Nên bài xích
lối văn không thành thực
Lời dẫn của người sưu tầm:
Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít
người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày
nay, những năm 1935-37; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại
Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong
toàn cõi Đông Dương thời ấy.
Sau 6 năm viết báo trên đất Sài Gòn, khoảng tháng 3/1933, Phan Khôi trở ra Quảng
Nam nghỉ ngơi tại quê nhà ít lâu rồi ra Hà Nội. Ở đây, từ tháng 5 đến tháng
7/1933, dưới bút danh Bướng Nhân ông viết cho Thực nghiệp dân báo trong
mục “Bướng Nhân nhật ký”. Sau đó, ông và Tế Xuyên nhận lời với ông bà Nguyễn
Văn Đa chủ báo Phụ nữ thời đàm đứng ra đảm nhiệm tờ này, đổi nó từ thể
tài nhật báo sang thể tài tuần báo. Phụ nữ thời đàm tập mới đánh số lại
từ số 1 (17/9/1933); Phan Khôi có bài đăng liên tục trong 22 số đầu, ký Phan
Khôi, C.D., Hồng Ngâm, Tú Xơn; Phan Khôi quen biết Vũ Trọng Phụng có lẽ cũng từ
hồi làm tờ báo này (họ Vũ đăng tiểu thuyết Dứt tình và viết phóng sự Vẽ
nhọ bôi hề cho tờ này). Đến hết số 26 (5/6/1934) thì tờ này cũng phải đóng
cửa, hình như do thua lỗ. Chưa rõ Phan Khôi còn viết cho tờ báo nào ở Hà Nội
trong khoảng giữa năm 1934 hay không, nhưng chắc chắn là đầu năm 1935, ông vào
Huế làm báo.
Hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1/3/1935 là tờ La Gazette de Hue (chữ
Pháp) ra hàng tuần, tờ Tràng an (chữ Việt) ra 2 kỳ/tuần; chủ nhiệm cả
hai tờ là Bùi Huy Tín; vai trò chủ bút tờ Tràng an báo được giao
cho Phan Khôi. Ngoài các bài xã thuyết về thời sự xã hội ký tên Phan Khôi, ông
còn mở nhiều mục cho các loại bài phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”,
“Nhớ đâu nói đó”, ông viết và ký Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện
rông” cho Hoài Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồì các mục mở cho ngòi bút của
Tiêu Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân, Hương
Giang Thiếu Niên (chưa rõ bút danh của ai), v.v…; quan hệ tốt giữa ông với cây
bút trẻ Hoài Thanh từ Nghệ An vào cũng bắt đầu ở tờ báo này; chính tờ báo đã
lên tiếng chúc mừng lễ cưới của người trợ bút báo mình là Nguyễn Đức Nguyên
(Hoài Thanh) với cô Phan Thị Nga, con gái một y sĩ ở Hội An (Tràng an 30/9/1935);
tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng bài của Hoài Thanh
trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật / vị nhân sinh”; chính báo này đã ra số đặc
biệt về ngày thất thủ kinh đô 23 tháng Năm năm Ất Dậu với các bài chủ lực của
Phan Khôi và Hoài Thanh (Tràng an, 21/6/1935)…
Nhưng chính bài báo tôi giới thiệu dưới đây lại khiến Phan Khôi phải thôi chân
chủ bút Tràng an, để ít lâu sau ra tờ Sông Hương, cũng tại Huế, do
chính ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút (ra được 32 số, từ 1/8/1936 đến 27/3/1937;
sau đó bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu). Đó là nói vắn tắt về ba
năm (1935-37) Phan Khôi làm báo ở Huế.
Trở lại với bối cảnh của bài báo sẽ in dưới đây; khoảng cuối năm 1935, trong nội
cung triều Huế có sự kiện là đám tang bà nội vua Bảo Đại; nhân đấy giới quan chức
Nam triều tôn dâng khá nhiều bài văn phúng viếng. Phan Khôi đã chọn đăng trên
báo mình một bài và sau đó đăng bài phê bình của mình, liền hai kỳ, trên số Tràng
an cuối cùng của năm 1935 và số đầu tiên của năm 1936. Hẳn là bài báo đã
gây phản ứng mạnh trong giới quan chức triều Nguyễn, vì chỉ một tháng sau,Tràng
an ngày 4/2/1936 đã thông báo “vì một lẽ riêng, từ nay ông Phan Khôi thôi
làm chủ bút bản báo”. Mấy tháng sau, từ 9/6/1936, Hoài Thanh và Phan Thị Nga
cũng nói rõ trên tờ này rằng đã không còn làm trong toà soạn Tràng an nữa.
Tư tưởng về sự thành thực trong văn chương mà lâu nay ta chỉ được biết do những
người như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều đã thể hiện trong cuộc tranh
luận với phái “vị nhân sinh”; nay với việc biết đến bài báo này, cần khẳng định
rằng, trong phạm vi văn học sử Việt Nam thế kỷ XX, tư tưởng về sự thành thực
trong văn chương có xuất xứ từ Phan Khôi, rằng Phan Khôi mới là người có bản
quyền đích thực của tư tưởng ấy.
Về văn bản bài báo, vì số báo này nằm ở cuối bộ sưu tập Tràng an năm
1935 nên phần đầu bài báo (vốn được in ở phần trên của trang cuối) bị rách mất
không ít (ước chừng mất 6 dòng, khoảng 40 từ); tên bài báo cũng bị mất, may mà
có thể tìm lại ở kỳ đăng thứ hai trong bộ sưu tập Tràng an tiếp theo
của năm 1936. Nhân công bố tư liệu này, tôi đề nghị bạn nào có nguồn bổ túc các
đoạn còn thiếu ở bài này, xin cho chúng tôi biết.
Lại Nguyên Ân
*
Phan Khôi
Nên bài xích lối văn không thành thực
[…] những bài văn không thành thực.
Và văn học là để biểu hiện nhân sanh và phê bình nhân sanh. Một nền văn học có
giá trị, chẳng khác gì hơn là sự biểu hiện và sự phê bình của nó được đúng. Mà
muốn như thế thì trong văn học phải chuộng sự thành thực làm đầu. Trái lại,
không chuộng thành thực thì trong sự biểu hiện và phê bình đều là giả dối sai lầm
cả, cái văn học ấy đã đành là không tiến bộ mà cũng trở nên vô giá trị nữa.
Tôi từng quan sát cái hiện trạng văn học xứ ta từ trước đến giờ, thấy được chỗ
trở ngại ấy nên đã nhiều lần bàn với anh em làng văn rằng chúng ta cần phải đề
xướng cái chủ nghĩa thành thực trong văn học mới được. Trong lúc dự bị làm công
việc ấy, tình cờ gặp một dịp tốt khiến tôi có thể đem ý đó phát biểu ra đây.
Trong phụ trương Tràng an số 86 vừa rồi có đăng bài văn tế đức Thánh
Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch. Các bạn đọc đối với bài văn ấy, những người có
óc cũ có lẽ sẽ hoan nghinh, nhưng những người có tư tưởng mới hẳn là không chịu
nó cũng như chúng tôi không chịu nó. Đã không chịu nó mà còn đem đăng lên báo,
chẳng qua chúng tôi muốn có cớ để phát luận hôm nay.
Theo lối văn chương cũ mà nói thì bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng
Thạch đó không phải là hay nhưng cũng không đến nỗi dở. Nó là một bài văn sàng
sàng, “vô cửu vô dự”. Nhưng khi phê bình nó ở đây, chúng tôi không kể đến sự
hay dở mà chỉ kể đến chỗ nó có đứng được hay không đứng được mà thôi. Nghĩa là
chúng tôi không nói đến phương diện nghệ thuật của nó mà chỉ nói đến cái tánh
chất của bài văn.
Làm một cái kết luận sớm ở đây, tôi muốn nói ngay rằng bài văn của ông Nguyễn Mộng
Thạch không đứng được, vì nó đeo một cái tánh chất hư ngụy, không thành thực.
Ở thế gian này bất kỳ cái gì giả dối đều không đứng được thì bài văn giả dối tất
nhiên cũng không đứng được. Phận sự nhà văn chúng ta là phải hết sức bài xích
những bài văn như thế, đừng cho nó lưu truyền ra trong văn giới.
Thế nào là gọi bài văn ấy là không thành thực?
Trước hết nói về cách dùng chữ. Trong bài văn ấy tác giả chỉ dùng những chữ cho
đẹp cho kêu chớ không cốt ở nghĩa lý có đúng cùng chăng. Đại khái như câu mở: Lầu
phụng mưa chan, đài loan tuyết ủ, thì lầu phụng là lầu gì và đài
loan là đài gì? Đã đành rằng phụng đối với loan thì đẹp
và cân lắm nhưng còn nghĩa nó thì sao? Huống chi xứ ta từ xưa đến nay chưa hề
có tuyết thì làm sao lại nói được rằng “tuyết ủ”? Tuy vậy những câu ấy
chưa đáng tội gì mấy. Tác giả vì ham những chữ cho đẹp, đối nhau cho cân mà đã
đặt ra những câu phạm tội nặng hơn, tức là cái tội vô nghĩa. Ấy là như
câu “bể ái lưng vơi thành sầu xô đổ” thì còn có nghĩa gì? Xét lại bản
ý của tác giả là cốt đem hai cái thành ngữ “bể ái” và “thành sầu” để đối với
nhau nghe cho rột rạt mà thôi.
Thứ đến những chỗ kể đức tánh của đức Thánh Cung, nghe ra cũng vô vị nữa. Có lẽ
tác giả tự cho rằng ca tụng một bà vua như vậy là đắc thể, nhưng theo chúng tôi
tưởng thì thật chẳng có chút giá trị nào. Như những câu:“Nết đất từ hiền, tư trời
nhân hậu… Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ” thì
dùng mà hình dung cái đức tánh của bà vua nào chẳng được, hà tất đức Thánh
Cung?
Theo cái quan niệm về văn nghệ của chúng tôi, khi muốn biểu hiện cái đức tánh
bình sanh của một người nào thì phải lấy những cái đặc tánh của người ấy mà biểu
hiện. Khi nhận thấy người ấy không có cái đặc tánh gì hoặc có mà mình không nhận
thấy được thì thà đừng biểu hiện còn hơn. Như thế, sự biểu hiện của văn nghệ mới
có giá trị.
Còn tác giả đây hình như không nghĩ như chúng tôi vậy. Tác giả không cần nhận
thấy đức Thánh Cung có đặc tánh gì cả, khi cầm bút tán dương ngài thì cứ khuân
bao nhiêu những hình dung từ tốt cho đàn bà mà để vào đấy thôi. Bởi vậy những
chữ “hiền từ, nhân hậu, đoan trang, trinh liệt” mới rủ nhau ra đứng sắp hàng
trên mặt giấy! Như thế là lạm dụng. Khi một nhà văn đã lạm dụng những hình dung
từ như thế thì thường phạm phải điều lỗi bởi sự bất ngờ. Tức như hai chữ “trinh
liệt” ở đây là một cái lỗi lớn không tày đình cũng tày líp!
“Trinh liệt” là chữ để hình dung người đàn bà hay thủ tiết, thường khi là hy
sinh tánh mạng để phản kháng sự cường bạo hoặc để tỏ lòng mình, như bà Nguyễn
Thị Kim trầm mình, bà mẹ ông Bố Cao cắt vú mới đáng gọi là trinh liệt. Vậy thì
đức Thánh Cung, theo cái địa vị của ngài và cái hoàn cảnh của ngài, làm thế nào
cho ngài có cái đức “trinh liệt” ấy được ư? Cái đức ngài không thể có mà nhà
văn trở đem gán cho ngài, điều ấy chẳng những là không thực mà người ta còn có
thể gọi là “hót nhảm” được nữa!
Ông Nguyễn Mộng Thạch hẳn là một nhà nho, ông đã nhiễm cái thói ca tụng đế
vương trong kinh điển. Kinh Thư ca tụng vua Nghiêu không còn sót một
cái đức tốt nào là không có: khâm, minh, văn, tứ, doãn, cung, khắc nhương, rồi
sau đến nải thánh, nải thần, nải võ, nải văn. Cũng bới những sự không
thành thực ấy tràn ngập trong tư triều văn học nước ta, thành thử từ xưa đến
nay các nhà văn đều mắc trong vòng giả dối mà không tự biết và cũng không tự
thoát ra được. Kỳ thực, vua Nghiêu dù là người tốt cũng không có thể gồm đủ cả
các tánh tốt của loài người như Kinh Thư nói; đức Thánh Cung dù có đức
tánh hơn người cũng không phải là mọi nết mọi hay và hay đến cả cái không thể
có được như ông Nguyễn Mộng Thạch tán dương đâu.
Thứ đến những chỗ kể công nghiệp của đức Thánh Cung, khiến kẻ đọc, ai có lương
tâm, đọc đến đều phải lấy làm hổ thẹn, vì theo người quân tử, điều không có mà
mạo nhận là có, chẳng gì đáng ngượng bằng.
Trong cả bài duy có câu này là dài hơi, dào ý, đối lại chỉnh nữa, có lẽ là câu
tác giả dụng lực hơn hết, mà cũng duy có câu này là câu không thành thực hơn hết:
“Đoan đích Tiên triều noi dấu, lúc ở Tôn lăng lúc về cẩm điện, mực thước rõ
ràng vẻ ngọc, cửa cung vi bền vững đến ngày nay;
Gian nan đại nghiệp dựng gầy, khi giao quý quốc khi ngự nội đình, phép khuôn đứng
đắn lời tơ, nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ.”
Vế trên cũng cho được, thôi chẳng nói làm chi; duy vế dưới là đáng trách, mà
đáng trách nhất là những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”.
Vả đức Thánh Cung được tuyển vào cung làm chánh phi triều Đồng Khánh, sau khi
vua Cảnh Tôn băng, đáng lẽ con ngài là đức Khải Định được nối ngôi, mà đức Khải
Định đã không được nối ngôi, thì đức Thánh Cung cũng phải về ở theo Tôn lăng. Đến
ngày vua Duy Tân bị phế, đức Khải Định lập lên, bấy giờ đức Thánh Cung mới được
lại vào ở trong Đại nội. Thế thì đừng nói việc lớn lao làm chi, cho đến việc được
ở trong Đại nội hay bị ra là việc nhỏ mọn mà đức Thánh Cung cũng không tự chủ
được, phải theo chồng theo con như một người đàn bà thường khác. Người đàn bà ấy,
lạ thay, sao tác giả lại phóng đại cho bằng những chữ “gian nan đại nghiệp dựng
gầy”?
Đại nghiệp tức là ngôi vua chớ gì? Đức Thánh Cung đã hề gầy dựng cái đại nghiệp
ấy lúc nào? Kể một đời ngài: khi chồng làm vua thì ở chốn cung vi, khi con
không được làm vua thì lui về nơi lăng tẩm, đến khi con được làm vua kế tới
cháu thì ngài lại vào ở chốn cung vi rồi qua đời tại đó, nhưng cái ngôi vua ấy
có phải chính tay ngài đã sáng tạo ra cho con cháu ngài đâu? Sự gầy dựng đã
không, tự nhiên cũng chẳng có gì là gian nan nữa hết.
Bốn chữ “khi giao quý quốc” cũng to quá. Quý quốc chẳng là nước Pháp.
Đức Thánh Cung có khi nào đứng ra giao hảo với nước Pháp đâu? Các quan Toàn quyền,
Khâm sứ đôi khi vào yết kiến ngài, những khi ấy ngoài sự giao tế cá nhân hẳn có
đại biểu cho cả một nước Pháp chăng nữa, là cũng không được nhân đó mà nói rằng
đức Thánh Cung giao với nước Pháp.
“Nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”, tác giả đã biết nói như vậy thì hẳn cũng
biết cái lối cũ ấy nó là thế nào chớ. Theo Lễ, “lời nói ở trong chẳng ra đến
ngoài”; theo Xuân Thu, “đàn bà không được giao với ngoại quốc”, vậy mà tác
giả bảo đức Thánh Cung giao với nước Pháp, chẳng là vứt đi đâu mất cái lối cũ ấy
còn gì?
Cái nghề hễ nói dóc quá rồi không tài nào giữ được, có khi chính mình lại mâu
thuẫn với mình. Ở đây tác giả là ông Nguyễn Mộng Thạch chính đã phạm vào sự
đáng kiêng kỵ ấy.
Tiếp một câu nữa cũng kể công nghiệp đức Thánh Cung mà cũng không đúng lấy một
chút nào:
“Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận,
đình thần ai nấy khâm tuân;
Đến lúc nay giá phản bản triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần,
thiên hạ thảy đều từ mộ.”
Đức Khải Định cùng đức Bảo Đại đều có ngự du ngoại quốc, nhưng đây chắc là nói
về đức Bảo Đại. Theo thực sự, khi đức Bảo Đại ở bên Tây bảy tám năm, đức Thánh
Cung ở nhà chẳng hề có khi nào “thay quyền nội trị” hết. Vì bản triều từ xưa có
điều răn: “Mẫu hậu không được lâm triều thính chánh”, điều răn ấy lợi cho người
ta thì bao giờ người ta cũng giữ. Huống chi gần nửa thế kỷ nay, quyền nội trị của
nước Đại Nam là xứ Trung Kỳ này dần dần nắm cả trong tay chánh phủ bảo hộ; lúc
Hoàng thượng ở bên Pháp, ở triều tuy có đặt thêm ông Thân thần nhiếp chánh, kỳ
thực ông ấy chẳng có quyền gì hết mà quyền về Toà Khâm. Rất đỗi người đàn ông
có danh phận đường đường đó mà còn chẳng thay quyền nội trị được thay, có đâu đến
người đàn bà bệnh hoạn, nằm chờ số mạng ở chốn thâm cung?
Đến như “đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đề từ mộ”, − sự ấy, muốn kiếm lấy một
vài điều để chứng thực, e cũng kiếm không ra.
Cái sự nhà vua làm cho dân cảm ơn và ái mộ, chỉ duy có khi nào đủ quyền làm những
việc như đại xá, giảm thuế, tha xâu là việc các vua ta hay làm từ triều Tự Đức
trở về trước. Chứ còn hiện nay, chính Hoàng thượng cũng không có quyền làm những
việc ấy; đến một bà mẫu hậu lại càng không có quyền làm, thì chẳng biết lấy gì
mà đức thấm ơn nhuần? Chúng tôi vẫn biết mỗi khi tấn tôn huy hiệu đức Thánh
Cung, đều có ban ân chiếu; những cái ân chiếu ấy muốn kể là đức là ơn cũng được.
Nhưng khắp mười hai tỉnh chỉ có một số rất ít người, hoặc cha mẹ già của các ấn
quan, hoặc người già, mụ goá được phong được thưởng, thì làm sao lại nói “thiên
hạ thảy đều từ mộ” được, cho dù chữ “thiên hạ” ấy là khép nhỏ lại nội một nước
Nam?
Người nào đã có cái kiến giải thành thực như chúng tôi vừa nói trên đó mà đọc đến
những câu: “Hạc đã về nơi hoa biểu, để dân đen con đỏ luống trông… Nhớ
nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú?” thì cũng phải thẹn
thầm, vì thấy mình cũng là dân đen con đỏ đây, cũng là người nước Nam đây mà chẳng
hề có cái cảm tưởng thiết tha như tác giả nói, trong khi nghe tin đức Khôn
Nguyên Thái hoàng Thái hậu thăng hà!
Thật, chúng tôi là người làm báo ở dưới chân liễn cốc mà cũng duy đến sau lúc
được tin buồn ấy mới nghe người ta kể đến cái nhân cách của đức Thánh Cung ra
sao. Người ta nói ngài có biết chữ Hán ít nhiều, thông hiểu việc bản triều lắm,
và mỗi khi có ban phán điều gì, lời lẽ rất là đứng đắn. Cái nhân cách ấy vẫn đủ
sanh lòng khâm kính của chúng tôi cũng như chúng tôi khâm kính một người khác
có cái nhân cách ấy…
Theo như lời những người đi coi đám từ trong Nội ra nói những lúc tế điện, lễ
thần, xướng cử ai, Hoàng thượng đều không hề khóc. Có kẻ bảo như thế là nguội lạnh
quá và trái lễ. Nhưng chúng tôi cho Hoàng thượng làm vậy là theo tánh tự nhiên
của loài người. Chúng tôi chắc Hoàng thượng có lòng thương bà nội cũng như mọi
người. Có điều đã già mà chết là sự thường, cái chết không có tức tối gì mà làm
cho phải khóc thì không khóc được. Con nhà nho gặp đại tang, mỗi lúc xướng cử
ai thì phải chiếu lệ ô hô hay hu hu ba tiếng, ấy là sự giả dối, chứ lễ gì? Nhắc
câu chuyện này vào cho biết chỗ chí thân mà còn không khóc được thay, huống chi
thần dân là người ngoài mà cho có được sự từ mộ ai bi như tác giả nói: “Muôn
dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn câm vỗ”?
Cả bài văn đều là không thành thực. Nó không đứng được. Làm văn như thế thà đừng
làm còn hơn.
Nhân đây tôi sẽ viết thêm nhiều bài nữa để cổ động cái chủ nghĩa thành thực
trong văn học.
25/8/2007Phan KhôiNguồn: Tràng an, Huế, s. 88 (31/12/1935); s. 89 (7/1/1936). Lại Nguyên Ân sưu tầm và giới thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét