Lối xưa xe ngựa 5
Chương V- NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU RA HUẾ CHUẨN BỊ THI HƯƠNG HAY THI HỘI KHOA KỶ DẬU
(1849)?
I. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU RA HUẾ THI HƯƠNG HAY THI
HỘI?
Văn Học số 49 đăng bài của ông Trần Văn Tích bàn về
cuốn "Việt Sử Khảo Luận" của ông Hoàng Cơ Thụy,
tác giả tỏ ý thắc mắc tại sao có sách chép chuyện vô lý là Nguyễn Đình Chiểu
chỉ đỗ Tú tài mà lại ra Huế để chuẩn bị thi Hội, có phải là đặc ân của triều
Nguyễn dành cho nho sĩ miền Nam? và thêm "trước và sau Nguyễn Đình Chiểu
không thấy có chuyện đó" (= Tú tài được thi Hội), tôi mạn phép bàn góp
mấy lời:
Quả Nguyễn Đình Chiểu có ra Huế chuẩn bị khoa thi Kỷ Dậu (1849),
nhưng để thi Hương hay thi Hội thì mỗi sách chép một phách. Lệ thường, những
người đỗ Tú tài phải thi Hương lại kỳ cho đến khi có chân Cử nhân rồi mới được
thi Hội, vì thế ta mới có những vị Tú Kép (đỗ 2 khoa Tú tài), Tú Mền (đỗ 3 khoa
Tú tài), Tú Đụp (đỗ 4 khoa Tú tài). Đó là lệ thường, ngoài ra còn có những lệ
luật khác cho phép một số Tú tài được chính thức dự thi Hội, không cần xin đặc
ân. Sau đây là những loại người được phép ứng thi Hội:
- Cử nhân mới và cũ (đỗ từ những khoa trước).
- Tôn sinh (người trong hoàng tộc). Ấm sinh (con quan)
- Giám sinh, Cống sinh (những người học xuất sắc, do phủ, huyện
tiến cống vào Kinh học đỗ, cho làm Giám sinh, được cấp lương, mũ áo, miễn thuế,
tạp dịch. Song muốn thi Hội còn phải qua một kỳ Hạch nữa, đỗ mới được thi.
Những người đỗ cũng được gọi là "ông Cống" (danh từ này vốn dành để
gọi những người đỗ Hương cống, tức Cử nhân).
- Huấn đạo, Giáo thụ (có những người chỉ đỗ Tú tài, nhưng nhờ học
lực cũng được bổ vào hai chức này).
- Học sinh Thượng hạng, trúng Tú tài (Học sinh là những người có
tư chất, ham học, được tuyển lựa ở địa phương, chước cho đi lính, tạp dịch).
- Tú tài được làm việc trong Hàn Lâm Viện.
Trừ Cử nhân và Giám sinh, những người khác đều phải qua một kỳ
Hạch, đỗ mới được thi Hội.
Đọc Quốc Triều Đăng Khoa Lục của Cao Xuân Dục,
chúng ta thấy riêng triều Nguyễn có đến 26 vị Tú tài hay Phó bảng, nổi danh
nhất phải kể đến Trần Quý Cáp, xuất thân là học sinh Thượng hạng, trúng Tú tài,
đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa 1904. Trong Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập, ông
Lãng Nhân chép "Trần Quý Cáp đỗ ba khoa Tú tài liên tiếp, theo lệ được thi
Hội", chưa rõ lệ năm nào, có điều chắc chắn họ Trần khi ứng thi không có
chân Cử nhân.
Chứng minh được Tú tài có quyền thi Hội vẫn chưa bảo đảm Nguyễn
Đình Chiểu ra Huế chuẩn bị thi Hội. Luật thi Hương xưa nay bắt Thí sinh phải
thi tại nguyên quán, song vẫn có những trường hợp ngoại lệ cho phụ thí, tức là
những người có cha làm quan xa, đến kỳ thi Hương không về kịp quê quán nên xin
đặc ân được phụ thí tại nơi cư ngu. Tuy là chuyện hiếm, nhưng Đại Nam
Thực Lục Chính Biên cũng chép ít nhất tới ba đạo sắc dụ về phụ thí.
1) 1821: từ Phú Yên về Nam, cho Thí sinh tùy tiện phụ thí, từ Bình Định
ra Bắc phải theo nguyên quán.
2) 1834: Nam kỳ có biến, học trò Gia Định được phép phụ thí ở Thừa
Thiên (ĐNTLCB XXV, 283-4).
3) 1858: Định lệ từ nay cho 6 tỉnh Nam kỳ được thi phụ trường Thừa Thiên.
Lý do: Nguyễn Chính từ Hưng Hóa không về kịp sinh
quán Gia Định, được phụ thí ở Thừa Thiên, đã đỗ đầu, nhân đó thành lệ (ĐNTLCB XXVIII,
427). Nguyễn Đình Chiểu ra Huế từ năm 1846, tức là trước khi phụ thí ở miền Nam
thành lệ (1858) song rất có thể Nguyễn Đình Chiểu đã xin đặc cách được phụ thí
ở Thừa Thiên vì người cha, Nguyễn Đình Huy, đã từ Gia Định trốn về Thừa Thiên
năm 1833 khi Lê văn Khôi nổi loạn ở Nam kỳ.
Mặc dầu Nguyễn Đình Chiểu có đủ điều kiện để xin phụ thí, tôi vẫn
tin tác giả Lục Vân Tiên ra Huế để thi Hội chứ không phải để
thi Hương, vì lẽ những người xin phụ thí vốn là những người đã có mặt sẵn ở
Thừa Thiên, không về kịp quê quán mới có lý để xin phụ thí, đằng này Nguyễn
Đình Chiểu đang ở sinh quán Gia Định, lại lục đục bỏ ra Huế để đón một khoa thi
mà trên nguyên tắc mình không được phép dự, trừ phi làm đơn xin phụ thí, thiết
tưởng hành động như thế có điều không ổn.
II. NHỮNG ĐẶC ÂN CỦA TRIỀU NGUYỄN DÀNH CHO NHO
SĨ MIỀN NAM
Hay là: Những "kỳ thị" của nhà
Nguyễn đối với sĩ phu miền Bắc.
Hay là: Những "kỳ thị" của nhà Nguyễn đối với sĩ phu
miền Bắc
Một điều hiếm khi
thấy các sửû gia nêu lên là sự "kỳ thị" của triều Nguyễn đối với đám
sĩ tử ngoài Bắc: từ cách lựa chọn học sinh, đến cách tổ chức các khoa thi,
chấm thi, bổ quan chức v.v... rất nhiều đạo dụ cho thấy sự bất công của nhà
Nguyễn. Sau đây là một số những sắc chỉ chép trong Đại Nam Thực Lục
Chính Biên:
1) Tuyển chọn
Học sinh: 1855 Định
ngạch Học sinh cho các tỉnh biên giới: Cao Bằng, Lạng Sơn v.v... khảo hạch và
cấp lương cho ăn học như các Học sinh từ Quảng Bình vào Nam
(tức là miền Nam được hưởng đặc ân trước).
2) Phụ thí:
- 1821 Định lệ cho
thi Hương từ nay từ Phú Yên vào Nam được tuỳ tiện phụ thí, từ Bình Định ra Bắc
phải theo nguyên quán.
1858 Định lệ cho 6
tỉnh Nam kỳ được thi phụ ở trường Thừa Thiên.
3) Tổ chức các
khoa thi:
- 1834 thi Hội. Lệ
trước các Cử nhân, Giám sinh ở Kinh, ở các Trực (Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng
Trị, Quảng Nam) và ở Tả kỳ (Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa) trở về
Nam, Hữu kỳ (Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa) trở ra Bắc đều hội lại để cùng
thi... nhưng số người đỗ chưa được quân bình. Những kẻ sĩ từ Kinh, Trực trở vào
Nam thi chung với các kẻ sĩ từ Hữu kỳ ra Bắc nên khi điểm duyệt không khỏi có
sự sút kém về phân số (điểm). Từ nay ba kỳ thi Hội, mỗi kỳ chia làm hai lượt,
mỗi lượt để riêng ngày: Cử nhân, Giám sinh ở Thừa Thiên cùng các Trực và Tả kỳ
trở vào Nam cùng thi một lượt. Đầu bài thi sẽ ra riêng và khi chấm sẽ tùy theo
bài văn mà điểm duyệt.
Vua dụ: Nếu mỗi
kỳ thi chia làm hai lượt cũng chưa được tiện, vậy chuẩn cho trường thi chia làm
hai vi:
Vi Giáp: sĩ tử ở
Kinh, Trực và Tả kỳ trở vào Nam.
Vi Ất: sĩ tử ở
Hữu kỳ trở ra Bắc.
Thi cùng một ngày.
Thu quyển xong, Đề điệu (quan trường phụ trách việc Giám sát) chua luôn hai chữ
"Vi Giáp" hay "Vi Ất" vào phía dưới mấy chữ "kỳ thi
thứ mấy"... Vi nào nên lấy bao nhiêu Trúng cách (đỗ thi Hội), bao nhiêu Phó
bảng, sẽ hạ chỉ đặc cách quyết định cho được thăng bằng, thích đáng (?). (ĐNTLCB XVI,
50-5).
- 1907 Lệ cũ Cống
sĩ từ Quảng Bình trở về Nam vào Vi Giáp, từ Hà Tĩnh trở ra Bắc vào Vi Ất, nay
Cao Xuân Dục xin cho thi lẫn lộn.
4) Chấm thi:
- 1825 học trò
Thừa Thiên, Quảng Nam không một ai đỗ. Vua sai Lục bộ duyệt lại quyển văn lấy
thêm Cao Hữu Dực ở Thừa Thiên và Trương Tăng Diễn ở Quảng Nam làm Hương cống
(Cử nhân). (ĐNTLCB VII, 180).
1826 thi Hội, ứng
thí trên 200 người, quan trường lấy đỗ 9. Vua bảo thị thần Lương Tiến Trường và
Nguyễn Kim Xán: "Nay thiên hạ một nhà, Nam, Bắc đều là tôi con của trẫm.
Nam hiền thì dùng Nam. Bắc hiền thì dùng Bắc; không phải có thiên tư. Vả lại
học trò Nam, Bắc đều là người ở trong giáo dục, học lực tưởng không hơn kém
nhau, thế mà nay 9 người đỗ đều là người Bắc là sao thế? Nên lựa lấy một, hai
người từ Thừa Thiên vào Nam để cổ lệ sĩ phong mới phải". Thế là quan
trường lấy thêm Phan Thanh Giản cho đủ số 10 người (ĐNTLCB VIII,
28-9).
- 1874 Sắc rằng: "Đặt khoa thi chọn lấy học trò để giúp nhà nước, hạng Tú tài để đấy không
dùng là vô ích, trừ người nào bổ quan thì không kể. Từ nay thi Hương đình bãi
lấy Tú tài, bắt đầu từ hai trường Hà Nội, Nam Định". Bộ Lễ can: "Xưa
nay quan viên phạm tội nặng mới tướt bỏ tên trong sổ xuất thân là Tiến sĩ, Cử
nhân hay Tú tài. Nay cả nước nguyên lấy đổ 4, 5000 Tú tài, nhất khái bỏ hết tên
ở sổ, sinh dị nghị. Xin gia ơn cho đình miễn. Vả thi Hương năm nay ở các trường
Hà Nội, Nam Định là làm bù cho khoa Quý Dậu. Khoa thi Hương các trường Thừa
Thiên, Nghệ An, Bình Định, Thanh Hoá năm ngoái đều lấy Tú tài, nay nếu bãi bỏ
sẽ không công bằng". (ĐNTLCB XXXIII, 108-9).
- 1874 Gần đến kỳ
thi hai trường Hà Nội, Nam Định vua lại dụ: "Mỗi trường không được lấy quá
50 Tú tài". Chủ khảo trường Nam Định Lê Đức Quang tâu: "Thi Hương năm
nay ở hai trường là bù khoa Quý Dậu. Năm ngoái 4 trường Thừa Thiên, Nghệ An,
Bình Định, Thanh Hóa vẫn lấy số Tú tài như cũ, nay hai trường Hà Nội, Nam Định
xin chuẩn cho lấy trên dưới 100 người". Vua y. ĐNTLCB XXXIII,
125).
Khoa 1840 khi thấy
văn bài miền Nam sút kém, vua bảo: "Văn phong ở Nam Kỳ mới mở, quyển văn
thi đỗ so với các trường khác không khỏi có chỗ hơi kém... Đời xưa có người ít
văn học mà công nghiệp rõ rệt, cứ gì phải Khoa mục đâu?" (ĐNTLCB XXII,
170-2).
Nhưng khi văn bài
sĩ tử miền Bắc sút kém (khoa 1828) vua bảo Hà Quyền, Phó Chủ khảo Bắc thành: "Bắc thành vốn xưng là nơi văn vật mà kỳ thi này chỉ được những người
hạng bình, hóa ra chỉ là hư danh à?". Quyền tâu: "Bắc thành gần đây
chức Giáo, Huấn không được tốt cho nên học trò không lấy ai mà theo
được". ĐNTLCB IX, 103).
5) Bổ quan chức:
- 1838 Khảo hạch
các Tú tài các khoa từ 40 tuổi trở lên ở Quốc Sử Quán. Đỗ hạng bình 9 người,
cho làm Huấn đạo. Hạng thứ hay liệt 70 người: những ai ở Hà Tĩnh trở ra Bắc
cho về học tập mỗi người cấp cho hai lạng bạc; ai quê ở Quảng Bình trở vào Nam
cho làm Hành tẩu Lục Bộ (chức quan chuyển đạt những mệnh lệnh của vua hay của
thượng quan) hàng tháng cấp một quan tiền, một phương gạo (=30 bát gạo).
- 1857 Định:
người nào thi Hội không có phân số (điểm) người từ Quảng Bình vào Nam 30 tuổi
trở lên, từ Hà Tĩnh ra Bắc từ 35 tuổi trở lên, đã thi Hội hai khoa mà tình
nguyện làm việc thì cho ra làm việc.
- 1875 Trước kia
phàm đỗ Tú tài hai khoa, tình nguyện ra làm việc từ Quảng Bình vào Nam 40 tuổi
trở lên, từ Hà Tĩnh ra Bắc 45 tuổi trở lên, đều chiểu lệ xét bổ.
- Lệ cũ Cử nhân
Nam, 30 tuổi, Bắc 35 tuổi, đã thi Hội hai khoa mới được xét bổ. Nay Nam, Bắc
cùng cho lấy 30 tuổi làm hạn. (ĐNTLCB XXXIII, 183-4).
Vì không được đọc
trọn bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên nên tôi chỉ chép được có
chừng ấy sắc dụ, nhưng bấy nhiêu cũng đủ cho thấy óc thiên lệch của triều
Nguyễn. Có lẽ vì buổi đầu nhà Nguyễn được nhân dân miền Nam nâng đỡ, nên dành
nhiều cảm tình cho người miền Nam. Ngược lại, dù đất nước đã thống nhất, song
người dân Bắc lòng còn tưởng nhớ nhà Lê, có ý không phục nhà Nguyễn, bởi thế
vua Gia Long bỏ Thăng Long, dời đô vào Huế (nhưng không quên dời luôn cả Quốc
Tử Giám đem vào) và nhà Nguyễn tỏ ra "kỳ thị" dân Bắc, đấy chẳng qua
cũng chỉ là một phản ứng tự vệ.
III. BÀN THÊM VỀ NHỮNG CẤM LỆ "KỲ QUẶC"
CỦA KHOA CỬ.
Trên đây là những sự bất công của riêng triều Nguyễn đối với sĩ
phu ngoài Bắc. Còn nói chung về Khoa cử, các nhà nghiên cứu lớp trước (tôi
không muốn trỏ vào những người làm cách mệnh, chán ghét khoa cử như Phan Bội
Châu) ai cũng ca ngợi Khoa cử công bằng, không phân giai cấp, con nhà nghèo
cũng có quyền đi thi v.v... Kể ra, so với chế độ "con vua thì lại làm
vua" quả Khoa cử công bằng thật. Song tất cả chỉ là vấn đề tương đối.
Chúng ta chẳng ai không nhớ trường hợp Đào Duy Từ đã đỗ thi Hội, chỉ vì người
cha cầm đầu đội nữ nhạc trong cung vua Lê Anh Tôn, nên bị xoá tên trong sổ
những người Trúng cách. Đào Duy Từ uất ức mới bỏ vào Nam phò tá chúa Nguyễn. Tại
sao lại có lệ lạ lùng ấy? - Bởi người xưa liệt các ca sĩ vào loại "xướng
ca vô loài" lười biếng, chỉ rong chơi ca hát, đáng khinh, không được xếp
vào loại công dân có nghề nghiệp hữu ích cho nhân quần.
Ai nghe chuyện
cũng bất bình thay cho Đào Duy Từ, những chẳng thấy ai phàn nàn hộ (trừ Trần
Văn Tích và Nguyễn Tuân) cho một nửa số công dân Việt Nam cũng bị cấm thi mặc
dầu cha ông không thuộc loại "xướng ca vô loài": nay là phụ nữ. Phải
chăng phụ nữ không phải là công dân nước Việt? Chế độ phong kiến quyết tâm gạt
hẳn phụ nữ ra ngoài, Đoàn thị Điểm, Hồ Xuân Hương đều bó tay, ấy thế mà vẫn có
người lọt lưới, cải nam trang đi học và... đỗ Trạng nguyên! Vào cuối thời nhà
Mạc, và thời nhà Lê Trung Hưng, bà Trạng Nguyễn Thị Du đã đóng góp cho nền văn
học Việt Nam nói chung và huyện Chí Linh nói riêng nên được dân làng Kiệt Đặc
(Chí Linh) thờ làm thần (Xem bài Nguyễn thị Du, vị nữ Trạng nguyên độc nhất của
ta sinh năm nào?").
Ngoài phụ nữ và
con nhà "xướng ca vô loài" không được đi thi, thời xưa còn nhiều cấm
lệ mà ngày nay chúng ta thấy lạ lùng khó hiểu, chẳng hạn cấm những người có đại
tang không được đi thi. Vì sao? - Vì người xưa trọng đức, có tang phải ở nhà
cư tang, đi thi để mong vinh hiển cho thân mình mà quên cha mẹ là phạm tội bất
hiếu. Người đã mang tiếng bất hiếu, không thương đến cả cha mẹ mình, thì mong
gì đi làm quan nghĩ đến dân đen? Đấy là mặt lý thuyết. Song trên thực tế, ba
năm mới có một khoa thi, nếu gặp hai cái đại tang liên tiếp cộng với một khoa
bị tật bệnh không đi thi được vị chi mất chín năm đèn sách công toi. Chính một
phần vì cái lệ khắc nghiệt đó mới có những cụ già 60 tuổi còn lẽo đẽo lều chõng
và đến năm Thành Thái thứ 18 mới sửa lại cho phép những người có đại tang đi
thi, nhưng ngược lại, tuổi bị hạn chế (1).
Dễ hiểu hơn là
những lệ cấm người nào có cha ông ba đời làm trộm cướp, phản tặc. Chọn người ra
làm "phụ mẫu" dân tất phải kén người có hạnh kiểm tốt. Song thế nào
là "phản tặc?". Với nhà Nguyễn thì làm quan với Tây Sơn, hay cả với
nhà Lê đều là "phản tặc" cả: Lê Đức Quang, Phạm Huy Lê chỉ vì khai
lầm cha ông làm quan với nhà Lê đã bị xóa tên trong sổ Cử nhân khoa 1831. ĐNTLCB X,
293-5).
Lại còn một hạng
người tuy không chính thức bị cấm thi mà cũng chẳng khác bị cấm: đấy là dân
làng Thiên Thuộc (sau gọi là làng Tức Mặc) quê hương của các vua nhà Trần, bị
cấm không được học tập văn nghệ, cốt để giữ tinh thần thượng võ, treo gương cho
thanh niên toàn quốc. Năm 1821, vua Trần Nhân Tông lập trường học ngay phủ lỵ
phủ Thiên Trường (sau là Xuân Trường) tức là phủ hạt nhà vua, thế mà dân làng
Thiên Thuộc vẫn không được phép học văn. Đã không học thì thi làm sao được?
nên tuy không bị cấm mà cũng chẳng khác bị cấm là thế. Song chính nhờ trọng
ngành võ bị mà nhà Trần bao lần thắng trận vẻ vang, sự kiện này ngoài sử liệu
còn nằm trong ngạn ngữ "Đánh giặc đời Trần, làm quan họ Đặng".
Thành ra có nhiều
cấm lệ mà ngày nay mới thoạt nghe ta thấy "kỳ quặc", song đặt vào
khung cảnh thời xưa, lấy đức làm trọng, đặt đức trên tài, thì những lệ ấy không
phải hoàn toàn vô căn cứ. Mặc dầu cha ông ta hết sức đề cao đức hạnh trong cách
giáo dục và kén chọn người ra làm "phụ mẫu" dân, trên thực tế số tham
quan vẫn nhiều hơn số những ông quan liêm chính, nhưng dù ít vẫn còn hơn không.
Chú thích:
1. Đại
Nam Điển Lệ; dịch giả: Nguyễn Sĩ Giác. Saigon: Viện Đại học, 1962, tr.
359.
Trong Hồi ký, Paul Doumer tỏ ra rất ngạc nhiên
thấy một Thí sinh 80 tuổi mới đỗ Tú tài.
Đọc lại Quốc
Triều Đăng Khoa Lục của Cao Xuân Dục (tr. 107) thì thấy chắc chắn
Nguyễn Đình Chiểu ra Huế năm 1849 để thi Hội chứ không phải thi Hương vì thi
Hương đã được tổ chức năm 1848. Sau đây là chi tiết khoa thi Hội năm 1849:
Tự Đức năm thứ
hai, Kỷ Dậu (1849),
Quan duyệt quyển: Vũ Tuấn
Mai Anh Tuấn
Quan đọc quyển: Phan Thanh Giản
Trương Quốc Dụng
Lấy đỗ đầu: Đệ nhị giáp
Tiến sĩ xuất thân Đỗ Duy Đê đỗ Cử nhân năm Mậu Thân (1848) v.v...
Theo chỗ tôi
biết thì chỉ có một lần vào năm 1779 chúa Trịnh Sâm mới mở Hương Hội thịnh
khoa, tức là tổ chức thi Hương và thi Hội cùng một năm. Khoa này Nguyễn Du đỗ
Tiến sĩ xuất thân, Phạm Quý Thích đỗ Đồng Tiền sĩ xuất thân (Đại Việt sử ký tục biên, tr.
448).
Tháng 6/1990 Nguyễn Thị Chân QuỳnhNguồn: Rút
trong Văn
Học, số 7, tháng 11/1990
Tháng 6/1990
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét