và nhớ cho rằng bài thơ ấy, tôi đã chỉ đọc riêng anh nghe thôi, và anh sẽ vì tôi mà chuyển sang Quốc âm, được câu nào hay câu đó. Dầu tôi về nằm sâu dưới đất, tôi cũng vẫn lắng tai".
"Cụ Hoàng Giáp Mai Sơn…"
"… Nguyễn Thượng Hiền".
"Vâng, cụ Nguyễn Thượng Hiền đối với lệnh tôn thật là chí tình. Chả biết sau khi lệnh tôn đã nằm xuống, và cụ Nguyễn đã lang thang nơi hải ngoại hoạt động cho cách mạng, có lần nào cụ nhớ đến thơ, đến bạn thơ xưa, để ngâm lại bài phúng điếu lâm ly ấy không nhỉ?".
"Điều đó tôi không biết. Nhưng có điều tôi tin chắc rằng khi cụ Nguyễn vẩy rượu quanh mồ và đọc bài thơ phúng điếu kia, thân phụ tôi nằm dưới đất đã nghe không sót một chữ… Cũng như rồi đây tôi về hầu cạnh người, tôi vẫn còn đợi bản dịch của anh".
Tôi bàng hoàng. Và xúc động tới run rẩy. Nên không dám ngồi lâu nữa. Tưởng chừng như nói xong lời trăn trối này, Nhất Thống tiên sinh sẽ ngã gục bên ngọn đèn tàn, chẳng bao giờ tỉnh dậy.
Bài thơ Hán tự của cụ Hoàng Giáp Mai Sơn, viết từ đời Thành Thái, như sau đây:
Tiên huyết lâm ly sái chỉ hồng
Thanh sơn nan trắc hải nan cùng.
Thịnh Đường cảnh giới khai toàn Việt
Lão Đỗ môn đình kiến thử ông.
Thiên cổ hữu nhân đồng loại tửu
Tiền đồ vô lực thất truy phong.
Cánh kham hướng bích trường vi phúng
Nhiễu thất quần sồ ngữ vị công.
Và sau, tôi dịch Quốc âm, cũng gieo vần ở câu Phá:
Lệ nhỏ đầy trang máu thắm hồng
Non xanh dằng dặc biển mênh mông.
Thơ Đường cõi Việt đang vừa thịnh
Lão Đỗ thời nay chỉ có ông.
Mả lạnh đây còn hương loại tửu
Dặm trường đâu nữa sức truy phong?
Khóc ai những muốn quay vào vách
Bập bẹ đàn em mới vỡ lòng!
Lẽ dĩ nhiên tôi chỉ dịch để mà dịch, chứ còn Nhất Thống tiên sinh thì sau lần gặp ấy, có bao giờ tôi được tái ngộ nữa đâu.
Sài Gòn, 1971
Sao lại thế được?
Cách đây hai mươi năm, ngay khi vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của những người cầm bút, tôi đã nghe đại danh ông tú Phan Khôi, như sấm dậy vang tai. Nhưng phải đến năm Bính Tuất (1946) tôi mới có dịp cùng tiên sinh hạnh ngộ. Buổi nhất kiến thật đã như định trước bởi duyên trời.
Hôm đó, tiết cuối thu… Cái lạnh của miền Bắc đã thấm vào lòng một gã ưa thú họp bạn ngâm văn. Chịu không nổi nữa, tôi bèn lấy một chuyến xe lửa mà "giang hồ vặt" từ Nam Định lên Hà Nội. Cho được tự cởi mở tuềnh toàng theo đà cuồng hứng. Cho được sống hẳn vào nhịp sống vừa tao nhã vừa sôi nổi của đất ngàn năm văn vật, của hồ Trúc sông Hồng.
Bước xuống ga Hàng Cỏ, tôi về trụ sở Ban Kịch Đông Phương. Ở đấy, tôi được tin các văn hữu Kinh kỳ đang chào đón một số anh em từ miền Trung miền Nam mới ra. Tôi lấy làm tiếc lắm. Vì buổi họp bắt đầu những từ năm giờ chiều. Vậy mà lúc tôi đặt chân vào vỉa hè Hàng Lọng thì ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.
Ngồi mạn đàm với họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện nghệ thuật chưa đi hết một tuần trà, tôi đã thấy lừng lững hiện lên từ cầu thang gác cái mũi khoằm khoằm rất cá biệt của anh bạn họ Nguyễn. Dáng điệu bí mật, anh trịnh trọng tuyên bố: "Xin lỗi toàn thể Ban Kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ quân đây…".
Cả bọn phá lên cười: "Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!".
Thế là tôi cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường.
"Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Đi chứ?".
Rồi không đợi tôi trả lời, anh vẫy luôn một chiếc xe kéo, ra lệnh cho "cọp" lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi "ngự trị" của tác giả bài "Nhớ rừng".
Quả nhiên ông Phan đang có ý trông đợi! Cái phút nhìn mặt cầm tay đã hào hứng phi thường. Lần thứ nhất tôi cùng Phan Khôi hạnh ngộ.
Chiều hôm sau, thấy tôi ngỏ lời cáo biệt, tiên sinh trầm ngâm nửa khắc, rồi bảo: "Được, hai ta sẽ cũng đi".
Tôi cười thầm tự nhủ: "Gió đã lên!". Và, bắt chước kiểu Nguyễn "mượn tạm" tôi ở Ban Kịch Đông Phương, tôi cũng chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép Ban Kịch Thế Lữ cho "mượn tạm" ông Tú Khôi ít bữa.
Một già một trẻ, thẳng đường về bến Vị non Côi… Và, trong căn gác xép ở bờ sông, dài như cái ống, tối như cái "hũ Xuân Thu", tôi đã tiếp chuyện Phan tiên sinh hai ngày tròn với hai đêm trắng; toàn chuyện văn chương cả, mà quái thay, dứt không ra nữa thôi!
Nguyên do: Buổi liên hoan tại Hà Nội, kịch sĩ Hoàng Cầm được ban tổ chức đề cử ra ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Nam Bắc. Tình cờ trong số bốn bài ấy lại có một bài của tôi. Bài ca sông Dịch đó vậy! Thai nghén từ 1940, nó đã bị Ban Kịch Thế Lữ thúc đẩy bằng "đủ mọi phương tiện" để ra chào đời năm 1943, cốt mượn dùng làm khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc. Rồi chuyến này, chính nó đã khiến ông Phan Khôi "thú" tác giả và nóng lòng muốn gặp mặt ngay…
Ấy là ông bảo thế! Chứ riêng phần tác giả, thì phải hiểu rằng người ta "thú" đây là "thú" cái tinh thần hào hiệp của anh chàng giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia!
Ồ! Hiểu cách nào thì hiểu! Mặc ý tác giả! Điều ấy bất túc luận. Nhưng can hệ là cái cử chỉ kia đã nói lên những gì về "con người của ông Phan Khôi"?
Thiết tưởng nó đã nói lên đủ lắm!
"Còn chưa đủ ư? Thì đây: suốt hai ngày đêm, trong cái dài dằng dặc và cái tối mò mò của "gác ống", phố Bờ sông, Phan Khôi đã cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc bén như chém đinh chặt sắt. Ông căm thù bạo lực, ông phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu. Ông có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tàng bất khuất, cộng thêm vào cái kiến thức sâu rộng của một tay lịch lãm giang hồ. Lắm lúc ông nói như gào như quát, sang sảng lạnh người.
"Không thể được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ! Thiếu tự do, thà ném bút đi! Cầm lấy một mũi nhọn khác!".
Phải chăng hào khí Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? – Không! Tôi tin rằng lòng phẫn nộ của Phan Khôi có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ "một đi" trên bến Dịch.
Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy, tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời.
Sau đó ít lâu… Khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Tôi vâng lệnh huyên đường tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu… Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu như đốt. Bỗng một hôm, tôi nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thắm buông theo giòng nước biếc, nhưng một lá thư trao theo kiểu chim xanh…
Ngoài phong bì, chỉ có hai dòng: Vũ Hoàng Chương, Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi.
Thật không sao kể xiết được những cảm xúc của tôi phút bây giờ! Cảm xúc đến suýt quên rằng thư này chưa chắc tôi đã là người đầu tiên mở ra đọc. Thư rằng:
Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình
Tai mắt như không phải của mình
Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
Suối tiên đắm đuối bao cho chán
Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
Thú ấy từ lâu không có nữa.
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.
Ôi! Câu phá đề sao nghẹn ngào u uất đến thế? Cả một giòng máu bị thắt nút đang sôi sục phá phách đòi tự do! Rất sẵn sàng vì tự do mà "lưu huyết". Câu thừa đề mới lại mỉa mai não ruột đến đâu! Tai mắt còn "không phải của mình", hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào "của mình" được nữa chứ?
Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt loạn rồi ư? Mà không "loạn" sao được? "Không phải của mình" kia mà! Đến như "Suối tiên đắm đuối, khối mộng vờn mơn", niềm khao khát tự do quả đã tuôn tràn đè trĩu khắp trang giấy.
Ồ! Hiển nhiên lắm rồi! Vì đây là hai câu kết:
Thú ấy từ lâu không có nữa…
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.
"Thú ấy" là thú nào? Nếu không phải cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng có khi!
Thế mà "từ lâu…". Trời hỡi! Niềm cảm xúc dâng cao. Tôi nằm dưới một túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan tiên sinh, mà cả một tâm sự đột nhiên được cởi tung mở phắt. Một tiếng xướng phải có muôn tiếng họa! Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng vui nhận lấy văn chương làm nghiệp dĩ hay sao?
Cho nên tôi đã họa nguyên vần bài luật thi của Phan tiên sinh và đã gửi đi tức khắc. Tính ông Phan nóng như lửa, nếu giữa khoảng tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là tôi đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó!
Bài họa vần như sau:
Trời vô tâm quá, đất vô tình…
Biết gửi vào đâu cái "chính mình"?
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Màu đen lại ngả xuống màu xanh.
Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành.
Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc!
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh.
Thơ trao đi, lòng còn thắc mắc. Cho đến mãi giờ phút này!
Không biết hồi đó Phan tiên sinh có tiếp nhận được chăng? Mà từ đấy biệt vô âm tín…
Đại Ẩn am không
Buổi gặp đầu tiên với tác giả bài Thăng Long hành đã diễn ra không ở nơi nào khác mà ở ngay nơi "ngàn năm văn vật đất Thăng Long"; giữ vai trò liên lạc cũng chẳng phải người nào khác mà chính là người chủ trương nhà xuất bản Thăng Long. Kỳ diệu thay! Duyên hàn mặc, ai dám bảo không trên đá ba sinh ghi sẵn?
Thuở ấy… chừng như mùa thu. Và thế kỷ hai mươi vừa đứng bóng thì phải. Thật ra cái bóng ấy đã nhích đôi chút về phía bên này, nghĩa là vào khoảng 1952, 1953… chi đó! Nhưng nếu đọc tới đây, một số thân hữu của tôi có bất chợt nổi hứng vỗ án mà ngâm lại hai câu thơ:
Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi 1
Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời…
thì vẫn cứ được đi! Không ai bắt uống rượu phạt! Lầm ngày lộn tháng, sai trật khoảng mười năm trở lại, đâu có ăn nhằm gì!...
Vâng. Anh bạn Vũ Minh Thiều, giám đốc Thăng Long xuất bản cục khoảng 1952, 1953 đã hướng dẫn thi sĩ Đông Hồ đến tìm tôi, ở tận ngõ hẻm kế cận Đài Khuê Văn, giữa một vùng cỏ áy nước ao tù, phảng phất mùi ẩm mốc tỏa ra từ rừng bia Tiến sĩ. Nơi mà:
Sư biểu muôn đời nền tịch mịch
Cung tường trăm ngọn nửa hoang vu
Cương lồng chinh mã què chân hạc
Củi thổi quân lương chẻ chữ thờ
Khoa bảng bia còn hàng chữ khắc
Khuê văn gác sót bóng sao thưa… 2
Cùng đi với thi sĩ Đông Hồ cũng có cả nữ sĩ Mộng Tuyết, đôi chim liền cánh từ vùng trời sao Dực sao Chẩn vừa bay ra đất Bắc để góp chung nguồn cảm hứng vào tâm sự của:
Bút tháp viết trời xanh chữ hận
Nghiên đài tràn mực đậm màu thu.
Buổi gặp ở "Giám Hồ hồ biên" chỉ ngắn ngủi trong vòng một khắc; giữa khoảng hai chén trà, Đông Hồ tiên sinh có đọc mấy câu thơ, rồi ngâm lên, âm hưởng bàng bạc như vô cùng xa lạ, mà cũng như quen thuộc từ lâu lắm, từ những thuở nào xưa!
Đến nay giọng ngâm sương kính êm đềm kia vẫn còn nghe rơi rớt đâu đó mỗi khi tôi ngồi trầm mặc, pha chén trà thứ nhất trong ngày, khói bốc lên xanh ngát đón bình minh, kể cả mùa mưa mùa nắng…
Nhưng mấy câu thơ ngẫu chiếm ấy ra sao? Bốn câu hay chỉ hai câu? Bảy chữ hay năm chữ? Tôi không nhớ gì hết, ngoài cái hình ảnh "ngõ trúc" mà ngay lúc đó thơ tiên sinh đã gieo vào cảm quan của tôi! Ngõ trúc? Phải rồi, những khóm trúc gầy úa trong con ngõ hẻm dẫn vào hiên Loạn Trung Bút của Hoàng Lang. Ngõ trúc! Nhớ được bấy nhiêu tưởng cũng đã quá đủ; hà tất phải làm nhọc ký ức thêm.
Vì bấy nhiêu đó là "chân cảm". Còn ngoài ra, đều chỉ giữ phần "gấm dệt hoa thêu".
Tiên sinh chẳng đã có lần tâm sự với tôi đó sao! "Thơ làm cả tập chỉ cầu lấy đắc ý một bài; trong cả hai bai ấy cũng chỉ cầu lấy ngọc đọng ở một chữ".
Ôi, đó chính là cái Hồn đích thực của thơ Á Đông! Một chữ ngọc đọng, với hào quang "chân cảm" của nó, đủ soi sáng cả một bài thơ, cả một tập thơ, cả một thi nghiệp!
Cho nên từ sau buổi "Con chim bằng vỗ cánh dời sang Nam Minh" tôi thường đến thăm tiên sinh, tham dự hoặc tổ chức những chiều ngâm vịnh xướng họa, cùng trao đổi biết bao là "ý ngọc tình châu".
Tiên sinh còn nhớ chăng buổi họp thơ đầu năm Mùi, với đề thơ "Hương gây mùi nhớ"? Và tôi quên sao được cái phút tiên sinh mỉm cười trao tận tay tôi bài thơ luật viết theo đề "Trùng cửu thơ trao" nhân buổi họp cuối thu cũng năm Mùi ấy.
Nhưng rồi qua năm Thân khói lửa mù mịt, sang năm Dậu tương đối yên hàn; tôi lại xướng lên đề thơ "Rày ước mai ao" thì tiên sinh lỗi hẹn bất ngờ, phụ lòng ao ước của làng Ngâm vịnh.
Chợt nhớ lại một trong bốn bài thơ "Trùng cửu", bài vần TRAO, của tiên sinh có những câu:
Rồng ở sâu và Tiên ở cao,
Thơ làm lơ lửng giữa ai trao.
Mùa về tháng Chín ngày mồng chín
Ta ở nơi nào tự thuở nao…
tôi không khỏi giật mình, ngẩng trông lên vòm sao thưa thớt: giờ đây "Đại Ẩn am không", biết tìm tiên sinh ở thuở nào, nơi nào được nhỉ?
Tiên sinh vội chi mà lỗi hẹn? Vừa qua buổi nguyên tiêu được năm ngày, tôi đã vượt hai chặng xe Lam (Trần Quốc Toản – Phú Nhuận, rồi Phú Nhuận – Chi Lăng) đến tận Quỳnh Lâm Thư thất trao đề thơ và giấy mời họp, ấn định vào tiết Thanh minh, tháng Ba, ngày bốn. Tiên sinh đang có khách; nhưng cũng đọc đi đọc lại đề thơ, rồi cười hỏi: "Tại sao lựa đề tài này? Rày ước mai ao chuyện gì vậy?". Tôi lấy giọng thân mật trả lời: "… Thì… mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!... đó mà". Tiên sinh vẫn còn thắc mắc: "Ai chả biết thế, nhưng… ờ… ờ! Thôi cũng được đi! Mà… còn xa ngày đó chứ?". Thế rồi tiên sinh đưa tôi ra tận ngoài hiên, gương mặt rất vui, cầm tay tôi khen ngợi thật tình: "Coi bộ Vũ Hoàng Chương vậy mà nhàn lắm nhỉ!".
Ai ngờ đâu tới buổi họp tháng Ba ngày bốn thì tiên sinh rũ áo bụi hồng đã được hai mươi tám hôm rồi. Các thi hữu trên tiệc, từ nữ sĩ Đào Vân Khanh, tuổi còn hơn tiên sinh một giáp, cho đến Tôn Nữ Hỷ Khương, tuổi chỉ bằng nửa số tuổi của tiên sinh, ai cũng ngẩn ngơ thương cảm, vần điệu thôi sao cũng vướng mắc chập chờn. Nhân danh "kẻ mời tiệc hôm đó", tôi yêu cầu Hỷ Khương ngâm lên bài thơ mà tôi vừa hoàn tất, để cùng nhớ ĐÔNG HỒ ĐẠI ẨN AM.
Thơ rằng:
Trăng chiều in đó nét mày ai
Nhạt tiếng gà trưa sắc nắng mai
Ngày tháng góp nên thơ bảy chữ
Sông hồ quẩy tới rượu hai vai
Gió không thét nữa roi cầu Vị
Mây đã về quanh tiệc bến Sài
Tình bạn như hoa tùy hứng nở
Đông Quân có hẹn nỡ nào sai
Ôi mười hẹn một đơn sai
Chỗ ngồi năm trước bóng ai đâu nào
Hương cùng gây… Thơ cùng trao
Mà quên Rày ước mai ao cho đành
Hồn lai, hề, phong lâm thanh
Ngọc nhân lai, hề, lạc hoa vô thanh
Vạn đội tửu binh, hề, nan phá sầu thành 3
Trên tiệc các bạn cũ
Ai là không hoài cảm giấc phù sinh
Đại Ẩn ẩn hà xứ
Cao ngâm trướng bất bình
Nhìn nhau mình lại thương mình
Trầm xây Vương giả hương đình rối tơ
Phải chăng giữa đợt khói mờ
Tay ai giáng bút qua bờ âm dương. 4
Tất cả đều lắng tai và xúc động tới đỉnh cao nhất của duyên Thơ tình Bạn.
Riêng phần tôi, chỉ mong rằng những âm thanh gieo ngọc của Tôn Nữ Hỷ Khương có đủ ma lực dọn lối mời anh hồn tiên sinh về ngự giữa thi đàn. Và qua những âm thanh gieo ngọc ấy, may ra bài thơ của tôi có được một chữ nào "đọng ngọc" làm vừa ý tiên sinh chăng! Lệ là không ngọc ư, hỡi rừng xanh ải tối?
Chú thích:

1.

Thơ Vũ Hoàng Chương.

2.

Thơ Đông Hồ (trong tập Bội lan hành, 1969).

3.

Ba câu đặt bằng Hán tự. Và có nghĩa như sau:
Hồn tôi chừ rừng phong xanh
Người ngọc tới chừ hoa rụng không tiếng
Muôn đội binh Rượu chừ khó phá thành Sầu.
V.H.C.

4.

Bài thơ gồm 23 câu nhưng có sự gián đoạn về thời gian sáng tác: sáu câu đầu đã viết từ trước khi Đông Hồ thi hữu lên đường; còn từ câu bảy trở xuống, đều đã sáng tác ngay trong buổi họp.

Tâm tư thời đại
Nữ sĩ Thanh Quan trước đây hơn một thế kỷ đã cất tiếng não nuột khóc thành Thăng Long, cảm thương cho nó trải từ Lý, Trần vẫn thường oanh liệt sắm vai trò Đế Đô, rồi chẳng tội tình gì cũng bị chấm dứt vai trò ấy một cách tàn nhẫn:
Tạo Hóa gây chi cuộc hí trường!
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương…
Thế là từ cuối thế kỷ thứ mười tám, kinh đô nước Việt dời vào Thuận Hóa tức Huế đô mà cũng thường được gọi bằng một cái tên văn vẻ: Phượng Thành. Đối lại với Long Thành!
Khoảng 1947, nhân dịp tản cư, người viết bài này có duyên được đọc bài thơ Qua Huế cảm tác của nữ sĩ Mộng Thiên, và cứ chiếu theo năm vần của nữ sĩ họa lại như sau đây, gọi là nối dòng dư lệ của Thanh Quan, một đàng khóc thành Rồng, một đàng khóc thành Phượng:
Nửa gánh gươm đàn tới Đế đô
Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô.
Bìm leo cửa khuyết, ai ngờ rứa
Rồng lẩn mây thành, chẳng thấy mô.
Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng?
Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ!
Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm
Tốt đã vào cung… loạn thế cờ.
Câu thứ hai vì vần "Ngô" khó quá, không họa thẳng được, nên phải cầu cứu đến thơ Đường:
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô…
Câu ba câu bốn đều ám chỉ việc vua B. Đ. thoái vị đi lưu vong và triều Nguyễn cũng đồng thời chấm dứt.
Câu tám đã nói màu đến thời sự: T.H.L.C.H.C. vào Huế tước ấn kiếm Hoàng đế. Việc xảy ra cuối năm 1945.
Thời gian không ngừng trôi, cuộc biển dâu lại tiếp diễn. Giữa năm 1954, kẻ viết bài này đã theo trăm họ vào Nam.
Thị trấn Sài Gòn, thường gọi nôm na là Bến Nghé, vụt trỗi dậy sắm vai trò lịch sử của Thăng Long, Thuận Hóa trước kia; đã trở thành kinh đô Nước Việt, có quốc tế thừa nhận rõ ràng.
Hà Nội (tức Thăng Long), Thuận Hóa (tức Phượng Thành), Sài Gòn (tức Bến Nghé)… Chặng đường lui xuống phương Nam ấy, biết có khơi dậy cảm xúc cho ai chăng, riêng Vũ Hoàng Chương thì chỉ biết ghi nhận một nét tâm tư thời đại:
Long Thành đâu nhỉ? Phượng Thành mô?
Lê, Nguyễn: Hai giòng lệ cố đô.
Lệ chảy, chảy xuôi tràn Bến Nghé
Giựt mình… Nam Hải sóng lô xô.
Sài Gòn 1974
 Hoàng Chương
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Gió ngừng thổi, mưa ngừng rơi

Gió ngừng thổi, mưa ngừng rơi Ai người trước đã qua Ai người sau chưa đến Ngẫm trời đất vô cùng Một mình tuôn giọt lệ. Trần Tử Ngang Khi k...