Nhà văn Việt Nam:
Đổi mới và hội nhập
Đề tài tham gia chương trình nghiên cứu của William Joiner
Center - Đại học Massachusetts, Hoa Kỳ 2005 - 2007
Văn học Việt Nam có vị trí cao trong xã hội và trong lòng người
đọc ở vào thời gian chiến tranh. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), có lúc nó
đã đi đầu trong công cuộc đổi mới. Nhưng nó không tiếp tục bước đi liền mạch
cao cả đó và trong tình hình xã hội đang buộc phải chuyển mạnh với xu thế toàn
cầu hoá hiện nay, nó đang đứng trước thách thức lớn buộc phải đổi mới mạnh mẽ,
nếu không muốn tụt hậu.
Bài viết này của chúng tôi cố gắng có một cái nhìn khái quát, dù mới chỉ là sơ
bộ, những vấn đề của xã hội và của chính văn học trong hơn 30 năm qua liên quan
tới hai nhiệm vụ mà theo chúng tôi là hàng đầu của nhà văn hiện nay là:
1- Tự do cho sáng tác và dân chủ hoá hoạt động văn học; 2- Góp phần
vào hoà hợp, hoà giải dân tộc.
Tôi không đặt ra cho mình yêu cầu nghiên cứu này phải theo một thể loại nào nhất
định mà tự cho phép mình một chút "tuỳ tiện" - khi chính luận, khi hồi
ký, lúc tường thuật... - nếu thể loại đó hợp với nội dung mà tôi đề cập. Tôi
cũng không tự giao cho mình trách nhiệm quá sức là nếu nói đến ai thì "nói
cho trọn" và đề cập tới sự kiện nào thì trình bày cho đầy đủ mà chỉ hạn chế
liên quan trong phạm vi nhỏ bé của mình chạm tới. Có thể với ai đã quen với
logic, với sự chặt chẽ của một nghiên cứu, sẽ khó chịu với sự tản mạn, ít gắn kết
đó. Xin một sự thông cảm cho "nội công chân khí" hạn chế của người viết.
1. Thực trạng của đất nước
Hai nội dung quan trọng mà Việt Nam phải giải quyết sau chiến tranh là phát huy
nội lực dân tộc và dân chủ đất nước. Để giải quyết hai nội dung này, Việt Nam
đã phải vượt qua những thách thức to lớn tưởng chừng không thể vượt qua được.
Muốn phát huy được nội lực dân tộc, trước hết phải thực hiện được truyền thống
lớn nhất, đáng tự hào nhất của Việt Nam là sự đoàn kết, sự đùm bọc nhau của cộng
đồng dân tộc qua hàng ngàn năm để giữ lấy cương vực và văn hoá. Nhưng sau năm
1975, truyền thống này đứng trước ba thách thức lớn, nói cách khác là phải giải
quyết ba tồn tại lớn mới có thể nói tới sự thống nhất đất nước (trong thực tế
nhiều người cho rằng đất nước mới chỉ “nhất thống”):
Khoảng hơn 6 triệu người, trực tiếp hoặc gián tiếp, liên quan
tới quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn (binh lính, sĩ quan hoặc nhân viên chính quyền
và gia đình) với bộ phận hàng chục triệu người, đã trực tiếp hoặc gián tiếp,
tham gia kháng chiến chống Mỹ (một “quốc gia” trong một quốc gia).
Các tôn giáo với chính quyền và những người không theo tôn
giáo nào cũng như hàng loạt vấn đề đặt ra gay gắt về truyền thống, về dân tộc của
các sắc dân thiểu số.
Vấn đề miền Bắc và miền Nam (cơ chế, trình độ kinh tế, văn
hoá xã hội khác nhau).
Vấn đề “bản sắc”, “truyền thống” vấp ngay và buộc phải giải
quyết ngay những trở lực ghê gớm đó, yêu cầu sai số là nhỏ nhất, ngay từ sau
chiến tranh. Tiếc thay, những sai số là quá lớn.
Về đối ngoại, ngay sau năm 1975, “tinh hoa” mà Việt Nam cần học, cần có ngay
không chậm trễ (bên cạnh lĩnh vực kinh tế phải giải phóng ngay sức sản xuất, sự
năng động sáng tạo của các hình thức kinh tế vốn bị cấm kỵ hoặc đã xơ cứng trước
đây bởi đã đi ngược các quy luật tiên tiến quá lâu) là việc thiết lập nội dung dân
chủ trong các hoạt động của xã hội, trong đó có văn hoá, văn học nghệ thuật
(thực ra việc tiến hành cải cách kinh tế cơ bản cũng là việc thiết lập nội dung
dân chủ trong lĩnh vực này). Nhưng phải nói rằng, truyền thống dân chủ vốn
có rất ít hoặc không có trong truyền thống của Việt Nam và
Trung Hoa đô hộ. Nhưng đây lại là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm nên chỉ mới
“chạm” tới nó đã bị “nổ bùng” tức khắc, bị phản ứng quyết liệt, thậm chí bị chụp
mũ là tư tưởng”phản động”, là “tiếp tay cho kẻ thù”. Lý giải cho phản ứng này,
cần có một cái nhìn khách quan và lịch sử. Một trong những oái oăm của lịch sử
là các thể chế dân chủ tiến bộ mà chúng ta cần rút tỉa để học hỏi, nhiều khi lại
ở ngay các nước vốn là cựu thù như Pháp, Nhật, Mỹ… Quê hương của Cách mạng Tư sản,
của Thế kỷ Ánh sáng lại là kẻ đã chia nát Đông Dương và Việt Nam thành các mảnh
nhỏ để dễ bề cai trị, đã thực hiện một chính sách ngu dân toàn diện trên toàn
cõi Việt Nam và chính họ đã ra sức vun đắp, níu kéo chế độ phong kiến để phục vụ
cho chính sách thuộc địa của mình. Đất nước đã quyết học phương Tây ánh sáng để
Minh Trị lại là kẻ đã giết chết hơn hai triệu ngườì trong nạn đói khủng khiếp
năm Ất Dậu. Đất nước mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi sự văn minh dân chủ và
sự cao cả bằng chính việc lấy cái hồn của Hiến pháp thời 13 bang làm câu mở đầu Tuyên
ngôn Độc lập của mình, lại đem hàng triệu tấn bom ném xuống đê điều, bệnh
viện, trường học Việt Nam! Đó chính là bi kịch của các cường quốc văn minh và
bi kịch phải gánh chịu của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, trong cảnh bị đẩy
vào chân tường, người Việt Nam phản ứng bằng cả những hành động và quan niệm cực
đoan nhất. Vậy mới có câu “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn.” Mới có chuyện cổ xuý việc dùng nước tro thay xà phòng. Mới có chuyện
tẩy chay váy đầm. Và rồi hễ cứ động tới dân chủ, đến tự do, đến “nhân vật thân
phận”… thì thảy đều bị chụp cho cái mũ “vọng ngoại”, “tư tưởng phản động”…
Từ phía nội bộ đất nước, những mặc cảm tội lỗi lẫn thói kiêu binh chiến thắng,
những cay cú đẩy tới hận thù của kẻ thua trận lẫn một số chính sách sai lầm
không được lòng dân của người vừa chiến thắng, sự hụt hẫng trong đời sống các
đô thị miền Nam lẫn sự áp đặt những chính sách cứng nhắc xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo mô hình Liên Xô từ miền Bắc chưa đổi mới… đã gần như “hợp sức lại” đưa
cả đất nước chìm vào trong cảnh đói kém đau đớn ngay sau chiến thắng và đẩy cả
hàng triệu người phải vượt ra nước ngoài, tình hình mà Gabriel Kolko gọi
là “Thắng trong chiến tranh mà bại trong hoà bình” [1] . Và từ nước ngoài,
một số “ngườì Việt căm hận”, được sự tổ chức, chỉ huy và nuôi dưỡng của không
ít thế lực chống Việt Nam một cách thiển cận, liên tiếp “chuyển lửa về quê
hương” để mong đánh sập chế độ trong một thời hạn ngắn nhất, gây nên những căng
thẳng về an ninh triền miên cho Việt Nam vào lúc thế và lực mong manh nhất
trong suốt mấy chục năm trở lại (mọi nguồn viện trợ nuôi sống cả xã hội suốt cuộc
chiến tranh nay bị cắt cụt, nạn đói cận kề, lính Khơ-me Đỏ và tiếp đến là quân
Trung Quốc tràn qua biên giới…). Chính họ đã “tiếp sức” cho lực lượng bảo thủ vốn
còn rất mạnh trong nội bộ Việt Nam có “lý do chính đáng” để đưa ra những chính
sách cứng rắn, quyết liệt mà bình thường chắc không một chính phủ nào muốn thực
thi nhằm ưu tiên tối đa cho việc giữ vững nền chính trị, bất chấp chính sách ấy
nhiều lúc “đánh” vào chính những người vốn tâm huyết nhất trong nước và cả
trong cộng đồng người Việt ở ngoài nước (Có người vừa bị xem là “Việt cộng nằm
vùng” ở hải ngoại vừa bị nghi ngờ là ”nhân viên CIA” ở ngay tại quê hương!).
Khát vọng cất cánh, khát vọng trong vòng vài ba chục năm trở thành một con hổ,
một con rồng châu Á của cả một dân tộc, ngay cả trong những ngày tháng khó khăn
nhất, vẫn khôn nguôi trong lòng không ít lãnh đạo, trí thức và người dân. Họ hiểu
rằng, việc tất yếu không thể không bắt đầu từ phát huy nội lực của mỗi cá nhân
con người, là tinh thần duy tân, là tinh thần dân chủ trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, văn nghệ…, tinh thần mà Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc đã không tìm thấy đủ ở trong nước, không thấy ở
nghìn năm Trung Hoa đô hộ, mà phải lặn lội nghìn trùng qua học tận Pháp, Mỹ, Nhật…
Cơ chế tập trung dân chủ đã có lúc là liều thuốc bổ cho công nghiệp hoá tại
Liên Xô và Trung Quốc, giúp họ chiến thắng thù trong giặc ngoài trong một giai
đoạn nhất định. Khi còn là anh em đồng chí cùng ý thức hệ, cùng phe xã hội chủ
nghĩa với họ, Việt Nam cũng đã học, vận dụng cơ chế đó trong chiến tranh. Nay
thì sự tập trung cực kỳ đó (thường “quên” mất chữ Dân chủ) đã trở trái trói chặt
cả nền kinh tế và xã hội Việt Nam vào lúc nó cần “cởi trói” nhất. Tự do cá
nhân, tư hữu… là những khái niệm đồng nghĩa với tội lỗi. Khi cánh cửa Đổi mới vừa
mở ra (trong đó văn học và báo chí đóng góp hàng đầu) thì báo động “ruồi muỗi,
mùi hôi thối bay vào nhà quá nhiều!” vang lên! Đó là tiếng “ kêu cứu” phản kích
của những phần tử bảo thủ và yếu bóng vía vốn dị ứng với bất cứ sự thay đổi nào,
đã phóng đại lên, đã “quá mù ra mưa” những hiện tượng tiêu cực khó tránh về lối
sống chỉ biết mình, về chủ nghĩa thực dụng, về cuộc sống chỉ tôn trọng đồng tiền,
về các tệ nạn xã hội, và xu hướng không ít tác phẩm Văn học nghệ thuật từ cực
này chuyển qua cực kia, sự “thay đổi hốt hoảng” không phải là không có… Dĩ
nhiên, những mặt trái đó sẽ “đồng hành” với tự do nhiều hơn cho cá nhân, đồng
hành với làn sóng ào ạt nhập vào những kỹ thuật hiện đại, tiện nghi hiện đại,
những quan hệ hiện đại…, đồng hành với mức sống vượt cao lên có lúc đến không
ngờ ở một bộ phận không nhỏ dân cư. Đó là mặt trái của tấm huy chương,là “anh
em song sinh” giữa luật pháp và tội phạm mà Dürrenmatt đã viết hàng trăm năm
trước trong Một cái chết ngoạn mục.
Có một sự “tiếp sức” rất “nặng ký” cho sức ì và sự bảo thủ là “tấm gương tày liếp”
chính là sự xáo trộn và tan nát mau chóng của Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ
nghĩa, trong thoáng chốc, đối với Việt Nam, từ “có tất cả” đã thành “không có
chi cả”, tạo nên một nguy cơ đổ sập của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với tất cả
trở lực và “sự tiếp sức” đó, giải pháp “đóng sập cửa lại” cho an toàn đã được vội
vã ưu tiên. Đó cũng là thực tế khiến khi người đứng đầu Đảng kêu gọi văn nghệ
sĩ “tự cởi trói” lại vội vã “trói lại” ngay sau đó.
Nhưng cho dù với thực tế bảo thủ mạnh mẽ, với một sức ì lưu cữu hàng thế hệ, đứng
trước thực tế bi thảm của đất nước, những đôi mắt còn sáng suốt và thái độ tôn
trọng thực tế khách quan, một bộ phận không nhỏ trong hệ thống chính trị đã
dũng cảm nói lên một sự thật: Đất nước đang đứng bên bờ vực thẳm, không đổi mới
sẽ chết! Và một thực tế đã hiện ra: chỉ trong vòng hơn chục năm trở lại đây,
hình ảnh Việt Nam đã khiến thế giới ngạc nhiên: nền kinh tế nhiều thành phần đã
phát triển toàn diện, hội nhập nhanh chóng với thế giới phát triển, nơi diễn ra
nhiều hội nghị quốc tế lớn, gia nhập WTO, ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ,
đóng vai trò quan trọng trong khối ASEAN, xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế
giới… Để có được những kết quả bước đầu đó, quả thật xã hội Việt Nam đã trải
qua những cơn đau vật vã, giằng xé lớn.
2. Một giai đoạn oanh liệt của văn học Việt Nam
Những sự giằng xé, vật vã để đi lên đó của xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học,
dĩ nhiên. Giai đoạn 1975-1995 đã để lại một dấu ấn thật đặc biệt, nhiều bài học
rất có ý nghĩa có thể rút ra từ đây.
Tại Hội nghị Lý luận Phê bình văn nghệ ngày 22 tháng 7 năm 2004, lãnh đạo Ban
Tư tưởng-Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam đã buộc phải công nhận một thực tế
của văn học nghệ thuật Việt Nam: “Một số quan niệm cũ không còn phù hợp”,
“những gì đã cũ và lỗi thời phải cương quyết vượt qua”. “một số nhà phê
bình chỉ quen với những môtíp, mô hình cũ và dị ứng với những biểu hiện mới và
lạ. Độ bao quát quá hẹp, nhiều “ẩn số” văn nghệ đứng ngoài tầm với của giới phê
bình” [2]
Cũng cần nhìn lại vài ba chuyện “cũ và lỗi thời”, cũng chưa quá xa, để có một
cái nhìn đúng mức về cái được và chưa được của nền Văn học thời gian qua.
“Vụ” Đề dẫn…
Đây là báo cáo của Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam do Nguyên Ngọc dự thảo và đọc
tại Hội nghị đảng viên nhà văn toàn quốc cuối năm 1979, đánh giá tình hình văn
học thời gian đã qua và bàn phương hướng sắp tới. Báo cáo khiêm tốn chỉ ghi là
“Đề dẫn…” để các nhà văn đảng viên có cơ sở thảo luận, nhưng những nội dung mà
nó đề cập tới mang tính chất bùng nổ. Cần nhắc lại tình hình xã hội Việt Nam thời
gian này cực kỳ đen tối mà Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đã báo động là “bên bờ
vực thẳm”, “không đổi mới sẽ chết”: Khơ-me Đỏ quấy rối biên giới Tây-Nam, quân
Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc, nạn đói đe doạ toàn dân, lực lượng chống
Việt nam trong và ngoài nước tổ chức nhiều hoạt động phá hoại…Việt Nam lâm vào
thế “tứ phương thọ địch”. Trong hoàn cảnh như vậy, tung ra một bản báo cáo với
những nhận định “chưa từng có” là một hành động dũng cảm phi thường. “Đề dẫn”
nhận định gì?
“Trong văn học lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc, cả đất nước, nhưng
số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn khá
sơ lược, giản đơn… do vậy tính hiên thực của văn học bị hạn chế”; “Ít lâu nay
trong người đọc và trong chính cả người viết, có một số suy nghĩ hoặc một số dư
luận khá phổ biến cho rằng từ một số năm gần đây, năm năm, bảy năm hay khoảng
mười năm trở lại đây,văn học ta đã có sự dừng lại. Mỗi người diễn đạt sự suy
nghĩ, lo lắng đó một cách khác nhau: có người nói văn học đang thụt lùi, có người
lại gọi là “có tình trạng trì trệ”. Cũng có người cho rằng đang có khủng hoảng.
Cũng có người bảo: một số năm gần đây ta vẫn có nhiều sách nhưng không có tác
phẩm, vẫn có nhiều trận đánh nhưng là những trận tiêu hao không có trận đánh
tiêu diệt”; “Phải chăng lúc này có tình trạng không ít phổ biến là người viết cứ
viết mà không thực tin ở những điều mình viết ra.“Người là muối mà chính mình
không mặn thì lấy gì để mà muối người”. Văn học, nói theo một cách nào đấy, là
lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có văn học lớn” [3] .
Ở vào những ngày tháng đó, bật ra khỏi miệng, hơn nữa lại viết ra giấy trắng mực
đen, lại trong báo cáo tại một hội nghị quan trọng của Đảng, những câu chữ như
“thụt lùi”, “trì trệ”, “khủng hoảng”, “không có lòng tin”… thì thật là động trời!
Cũng phải nói rằng, những nội dung này lâu nay đã không còn là điều huý kỵ, thậm
chí bình thường, trong sinh hoạt văn học và chính trị nhưng vào thời điểm ấy
thì đó là những quả bom!
Lúc đó, những người như Nguyên Ngọc cũng đã lường trước sự tất yếu phải trả
giá, và chính anh đã phải trả giá, bắt đầu bằng mất chức vụ chủ chốt trong Hội
Nhà văn. Nhưng không vì “nguy cơ” đó mà đánh mất phẩm chất, là không dám nói
lên sự thực, như những người cộng sản chân chính cũng có không ít trong Đảng
lúc này. Trong một dịp nói chuyện thân tình gần đây với tôi, khi nhắc lại “vụ”
Đề dẫn, anh Nguyên Ngọc bày tỏ sự ngưỡng mộ khí phách trung thực của ông Kim Ngọc,
Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc trước Đổi mới. Ông có câu nói nổi tiếng về mô hình hợp
tác xã lúc đó: “Làm chủ nghĩa xã hội trại lính thế này rồi đến cháo cũng
không có mà húp!”
Dĩ nhiên ngoài lòng dũng cảm,những con người như Kim Ngọc, Nguyên Ngọc phải có
tầm nhìn xa. Họ đã dám và là người đi trước.
“Mình nói ‘tập thể và cá nhân phải hài hoà’ mà ông Tố Hữu đã điên, nói là phủ
nhận tư tưởng ‘Làm chủ tập thể’ - Nguyên Ngọc khẽ cười – “Nhưng ba năm sau
ông ấy nói ‘kết hợp ba lợi ích’ (lợi ích của nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích
cá nhân).”
Với những quan điểm bùng nổ như thế, với sự cổ xuý hãy đi sâu vào số phận của
cá nhân con người chứ không thể bằng lòng với những nhân vật tập thể vô danh yếu
đuối, với sự phê phán việc đề cao quá đáng truyện người thực việc thực…, tiếp đến
là việc quyết định trao giải thưởng của Hội Nhà văn cho các tiểu thuyết Mảnh
đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương
Hướng) và nhất là Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… và, cũng vào giai
đoạn này, từ báo Văn nghệ (lúc này Nguyên Ngọc về làm Tổng biên tập)
và sau đó là tạp chí Sông Hương, những truyện ngắn sắc sảo, đáo để của
Nguyễn Huy Thiệp liên tiếp xuất hiện… Cộng tất cả lại, đã gây nên những cơn
“bão giật”, “gió xoáy” trong đông đảo người đọc, trong nhiều giai tầng xã hội.
Ý kiến khen và chê, mừng rỡ lẫn phê phán, đều được đẩy tới cao trào. Có thể cho
đến bây giờ vẫn còn có người không đồng tình với các quan điểm của “Đề dẫn” và
các tác phẩm của các tác giả trên đây, nhưng đã có một độ lùi đủ cho cả những độc
giả khó tính nhất nhận ra rằng, “Đề dẫn” cũng như những tác giả bị đem ra “mổ xẻ”
lúc đó, cháy bỏng ngọn lửa khát vọng Chân - Thiện - Mỹ, họ đòi quyền được cống
hiến bằng tự do sáng tạo và cả quyền được sai lầm. Không những đó là quyền, là
khát vọng, mà còn là quy luật không thể cưỡng lại của sự phát triển của mọi nền
văn học. Đó là cống hiến to lớn của “Đề dẫn” và những người ủng hộ những quan
điểm tân tiến của nó lúc đó cho nền văn học Việt Nam.
“Vụ” báo Văn nghệ
Phải nói ngay rằng, từ khi Nguyên Ngọc mất chức Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt
Nam về làm Tổng biên tập thì báo Văn nghệ (trước đó do Đào Vũ làm quyền
Tổng biên tập) từ chỗ “nợ nần tùm lum, lượng phát hành xuống dần đều đến mức
không thể xuống hơn được nữa, chỉ còn vài ngàn số,không có tiền trả nợ nhà in
và cuối cùng phải tự đóng cửa đến bốn số báo”, Nguyên Ngọc cho biết như thế, đã
mau chóng trở thành tờ báo được độc giả chờ đón nhất trong nước, lượng phát
hành vọt lên cao kỷ lục (120.000 bản). Dĩ nhiên nợ nần chóng vánh lùi vào dĩ
vãng, đời sống của anh chị em trong toà soạn theo đà ấy mà cùng… được nhờ (Đi
phát hành thêm)! Không phải Nguyên Ngọc và những người ủng hộ anh ở báo Văn
nghệ lúc đó chạy theo những chuyện giật gân câu khách mà tạo nên được một
khuôn mặt Văn nghệ hoàn toàn mới. Mà chính là họ đã tiếp tục, trên mặt
báo, những khát vọng tư tuởng sáng tạo của mình đã hơn một lần bày tỏ trong “Đề
dẫn”. Hàng loạt tác phẩm “kinh thiên động địa” (nếu xuất hiện bây giờ chắc là
bình thường hơn nhưng ở thời điểm ấy thì không thể dùng cụm từ nào khác) đến với
độc giả từ Văn Nghệ: “Tướng về hưu” (Nguyễn Huy Thiệp), “Cái đêm hôm ấy
đêm gì” (Phùng Gia Lộc), “Vua lốp” (Trần Huy Quang)… Một phần thực tế tang
thương của đất nước mà chính Đảng chứ không phải ai khác cũng đã báo động là “đất
nước đứng bên bờ vực thẳm” đã được các nhà văn tài ba và tâm huyết vạch ra một
cách sống động hơn, đau đớn hơn và có sức thuyết phục hơn: đất nước mà hàng triệu
người con đã đổ xương máu để giành lấy độc lập và thống nhất, đất nước ấy đang
đầy rẫy bất công và áp bức, con người có khi sống như một thằng tù, sống không
bằng một con chó! Người đọc ngỡ ngàng, uất hận và tự vấn, tự kiểm nghiệm thực tế
quanh mình… để rồi họ chỉ có thể nhận ra một điều là, không đổi mới, đất nước sẽ
chết!
Góp phần thức tỉnh và thúc giục hành động cương quyết ủng hộ Đổi mới (đối với
toàn xã hội và riêng với văn học) là đóng góp vô cùng ý nghĩa của báo Văn
nghệ giai đoạn này.
Tôi ủng hộ và khâm phục những người dám đổi mới, dám đi trước như Nguyên Ngọc
(dĩ nhiên không chỉ có một mình anh). Điều tâm huyết đó tôi đã thể hiện trong
thời gian làm Tổng biên tập tạp chí Sông Hương.
“Vụ” Sông Hương
Sông Hương là tạp chí văn học nghệ thuật và văn hoá của Hội Văn học Nghệ
thuật (VHNT) tỉnh Bình Trị Thiên. Sau khi tách thành ba tỉnh thì nó là tạp chí
của Hội VHNT tỉnh Thừa Thiên -Huế. Từ khi ra đời 1983 đến 1985, nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm làm Tổng biên tập. Sau đó, cho đến 1990, tôi thay anh Điềm (Nguyễn Khắc
Phê làm Phó Tổng biên tập, Thái Ngọc San làm Thư ký toà soạn). Sông Hương chỉ
là một tạp chí của văn nghệ sĩ một tỉnh nhưng không một ai trong Ban biên tập lại
quan niệm rằng những vấn đề mà nó quan tâm chỉ được khoanh vùng trong một diện
tích nhỏ bé với số dân trên dưới một triệu người. Lúc tôi làm thì “vụ”
báo Văn nghệ đã căn bản “giải quyết” xong, anh Nguyên Ngọc thôi làm Tổng
biên tập, về Hội Nhà văn làm Trưởng ban sáng tác và tại đây, anh lại “chủ trì
gây sự” khi cương quyết trao giải thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh). Một phần cũng vì Nguyên Ngọc không còn làm, xu hướng của báo Văn
nghệ đã khác, nên không ít tác giả vừa gắn bó với Văn nghệ đã
chuyển qua gửi bài cho chúng tôi. Tại lễ kỷ niệm năm năm ra số đầu tiên
(6/1988), với sự có mặt của cả khách nước ngoài mà chúng tôi đã “cả gan” tự
mình trực tiếp mời là nhà báo nữ Irina Zisman của Đài phát thanh Moskva,
Anatoli, Tổng biên tập tạp chí Nhô-man, tạp chí của Hội Nhà văn Belarussia
kết nghĩa với Sông Hương và các ông Võ Quang Yến, Lê Huy Cận, Chủ tịch
và Tổng thư ký của Hội người yêu Huế tại Pháp, cơ quan giúp phát hành Sông
Hương tại Pháp và Tây Âu, chúng tôi đã khẳng định, Sông Hương đã
và sẽ làm tốt và tốt hơn nữa phương châm “Cái cũ phải sâu, cái mới phải mạnh mẽ
và nhìn ra thế giới”.
Nhiều bài nghiên cứu và tác phẩm văn nghệ đăng tải trên Sông Hương đã
được độc giả đón nhận nhiệt liệt và, dĩ nhiên, cả sự chú ý đặc biệt của các nhà
chức trách. Đó là các bài về tôn giáo của Nguyễn Khắc Viện; về kinh tế thời nhà
Nguyễn của Trần Quốc Vượng; sự xuất hiện lại lần đầu tiên cái tên Phùng Quán
sau một thời gian dài “năn nỉ” tác giả, sự có mặt của Văn Cao, Nguyễn Tuân, các
bài phỏng vấn Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Đình Thi; cuộc gặp mặt với Nguyên Ngọc
lúc việc xử “vụ” báo Văn nghệ đang diễn ra; nhạc phẩm “Huyền thoại mẹ”
(Trịnh Công Sơn); các bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi” (Trần Vàng Sao), “Nhìn từ
xa… tổ quốc” (Nguyễn Duy), các bài bút ký “Luận chứng những tâm hồn đa cảm”,
“Tiếng gõ cửa cuộc đời” (Nguyễn Quang Hà)… phản ánh tâm trạng đau đớn, xót xa,
và phẫn uất của những con người đã từng cống hiến tuổi trẻ, máu xương của mình
cho đất nước, nay phải chứng kiến một cuộc sống cơ cực, không công bằng và mất
dân chủ đang diễn ra khắp nơi. Tiếp đến các truyện ngắn và cả vở kịch đầu tiên
xuất hiện tại Việt Nam của Nguyễn Huy Thiệp (“Cún”, “Quỷ ở với người”, “Nguyễn
Thái Học”) truyện ngắn “Người đoán mộng giỏi nhất trần gian” với phong cách lạ
của cây bút nữ độc đáo Phạm Thị Hoài. Đặc biệt, muốn góp phần thúc đẩy căn bản
sự phát triển của văn học nước nhà, nhân trước Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam,
chúng tôi tổ chức cuộc trao đổi, tranh luận về mối quan hệ giữa chính trị và
văn nghệ, vấn đề mà chúng tôi cho rằng có tính quyết định nhất đối với việc đổi
mới hay không đổi mới văn học Việt Nam hiện tại. Sông Hương đã cho
đăng loạt bài có tính chất khởi phát và mạnh mẽ chủ kiến Đổi mới như “Về một
phương diện của quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Lại Nguyên Ân), “Viết như
một phép ứng xử” (Phạm Thị Hoài), “Đoàn kết thực sự, dân chủ thực sự, đổi mới
thực sự” (Nguyễn Đăng Mạnh), “Chính trị và văn nghệ, đổi mới hay không đổi
mới” (Lữ Phương), “Cái hèn của người cầm bút” (Phạm Xuân Nguyên), “Biện chứng
và nguỵ biện trong tư duy đổi mới” (Hà Sĩ Phu), “Góp phần tổng quát vấn đề
chính trị và văn nghệ” (Trần Độ)…, trong đó, quan điểm của Lại Nguyên Ân đã góp
phần bùng nổ thêm sự phản ứng quyết liệt đã có sẵn đối với Sông Hương khi
anh viết:
“Văn nghệ chính thống, quan phương (official), văn nghệ được bao cấp bởi bộ máy
quan liêu, diễn đạt trực tiếp tiếng nói, quan điểm, ý chí, xu hướng của người cầm
quyền.Văn nghệ hợp pháp là văn nghệ không bị nhà nước nghiêm cấm, ngoài ra, nó
có thể không hoàn toàn phục tùng, phục vụ cho lợi ích của Nhà nước ấy, thậm chí
nó lại tạo ra cơ sở ý thức mới nhằm đưa tới việc cải cách hoặc Cách mạng, thay
đổi chế độ hiện hành” [4] .
Ngay sau đó, trên trang nhất tạp chí Cộng sản, tạp chí lý luận chính thức
của Đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài “Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không
phải là quan hệ giữa hai “bá quyền” của Lê Xuân Vũ, Vụ trưởng Vụ Văn hoá-Văn
nghệ của tạp chí và Trần Phú Lộc có bài “Đôi lời nhân đọc Sông Hương số
36” trên Văn nghệ đập lại Lữ Phương và Lại Nguyên Ân là “không
hiểu gì chủ nghĩa Marx” và “Đó là thâm ý muốn tách văn nghệ ra khỏi sự
lãnh đạo của Đảng”, những quy chụp mà Nguyễn Đăng Mạnh phê phán gay gắt là“Đẩy
đối phương vào chỗ chết” [5] . Sông Hương cũng
buộc phải lên tiếng tự bảo vệ mình trước sự quy chụp nặng nề công bố trên các
phương tiện truyền thông lúc này:
“Đó là cuộc tranh luận tránh vấn đề cốt lõi mà chúng tôi đề cập, đó là cách cắt
một câu thơ ra khỏi một bài thơ để bình luận, đó là cách chỉ chọn một câu, thậm
chí ½ câu, trong một bài và bài đó trong cả mảng bài thống nhất, lôi nó ra để
chẻ nhỏ rồi lại thổi phồng nó lên theo sự suy diễn của mình và ném vào vấn đề
đã được thổi phồng ấy những lời đe doạ, chụp những cái mũ thật đáng kinh sợ, cố
tình không hiểu những vấn đề lớn và rõ ràng mà chúng tôi đề xuất, tưởng chừng cứ
cái đà ấy thì cả một toà báo, và những người ủng hộ, đều là bọn phản động đội lốt,
và chỉ có người viết mới là người quý trọng, trung thành với Đảng và mến yêu đất
nước này” [6]
Cuộc tranh luận, cho dù chưa đi đến cùng của vấn đề đặt ra vì tạp chí liên tục
bị “tạm” ngưng xuất bản để “kiểm điểm” và sau đó Tổng biên tập bị cách chức,
nhưng những nội dung mà Sông Hương đã đưa đến bạn đọc đã gióng lên tiếng
chuông báo động về những nhận thức, quan điểm cũ kỹ đang là lực cản to lớn của
hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật Việt Nam, cần phải vượt qua mới có thể có
được những tác phẩm xứng đáng với đất nước và nhân dân.
Bên cạnh tờ tạp chí chính thức,chúng tôi chủ trương xin “giấy phép tạm thời”
bên Sở Văn hoá Thông tin tỉnh để cho ra đời Tủ sách Sông Hương (vì dễ… qua hơn
xin giấy phép chính thức của trung ương). Với Tủ sách này, chúng tôi đã cho ra
mắt nhiều cuốn sách văn học có giá trị, nhưng cái giá phải trả không “rẻ” hơn
tý nào so với “cái giá” phải trả của tờ tạp chí. Tôi muốn nhắc tới chuyện ra đời
của ba cuốn sách Bài thơ thôn Vỹ, Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư
luận, Tình yêu thời thổ tả.
Bài thơ thôn Vỹ là tuyển chọn những bài thơ hay viết về Huế trước1945, chủ
yếu là tác phẩm của các nhà thơ tiền chiến. Cho dù phải lấy cớ “những bài thơ
hay về Huế” để dễ lọt khi xin gíấy phép và vì vậy, Bài thơ thôn Vỹ đã
tự hạn chế do bị “khoanh vùng”, nhưng đây là tuyển chọn thơ tiền chiến đầu
tiên trên phạm vi miền Bắc từ sau 1945 và trên cả nước sau 1975, với nhiều
tác giả như Anh Thơ, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Phan Bội Châu, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố
Hữu, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Trần Tuấn Khải, Henri Guitier, Mai
Đình, Manh Manh, Nam Trân, Nguyễn Nhược Pháp, Mộng Tuyết, Phạm Hầu, Quách Tấn,
Thái Can, Ưng Bình… Cũng để tránh bớt tai vạ, chúng tôi vận động anh Chế Lan
Viên viết bài tựa cho tập sách. Anh Chế là người từng có những ý kiến phê phán
thơ tiền chiến trước đó, lại là người rất được lãnh đạo tin cậy, là lý do rất
quan trọng để cơ quan cấp phép dễ thuận lòng. Vả lại, đây là “Những bài thơ hay
viết về Huế trước 1945”, trong đó có cả bài của Tố Hữu, Thanh Tịnh, Chế Lan
Viên, làm sao anh “nghi ngờ” được? Nhưng hoá ra, anh Chế biết “mẹo” của chúng
tôi, khi ngay trong bài tựa, anh đã nói toẹt ra cái mẹo này của Sông Hương.
Nhưng anh vẫn viết vì thương anh em Huế. Và anh cũng còn phải chứng minh anh vẫn
còn là anh nữa chứ! Chúng tôi tin chắc rằng cuốn sách sẽ được độc giả chào đón
nhiệt liệt nên in tới 40.000 bản và trong một thời gian rất ngắn đã không còn một
cuốn nào tại toà soạn!
Đối với Nguyễn Huy Thiệp thì cũng phức tạp không kém. Lúc này trên các báo liên
tiếp đăng tải các bài phê phán gay gắt các truyện ngắn của anh. Tại Huế, chúng
tôi lại cho in trên Sông Hương cả “Cún”, “Quỷ ở với người”, “Nguyễn
Thái Học” khiến các người có trách nhiệm “nổi xung” hơn. Ở đây, tôi phải nói
thêm một chút về Nguyễn Khoa Điềm trong trường hợp Nguyễn Huy Thiệp. Lúc này,
Điềm đang là Trưởng ban Tuyên huấn tỉnh. Trong suốt quá trình “xử trí” vụ Sông
Hương, thái độ của Nguyễn Khoa Điềm không tương xứng với trình độ và sự hiểu biết
của anh (việc này chúng tôi sẽ nói ở phần sau). Khi những truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp mới xuất hiện, giữa lúc nhiều ý kiến phê phán tung lên các mặt báo,
Điềm không bày tỏ quan điểm, nhưng trong một dịp trao đổi riêng với tôi, Điềm
cho rằng: “Truyện của Thiệp ở trên một mặt bằng khác hẳn với truyện ngắn Việt
Nam hiện nay”. Tôi nhất trí với nhận định này. Tuy có một nhận định xác đáng
như vậy nhưng nếu chúng tôi xin giấy phép in ở Bình Trị Thiên thì chắc rằng Điềm
sẽ không đồng ý. Vì vậy, chúng tôi đã cùng bàn với anh Trương Văn Khuê, Giám đốc
Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Nguyễn Huy Thiệp –
Tác phẩm và dư luận (tôi chịu trách nhiệm về nội dung, anh Khuê chịu trách
nhiệm về giấy phép, tiền bạc và in ấn. Việc phát hành hai bên cùng chịu). Chúng
tôi tập họp những tác phẩm tiêu biểu nhất của Thiệp, kể cả kịch. Và để tránh bớt
tai vạ, chúng tôi đã dùng cả bài khen lẫn bài chê trong phần “Dư luận” (dĩ
nhiên phần khen trội hơn). Cũng lại đúng như dự đoán của chúng tôi, chỉ trong
vòng một tuần, tập sách in 8.000 bản đã hết vèo! Gần đây, tôi có đọc một bài viết
của một tác giả có uy tín nói ông từng cầm bản thảo đi vận động để xuất bản tập
truyện đầu tiên của Thiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi khẳng định rằng, trước
lúc tập Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận ra mắt bạn đọc, trên
thị trường sách của Việt Nam, chưa từng có tập truyện ngắn nào của Thiệp. (Cuốn
này được NXB Hông Lĩnh tái bản ở Cali năm 1991).
Còn chuyện cuốn Tình yêu thời thổ tả của G.Marquez thì đúng là bi kịch.
Khi biết Nguyễn Trung Đức vừa dịch xong cuốn Tình yêu thời thổ tả của
Gabriel García Marquez, chúng tôi liên hệ ngay để xin được in. Nếu gửi nhà xuất
bản khác thì chắc chắn anh sẽ có số nhuận bút dịch giả cao hơn nhiều (vì trước
đó anh đã dịch và cho xuất bản cuốn Trăm năm cô đơn rất thành công).
Nhuận bút dịch của tạp chí Sông Hương còn mang tính chất ủng hộ định
hướng nội dung hoạt động của Sông Hương, nhiều tác giả nổi tiếng gửi bài
cho Sông Hương lúc này đều bày tỏ thái độ đó. Nguyễn Trung Đức gửi
ngay cho chúng tôi bản dịch mà anh ưu ái. Chúng tôi “lặng lẽ” lấy giấy phép của
Sở Văn hoá Thông tin rồi lại vào Thành phố Hồ Chí Minh tìm đối tác để phối hợp
xuất bản vì để in cuốn này cần một số vốn lớn mà chúng tôi thì còn nghèo. Mặt
khác, lúc này, trên báo chí Hà Nội và ngay tại Bình Trị Thiên đã xuất hiện một
số bài phê phán xu hướng cũng như một số sáng tác và lý luận phê bình được đăng
tải trên Sông Hương, còn tại Thành phố Hồ Chí Minh thì không khí
báo chí cởi mở hơn, thậm chí có những tờ báo công khai có bài bảo vệ Sông
Hương như Sài Gòn Giải phóng, Tuổi trẻ, Thanh niên…
Sông Hương có văn phòng đại diện tại 44 Lý Tự Trọng, Quận 1 (nhà anh chị
Nguyễn Thanh Phương cho mượn), đối diện với cơ quan thường trú báo Quân đội
Nhân dân tại phía Nam. Vì ở gần nhau, chúng tôi quen anh Phạm Quốc Toàn,
phóng viên thường trú của báo này và sau đó anh vừa được điều về thay anh Trần
Quang Huy làm Tổng biên tập báo Vũng Tàu - Côn Đảo. Chúng tôi đề nghị Sông
Hương cùng báo Vũng Tàu - Côn Đảo phối hợp xuất bản cuốn Tình
yêu thời thổ tả. Vốn là người ủng hộ sự đổi mới của Sông Hương và
cũng mong đóng góp nhiều hơn cho xã hội, anh đồng ý ngay với đề nghị của
tôi. Vũng Tàu – Côn Đảo lo toàn bộ giấy má, tiền bạc, Sông Hương lo
nội dung, giấy phép. Sách được in tại Xí nghiệp in số 4. Hai bên cùng nhau phát
hành khi in xong, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chia. Nhưng, thật tội cho anh Toàn và
báo Vũng Tàu - Côn Đảo, mới “dính” tới Sông Hương thì đã mang vạ!
Tôi tin chắc là, nếu một cơ quan khác in Tình yêu thời thổ tả vào thời
điểm đó thì “cơ quan chức năng” không thể bỗng dưng bịa ra cái lý do rất vớ vẩn
là “có những đoạn có nội dung kích dục không thích hợp với thuần phong mỹ tục của
Việt Nam” để đình chỉ việc in ấn một khi cuốn sách đã in xong phần ruột và bắt
đầu in bìa. Toàn bộ nội dung vừa in xong bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh niêm
phong. Đó là họ nói với chúng tôi, và họ cũng chỉ làm theo lệnh của Bộ Văn hoá
Thông tin, chứ cũng chẳng có văn bản nào viết công khai nội dung quyết định đó!
Lúc ấy những bài báo phê phán các bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi” (Trần Vàng
Sao), “Nhìn từ xa… tổ quốc” (Nguyễn Duy), “Luận chứng những tâm hồn đa cảm”
(Nguyễn Quang Hà), kịch và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, các bài phê bình về loại
văn học “phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân… đăng trên Sông
Hương đang vào đoạn cao trào. Lời lẽ phê phán cũng không có mấy mới mẻ, vẫn
là những câu chữ, những cái mũ cũ kỹ chụp lên đầu người bị phê phán: bôi đen cuộc
sống tốt đẹp, làn gió độc thổi ngược vào xu thế cách mạng của đất nước… Những
việc đó có lẽ là lý do chính dẫn đến việc đình chỉ việc in Tình yêu thời
thổ tả, bởi một nhà văn được giải Nobel như Marquez, người vốn rất ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, là bạn thân của Fidel Castro - vị chủ tịch
Cuba được nhiều người dân Việt Nam cực kỳ quý mến, lại cũng đang bị Mỹ “kỳ thị”
không cấp visa vào Mỹ… có lẽ không phải là tác giả “có vấn đề”, cần phải cấm xuất
bản. Vì thế, dù bất ngờ khi có lệnh đình chỉ in, tôi vẫn tin rằng họ hù doạ Sông
Hương để muốn Sông Hương thay đổi “thái độ quá khích” trong các
nội dung đăng tải thôi, thế nào cuốn sách rồi cũng được giải toả. Nhưng tôi đã
nhầm! Làn sóng phê phán Sông Hương đã được đẩy lên quá cao đến mức
quá đà rồi! Tại Bình Trị Thiên, bên cạnh việc tổ chức cho một số “cây bút” có
tiếng trong xã hội và Đại học Huế viết bài phê phán, người ta còn tổ chức (hay
bịa ra?) để có cả “Kiến nghị của 123 chị em tiểu thương chợ Đông Ba” lên án Sông
Hương chống lại đường lối văn nghệ của Đảng, là phản động! Cùng lúc, Tình
yêu thời thổ tả được lặng lẽ đem đi… xay bột!
Chúng tôi kể lại những “chuyện ngày xưa” của Sông Hương không phải để
đay nghiến ai, để thanh minh hay “đánh bóng” Sông Hương, vì không ít người
lúc đó hăng hái “đánh” Sông Hương bây giờ nhớ lại chợt “sao mình lúc
đó ngớ ngẩn thế nhỉ?” Hoặc ngay chính Nguyễn Khoa Điềm, đã là một trong những
người tham gia “xử” vụ Sông Hương, trong dịp Sông Hương kỷ niệm
20 năm ra số đầu tiên, lúc đó còn đang là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá, đã không nhắc lại “sai lầm” của Sông
Hương ngày ấy mà viết trong thư gửi về Huế “20 năm qua biết bao niềm vui
và nỗi buồn cao cả”! [7] .
Nhớ lại chuyện “ngày xưa” là để nhắc tới những bệnh tật cũ phải đề phòng, đừng
để nó tái phát. Mà bệnh tật cũ đâu đã hết trong cơ thể văn học Việt Nam, vì có
bệnh đã thành mãn tính từ lâu mất rồi, lúc trái gió trở trời vẫn còn hành hạ khổ
sở cơ thể văn học. Mà cũng đâu cần đợi đến lúc trái gió trở trời, như cái bệnh
chụp mũ chính trị lên đầu không ít nhà văn nhà báo, vừa qua vẫn dăm ba tháng lại
nổ bùng điếc tai một vụ. Hồi chúng tôi dự tính mở cuộc tranh luận về mối quan hệ
giữa văn nghệ và chính trị, chúng tôi biết rằng Sông Hương sẽ chạm
vào lãnh vực “nguy hiểm” nhất, nhưng đó chính là nội dung cần đổi mới nhất, cần
đổi mới trước hết, có như vậy, văn nghệ mới có thể có khoảng không gian trong
lành dành cho tự do sáng tạo nghệ thuật. Những quan niệm chính trị là thống
soái, văn nghệ phải phục vụ chính trị… hiểu một cách xơ cứng, thô thiển đã tạo
ra vô vàn tác giả và tác phẩm “dạ thưa” ,“vâng lời”. Cho mãi đến bây giờ, khi
mà cả xã hội đã sống trong nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều lãnh vực đã
thay đổi tốt đẹp theo hướng này thì văn học vẫn còn bị trì kéo sống trong không
khí “một thành phần” cũ xưa. Quan niệm “Các nhà chính trị được tự do sáng
tác ra hiện thực còn các nhà văn phải tái tạo lại cái hiện thực mà các nhà
chính trị sáng tác ra” [8] vẫn còn mới rợi đấy
thôi. Hy vọng rằng, dĩ nhiên vẫn cứ phải hy vọng, không có nội dung cũ kỹ và lỗi
thời nào quan trọng hơn cần phải vượt qua chính là các quan niệm xơ cứng, thô
thiển mà chúng tôi đã phê phán trong cuộc tranh luận hơn hai mươi năm trước,nếu
muốn đổi mới thực sự nền văn học của chúng ta.
Mặt khác, sau “vụ” báo Văn nghệ, việc giải quyết “vụ” Sông Hương thường
làm rất kín (chủ yếu thông qua hệ thống Đảng và chỉ đạo… không văn bản của Bộ
Văn hoá Thông tin), cố không gây ồn ào nên nhiều người không biết, hoặc không
thật rõ, vì vậy, lúc chúng tôi “lâm nạn”, thâm chí đã có người trùm chăn hoặc
chứng minh minh vô can, nhưng vừa qua lại có bài xa gần tự phong cho mình có
công trong “vụ” Sông Hương!
Tôi cho rằng,hành động “xay bột” Tình yêu thời thổ tả và bịa ra kiến
nghị của 123 chị em chợ Đông Ba là hai sự kiện thê thảm và khôi hài nhất của
văn học và báo chí Việt Nam, từ năm 1975 đến nay. Còn việc tôi bị cách chức là
việc chẳng có gì lạ.
© 2007 talawas
[1]Gabriel Kolko, Anatomy of a War: Vietnam and Modern Historical
Experience, New York, The New Press,1985
[2]Nguyễn Khoa Điềm, “Về
tình hình phê bình văn học nghệ thuật những năm gần đây”, Văn nghệ số
37, ngày 11/9/2004
[3]Nguyên Ngọc, “Đề dẫn…”,
bản gốc
[4]Lại Nguyên Ân,“Về một
phương diện của quan hệ giữa văn nghệ và chính trị”, Sông Hương số 36
[5]Nguyễn Đăng Mạnh, “Đoàn
kết thực sự,dân chủ thực sự, đổi mới thực sự”, Sông Hương số 37
[6]“Tình hình trước Đại hội
nhà văn càng khiến chúng tôi lo ngại”, Sông Hương số 38
[7]Nguyễn Khoa Điềm,
nguyên Tổng biên tập đầu tiên của Sông Hương, Thư gởi chúc mừng nhân kỷ niệm
20 năm xuất bản tạp chí Sông Hương số tháng 6/2003
[8]Đỗ Minh Tuấn, “Vì sao
văn học ta chưa ‘ngang tầm thời đại’”, talawas ngày 05/5/2005
[2]Nguyễn Khoa Điềm, “Về
tình hình phê bình văn học nghệ thuật những năm gần đây”, Văn nghệ số
37, ngày 11/9/2004
[3]Nguyên Ngọc, “Đề dẫn…”,
bản gốc
[4]Lại Nguyên Ân,“Về một
phương diện của quan hệ giữa văn nghệ và chính trị”, Sông Hương số 36
[5]Nguyễn Đăng Mạnh, “Đoàn
kết thực sự,dân chủ thực sự, đổi mới thực sự”, Sông Hương số 37
[6]“Tình hình trước Đại hội
nhà văn càng khiến chúng tôi lo ngại”, Sông Hương số 38
[7]Nguyễn Khoa Điềm,
nguyên Tổng biên tập đầu tiên của Sông Hương, Thư gởi chúc mừng nhân kỷ niệm
20 năm xuất bản tạp chí Sông Hương số tháng 6/2003
[8]Đỗ Minh Tuấn, “Vì sao
văn học ta chưa ‘ngang tầm thời đại’”, talawas ngày 05/5/2005
3. Văn học trước thách thức tụt hậu
Trừ hai dạng người, một ở trong nước mà trình độ thuộc loại “bảo thủ một cách
chân thành”, hoặc ước mơ cao nhất cũng chỉ là “cơm no áo ấm”, thường chỉ so
sánh với những gì quanh mình mới “ngày hôm qua đây” thì thấy sự thay đổi của đất
nước luôn luôn là tuyệt vời, và một ở ngoài nước, như đạo diễn Trần Văn Thuỷ bạn
tôi đã viết, đối với họ “tình hình trong nước càng xấu càng tốt” [1] , vâng, trừ hai dạng người thiếu khả năng khách quan đó,
thì ai có một cái nhìn bình tâm đều thấy Việt Nam đã không còn là Việt Nam của
mươi năm trước. Báo điện tử Cali Today thuật lời đại sứ Mỹ tại Việt
Nam Michael Marine: “… ông tin rằng Việt Nam ngày nay không phải là Việt
Nam 30 năm trước hay 15 năm trước. Ngoại trừ trường hợp cứ khăng khăng không chịu
chứng kiến những thay đổi đó, còn thì người ta sẽ phải thực sự nhìn nhận một Việt
nam của ngày hôm nay” [2] .
Nhà thơ Nguyễn Bá Chung, chuyên gia nghiên cứu văn hoá Đông-Tây của Trung tâm
Wiliam Joiner thuộc Đại học Massachusettes (Boston - Mỹ) nhận xét rằng, cho dù
còn nhiều tồn tại nặng nề về dân chủ và định hướng phát triển, Việt Nam đã và
đang có chuyển động theo hướng tích cực trong hai vấn đề theo anh là quan trọng
nhất mà trong nước phải giải quyết, hai vấn đề cơ bản của một xã hội văn minh,
đó là giáo dục và tâm linh. Về giáo dục, dù chỉ mới bắt đầu nhận
ra sự tụt hậu toàn diện, nhưng dư luận cho thấy gần như toàn xã hội đã nhận ra
tình trạng tồi tệ này, đủ sức buộc những người có trách nhiệm không thể tiếp tục
vô trách nhiệm bởi nó liên quan trực tiếp đến hàng loạt lĩnh vực quyết định sự
hưng thịnh hay suy vong của đất nước. Về cuộc sống tâm linh, liên quan tới lĩnh
vực đạo đức của toàn xã hội, dù rất chậm, nhưng cũng đã có chuyển động. Hai
chuyến về thăm quê hương và thuyết giảng giáo lý, đặc biệt cuộc đại cầu siêu
Trai đàn Chẩn tế ở Thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội của thiền sư Thích Nhất
Hạnh và tăng thân Làng Mai là một biểu hiện hết sức có ý nghĩa của sự chuyển động
tích cực theo hướng này và những hoạt động đó tiêu biểu cho khát khao hoà hợp
dân tộc của mọi người lúc này.
Về văn học, nhà thơ Kevin Bowen, giám đốc Trung tâm William Joiner, Trung tâm
đã có quan hệ với Hội Nhà văn và nhiều nhà văn tiêu biểu của Việt Nam trong hai
chục năm qua, khi trả lời tôi về vấn đề dân chủ trong văn học Việt Nam, anh nói
ngay: “Có dân chủ hơn thời kỳ 1988-1992 (thời kỳ mà anh cho rằng có
những tác phẩm xuất sắc nhất sau năm 1975 - TNV), nhưng để có tác phẩm hay
lại là chuyện khác!”
Nhưng trong sự đổi thay còn chừng mực đó, mươi năm trở lại đây, văn học Việt
Nam bỗng như “phanh kít” lại, mà nhiều ngườì dè dặt hơn nói là “chững lại”. Dừng
lại trong lúc chung quanh người ta đi tới thì gọi là tụt lại, là tụt
hậu chứ còn gọi thế nào nữa. Tuy năm này năm kia vẫn có những tập sách đọc
được nhưng không có những cuộc tranh luận thẳng vào những vấn đề gay gắt nhất của
đời sống văn học, những tác giả và tác phẩm có tính “khai phóng” tác động mạnh
mẽ đến khát vọng vươn lên của xã hội như hơn mười năm trước. Không nhìn thẳng
vào sự thật này thì sự tụt hậu sẽ còn tụt dài và tụt xa nữa. Vài dẫn chứng cho
nhận định này của chúng tôi.
Về chất lượng tác phẩm, trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua, Nguyễn Duy đã
phản ảnh đúng suy nghĩ của nhiều người khi nói:
“Chúng ta đang có một thực tế văn chương rất mâu thuẫn. Những cái cũ kỹ giáo điều
thì vẫn cũ kỹ giáo điều như cũ, người đọc chán rồi, không muốn tiếp nhận nữa. Mặt
khác, lại xuất hiện những cái xa lạ, những cái u ơ, ú ớ, ù ờ thần kinh, người đọc
không thể tiếp nhận nổi. Cả hai thái cực ấy làm người đọc vừa chán ngán, vừa lo
ngại. Người ta ít quan tâm đến văn học đến mức tôi có cảm giác người ta chả cần
nhà văn nữa” [3] .
Trong tổng kết “Văn học 5 năm đầu thế kỷ” của Ban chấp hành Hội Nhà văn
trình bày tại Đại hội, đã phải công nhận một thực trạng“Văn học ta tiếp tục có
những tác phẩm hay nhưng đó là những cái hay theo những kiểu dạng đã từng có,
đã quen thuộc, còn ít những cái hay chưa từng có, khác thường,có tính mở đường”, trong
lúc “thị trường văn học tiếp tục bị thu hẹp, văn hoá đọc chưa lấy lại đà
phát triển của nó trước sự lên ngôi của văn hoá nghe nhìn” và chính thực
trạng đó khiến xã hội mất lòng tin vào nhà văn. “Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày
nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích.”
Trong một cuộc trao đổi với tôi trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7, nhà thơ Hữu Thỉnh,
Tổng thư ký Hội khoá 6 (và nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá 7) đã nói
một cách khẳng định và văn hoa về chất lượng hạn chế của tác phẩm văn học thời
gian qua là “độ kết tinh chậm” và nhà văn đang “thiếu khát vọng
sáng tạo” để vượt qua các trở lực khách quan và trở lực trong chính mình.
Tôi đồng ý với Hữu Thỉnh là thiếu khát vọng cao cả về Chân-Thiện-Mỹ thì nhà văn
không thể có được tác phẩm hay về con người. Nhưng đó chỉ mới nói về yếu tố chủ
quan của nhà văn. Đó là yếu tố cần nhưng chưa đủ. Yêu cầu
khách quan cần thiết, quan trọng nhất đối với nhà văn, tôi tin rằng Hữu Thỉnh
cũng hiểu như tôi, nhưng anh không nói tới, là dân chủ dành cho sáng tạo
văn học đã thay đổi quá chậm, có thể nói là lĩnh vực thay đổi chậm nhất so
với nhiều lĩnh vực đã thay đổi ở Việt Nam trong thời gian qua. Tưởng đã xa rồi
cái thời còn ấu trĩ học theo Trung Quốc “chống phái hữu” khiến bao tài năng tâm
huyết văn nghệ tan nát sự nghiệp và cuộc đời trong vụ Nhân văn-Giai phẩm,
tưởng đã xa rồi cái thời mới chạm tới tự do sáng tạo và bày tỏ sự ủng hộ sáng tạo
ở một số tác phẩm mới mà Nguyên Ngọc và chúng tôi đã bị cách chức, vậy mà mới
bước vào thế kỷ XXI, đã có “vụ” Bùi Ngọc Tấn, “vụ” Nguyễn Khải, “vụ” Nguyễn Huy
Thiệp cũng với những cái mũ từ nửa thế kỷ trước chụp xuống đầu nhà văn: bôi nhọ
chế độ, bôi nhọ nhân dân…!
Trong một lần ngồi ăn sáng với Nguyễn Quang Sáng ở một nhà vườn trên đường Võ
Thị Sáu, anh nói với tôi bằng cái giọng “rất Nam bộ” :
“Mày hỏi về dân chủ trong văn học hả? Theo tao, có tiến bộ. Ngày trước cho dù
trong bụng rất thương nhưng không ai dám tới gần, có khi tránh mặt luôn, nếu thấy
mấy cha Nhân văn-Giai phẩm. Bây giờ, sách của Bùi Ngọc Tấn vừa bị tịch
thu, chả đang bị kêu lên gọi xuống, nhưng tới Đại hội Nhà văn, anh em vẫn xúm
xít vui vẻ với chả, chẳng sợ ai ráo! Hoặc ngày trước báo Nhân dân đăng
bài khen chê cuốn sách nào thì các báo lo mà có bài khen chê theo. Bây gìờ thì
khác rồi: Mày là mày, tao là tao!” - Nguyễn Quang Sáng trầm ngâm, như chia
sẻ những suy nghĩ của tôi – “Nhưng chậm quá, quá chậm! Đến như cha
Nguyễn Khải mà còn bị nhấc lên đặt xuống thì bao giờ mới có cởi mở, mới có dân
chủ thực sự cho mọi nhà văn? Khi biết tao sẽ viết về Huỳnh Phú Sổ, ông Võ Văn
Kiệt nói sao mày biết không? Ổng dặn ‘Viết cho kỹ nha. Đúng thì nói đúng, sai
thì nói sai. Thua thì nói là thua, thắng thì nói là thắng, chứ chẳng lẽ cứ thắng
hoài!’ Có nghĩa là sao? Chính ổng cũng ngán cái kiểu viết ta thì chỉ có thắng,
địch chỉ có thua! Mày biết vì sao có những tay cựu chiến binh Mỹ viết về chiến
tranh hay hơn nhiều anh em mình không? Nó THỰC và DÁM viết ."
Bùi Ngọc Tấn vừa có phát biểu nhân cuốn Rừng xưa
xanh lá nhân tác phẩm này vừa được giải thưởng năm 2004 của Hội Nhà
văn: “Được giải tôi rất vui. Niềm vui của tôi chủ yếu ở chỗ việc trao giải
cho tôi thể hiện cái nhìn cởi mở hơn về nhân thân tác giả, sự công nhận những mảng
đời sống khác của hiện thực” [4]
26 năm sau, đọc lại “Đề dẫn” vẫn thấy cái mới, cái mạnh của nó. Nó mới và mạnh
so với chính báo cáo chính thức tại Đại hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua. Nó mạnh
và mới bởi những vấn đề căn cốt nhất mà nó dũng cảm đề cập tới chính là vấn đề
cốt tử của sự tồn tại và phát triển của nền văn học: tự do cho tìm tòi sáng tạo,
phải “bảo hiểm”, động viên nhà văn phản ảnh những đau khổ của con người, lên án
mạnh mẽ những quan niệm cũ kỹ đã trói cả một nền văn học trong nhiều năm tháng…
Những điều đó được đề cập mờ nhạt, hoặc tránh né, trong báo cáo gần 30 năm sau.
Tổ chức của Hội Nhà văn vẫn giữ nguyên mô hình và hoạt động của 50 năm trước.
Bình thường thì tổ chức nhà văn là tổ chức cần và có thể xã hội hoá mạnh và sớm
nhất. Tuy nhiên, do đặc điểm phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và tiến
hành hai cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, Hội Nhà văn từ
lâu đã là một thành viên của tổ chức cách mạng, nên việc “bao cấp” cho hoạt động
của Hội là tất nhiên và bình thường. Nhưng, sau chiến tranh, việc duy trì nửa
thế kỷ “bao cấp”, “bao cấp” từ biên chế, lương tiền, kính phí bình thường và
các giải thưởng, cả tiền ăn ngủ bồi dưỡng lúc ngồi sáng tác, lo cho từ nhà cửa,
xe cộ cho đến hệ thống chức quyền nhà văn, “lo” luôn cả chuyện ai vào Ban chấp
hành, ai giữ ban này bệ nọ của Hội, đúng là “bao trọn gói”… Lâu rồi, chính Hội
cũng luôn chờ đợi những thứ, những cung cách “bao cấp” đó mà không có ý tưởng
và quyết tâm bằng chính từ sức mình để tồn tại và trưởng thành. Chẳng khác nào
một người con đã ba bốn mươi tuổi, lại đã có vợ có con rồi mà cứ đèo queo ở với
cha mẹ, cái gì cũng chờ cha mẹ lo cho chứ không chịu ra ở riêng, không chịu
bươn chải lo tự làm ăn đủ nuôi mình, nuôi vợ con và còn đến lúc nuôi lại bố mẹ
nữa chứ. “Bao” đến như thế thì, nếu Nhà nước, hoặc chỉ một cơ quan của Nhà nước
ngang cấp mình thôi, thậm chí dưới cả cấp mình, có điều gì không đúng, thậm chí
làm sai, đối với hoạt động sáng tạo, thì làm sao mà còn dám nói lên tiếng nói
trung thực để bảo vệ ý tưởng tốt, nếu có, của mình và bảo vệ khát vọng sáng tạo
của nhà văn vào lúc gay cấn nhất và vào lúc các nhà văn cần đến tổ chức nghề
nghiệp của mình nhất? Chính vì vậy, không ít hội viên có đề nghị giải tán Hội
Nhà văn đi.
4. Thay đổi gì?
Trong những dịp tâm sự riêng lẻ cũng như trên không ít diễn đàn công khai, những
gì cần thay đổi để văn học Việt Nam có một chân dung sáng sủa hơn, để có những
tác phẩm có giá trị hơn, thực ra không khó để nhận thấy mà đã quá rõ ràng .
a. Thực hiện dân chủ và ủng hộ khát vọng trong sáng tạo của nhà văn
Tôi, Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Huy Thiệp đã có một cuộc chuyện trò khá lâu và
vui vẻ về hai nội dung này tại nhà riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong một cái ngõ
rất lắt léo mạn Khương Hạ. Chúng tôi vừa lai rai rượu Tây với mấy món ăn do Thiệp
vừa đi chợ về và tự tay nấu nướng vừa bàn thảo rôm rả. Dĩ nhiên Nguyên luôn là
anh chàng sôi sục, Thiệp thì từ tốn nói và cười mỉm, thỉnh thoảng “đá” vào vài
tiếng nói lắp “làm duyên”, nhưng cả hai đều quyết liệt và rõ ràng. Chúng tôi đều
thấy rằng, dân chủ là điều kiện quan trọng số một để có tự do sáng tạo của nhà
văn và từ đó, mới có thể có những tác phẩm phản ảnh đúng thực trạng xã hội, phản
ánh đúng số phận và khát vọng của con người. Đối với những nhà văn có tài thì
điều đó vẫn rất quan trọng bởi vì những tìm tòi sáng tạo của họ thường rất dễ
vượt ra ngoài khuôn khổ áp đặt của những tư duy chật hẹp. Tôi cho rằng, đỉnh
núi là nơi cao nhất không dễ ai cũng leo lên được, nhưng cũng là nơi bắt đầu của
cái đà lao xuống vực thẳm, mà khoảng cách của hai thái cực này nhiều lúc chỉ là
vài ba mét vuông trên đỉnh núi đó. Người giám khảo giỏi phải có chỗ đứng cao
hơn đỉnh núi hoặc chí ít cùng ngang đỉnh núi để có thể nhìn thấy kỷ lục này mà
trao giải vô địch cho người leo núi kia. Nhưng nếu đứng thấp, thậm chí quá thấp,
thì không thể thấy được kỷ lục vừa lập mà nguy hiểm hơn, lại cho rằng người leo
núi đã bắt đầu lao xuống vực. Thiệp cười hì hì rồi lấy một ví dụ nữa rất hay:
Cái thằng cầu thủ giỏi, có kỹ thuật khéo léo mới hay dẫn bóng chạy vù vù nơi đường
biên, là nơi đối phương dễ nhầm là bóng đã ở ngoài sân, chỉ cần đối phương chần
chừ một vàì giây là chết mẹ với nó rồi, nó a lê kéo bóng tuốt xuống và tạt vào
cầu môn! Lúc ấy mà tay trọng tài gà mờ cứ thấy bóng mới chạm tới đường biên,
chưa qua nửa vạch, mà đã cho rằng bóng đã ở ngoài sân, lập tức toét còi thì giết
chết hết mấy thằng “siêu” này rồi chứ gì nữa! Chúng tôi thử nhẩm sơ qua chỉ những
nhà văn bị “trọng tài” thổi còi, từ “nhắc nhở” cho đến thẻ vàng, thẻ đỏ và sau
đó còn có người bị treo giò vài ba trận, thậm chí treo giò cả đời thì thấy ôi
chao! La liệt người tài trong số đó: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu
Loan, Phùng Quán, Nguyền Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Bùi Ngọc Tấn, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân,
Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Tô Nhuận Vỹ, Trần Vàng Sao, Thanh Thảo, Bùi Minh Quốc,
Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân
Nguyên, Tạ Duy Anh… Tôi nhớ anh Nguyễn Minh Châu kể câu chuyện có một nhà văn
đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến
bây giờ là nhờ biết sợ!”. Nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước
mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng! Và Nguyễn Minh Châu, con
người vốn ít nói, ít to tiếng đã phải kêu lên: “Tôi cũng phải nói rằng, sự
độc đoán và chế áp của lãnh đạo văn nghệ trong nhiều năm qua đã khiến cho những
nghệ sĩ chân chính luôn luôn gắn bó với cách mạng, với Đảng, suốt đời cảm thấy
phạm tội” [5] .
Nguyên Ngọc cũng chua xót:“Đọc Pasternak, tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn là của một
người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi: một người
trong cuộc, đảng viên, cầm súng,nhiệt tình xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy mươi
năm. Thế mà tại sao tình yêu của chính mình lại bị dày đạp đến như vậy.” [6]
Những người đau đớn như thế, biết bao nhà văn như thế, toàn là người tử tế cả.
Đã là nhà văn chân chính có ai không yêu đất nước, không yêu nhân dân, không
tôn trọng sự thực, không trọng lẽ công bằng, có ai không tử tế (Đạo diễn Trần
Văn Thuỷ, tác giả phim xuất sắc Chuyện tử tế cũng nhiều lần bày tỏ với
tôi suy nghĩ này). Thậm chí có người tốt đến mức “không chịu được”. Như Phùng
Quán chẳng hạn. Tôi muốn nhân dịp này công bố một câu chuyện “tốt không chịu được”
của anh, qua một bức thư anh gửi tôi. Chỉ có thể trích nguyên văn, để nguyên cả
những chỗ sai chính tả, một số đoạn trong lá thư dài mười bốn trang viết bằng
bút lá tre, chấm mực xanh Hồng Hà mà nay đã trở màu đen, trên giấy làm đâu miệt
Thuỵ Khuê, vàng khè:
Hà Nội đêm cuối thu 84,
Tô Nhuận Vỹ thân,
Tôi nhận được thư Vỹ, đã hai lần tôi viết thư trả lời, nhưng đọc lại tôi lại xé
đi. Vì muốn trả lời một bức thư như vậy thật không đơn giản chút nào. Vì tôi
nghĩ đó không chỉ thuần là một thư của tình bạn, mà còn là bức thư của một nhà
văn gửi cho một nhà văn…
Anh trả lời bức thư đề nghị anh cho phép phục hồi bút danh Phùng Quán trên tạp
chí Sông Hương trước đó của tôi. Trước khi viết bức thư đề nghị này,
tôi vừa đọc xong tập truyện Dũng sĩ Chép Còm mà anh ký tên là Trần
Vĩ Dạ, do NXB Trẻ ấn hành. Anh tặng Tô Diệu Lan, là con gái thứ hai của
chúng tôi, nhân ngày sinh của cháu, với lời đề “Thân yêu tặng cháu Diệu
Lan cuốn sách quý nhất đời của bác”. Tôi đọc cuốn sách với cái tên Trần Vĩ
Dạ mà lòng đau như cắt. Tôi viết bức thư và tin rằng anh sẽ đồng ý bởi không
khí đổi mới đã bắt đầu cựa quậy trong xã hội, bởi vì đó là một điều tuyệt vời đối
với Sông Hương nhưng cũng là chuyện tốt đẹp đối với cái tên anh đã bị
chôn vùi mấy chục năm trời chỉ vì những vần thơ gan ruột và nghĩa khí của anh.
Vậy mà anh từ chối!
Ba mươi năm đã trôi qua. Biết bao nhiêu sự kiện đã rêu phong. Và tôi cũng không
còn được chính quyền của Đất nước (mà tôi đã hiến dâng cả tuổi trẻ và cả máu để
góp phần nhỏ bé xây dựng và bảo vệ) coi tôi là nhà văn. Tôi đã bị “tướt quyền
viết văn”(tháng 3-1958 Hội nhà văn quyết định khai trừ tôi vĩnh viễn tôi khỏi Hội
nhà văn) từ khi tôi mới hai mươi bốn tuổi đầu - đến nay tôi đã năm mươi tư tuổi
rồi [7] . Tôi chắc Vỹ hiểu còn hơn cả tôi, ở đất nước ta bị khai
trừ vĩnh viễn khỏi Hội nhà văn, thì một nhà văn sẽ rơi vào một hoàn cảnh bi thảm
như thế nào. Vì mặt trận văn nghệ là một trong những mặt trận được chuyên chính
nghiêm nhặt nhất. Tôi vẫn ví nhà văn là một cầu thủ đá bóng. Và cả Đất nước chỉ
có một sân cỏ mà thôi - đó là Hội nhà văn Việt nam. Vỹ thử tưởng tượng một cầu
thủ bị đuổi khỏi sân cỏ suốt ba mươi năm - thì cầu thủ đó sẽ hoá thành người
như thế nào? Sau ba mươi năm, nếu cầu thủ đó không quên quả bóng đã là chuyện lạ.
Và nếu anh ta không còn đá được nữa thì lỗi đó thuộc về ai?... Tôi rất xúc động
trước tình âu yếm của bạn bè, đặc biệt là với các anh chị ở Tạp chí Sông Hương
muốn in thơ tôi với cái tên Phùng Quán“trở lại với làng văn”. Nhưng mong các bạn
hiểu cho tôi. Năm nay tôi đã năm mươi tư tuổi. Tôi đã đi gần trọn một đời văn.
Tôi không muốn thêm gì và bớt gì (PQ gạch chân bốn chữ thêm gì và bớt
gì - TNV) những gì tôi đã làm, đã viết. Tôi không thuộc vào loại các
nhà văn cùng thế hệ và tuổi tác với tôi, bằng mọi cách và mọi giá, đeo đẳng cho
bằng được cái tên mình trên báo, trên sách…
... Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ-vương.
Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà nói
dối, sai chặt chân trái. Đến khi vua Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc
ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”, vua lại cho họ
Hoà là nói dối, sai chặt nốt chân phải. Đến khi vua Văn vương lên ngôi, người họ
Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt
ra. Vua thấy thế sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải vì
hai chân tôi bị chặt ,chỉ thương vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là
nói dối”. Vua bèn sai ngưòi xem lại cho kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt
tên ngọc là “ngọc bích họ Hoà”. Mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một “ngọc bích họ
Hoà” của mình để dâng hiến cho Đất nước, Nhân dân. Nhưng tôi vô cùng hối hận là
đã không đủ lòng tận trung như người họ Hoà để dâng “ngọc bích” của mình lên Đảng,
cho đến lúc được nhận ra không phải đó mà ngọc thật (PQ sót mấy chữ là
ngọc giả - TNV)…” [8]
Người như thế, người “yêu Đảng hơn cả Đảng” như thế mà bị chà xát mấy chục năm
trời, ôi chao ôi là trời!
Vừa qua, Giải thưởng Nhà nước đã được trao cho Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tôi cho rằng chậm còn hơn không. Nhưng có một cái gì không đàng hoàng, thật ú ớ
trong chuyện này. Không một lời nào, không một câu nào, dù ở đâu đó, dù của một
ai “bán chính thức” đó, ngay như của chỉ Hội Nhà văn, rằng đối xử trước đây đối
với họ là SAI, là SAI LẦM. Không. Không một lời. Không một ai. Nói như Nguyễn
Trọng Tạo:“Họ không sửa sai. Tức là họ nói: chúng tôi không sai. Nhưng chúng
tôi tặng thưởng. Như thế là một nhà nước không đủ can đảm để nói lên một sự thật.
Không sòng phẳng…” [9]
*
Dĩ nhiên, “chưa có một nhà văn nào trên thế giới tuyên bố rằng mình hoàn
toàn tự do… Ở các quốc gia dân chủ phương Tây người ta cũng chất đầy ngăn kéo
những trang không được xuất bản” như Phạm Thị Hoài khẳng định [10] . Nhật Tiến cho
biết, trong một lá thư gửi từ trong nước, một nhà văn hỏi anh “ở hải ngoại các
anh đã thực sự có tự do cầm bút hay không?”, Nhật Tiến trả lời: “Tôi thấy
rõ người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút” [11] . Để minh chứng
cho câu trả lời, Nhật Tiến đã mô tả những giới hạn của cộng đồng hải ngoại bị
chi phối bởi những thành kiến, những quan điểm chống cộng hẹp hòi mà không nhìn
đến thực trạng của quê hương.
Ngay như ở nước Mỹ, một người bạn nghiên cứu văn hoá lâu năm nói với tôi, có tự
do sáng tác không có nghĩa là có cùng cơ hội được các cơ sở truyền thông “chính
luồng” (mainstream) chú ý và thông tin quan điểm của mình. Lấy tỷ dụ trường hợp
của J. P. Sartre và Noam Chomsky. Có thể nói cả hai đều là những đại trí thức cấp
tiến trong xã hội mình đang sống, phê bình nặng nề chính sách nhà nước, được cả
thế giới ngưỡng mộ và lắng nghe. Nhưng Sartre thời đó được báo chí và xã hội
Pháp trân trọng tham khảo trong khi Chomsky hoàn toàn bị giới truyền thông
“chính luồng’’ ở Mỹ tẩy chay. Chúng ta có thể có tự do sáng tác, tự do ngôn luận,
nhưng nếu các cơ sở truyển thông đại chúng - báo chí, truyền thanh, truyền
hình, v.v… - đều do một nhóm tài phiệt khổng lồ làm chủ, thì những quan điểm
“ngược dòng’’ sẽ hoàn toàn bị bỏ quên, hoặc vô hiệu hoá. Những tiếng nói đó sẽ
không có người nghe, trở thành những tiếng vang vọng trong sa mạc. Người bạn
tôi coi đó là một thứ kiếm duyệt cực kỳ tinh vi, “kiểm duyệt phi kiểm duyệt”, một
loại cơ cấu vô chiêu của chủ nghĩa đại công ty trị (corpocracy).
Và, tất nhiên, không phải cứ có tự do (khái niệm như nhiều nhà văn trong và
ngoài nước quan niệm hiện nay) thì lập tức nhà văn đã có thể sáng tạo ra những
tác phẩm xuất sắc. Tôi nhớ chuyện Thái Bình. Trong những buổi chuyện trò thân
tình với nhà văn Đức Hậu, người đã làm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật mười mấy
năm ở đây, anh cho biết, sau những vụ biểu tình, đấu tranh quyết liệt của nhân
dân chống bọn tham nhũng và ức hiếp nhân dân, đã từng có xu hướng đổ tội, đổ
nguyên nhân của sự vụ cho “bọn phản động”, nhưng Trung ương khẳng định đó là do
hàng ngũ cán bộ đã bị tha hoá, do nội bộ gây ra. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười về
họp với lãnh đạo Thái Bình và ông đã phẫn nộ: “Những người đã cõng tôi qua sông
khi Tây vây tứ bề, đã có hàng vạn đứa con là thương binh, liệt sĩ trong hai cuộc
kháng chiến mà là địch à? Các anh ức hiếp, chà đạp người ta quá trời, ai mà chịu
nổi!” Ông phẫn nộ với đại ý như thế. Viết về vụ đó, nguyên Tổng bí thư đã “bật
đèn xanh” như thế… vậy mà mấy năm đã qua, chưa có một tác phẩm nào hay về cuộc
đấu tranh này của nhân dân Thái Bình. Cũng vào hôm làm việc với Hữu Thỉnh, anh
kể chuyện tiếp nữ Chủ tịch Hội nhà văn Rumania. Bà ấy nói: “Khi đang còn chế độ
độc tài Ceaucescu vẫn có những tác phẩm xuất sắc như Nông dân, Giờ thứ 25 (Gheorghiu),
còn bây giờ đã được tự do hoàn toàn lại chưa có những tác phẩm gần như thế.”
Điều đó vẫn đúng ngay ở các nước mà nền dân chủ đã phát triển cao. Chị Thuỵ
Khuê, một cây bút phê bình sắc sảo và hiểu biết nhiều tình hình văn học trong
và ngoài nước, đã cho rằng một trong hai nhược điểm của văn học hải ngoại là:
“... Chưa có thành tựu khai phá, những chân trời nghệ thuật mới... Sự tiếp
xúc với văn hoá Âu Mỹ dường như chỉ mới rất hình thức... Không có một phong
trào như Tự Lực, như Sáng Tạo. Giá trị đổi mới văn thơ trong khoảng hai mươi
năm gần đây đến từ những tác giả trong nước: cựu Nhân văn như Trần Dần, Lê Đạt,
Đặng Đình Hưng…, hoặc trẻ hơn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài.” [12]
Chúng tôi muốn nói rằng, theo chúng tôi, bên cạnh tự do sáng tạo, nhà văn còn cần bản
lĩnh, khát vọng. Không có bản lĩnh và khát vọng (trong bản lĩnh bao hàm cả
tài năng) thì, như “con gà công nghiệp”, mở chuồng cho tự do ra ngoài vẫn cứ “tự
giác” luẩn quẩn quanh cái chuồng cũ kỹ. Về điều này, Phạm Xuân Nguyên cũng đã
viết :
“Nhiều người đã nói đến sự cấm đoán, bắt bẻ, kiểm soát từ trên xuống đối với những
người viết. Nhưng có phải vì thế mà người cầm bút lại cho mình ‘được hèn’ để viết
xuôi chiều, dễ dãi không?… Ngẫm cho kỹ, toàn bộ tác phẩm Nam Cao viết về người
trí thức cũng chỉ xoay quanh một chủ đề duy nhất là căn bệnh ‘mình tự làm hèn
mình’ của tầng lớp này… Vấn đề ở đây là bản lĩnh và tầm vóc của người cầm bút,
tức là nội lực chủ động của anh, chứ không phải cứ thụ động ngồi chờ cái “hích”
từ bên ngoài rồi khi được thì hoan hỉ tâng bốc, khi không được thì trách móc đổ
lỗi.” [13]
Nhà văn trẻ Lê Hùng Vọng, bắt đầu cầm bút từ ngày còn làm việc ở tạp chí Sông
Hương trước 1990, tâm sự khi tôi hỏi anh về bản lĩnh của người cầm bút mỗi
khi “tai nạn” đến hoặc rình rập đến với mình:
“Theo tôi, cái được sau một tai nạn, như ‘vụ’ Sông Hương chẳng hạn, còn tuỳ thuộc
bản lĩnh của người cầm bút. Văn học sử Việt Nam chắc chắn sẽ truyền tụng những
câu chuyện các nhà văn… đái ra quần khi bị các quan văn nghệ nhắc nhở. Không ít
anh từ đó về sau chỉ cho ra đời những thứ dở hơi. Người cầm bút có bản lĩnh bao
giờ cũng tạo ra cho mình một sức đề kháng, không bao giờ viết sai những điều
mình cảm nhận về cuộc đời. Vì cái tác phẩm viết ra từ một thứ giả giọng giả lưỡi…
nghe nó chán lắm! [14] ”
Còn nhà thơ Nguyễn KhắcThạch, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương hiện
nay thì nói rõ thái độ của mình:
“Với cá nhân, sau mỗi lần bị ‘tai nạn nghề nghiệp’ mỗi người đều biết cách ứng
xử riêng để được tồn tại như chính mình và điều quan trọng là không được HÈN.
Tôi nghĩ, tôi cũng vậy.” [15]
Còn chuyện in ấn nữa. Tôi nhớ hôm đó Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện cuốn Tiểu long nữ của
anh đã được Cục Xuất bản ký giấy cho phép in, nhưng đưa về nhà xuất bản thì tay
giám đốc H. lại… không dám! Mới có cái tên “giám đốc Hèn” là vậy. Thiệp cười mỉm:
“Thằng viết không dám viết, thằng giám đốc in thì hèn... Nền văn học của mình mấy
năm nay nó thiếu sự hồn nhiên. Mà thằng văn nghệ sĩ phải giữ được sự hồn nhiên
trong sáng tác, trong ý nghĩ, trong cuộc sống, nếu không thì…còn nói gì nữa.”
Dân chủ cho sáng tác và ủng hộ khát vọng, bản lĩnh sáng tạo vì nhân dân, vì con
người của nhà văn rõ ràng là các nội dung để nền văn học Việt Nam chuyển biến
thực sự, chuyển biến về chất. Và đó là các nội dung quan trọng nhất phải trở
thành mục tiêu phấn đấu mà tổ chức Hội Nhà văn, nếu nó muốn tiếp tục tồn tại một
cách hữu ích cho đất nước. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ nghĩ một cách ấu trĩ rằng,
mọi cái hay về dân chủ của các nước phương Tây đều có thể áp dụng ở nước ta. Và
với trí thức yêu nước người Việt ở nước ngoài, tôi tin là có nhiều người chia sẻ
suy nghĩ này của tôi. Giáo sư Cao Huy Thuần (Pháp) khẳng định trong từng câu, từng
chữ:
“Nếu tôi muốn dân chủ là vì tôi nghĩ rằng nước tôi cần dân chủ, chứ không phải
vì anh ép tôi mà tôi phải theo anh. Dân chủ không phải là con đẻ của một vụ cưỡng
hiếp. Dân chủ cũng không có mẫu mực. Đúng,có vài nguyên tắc căn bản. Trên những
nguyên tắc căn bản đó, mỗi truyền thống lịch sử vạch ra cho mình những hình thức
khác nhau... Trí thức chúng ta quá đủ thông minh để biết dân chủ là gì, nên lấy
cái gì và bỏ cái gì của ghương Tây, nên bắt đầu như thế nào,bước những bước nào
trước, những bước nào sau. Tôi nhắc lại: chỉ cần nhà cầm quyền muốn thực sự.
Sau đó, người Việt Nam có thừa văn hoá để sáng tạo. Và khi người Việt Nam đã
đoàn kết được với nhau, đã xem Nhà nước như là Nhà nước chung của tất cả, tôi đố
anh Tây phương nào dám ép Dân chủ với Nhân quyền.” [16]
© 2007 talawas
[1]Trần Văn Thuỷ, Nếu đi hết biển… NXB Thời Văn, USA, 2003
[2]Bình luận về cuộc gặp của Đại sứ M. Marine với giới báo chí của
cộng đồng người Việt tại Washington DC ngày 29/5/2005 nhân Thủ tướng Phan Văn
Khải sắp sang thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Bush, báo Cali Today, số
ngày 31-5-2005
[3]Nguyễn Duy, Trả lời báo Thanh niên trước Đại hội
Nhà văn lần thứ 7, http://vietbao.vn/Van-hoa/Khi-nha-van-tu-hoi-chinh-minh/40074698/105/
[4]Bùi Ngọc Tấn, Trả lời báo Thanh niên ngày 8/5/2005
[5]Nguyễn Minh Châu,“Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh hoạ”, Văn nghệ số 49-50, 5-12-1987
[6]“Gặp gỡ Nguyên Ngọc”, Sông Hương số tháng 6/1989
[7]Trong bài trả lời phỏng vấn Thuỵ Khuê trên Hợp lưu số
81, Lê Đạt kể lại rằng, Hội Nhà văn khai trừ ra khỏi Hội ba năm đối với các anh
Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác; hai năm đối với Hoàng Cầm; một năm đối
với Phùng Quán. Có lẽ 30 năm mà anh Phùng Quán nói ở đây là 30 năm bút danh
Phùng Quán không được xuất hiện trên văn đàn. (http://www.hopluu.net/HL81/thuykhue-ledat.htm)
[8]Phùng Quán, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, cuối thu 1984
[9]“Mừng vui còn có hôm
nay”, talawas ngày 07/6/2007,
,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10124&rb=0101
[10]Phạm Thị Hoài, “Hợp đồng
ngầm với các con chữ”,
http://www.nhanvan.com/phongvan/pvcuong_hoi_pthoai.htm
[11]Nhật Tiến, Trả lời tại
Washington ngày 11/10/1985
[12]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một
lối tiếp cận văn học sử: hai mươi nhăm năm văn học hải ngoại 1975-2000”
http://dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=Fw9VtoP4V8jqlObmtJfM9w%3d%3d
[13]Phạm Xuân Nguyên,
“Cái hèn của người cầm bút”, Sông Hương số 31
[14]Lê Hùng Vọng, Thư gửi
Tô Nhuận Vỹ, ngày 15/9/2004
[15]Nguyễn Khắc Thạch,
Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 27/8/2004
[16]Cao Huy Thuần, Thư gửi
Tô Nhuận Vỹ, ngày 18/8/2004
Trong thái độ ủng hộ khát vọng sáng tạo, hiểu biết của nhà
văn, việc mở rộng giao lưu quốc tế có một tác dụng rất quan trọng.
Bây giờ, chuyện đi nước ngoài, với nhiều ngành, nhiều người là chuyện có khi
còn dễ hơn cả người nhà quê ngoài Bắc mà vô Thành phố Hồ Chí Minh nữa. Đã qua
lâu rồi cái thời “nhất mẹ nhì con.” Nhất là thời buổi hoà nhập với nền kinh tế
thế giới, Việt Nam hoạt động năng nổ trong khối ASEAN, tham gia tích cực vào
APEC, ASEM, vừa gia nhập WTO… Đi bằng nhiều cách: Nhà nước bỏ tiền, đối tác bỏ
tiền, Nhà nước và đối tác cùng bỏ tiền, tổ chức vận động các doanh nghiệp hảo
tâm bỏ tiền, tổ chức cùng cá nhân cùng bỏ tiền, tổ chức chỉ đứng ra “làm giấy tờ”
còn cá nhân bỏ tiền hoặc cá nhân tự lo “trọn gói”… Nhưng, với một tổ chức có khả
năng rất lớn trong các mối quan hệ “phi chính phủ” (NGOs) như Hội Nhà văn Việt
nam mà mỗi năm chỉ có dăm “đoàn ra” và dăm “đoàn vào”, mỗi đoàn trung bình chỉ
có vài ba người, là quá lạ. Song thực ra cũng không có gì là lạ, khi mà Hội hay
ngại “gió máy” nên cứ chờ các đối tác “tin cậy” mời, được “cơ quan chức năng” đồng
ý, mới cử người đi và nhận người vào. Gần cả ngàn hội viên ít ra cũng 90% trong
số đó chỉ biết chờ sự quan tâm của Hội thì tới… “Tết Marốc” mới biết được xứ
người nó tròn méo ra sao để mà mở mang hiểu biết (kể cả đến Lào là nước dễ qua
lại nhất). Trong lúc đó, cơ chế đối ngoại “phi tập trung” (không nhất thiết cái
gì cũng qua Trung ương) đã được thực hiện từ lâu. Ngay ở Thừa Thiên Huế, trong
các dịp Festival 2000, 2002 và 2004, 2006, chỉ riêng ngành du lịch tỉnh, mỗi dịp
đều có từ 30 đến 40 cán bộ nhân viên của ngành này được đến Pháp học và thực tập
các kỹ năng lễ tân - điều hành, bếp - bồi bàn và phục vụ phòng từ một đến ba
tháng tại các trường du lịch, khách sạn có chất lượng của Pháp cũng như hàng chục
học viên và thầy giáo của các trường du lịch Pháp tới làm bếp, lễ tân, bồi bàn
tại các khách sạn ở Huế. Mà tất cả chỉ cần sự thống nhất quyết định của địa
phương và một vùng vốn đã có quan hệ như Poitou Charent hay Nord Pas de Calais
mà thôi. Mặt khác, tôi nghĩ, ở vào giai đoạn “trăm công nghìn việc” như hiện
nay, “cơ quan chức năng” cũng chẳng hơi đâu mà yêu cầu Hội nhà văn “nhất bộ nhất
bái” trong hoạt động đối ngoại như vậy. Ngay ông Lê Khả Phiêu cũng đã nói tại hội
thảo “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”: “Tôi nghe anh Nguyễn Duy đi Mỹ nói chuyện
về thơ mà cũng bị ‘nhấc lên đặt xuống’ này nọ? Đem cái hay của thơ ca mình giới
thiệu với bạn bè thế giới và học cái hay từ thơ ca của bạn là điều tốt chứ sao
lại cản trở, ngại ngùng?”
Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Như cái thực và giả chẳng hạn. Đi đây đi đó
mới thấy, à ra thế, có nơi có hẳn cơ chế, có hàng loạt cơ chế để bắt anh không
được dối trá, không được ba xạo. Nếu anh dối trá, ba xạo, ngay chỉ với con cái
trong nhà thôi, nó mà kiện thì, chiếu theo điều 1 điều 2, mục 3 mục 4… anh lập
tức lãnh đủ, chứ không chỉ hô hào đạo đức chung chung. Chuyện đó cũng là bắt đầu
của việc viết thật hay giả đấy. Ví dụ thế. Cũng lấy ví dụ như Trung tâm William
Joiner (WJC), đã có hàng chục năm quan hệ với Hội Nhà văn, đã mời mấy chục nhà
văn nghệ sĩ tiêu biểu của Việt Nam qua dự hội thảo, thăm thú Hoa Kỳ. Tôi tin chắc
rằng, tất cả anh chị em nhà văn, nghệ sĩ đã qua Mỹ do WJC mời (kể cả anh Hữu Thỉnh,
Chủ tịch Hội), đều thấy các chuyến thăm thú, các cuộc gặp gỡ với các nhà văn,
trí thức Mỹ và cả trong cộng đồng người Việt, đều là các cuộc đi và gặp gỡ bổ
ích cho sự mở mang đầu óc của mình và chỉ có lợi cho đất nước khi, không ai là
không tranh thủ, nếu có dịp, để giới thiệu về Tổ quốc thân yêu. Mà có ai trong
số họ, sau một chuyến đi, thậm chí sau nhiều chuyến đi như thế, bỗng chốc từ một
người yêu đất nước mình trở thành một kẻ ghét đất nước mình không? Không, tôi
không hề thấy! Có chăng là càng đi càng sốt ruột, càng khát khao sự thay đổi
mau chóng hơn nữa của đất nước, vì chúng ta có biết bao người con tài giỏi, dồi
dào tài nguyên, đã đổ biết bao xương máu vì độc lập, tự do, hạnh phúc… mà dân
còn khổ quá, mà nước còn nghèo và nhiều bất công quá! Như Nguyễn Quang Thiều chẳng
hạn. Học Tây, nói tiếng Tây như gió, đi Tây như đi chợ, thơ thì như văn xuôi
Tây, văn xuôi thì mệnh đề chính mệnh đề phụ dây cà dây muống kiểu ngôn ngữ
Hy-La… vậy mà cứ nói chuyện vài câu, đọc vài dòng của Thiều, không biết sao
trong đầu tôi, trong lòng tôi cứ như nhìn thấy, như nghe thấy cánh đồng sục bùn
và tiếng con cá rô quẫy, dòng sông hai bờ lau lách với tiếng mái chèo khuấy nước
của ngưòi đi đánh cá đêm ở làng Chùa của cái xứ Hà Đông còn nghèo khổ của anh
và bỗng thương nhớ những làng quê đẹp tuyệt vời mà cũng còn nghèo khó nơi xứ Huế
của tôi nữa. WJC, như chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong buổi cùng nhiều nhà
văn nhà thơ Huế tiếp đoàn đại biểu của WJC do Kevin Bowen dẫn đầu, đã phát biểu:
“Các anh đã như một con tàu phá băng trong lúc quan hệ Việt - Mỹ đóng băng. WJC
đã làm được nhiều việc cho quan hệ văn hoá Việt-Mỹ khiến cả những nhà chính trị
cũng ngạc nhiên” [1] .
Vậy mà, tôi nghe nói, có ai đó xì xào WJC “phức tạp” này nọ, vậy là Hội “gài số
lùi,” khiếp!
Mà sao thế nhỉ, kiểu chỉ “doạ” một chút mà đã khiếp đến thế thì Nhà nước mình
nên đóng sập hết các cửa biên giới, “ta về ta tắm ao ta” yên sự cho rồi! Kiểu tảng
lờ như tẩy chay đó, vô tình, như “phối hợp” cùng loại chống cộng cực đoan mấy
năm trời quyết liệt đánh WJC “thiên tả”, “tiếp tay cho cộng sản Việt Nam”!
Ngay cái việc cho đến bây giờ, trong lúc các ngành, các tổ chức trong nước đã
có gần một trăm tờ báo và tờ tin điện tử (chưa kể vô số cá nhân đã có website
riêng), vậy mà Hội Nhà văn và báo Văn nghệ vẫn cam phận “ăn sau chạy
dọi”, không có lấy cái phương tiện hiện đại tối thiểu này giúp nhà văn trong nước
có thêm một kênh “chính thức” để thông tin, trao đổi tác phẩm, kinh nghiệm sáng
tác… của mình với thế giới và học hỏi những gì cần phải học từ trí tuệ của đồng
nghiệp năm châu bốn biển. Đó quả là một sự quá lạ mà nguyên nhân chắc chắn
không phải là do tổ chức nhà văn không đủ trình độ và điều kiện để tiến hành.
Đó là vì chưa được “bật đèn xanh” nên chưa dám.
b. Các nhà văn trong và ngoài nước hãy ngồi lại với nhau
Nhưng, giao lưu quốc tế lại có nhiều mặt, nhiều nội dung. Bản thân tôi thấy rằng,
đối với nhà văn Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất trong việc mở rộng
quan hệ quốc tế là giao lưu với các nhà văn, các nhà văn hoá, các nghệ sĩ người
Việt đang sinh sống và hành nghề ở các nước trên thế giới.
Sở dĩ tôi xem đây là nội dung hàng đầu trong việc mở rộng giao lưu quốc tế vì
không thể hạ quyết tâm tiếp thu những tinh hoa của thế giới, thu hút chất xám
trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài vào công cuộc hưng thịnh quốc gia mà
không chú ý tới trí tuệ, tài năng và tâm huyết với quê hương có không ít trong
khối trí thức xã hội - nhân văn này. Mặt khác, làm được việc này thì, đội ngũ
nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc
hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với
đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị
biệt chua xót sau chiến tranh.
Có một thực tế là, với nghị quyết 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, lực
lượng chống cộng cực đoan chống đối là lẽ đương nhiên rồi, nhưng nhiều trí thức
người Việt ở nước ngoài mà tôi gặp cũng không tin nghị quyết đó sẽ được thực hiện
trong thực tế, vẫn nghĩ đó chỉ là sự tuyên truyền quen thuộc lâu nay. Bởi ngay
cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới phát biểu, cũng chỉ ở mức độ vừa phải, về nội
dung hoà hợp hoà giải phải đi vào thực chất, mà đã bị phê phán gay gắt. Còn ở cấp
lãnh đạo Hội Nhà văn và nhiều nhà văn trong nước thì rất ít người biết đến nghị
quyết này, mặc dầu sự khẳng định “người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không
tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam” là sự khẳng định
đúng đắn. Không có con đường nào khác để thực sự thống nhất lòng dạ hơn 80 triệu
dân, không thể hưng thịnh đất nước, hiện đại hoá đất nước để “sánh cùng các cường
quốc năm châu” mà gần ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài lại đứng ngoài cuộc.
Dĩ nhiên, việc giao lưu, cho dù là giữa các văn nghệ sĩ, nhà văn hoá - những
người thường rất tình cảm và trọng nhân ái - cũng sẽ vô cùng khó khăn, nhiều trắc
trở chứ không đơn giản chút nào.
Cho đến nay, trừ một số rất ít văn nghệ sĩ trong nước có dịp đi nước ngoài, mà
có đủ thời gian và điều kiện, dĩ nhiên không ngại bị “đánh giá” này nọ, mớí thực
sự có dịp gặp gỡ, trao đổi với văn nghệ sĩ hải ngoại và ngược lại, số văn nghệ
sĩ hải ngoại trong các dịp về thăm quê “dám” có các cuộc tiếp xúc, tâm sự với đồng
nghiệp, kể cả hai “phía”, đều chỉ tính được trên đầu ngón tay, trong lúc chỉ
tính riêng nhà văn, trong và ngoài nước, trên cả ngàn người, trong đó nhà văn hải
ngoại tôi nghĩ là không dưới vài trăm. Đó là một thực tế đáng buồn vì nói cho
cùng, như vậy, bản lĩnh của nhà văn cũng xoàng quá. Thường là đổ cho khách
quan, đổ cho công an, tuyên huấn hay cộng đồng, cho trách nhiệm lo miếng cơm
manh áo của vợ con gia đình, nhiều người “ tự run”, đánh mất phẩm chất quý giá
nhất của người trí thức là sự trung thực. Ít nhà văn khi đến Mỹ dám công khai
khẳng định những tiến bộ ở trong nước và phê phán những tiêu cực của xã hội Mỹ
cũng như khi về trong nước,không dám khen nhiều điều hay của xã hội Mỹ mà mình
cần học tập. Với nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại thì cái mũ “cộng sản” của cộng đồng
luôn luôn chực chờ để chụp xuống đầu họ. Báo chí không ít lần đã phải kêu lên về
cái thực trạng “mũ cối ở đây nhiều hơn ở cả Hà Nội!”. Cho nên, các nhà văn luôn
phải “biểu diễn lập trường” (chữ của Nguyễn Mộng Giác). Trong nhiều dịp chuyện
trò tâm sự, không ít anh em đồng nghiệp ở Mỹ trong khi cho rằng trong nước hoàn
toàn chưa có tự do sáng tác với khá nhiều ví dụ thì đồng thời cũng khẳng định
lúc này, tại đây, cũng chưa có tự do sáng tác như mình ao ước, nên có lúc phải
sống hai mặt. Hoàng Khởi Phong viết:
“Ở ngoại quốc này chúng ta làm chính trị dễ, yêu nước cũng dễ, làm văn chương
cũng dễ, lấy nhau cũng dễ, bỏ nhau cũng dễ, làm thương mại cũng dễ, khai phá sản
cũng dễ. Nói tóm lại, ở đây cái gì cũng dễ, chỉ trừ có một tấm lòng chân thật
là hơi… khó chút xíu [2] .”
Chỉ vì mời hai học giả từ Hà Nội là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi qua tham
gia nghiên cứu về văn học và văn hoá cộng đồng người Việt sau chiến tranh và do
khởi phát từ một chi tiết trong phần đặt vấn đề của chương trình nghiên cứu của
Nguyễn Bá Chung, trong đó có kể chuyện một cháu nhỏ khoe với ông nội lá cờ Việt
Nam cháu tìm thấy trong sách nhà trường - cờ đỏ sao vàng thay vì cờ vàng ba sọc
đỏ… chỉ bắt đầu từ như thế (một đoạn văn không do Nguyễn Bá Chung viết), mà một
cuộc chống lại ồ ạt, ghê gớm bằng từ hàng trăm bài viết không thiếu lời lẽ nhục
mạ, đe doạ, các cuộc mít tinh hội họp phản đối, các kiến nghị gay gắt, kiện cả ra toà án mà khi toà án bác bỏ thì vu luôn cho
thẩm phán, luật sư thiên vị…, mà “đánh” tới tấp suốt hơn năm năm trời, với phạm
vi trên toàn cõi có người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài rằng, Trung tâm
William Joiner của Đại học Massachusetts, Kevin Bowen là tiếp tay cho cộng sản,
rằng Nguyễn Bá Chung là cộng sản nằm vùng và phải trừng trị anh này! Ở một đất
nước tự do mà hành xử như vậy thì hãi quá. Cho nên, nói là nói vậy chứ cũng
thông cảm cho cái “hơi khó chút xíu” đó của người viết ở đây. Nhưng, trong
không khí chống cộng cực đoan như thế, không phải không có những người dù không
tán thành thể chế trong nước vẫn có cái nhìn trầm tĩnh như Trương Vũ:
“Vào lúc này mà nói chuyện chống cộng với ngôn ngữ, phương thức của ba mươi năm
cũ chẳng khác gì chống những hồn ma trong một không gian hồi tưởng. Chẳng khác
gì đi đi lại lại trên những lối mòn của tâm thức. Chống những hồn ma không được
thì chống nhau. Ai không giống mình người đó là cộng sản, là phản bội.” [3]
Nguyễn Gia Kiểng cho rằng loại thái độ đó “chỉ là để biểu lộ và trút bớt sự
căm thù đang sôi sục trong lòng chứ không phải để giành thắng lợi. Cuộc đấu
tranh vì vậy không khác gì một cuộc lên đồng, những người được ủng hộ nhất là
những người tỏ ra táo bạo nhất, lên đồng hay nhất,gây được ảo tưởng mạnh nhất.” [4]
Gần đây, trước sự kiện tờ Việt Weekly bị chụp mũ “thân cộng”, Dốc Thượng
đã có một tổng kết chua chát cuối một bài viết đáp trả:
“Người Việt đến Mỹ đã chứng tỏ rằng họ thông minh không kém bất cứ sắc dân nào.
Đã chứng tỏ họ tài giỏi về mặt thương mại. Họ đã thành công trong tất cả mọi
ngành nghề. Nhưng mặt sinh hoạt dân chủ vẫn còn rất sơ khai và thấp kém.” [5]
Vâng, đó là khó khăn, trắc trở đầu tiên trong việc gặp gỡ, giao lưu. Và khó
khăn, trắc trở tiếp ngay đó, hoặc đúng ra là cùng lúc: đang tồn tại dòng văn học
“căm thù,” “căm hận” qua tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nước. Đọc tác
phẩm của nhiều nhà văn, kể cả những anh em có tấm lòng hướng về quê hương, thấy
dày đặc những hình ảnh, những câu chữ y chang những câu chữ tuyên huấn cũ kỹ một
thời trong nước “đã viết thì ta chỉ có tốt và tốt hơn nữa và địch chỉ có xấu
và xấu hơn nữa”! Và thậm chí dữ dằn, ghê sợ hơn. Rồi những chuyện kể cay đắng,
đau xót, thê thảm, uất ức của những ngày ở các trại tù cải tạo, cảnh cùng quẫn
buộc phải vượt biên để bị hải tặc hiếp vợ rồi quăng con xuống biển ngay trước mắt
mình, cảnh bị tịch thu nhà cửa,tài sản ngay sau ngày Chiến thắng, chuyện con
cái tuyệt đường học tập vì lý lịch cha mẹ… Mà rất hiếm, quá hiếm hoi, những hiểu
và biết về các địa ngục trần gian, những “chuồng cọp” đày đoạ những người cách
mạng và yêu nước ở Sở thú Sài Gòn, Chín Hầm, Côn Đảo, Phú Quốc, về sự tan nát
thê lương của hàng ngàn làng quê thành phố, về những nỗi đau khủng khiếp của
hàng triệu bà mẹ mất con mất chồng “của phía bên kia” trong chiến tranh, thậm
chí ngay ở các vùng ngoại ô các thành phố miền Nam trước 75, các vùng “tự do
oanh kích” của quân Mỹ và Sài Gòn [6] .
“Chúng ta kể chuyện nào và bôi xoá chuyện nào? Chôn thây nào, và quật mồ ai? Nếu
dựng dậy lịch sử, thì chúng ta hãy can đảm cho tất cả những bóng ma quá khứ trở
về mặt đất. Có ít nhất 3 triệu bóng ma như thế sẽ đi quanh tượng đài kỷ niệm mới
dựng ở Westminster. Hãy bắt tay vào việc chiêu hồn đi để cuối cùng ta có thể
theo chân Nguyễn Du làm văn điếu thập loại chúng sinh thay vì chỉ điếu những vết
đau của riêng mình và bôi xoá vết đau của người khác” [7] .
Lại còn một thực tế thế này nữa:
“Trừ đi số chống cộng cực đoan khó nói chuyện, không hiếm trí thức Việt kiều cứ
hễ nói đến chuyện trong nước, nói đến người cộng sản Việt Nam thì đều cho là
ngu dốt, bảo thủ và tay sai ngoại bang! Cứ như chỉ có họ, chỉ có những người Việt
ở nước ngoài mới hiểu biết, mới muốn đổi mới,mới yêu nước. Thái độ ngạo mạn rất
khó hiểu đó làm sao chấp nhận được?” - Nguyễn Khoa Điềm đã có lần lắc
đầu buồn bã nói với tôi như vậy.
Nhưng, trong lúc đó, hãy nhìn thẳng vào thực tế, cho đến nay, trong nước chuyện
hoà hợp đã có gì thay đổi sau 30 năm?
Trương Vũ viết:
“Lúc tôi trở về, chiến tranh chấm dứt đã hai mươi sáu năm rồi. Lúc đó, vào dịp
kỷ niệm 30 tháng Tư, đài truyền hình chiếu nhiều phim về ‘lính nguỵ’, bọn ‘lính
nguỵ’ trông thật là ác ôn! Tôi, tên ‘lính nguỵ’ hai mươi lăm năm trở về, nhìn
hình ảnh ‘mình’ trên truyền hình, cười ra nước mắt.” [8]
Khi đọc những dòng chua xót này của Trương Vũ, đọc nội dung cuộc nói chuyện giữa anh và Trần Văn Thuỷ qua cuốn Nếu
đi hết biển, nhớ chuyện Thuỷ kể về sự gắn bó, đùm bọc nhau dưới bóng cây đại thụ
là bà mẹ anh, sự phấn đấu tuyệt vời để có một vị trí xứng đáng trong cuộc sống
ngay tại nước Mỹ xa xôi này của từng thành viên trong gia đình mà anh là một tấm
gương, qua cả những bài viết điềm đạm, chặt chẽ và dứt khoát về luận lý của anh
đáp lại những bài báo vu vạ dũ dằn, chụp mũ ghê khiếp của những người tự xưng
là nhà văn, nhà báo trong cộng đồng về anh, về nội dung trao đổi với Trần Văn
Thuỷ, về thái độ bênh vực lẽ phải và tinh thần dân chủ trong vụ Joiner Center,
tôi có ấn tưọng rất mạnh về một trí thức trung thực, có đầu óc tân tiến của một
nhà khoa học Mỹ mà “hồn vía” vẫn ở nơi ông bà tổ tiên Việt Nam. Chính vì thế,
khi lần đầu gặp anh và gia đình tại Maryland, trong lòng tôi như có cảm giác gặp
lại những người thân. Trương Vũ băn khoăn nhiều sao đến tận bây giờ, đã bước
qua thế kỷ XXI mấy năm rồi, mà không ít người có vị trí và “đầu óc” trong nước,
kể cả ở Hội Nhà văn, vẫn không thay đổi thái độ khi cho rằng hễ ai cứ có ý kiến,
có suy nghĩ khác với lãnh đạo là phản động, là chống nhân dân, đúng y chang loại
cực đoan trong cộng đồng, hễ có bất cứ ý kiến, việc làm nào trái mắt trái tai họ,
thảy đều là “cộng sản nằm vùng”! Mà họ không chịu biết rằng, một trong những sự
thông minh của loài người là luôn sẵn có những tư duy phản biện, những ý kiến bất
đồng với mình, khác nhau để thêm mạnh chứ không để chia rẽ (hoà nhi bất đồng).
“Khi tôi nói chủ nghĩa cộng sản, mà các mô hình đã đổ sụp ở thế kỷ trước, không
phải là giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của đất nước, tại sao không chịu
hiểu rằng không có nghĩa là tôi chống Nhà nước hiện nay mà là đóng góp vào tư
duy tìm đường đi của đất nước?”
Tôi chia sẻ những suy nghĩ lành mạnh đó của Trương Vũ. Anh ủng hộ nhiệt tình việc
gặp gỡ, giao lưu giữa các nhà văn trong và ngoài nước, tạo một chiếc cầu nối
tình cảm trong việc hoà hợp hoà giải dân tộc. Anh mong có một cuộc gặp gỡ, đóng
góp trí tuệ, của đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu trong và ngoài nước,
một hội nghị Diên Hồng của trí thức Việt Nam.
“ Nhiều người hy vọng vào lớp trẻ ở hải ngoại sẽ dễ dàng hoà hợp với trong nước
hơn, sẵn sàng đem hiểu biết của mình về đóng góp cho đất nước vì chúng nó không
bị ám ảnh quá nặng nề bởi quá khứ đau buồn của cha mẹ chúng. Điều đó đúng,
nhưng cũng… không đúng” - Thấy tôi ngạc nhiên, Trương Vũ vẫn chậm rãi diễn
đạt suy nghĩ hình như đã lâu của mình – “Bọn trẻ sẽ có những yêu cầu về
dân chủ cao hơn, về cách làm việc khoa học hơn lớp cha ông chúng và, dĩ nhiên,
không “thể tất”trong va chạm khi tiếp xúc với trong nước như cha ông
chúng.” - Dừng lại hồi lâu, Trương Vũ mới nói tiếp – “Và đặc biệt,
chúng không có sự… không biết dùng chữ gì cho đúng đây…, vâng, không có sự ‘da
diết’, ‘đau đáu’ về quê hương như những người lớn tuổi. Anh có biết rằng,có những
người chống cộng quyết liệt, công khai, nhưng rồi không nén chịu nỗi nhớ quê,
đã tìm cách ‘lén’ về thăm nhà mà cố không cho ai biết! Trong nước có biết nỗi
niềm đó để thể tất những việc tuế toái mà họ gây ra không?”
Tôi nhớ tại một hội nghị của Hội Nhà văn mà tôi được mời tham dự, khi có ý kiến
một số tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam ở nước ngoài cần có mặt
trong Bảo tàng Văn học Việt nam sắp xây dựng xong thì một nhà văn có trách nhiệm
trong việc này đã tuyên bố với giọng rất “lính tẩy” vốn dĩ của anh ta: “Kẻ
nào đã không tham gia trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thì cho ‘de’
ra ngoài!”
Khi có ý kiến phản bác và cho rằng, Hội Nhà văn trong hoạt động của mình, cần
tích cực góp phần đoàn kết, hoà hợp dân tộc thì một nhà thơ nổi tiếng lại cho rằng
việc đó nên để… cho Mặt trận Tổ quốc làm! Và cũng chính nhà thơ này, khi có nhiều
ý kiến trong cuộc bàn thảo đó, cho rắng số tác giả tiêu biểu ở ngoài nước cần
phải được công nhận thì lại đề nghị Chủ tịch Hội Nhà văn nên tham khảo ý kiến của…
A25 (An ninh văn hoá) đã!
Rõ ràng ở đây không phải là sự “nhầm lẫn” trách nhiệm giữa các lãnh vực công việc
mà là sự ngạo mạn mạo danh cách mạng và sự khiếp hãi quyền lực đã “thành hơi thở
vào ra” của những con người này mất rồi!
Cách đây gần mười năm, con gái tôi bị một tai nạn khủng khiếp. Các bạn nhà văn,
nhà thơ Mỹ mà tôi quen biết đã ra sức vận động, quyên góp để cháu được qua Mỹ
chữa trị. Bây giờ, vết thương của cháu đã chữa được phần lớn, cháu đã lấy được
bằng Master và đã có gia đình hạnh phúc với một chàng trai Mỹ nhân hậu và đã có
một đứa con trai đầu lòng tuyệt vời. Khi tôi đang viết những trang này tại nhà
cháu thì nhận được thư của một người bạn thân của tôi từ Việt Nam gửi qua. Bức
thư khiến tôi ngẩn ra: “Bây giờ người bạn lớn của gia đình anh lại chính là kẻ
đã giết chết ba mẹ em, khiến em, và chính anh nữa, mang thương tật suốt đời! Vậy
mà anh lại đang hào hứng đi tuyên truyền hãy quên hận thù!”. Ôi chao, khó
làm sao để xoá đi vết thương quá khứ trong lòng người!
Lữ Phương đã đúng khi anh viết:
“Thật đáng buồn, trong khi hai cựu thù chính yếu của cuộc chiến tranh 1954-1975
đã quan hệ lại bình thường thì với người Việt Nam mọi chuyện vẫn còn như xưa…
Tình trạng căng thẳng kéo dài ấy chắc chắn không mang lại một chút lợi ích nào
về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi,dù thuộc bên này hay bên
kia, dù trong nước hay ngoài nước. Nó chỉ có tác dụng làm ung thối cái không
gian văn hoá của mọi người, bắt đông đảo những con người bình thường ở hai
bên,không màng đến ý thức hệ,hoặc không coi ý thức hệ là cái vì nó mà người ta
phải bắn giết nhau - trong đó rất đông là lớp người trẻ tuổi sinh ra trong thời
kỳ sau chiến tranh - phải hít thở cái không khí truyền thông đầy khói súng của
hai bên, tràn ngập những ngôn ngữ thoá mạ, chửi rủa,bôi nhọ, sỉ vả, những thứ
ngôn ngữ kết dệt bằng bịa đặt, vu khống, bất chấp sự thật, bất chấp lý trí… những
thứ chữ nghĩa của những người tìm mọi cách đào bới từ cuộc chiến tranh đã qua
những yếu tố hận thù để tiếp tục cuộc chiến tranh mang tên “nội chiến ý thức hệ,”
một cuộc chiến tranh chưa bao giờ thật sự xẩy ra trên đất nước.” [9]
Càng đọc, càng chuyện trò, càng kể cho nhau nghe những câu chuyện đơn giản mà
không dễ biết và không dễ thông cảm như thế, chúng tôi càng thấy chuyện đến với
nhau, chuyện ngồi lại với nhau, chuyện đọc nhau, chuyện nói cho nhau biết những
suy nghĩ của mình, về mình, về bạn, về những người hôm qua còn là đối địch, về
việc đối xử với nhau sao cho ra con người trí thức của một đất nước văn hiến…
là chuyện thật khó khăn, thật cần thiết và cũng thật rõ ràng là đã quá muộn
màng. Hơn 30 năm rồi chứ ít ỏi chi nữa, hỡi các nhà văn, những tâm hồn của nhân
dân!
*
Trong buổi sáng vừa đi vừa nói chuyện với tôi ở công viên La Fayette trước toà
Bạch ốc, giáo sư Lê Xuân Khoa, người có công lớn trong việc đấu tranh để chính
quyền Mỹ ban hành những chính sách thuận lợi cho cộng đồng người Việt định cư
sau 1975 và đang viết về lịch sử cộng đồng sau tập 1 cuốn Việt Nam
1945-1995, nói rằng ông không bi quan về việc hoà hợp giữa người Việt trong và
ngoài nước, cho dù còn nhiều trắc trở, cam go. Ông cũng cho biết mình sắp có chuyến
về Việt Nam trong những ngày tới.
“Số cực đoan trong cộng đồng lẫn số bảo thủ quyết liệt trong nước chỉ là số ít
mà thôi. Đa số, cho dù tạm thời thầm lặng, vẫn là những con người mong muốn thực
sự hoà hợp, hoà giải để xây dựng đất nước dân chủ và giàu mạnh, dù đề xuất giải
pháp còn khác nhau. Ngay với trong nước, nếu có dịp, tôi đều góp những ý kiến
thành tâm. Có lần tôi hỏi một vị lãnh đạo rằng, trong mười điều tôi góp thì các
vị tiếp thu được được bao nhiêu. Vị đó nói, chừng… hai điều và hẹn tôi lần sau
nếu gặp xin được nghe tiếp. Tôi cười mà rằng: góp mười điều mà đến tám điều vô
ích thì gặp làm gì cho mất thời gian của anh và của tôi, thì ông ta nói, ấy chớ,
tám điều chưa tiếp thu được nhưng với chúng tôi đều có ích! À, chưa tiếp thu mà
vẫn thấy có ích đã là tốt rồi phải không anh?” - Ông cười, tiếng cười
sảng khoái của một ông già khoẻ mạnh và đẹp lão ở cái tuổi gần 80.
Các nhà văn có chia sẻ tâm sự này của Trần Trung Đạo không:
“Tôi sinh ra và lớn lên ở Quảng Nam, nơi đã từng diễn ra những trận đánh vô
cùng ác liệt. Phần lớn các ông anh họ của tôi, ra đi theo bên này hay bên kia,
đều không trở lại. Những ngày còn bé, tôi thường đứng xem những chiếc trực
thăng tải thương hạ cánh trong sân trường cấp một của tôi. Trong số những người
chết trên đường đến bệnh xá, có người bên này và cũng có cả người ở phía bên
kia. Họ có thể khác nhau khi còn sống vì khẩu súng họ mang, kiểu áo họ mặc, chiếc
mũ họ đội, nhưng lại giống nhau khi đã chết, vẫn mái tóc đen, vẫn màu da vàng sạm
nắng, và ở một nơi nào đó trên đất nước mình, những người mẹ Việt Nam vẫn ngày
đêm mong ngày họ trở về trong căn nhà tranh, bên ngọn đèn dầu hiu hắt” [10] .
Và chuyện chính gia đình tôi nữa. Bà ngoại tôi sinh được chín người con, ba
trai và sáu gái. Ba người con gái lấy chồng Việt Minh và theo chồng tập kết ra
Bắc, ba người con gái khác ở lại Huế theo ngoại buôn bán làm ăn và đều lấy chồng
sĩ quan Sài Gòn. Trong ba người con trai thì cậu út theo Việt Minh, chết hồi
1952 vì Tây bắn. Cậu thứ đi Vệ quốc đoàn nhưng ở lại không chịu ra Bắc, rồi làm
việc lặt vặt chi đó cho hương thôn. Hồi Mậu Thân, cậu nhảy ra cũng làm mấy việc
lặt vặt cho Giải phóng khu phố, đến khi liên quân Mỹ - Sài Gòn quay lại thì cậu
bị tóm, bị đày đi Phú Quốc. Ngày thống nhất, chính quyền không cho cậu hưởng một
chính sách nào vì không biết ghi cậu vào loại “bên này” hay “bên kia”! Cậu đi
làm để kiếm sống, khi thì phụ thợ nề, khi thì phụ thợ mộc, khi ở nhà quết thịt
cho mợ tôi làm nem chả đem bán ở chợ Vỹ Dạ. Còn cậu cả của tôi là tướng quân đội
Sài Gòn bị đi cải tạo, giữa chừng vì bệnh trọng nên được về sớm, sống ở Sài gòn
một thời gian rồi mất. Ôi chao, ông Trời chơi khăm con người quá cỡ thợ mộc,
nói giùm tôi, nhà tôi rứa đó là “bên này” hay “bên kia”, là “quân miền Bắc” hay
“quân miền Nam”? Và với bà mẹ nghèo Phú Vang đã đùm bọc tôi những ngày chiến
tranh, trên cái bàn thờ bằng gỗ sứt mẻ dưới mái nhà tranh của mẹ là bốn bát
nhang thờ hai người con “phía bên này” và hai người con “phía bên kia”! Những
móng vuốt chiến tranh len sâu cấu xé trong tim gan bao người mẹ, trong huyết thống
của từng gia đình, dòng tộc. Vậy mà hơn 30 năm rồi, vẫn còn người cố tình réo
lên những tiếng “bên này”, “bên kia”, “miền Bắc”, “miền Nam” thật tàn nhẫn, như
chính họ đang muốn những móng vuốt đó tiếp tục cấu xé ruột gan những con người,
những gia đình bất hạnh!
Tôi không mơ hồ về một tiến trình chỉ thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi chỉ muốn
nói to lên một khát khao là đừng để kéo dài mãi một thực tế cách biệt đau lòng
mà đến cả những cựu chiến binh Mỹ cũng phải kêu gọi những người Việt Nam hãy
bắt tay nhau, hãy ngồi lại với nhau! Hãy vượt qua chính mình, hãy vượt qua sự
thực đáng xấu hổ đó!
Nhà văn, với tâm huyết và vị trí xã hội đặc biệt của mình, lúc này chứ không phải
lúc nào khác, hãy làm chiếc cầu nối hoà hợp lòng người.
*
Hãy bắt đầu bằng việc giao lưu giữa các nhà văn với nhau. Việc giao lưu gồm nhiều
nội dung, nhưng tôi nghĩ,trước hết hãy đọc nhau và gặp nhau. Về chuyện
đọc nhau thì thực trạng thật đáng buồn: nói chung, tình trạng “không ai đọc của
ai” là phổ biến. Ở ngoài nước thì ngoại trừ dăm ba cuốn, vài ba tác giả chủ yếu
có gây nên tranh cãi trong nước; ở trong nước thì chỉ ở những người có quan hệ
với số ít đồng nghiệp ngoài nước hoặc vài nhà nghiên cứu cố gắng kiếm một ít
sách từ nguồn này nguồn khác, lẻ tẻ và không hệ thống, và thường cũng đọc được
rất ít, lỗ mỗ. Thật hiếm hoi những người đọc được tất cả những tác phẩm tiêu biểu
ở cả trong nước lẫn nước ngoài. Trong một dịp thăm với tư cách bạn học cũ, tôi
có hỏi Nguyễn Khoa Điềm rằng chỗ Vụ Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Đảng (thuộc Ban
Tư tưởng–Văn hoá Trung ương) có bộ phận nào hoặc cá nhân nào, có trình độ, được
phân công đọc một số sách tiêu biểu của các tác giả hải ngoại rồi nhận định cái
thần của cuốn sách, của tác giả cho lãnh đạo Ban nghe để từ đó tham mưu
cho cấp trên có chính sách đúng đắn với kiều bào, trong đó có văn học hải ngoại,
như khi xây dựng Nghị quyết 36 chẳng hạn, thì Điềm cười tủm tỉm và lắc đầu: “Có
mô ông!”. Tôi đã phải nói rằng, bên chỗ ông Hữu Thỉnh cũng không có ai làm chuyện
này, bên ông cũng không nữa, sao lạ quá vậy? Không đọc đủ hai ba trăm thì đọc
hai ba chục, không đọc hai ba chục thì đọc dăm mười người, mỗi người không đọc
cả một vài chục tác phẩm của họ thì đọc vài ba tác phẩm tiêu biểu chứ. Không đọc
thì làm sao hiểu và biết họ nghĩ gì, họ đang quyết liệt và cũng đang dằn vặt điều
gì, từ đó mới có cách làm, mới có bước đi thích hợp để thực hiện nhệm vụ “đoàn
kết, hoà hợp dân tộc”, để đề xuất cơ chế “xuất bản, phát hành ở trong nước một
số sản phẩm văn hoá của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” [11] chứ.
Điềm gật gù : “Có lẽ phải nói bên anh Hữu Thỉnh lo chuyện này!”
Vẫn với giọng văn mạnh, sắc và đáo để, Thuỵ Khuê viết về vấn đề này như sau:
“… Ở khía cạnh này, văn học hải ngoại có những nét bảo thủ giống văn học chính
thống trong nước: Ta đọc ta thôi. Người Việt hải ngoại không đọc hay không
thích đọc những tác phẩm trong nước, nhất là những tác phẩm trong đó, người viết,
sử dụng những cấm kỵ như Mỹ, nguỵ… hoặc có ý chê bai, miệt thị quân đội miền
Nam… hoặc xưng tụng Bác, Đảng… Đó là bệnh chưng (Syndrome) của chiến tranh, của
lịch sử, khó có thể vượt qua. Mai Thảo, Tuý Hồng tuyên bố: không đọc ‘họ’. Thế
thì sao họ có thể đọc ‘ta’? Và họ và ta đều là ngưòi Việt. Chỉ khi nào người Việt
vượt lên trên lịch sử, chịu khó đọc ‘nhau’… Đọc trong tinh thần đứng trên hệ luỵ
lịch sử, với tâm thức bình thản, gạn đục, khơi trong,tìm hiểu những hận thù, mê
chấp của một thế hệ chiến tranh, giam cầm, tù hãm trong những cắt đứt giữa đất,
đoạn giao giữa người. Đòi hỏi một nền văn học Việt Nam toàn diện thế kỷ XX
thông qua các giai đoạn chiến tranh, trước tiên là thực hiện việc ‘đọc nhau’.
Chấp nhận những thái quá của nhau như một tất yếu lịch sử và từ đó tìm ra chân
giá trị của văn học và tư tưởng - nếu có - của mỗi tác giả trong một thế kỷ mà
lịch sử hung hãn đã dày xeó tác phẩm, ngộ độc văn chương” [12] .
Cho dù còn đầy khó khăn, trắc trở như vậy, nhưng tôi tin rằng, tuyệt đại bộ phận
nhà văn trong nước và ngoài nước ủng hộ hoà hợp, ủng hộ gặp gỡ, giao lưu và, kể
cả “đọc nhau”. Khách quan mà nói, số trí thức, văn nghệ sĩ ngoài nước đọc sách
báo trong nước nhiều và dễ hơn là trong nước đọc bên ngoài. Khi ở nước ngoài,
hàng ngày tôi đều tìm cách đọc báo chí trong nước. Chỉ cần vào mạng,
trang Saigonbao là có đủ từ báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Cộng
sản, Công an cho đến VietNamNet, Thông tấn xã Việt Nam, Tuổi trẻ, Thanh niên,
Tiền phong, Sài Gòn Giải phóng…, các tờ báo, hãng thông tấn, Đài phát thanh,
Truyền hình… nổi tiếng trên thế giới. Những tờ báo hải ngoại nghiêm túc có
không ít bài nghiên cứu và sáng tác công phu, sâu sắc và thường xuyên đăng tải
những sáng tác, nghiên cứu, những ý kiến trao đổi tranh luận thẳng thắn của các
tác giả trong nước như Hợp lưu, talawas, Văn, Văn học… Dĩ nhiên, cũng
có nhiều tờ báo tiếng Việt của cộng đồng hải ngoại mà ngay nhiều anh chị em
trong giới “mọt” sách báo ở đây cũng khuyên tôi “Anh đừng mất thì giờ đọc mấy
thứ lá cải đó.” Nhưng với tôi, sự phong phú, thuận tiện, kể cả thứ báo chí “tùm
lum” đó, có ích cho nhu cầu thông tin và hiểu biết. Việc trong nước chưa có cơ
hội để đọc, hoặc cơ hội bị hạn chế, ở mức không cần thiết, ngay cả với những tờ
báo nghiêm túc, là sự thiệt thòi đối với người đọc, đặc biệt đối với trí thức,
văn nghệ sĩ trong hoạt động giao lưu và nhu cầu học hỏi. Tại sao nước ngoài
“dám” có một mạng như Saigonbao mà trong nước lại không “dám” có một
cái gì tương tự, dĩ nhiên có thể có chọn lọc hơn?
Khi mới gặp tôi ở Washington DC, nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình nói ngay: “Em đã
đọc Ngoại ô và Phía ấy là chân trời của anh."
Khi tôi cho biết, tuần sau tôi sẽ trích đọc và nói chuyện tại Boston tiểu thuyết Ngoại
ô cũng như đã làm như vậy với Phía ấy là chân trời năm 1994,
Thanh Bình đọc ngay: “Tại sao anh không phải là người tốt?” (câu đề từ
“hồn vía” của tiểu thuyết Phía ấy là chân trời).
Mà hai tiểu thuyết này xuất bản từ năm 1982 và 1988 lận! Bởi nó có tại thư viện
ở đây cũng như rất nhiều sách báo xuất bản trong nước có mặt khá nhiều tại các
thư viện, đặc biệt là tại các thư viện của các trường đại học. Khi tập
sách Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm xuất bản ở trong nước mới chừng một tháng
thì chị Chấn ở thư viện trường Harvard gọi điện báo tin cho tôi về cuốn sách đã
có ở thư viện, trong đó có đoạn nói về tôi (nhắc lại thời kỳ tôi học lớp 8 với
Đặng Thuỳ Trâm khi ra Bắc). Còn tôi chỉ đọc được những truyện ngắn độc đáo và
những bài thơ rất lạ của Bình khi ra nước ngoài. Đối với độc giả trong nước, những
thiệt thòi, những thiếu hụt này là do chính “mình” tự tạo ra, bắt “mình” phải
chịu chứ chẳng ai vào đây mà bắt chẹt “mình” như vậy đụơc!
*
Trả lời câu hỏi của Nguyễn Mạnh Trinh “Trong văn chương anh có nghĩ có biên giới
giữa người cầm bút Việt Nam ở trong nước và ở hải ngoại? Hoặc giữa người ở miền
Nam và ở miền Bắc?”, Doãn Quốc Sĩ đã nói:
"Văn chương Việt Nam là văn chương Việt Nam! Đơn thuần chỉ có vậy! Những
người Việt miền Bắc, người Việt miền Nam, người Việt quốc nội, người Việt hải
ngoại phản ánh những gì xẩy ra qua lăng kính cá tính văn chương của từng người.
Cả nền văn chương Việt Nam nói chung do đó mà có được sắc thái lung linh phong
phú. Tôi hiểu biên giới trong câu trên là như vậy." [13]
Một thực tế khác, không dễ, nếu không nói là không thể, là sự hoà nhập của các
nhà văn vào nền văn chương sở tại. Ngay cả những nhà văn đã thành danh ở miền
Nam trước 75 cũng phải chua chát thừa nhận thực tế này.
"Trên phương diện nghệ thuật. Trên phương diện văn chương. Đối với lưu
vong Đông phương. Đối với Á châu tỵ nạn. Ta với ta thôi, với họ, vô phương, mọi
con đường đều chặn lấp, mọi cánh cửa đóng chặt. Võ Phiến nói Nhật Bản, Ấn Độ,
Trung Hoa tới đây đã mấy đời còn đứng bên ngoài lề. Làm gì có tiếp nhận và chỗ
đứng nào cho Việt Nam mới tới. Chúng, Bình Định kêu Mỹ bằng chúng, giữ đất thật
kỹ. Hoạ hoằn chỉ một vài thiên tài lỗi lạc lưu vong của châu Âu lọt được vào và
tạo được danh vọng tên tuổi. Da vàng tuyệt đối không, dù bậc thầy, dù thiên
tài. Như vậy cho hết thảy mọi ngành, từ văn chương tới hội hoạ, từ sân khấu tới
âm nhạc… Hoa Kỳ rộng rãi tiếp nhận người tỵ nạn thế giới vào xứ sở mình. Đồng
ý. Nhưng ‘nó’ có tiếp nhận mở đường, trải chiếu hoa, dâng đất đứng cho văn học
nghệ thuật tỵ nạn hay không, đó lại là chuyện khác. Võ Phiến hiểu rất rõ điều
đó. Câu trả lời của ông là không. Cho những người làm văn học nghệ thuật ta tới
đây, chưa tạo dựng nổi một tầm vóc với thiểu số mình đã vọng động tưởng cho
mình một tầm vóc quốc tế hư ảo lố bịch…” [14]
Và chính thực tế người đọc tiếng Việt, tác phẩm viết bằng tiếng Việt ở nước
ngoài ngày càng giảm sút là một thực tế nhức nhối nữa của không ít nhà văn Việt
Nam ở hải ngoại, khiến họ ngày càng hướng về độc giả nơi quê nhà. Nguyễn Ngọc
Bích trích lời Nguyễn Mộng Giác mà ông đồng tình:
"Giới trẻ ở hải ngoại có tham gia vào hoạt động chữ nghĩa không? Và ông trả
lời là không. Không vì nhiều lý do: tiếng Việt bập bẹ, hao hớt đi dần từ tiếng
Việt thông dụng ở miền Nam trước 75, không cùng kinh nghịệm với đa số những con
người còn đọc tiếng Việt ở hải ngoại, trong khi đó thì dù có internet, nói
chung, chúng ta vẫn chưa viết cho người đọc trong nước. Theo ông, nhận thức ấy
là then chốt để giải quyết tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn hoá hiện nay ở
hải ngoại.” [15]
Hy vọng nhà văn sẽ là, và nhất định là, những người chia sẻ đầu tiên tâm sự của
cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt:
“Ba mươi năm qua, có những bà mẹ ngày ngày thắp hương cho những người con của
mình, người là chiến sĩ giải phóng đã hy sinh, người là lính của chế độ Sài Gòn
đã tử trận. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thấu hiểu tâm tình của người mẹ
Việt Nam, cùng thắp nén nhang cầu cho linh hồn của những người con của mẹ được
siêu thoát” [16]
Đêm ở lại nhà bác sĩ Tôn Thất Chiểu ở Washington DC hè năm 2005, chúng tôi cùng
nhau chia sẻ những băn khoăn về ước vọng hoà hợp lòng dân để hưng thịnh đất nước,
về chuyện đồi Vọng Cảnh, nhắc tới chuyến về thăm quê hương của thầy Thích Nhất
Hạnh mà anh Chiểu được tháp tùng. Rồi anh ước mong sao có một lễ cầu siêu cho mấy
triệu người đã chết vì chiến tranh,dù bên này hay bên kia thì cũng là con của
những người mẹ đau khổ như ông Võ Văn Kiệt nói đó,cũng là con dân của Mẹ Việt
Nam.
"Vì một khó khăn nào đó mà Nhà nước khó đứng ra tổ chức thì hãy cho phép
chúng tôi làm với tâm thành tất cả đều cầu mong cho một nước Việt Nam mạnh giàu
và đồng tâm. Đó sẽ là một hành động hơn nhiều lời kêu gọi đoàn kết hoà hợp."
- Giọng anh Chiểu nhỏ nhẹ, sâu lắng.
Điều anh Chiểu ước nguyện, và cũng là ước nguyện của nhiều người Việt Nam lương
thiện, đã thành hiện thực trong chuyến về quê hương lần thứ hai của thầy Nhất Hạnh:
ba cuộc đại cầu siêu Trai đàn Chẩn tế vừa diễn ra ở Thành phố Hồ Chí Minh, Huế
và Hà Nội đã là một cái gì thật lạ, thật ngoạn mục, thật rực rỡ của khát vọng
nghẹn ngào về hoà bình, về hoà hợp dân tộc của hơn 80 triệu người đầu đen máu đỏ
Việt Nam, trong đó có khát vọng cháy bỏng của mấy triệu người đã chết trong chiến
tranh! Còn nhiều lời lẽ, nhiều hoạt động muốn ngăn chặn ba cuộc đại cầu siêu.
Tôi biết. Còn nhiều sự chống đối việc làm của thầy Nhất Hạnh với nhiều lý do.
Tôi biết. Và nhiều người cũng biết như tôi. Nhưng điều tôi BIẾT hơn cả, điều mà
bao người BIẾT hơn cả, là đất nước cơ hàn sẽ tan nát đến bao giờ nữa với hết
bom đạn lại đến chia rẽ lòng người chỉ vì những thù hận chua xót của một thời,
của sự khác biệt không tránh khỏi một thời khắc nghiệt! Nhưng đất nước Việt Nam
là một, muôn đời vẫn chỉ là một. Chẳng lẽ có một người Việt Nam nào lại không
công nhận điều hiển nhiên này và đó là điều quan trọng hơn tất thảy mọi lý do
chống lại nó? Cần có những tấm lòng và việc làm cụ thể như của thầy Nhất Hạnh,
của hàng triệu trái tim lương thiện Việt Nam trong nước và ngoài nước, cùng những
đầu óc bình tĩnh và lành mạnh nhất trong chính quyền để tiến hành các hoạt động
hoà giải, hoà hợp dân tộc đã quá muộn màng! Thời gian qua, hai tiếng có lẽ được
nhắc đến nhiều nhất, hai tiếng được bất cứ ai hễ nói đến một giải pháp để đoàn
kết dân tộc đều nói đến là hai tiếng tấm lòng. Nhưng để có tấm lòng
như thế đâu có dễ dàng, nếu lòng còn bị bao thứ tham sân si cuốn hút. Nó phải
phát xuất từ cái tâm của Đạo, của Nghĩa, từ cõi thiêng liêng của một phật tử
thành tâm.
Năm ngoái, tôi vào thiền tu tại Tu viện Bát Nhã - Bảo Lộc một tuần, theo gợi ý
của hai con gái tôi đã tham dự trước đó, điều mà hè 2005, dù có đến thăm nhưng
tôi chưa thực hiện được ở tu viện Lộc Uyển, bắc Cali. Giáo lý nhà Phật và các
ngôi chùa Huế vốn không xa lạ gì với tôi từ nhỏ, dù tôi không phải là một Phật
tử quy y ở một ngôi chùa nào. Nhưng lần này tôi muốn một lần nữa trực tiếp hiểu
và biết về cách “nhập thế” của môn phái Nhất Hạnh, từ một khía cạnh lựa chọn của
riêng tôi.
Tôi đã tham gia trọn vẹn các chương trình của Tu viện đề ra cho cả khoá tu, mỗi
ngày từ 4 giờ rưỡi sáng đến 9 giờ rưỡi đêm, ở xóm Rừng-Phương-Bối của thầy Pháp
Bảo. Những phút giây tịnh tâm tuyệt đối giữa không gian trong sạch và yên tịnh
nơi Chánh Điện lúc rạng sáng, những răn dạy điều hay lẽ phải đã “cập nhật” của Kinh
Nhật tụng, những sải chân thanh thoát trong các buổi Thiền hành giữa đồi chè và
cà phê như nghe được cả tiếng lá cây khẽ reo trong gió mai... khiến con người
như cảm nhận được rõ ràng một điều gì, những điều gì thật lạ mà thật gần gũi,
không có điều gì khó mà không làm được nếu với những tấm lòng, với những tâm
thái như thế, trong cây, trong gió, trong chính ta... Tôi nhớ lại buổi nghe thầy
Nhất Hạnh thuyết giảng tại Trung tâm Festival trong lần thứ nhất thầy về thăm
quê hương. Thầy nói đến cả sự hay của việc nhà nước đang vận động xây dựng khu
dân cư văn hoá: “Người xuất gia phải phục vụ thôn xóm, khu phố, làm sao để có
an lạc, tình thương ở đó.” [17]
Thầy lại nói, chúng ta quảng bá văn hoá Việt Nam ở phương Tây mà sao ta không
thể và không ủng hộ sự phát triển văn hoá Việt Nam ngay tại đất nước Việt Nam
mà một đặc điểm hàng đầu của nó là văn hoá Hiếu hoà.
Tôi lại nhớ đến buổi nghe thầy Huyền Diệu thuyết giảng tại Học viện Phật giáo
Huế. Thầy Huyền Diệu sôi nổi, hoạt bát hơn thầy Nhất Hạnh trong lúc thuyết giảng,
nhưng nội dung thầy truyền đến cho người nghe vẫn là điều mà tôi đâ nghe từ thầy
Nhất Hạnh: phải biết yêu thương con người, yêu thương đồng loại, yêu thương đồng
bào, yêu con sông, ngọn núi, yêu cả cái thung lũng đầy rắn rít của xứ Nepal hẻo
lánh... Phải có lòng yêu thương cao cả đó thì đàn Hồng hạc cao sang mới tụ tập
tới làm bạn với thầy và thầy mới đủ sức “vào hang cọp” là trung tâm chỉ huy
quân phiến loạn thuyết phục, Thầy mới cả gan vào tận Hoàng cung để thuyết phục.
Thuyết phục gi? Thuyết phục sự hiếu hoà, thuyết phục con người Nepal hãy yêu lấy
con người và đất nước Nepal! Bằng tấm lòng yêu thương kỳ lạ đó, thầy đã góp phần
to lớn đem lại hoà bình cho xứ sở Nepal đau khổ. Thầy đã kêu lên: chuyện xứ
Nepal vậy, còn xứ ta sao giờ? Người Việt Nam không thể yêu người Việt Nam sao,
người Việt Nam không thể cùng yêu xứ sở Việt Nam hay sao? Vì sao lại có chuyện
kỳ lạ đến như thế?
Tiến trình hoà giải, hoà hợp dân tộc Việt Nam sẽ rất cần những tấm lòng,những
bàn tay,những đầu óc như của thầy Nhất Hạnh, thầy Huyền Diệu.
Và các nhà văn, hơn ai hết, phải là người ủng hộ nhiệt tâm, ủng hộ bằng việc
làm cụ thể, những tấm lòng như thế, những bàn tay và đầu óc như thế.
(còn 1 kì)
© 2007 talawas
[1]Nguyễn Khoa Điềm, “Bốn nhà văn Mỹ xông đất Hội Văn học Nghệ
thuật Thừa Thiên - Huế” Báo Tiền phong số Xuân 2007
[2]Hoàng Khởi Phong, Cây tùng trước bão, Thời văn,
California 2001.
[3]Trương Vũ, “Lối mòn của tâm thức”, talawas 3/9-4/9/2004 http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2745&rb=0307
[4]Nguyễn Gia Kiểng, “Thời điểm của một xét lại bắt buộc”, Thông
luận Online ngày 13/6/2007, http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1881
[5]Dốc Thượng, “Sự trong sáng và minh bạch của Việt Weekly trong
vai trò truyền thông”, Việt Weekly online số ngày 14/6/2007, http://65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/issues/vw5n25/minhBach.html
[6]Theo Lê Xuân Khoa trong Việt Nam 1945-1995, NXB Tiên Rồng,
Maryland, miền Nam chết 100.000 quân (ông Nguyễn Xuân Vinh nói tại Washington
DC ngày 30/4/2005 thì lính miền Nam chết 260.000), nửa triệu dân; miền Bắc chết
hơn 1 triệu quân và cán bộ, 2 triệu dân.
[7]Nguyễn Võ Thu Hương, “Quên và nhớ: Người Việt trên thế giới,
chúng ta là ai?”- talawas ngày 16/7/2004, http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2406&rb=0307
[8]Trương Vũ, “Lối mòn của tâm thức”, bài đã dẫn
[9]Lữ Phương, “Chiến tranh Việt Nam: chủ quyền quốc gia, xung đột
ý thức hệ và hoà giải dân tộc”, talawas 30/4/2005, http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=4595&rb=0307
[10]Trần Trung Đạo, “Ba mươi năm nỗi đau chưa thấm”, talawas
26/4/2005
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=4368&rb=0307
[11]Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện NQ36
[12]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận…”, bài đã dẫn
[13]Doãn Quốc Sĩ, “Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh
Trinh”, Hợp lưu 35
[14]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận…”, đoạn Mai Thảo viết
về Võ Phiến
[15]“Tình hình văn học hải ngoại: khủng hoảng và giải
pháp”, Nhịp sống số 10/2005
[16]Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời Tuổi trẻ ngày
28/5/2005.
[17]Thích Nhất Hạnh, Trả
lời phỏng vấn đài BBC ngày 31/5/2007
5. “Hãy bắt đầu từ trong nước”
Đó là câu trả lời tức khắc, như kết quả sau bao tháng ngày suy nghĩ của anh Ngô
Vĩnh Long, giáo sư Đại học Maine, khi tôi hỏi: “Theo anh, bây giờ chuyện hoà hợp
dân tộc, hoà hợp các nhà văn với nhau nên bắt đầu bằng việc gì?” Anh về Boston
để chuẩn bị ngày mai sẽ cùng giáo sư nổi tiếng Noam Chomsky nói chuyện về Việt
Nam nhân ngày 30/4/05 tại giảng đường lớn Đại học MIT và sau đó cùng Nguyễn Bá
Chung và tôi gặp gỡ, nói chuyện với sinh viên Việt Nam đang học tại Boston. Chiều
đó, chúng tôi dùng cơm với nhau và bàn thảo về đề tài nói trên cho đến quá nửa
đêm. Ngô Vĩnh Long nguyên là sinh viên xuất sắc và sau đó đầy triển vọng là
giáo sư của Đại học Harvard, trường Đại học tổng hợp số một của thế giới. Nhưng
anh lao vào cuộc đấu tranh không mệt mỏi và không nề hy sinh cả một tuổi trẻ để
chống chiến tranh Việt Nam, đòi quân Mỹ rút về nước, đòi hoà bình cho đất nước
thân yêu. Cuộc đấu tranh với những cuộc tuần hành có hàng chục vạn người, những
cuộc chiếm giữ trường Harvard, Tổng lãnh sự quán Sài Gòn… của cả người Việt và
Mỹ, mà Long luôn ở hàng đầu, qua những câu hỏi của chính sinh viên Mỹ nối nhau
hỏi anh và giáo sư Noam Chomsky và sau đó là của sinh viên Việt Nam với anh, với
Chung và tôi, dường như đã là chuyện đời xưa đối với họ. Và anh đã phải trả
giá: bị đẩy ra khỏi giảng đường Harvard, nơi mà ngay biết bao giáo sư Mỹ ao ước,
có lúc đã phải đi quét sơn cho các nhà vào mùa hè để có tiền tiếp tục hoạt động...
FBI thì theo kè kè bên lưng, có mặt quanh nhà anh suốt bao năm tháng. Hồ sơ mật
của FBI về anh, mà một người quen lộ cho anh biết, dài đến 12.000 trang. Tìm mọi
cách, luật sư và người bạn anh mới chỉ “moi” được 2000 trang. Tờ báo lớn Boston
Globe đã viết bài vu vạ anh là cộng sản nên đã phải điều đình với luật sư
của anh công khai đăng trên nhiều báo xin lỗi và bồi thường danh dự. Anh đã chọn
giải pháp này thay vì lấy một khoản tiền lớn.
“Nhưng khi về trong nước, cũng cách nay không xa lắm đâu, có lúc tôi bị nghi ngờ
coi chừng là… CIA, nên bốn năm năm trời tôi bị từ chối cấp visa về nước! Anh em
chưa hiểu được luật pháp Mỹ nên cứ suy ra, nếu chống đối như vậy ở Việt Nam thì
bị tóm cổ rồi chứ, sao bọn FBI không cùm tôi mà cứ cho đấu tranh, chửi bới
chúng nó suốt mấy chục năm trời vậy?” - Long cười rồi lại hăng hái –
“Sở dĩ tôi nói, về việc hoà hợp hoà giải, phải bắt đầu từ trong nước với ý
nghĩa, trong nước cần CHỦ ĐỘNG thì mới có sức thuyết phục. Chứ đến loại
như Nguyên Ngọc mà còn bị rầy rà, loại như bọn tôi trong chiến tranh thì được
hoan hô mà hết chiến tranh lại bị nghi ngờ, đối xử có lúc mất tình mất nghĩa
thì làm sao những người có ‘ân oán’ với Nhà nước, có lúc đã dính vào uỷ ban này
uỷ ban kia chống cộng sản… lại tin mình đại nhân, đại nghĩa. Ngay đối với Chung
đây cũng là một ví dụ.”
Lại nói tới Nguyễn Bá Chung. Con người đã nhiều năm nay gần như say mê chỉ với
sách vở về Việt Nam, về văn hoá Việt Nam, luôn ao ước một Việt Nam giàu mạnh và
tự do, mà vì nó đã phải bỏ hết công sức tiền của thời gian, lần lượt mất gần hết
gia sản; con người luôn hết mình với bè bạn văn chương nghệ thuật Việt Nam qua:
Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguỵ Ngữ, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Ngọc
Hiến, Lê Minh Khuê, Hữu Thỉnh,Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang Thiều, Tô Nhuận Vỹ,
Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Ý Nhi, Lê Lựu, Bảo Ninh, Tô Đức Chiêu, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Trung Trung Đỉnh, Lý Lan, Minh Ngọc, Trần Văn Thuỷ, Đặng Nhật Minh, Đỗ Minh Tuấn,
Nguyễn Quyến…; con người đã bị cộng đồng chống cộng cực đoan đánh nghiêng ngả
suốt mấy năm trời với vu cáo “Cộng sản nằm vùng” khiến hạnh phúc riêng suýt bị
tan vỡ; con người đã in trong nước đến ba tập thơ, dịch tác phẩm của nhiều nhà
thơ tài ba nhất Việt Nam và vừa hoàn thành việc dịch ra tiếng Anh tuyển tập thơ
thiền Lý-Trần, do giáo sư Lê Mạnh Thát đề tựa, cho một nhà xuất bản trong nước…
người như thế mà không phải chỉ một lần vất vả với “cơ quan chức năng” mỗi khi
về nước! Vậy mà Chung vẫn viết những vần thơ nhân ái và hoà hợp
Hãy trân trọng ngôi nhà vô uý
Ôm thương đau mọi nẻo quê nhà
Thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ
Đơm cội nguồn đất mẹ đầy hoa [1]
Viết tới đây tôi chợt nhớ đến Trần Vàng Sao. Chúng tôi vẫn kêu nhau bằng cái
tên tục thời cùng học tiểu học ở Vỹ Dạ mỗi lần gặp nhau. Lần đó, võ sư Nguyễn
Văn Dũng như mọi năm lại tổ chức ở nhà anh một cuộc rượu “của mấy thằng Tân Tỵ”.
Có cả Nguyễn Quang Hà và bác sĩ Tống Văn Xuân (sau này khi về hưu rồi thì Hà
nói Hà sinh năm 39 cơ, nhưng vẫn dự với anh em cho vui). Hôm đó, cu Nứt (tên tục
của Trần Vàng Sao khi nhỏ, vì lão ta có một vết sẹo giữa môi trên) sôi nổi:
“Quắn (tên tôi lúc nhỏ vì tóc tôi xoăn tít), tau kể mi nghe chuyện ni. Mấy
mụ bán bánh nậm bánh bèo ngoài chợ Vỹ Dạ bữa qua có việc qua nhà tau. Mấy mụ kể
chuyện tau tham gia phong trào từ năm sáu mấy rồi lên rừng ra Bắc đủ cả mà vẫn
bị xang bất xang bang vụ Sông Hương với ‘làn gió độc’ chi đó. Hồi nớ mấy mụ phục
và sợ tau lắm. Rồi mấy mụ bình luận, ‘bây giờ chú thua xa bầy tui vì không có
tiền ăn bánh, mua nước mắm thì mua bì một ngàn!’ Rồi mấy mụ cười toà loà ra,
tau cũng cười theo mà ứng khẩu diễn ngay ý của mấy mụ bằng hai câu thơ ‘mi theo
cách mạng quá trời, bây giờ nghĩ lại đã đời mi chưa!’. Mấy mụ càng cười ngả
nghiêng, hẹn trưa mai ra chợ mấy mụ sẽ đãi tau một trận Ít-Bèo-Nậm-Lọc!”
Hồi cuối năm ngoái, khi vô Thành phố Hồ Chí Minh, tôi có dịp ngồi chuyện trò mấy
buổi với hai anh Trần Trọng Thức và Chánh Trinh (Lý Quý Chung). Tôi biết và
quen hai anh từ hồi hai anh còn làm ở báo Tuổi trẻ. Trần Trọng Thức thân
tình với tôi hơn vì nhiều mối quan hệ riêng chung, hay ngồi “đấu láo” (từ của
Thức) với nhau mỗi lần có dịp. Anh là một nhà báo giỏi, lịch lãm và nhân hậu.
Tôi thích anh vì ở anh ý tưởng luôn rõ ràng, mạnh mẽ nhưng không bao giờ quá
khích. Thức từ tốn nói:
“Hai mươi chín năm nay mình chưa bao giờ có ‘vấn đề’ chi với chế độ. Nhưng 29
năm làm báo dưới chế độ mới vẫn không ‘gột’ được cái ‘vết’ làm báo bảy năm dưới
chế độ cũ. Mình cảm nhận rất rõ điều ấy từ lòng tin nơi lãnh đạo. Mà bảy năm
làm báo không phải chống cộng, có bài còn được trong ‘R’ trích trong tài liệu
tuyên truyền, dẫn chứng như một biểu hiện chống đối chế độ Sài Gòn đó nha. Vậy
thì nên nói sao đây về chuyện hoà hợp mà Vỹ hỏi?…”
Và Chánh Trinh. Lần đó, do kẹt một chương trình bình luận bóng đá quốc tế cho
đài truyền hình Bình dương nên anh đến trễ. Chỗ hẹn là quán Café nhỏ mà sang của
con gái anh tại một cao ốc trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Chúng tôi vừa ăn
trưa vừa nói chuyện. Tôi có một kỷ niệm với Chánh Trinh. Mùa hè năm 1994, tôi
cùng Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa qua dự Hội thảo văn học
viết về chiến tranh do WJC tổ chức, đúng dịp Cúp Bóng đá Thế giới. Các bạn người
Việt ở Boston mua vé chợ đen cho chúng tôi đi xem trận Argentina gặp Nigeria.
Ngay sau trận đấu, Maradona bị phát hiện dùng doping. Giữ lời hứa trước lúc qua
Mỹ, tôi viết ngay một bài gửi về cho Chánh Trinh, lúc đó đang phụ trách trang
thể thao của báo Lao động. Và Chánh Trinh cho chạy tít lớn ngay góc trang
nhất: “Tôi xem trận bóng cuối cùng của Maradona! - Bài của Tô Nhuận Vỹ gửi về từ
Mỹ”.
Nhưng lần này tôi nói với Chánh Trinh rằng, tôi muốn nói chuyện không chỉ với
nhà báo Chánh Trinh mà còn muốn nói chuyện với ông Lý Quý Chung nguyên Tổng trưởng
Thông tin của Chính quyền Dương Văn Minh nữa. Anh cười rất tươi và “OK”. Lý Quý
Chung nói nhiều và tôi nghe là chính. Anh chân thành và thẳng thắn.
“Tàu làm công tác ‘chuẩn bị tình huống’ tốt hơn ta. Suốt 29 chín năm, tôi luôn
được đối đãi tử tế, trừ một vài việc nhỏ không đáng kể, nhưng tôi biết, tôi vẫn
chưa thực được tin cậy. Tôi mà ở bên Tàu thì tôi vô Đảng rồi! Khoảng đầu những
năm chín mươi, ông Võ Văn Kiệt nói với tôi rằng, sẽ có người ngoài Đảng làm Bộ
trưởng. Nhưng mãi không thấy. Võ Tòng Xuân không làm được Bộ trưởng Nông nghiệp
à?”
Trong suốt câu chuyện, Lý Quý Chung nhắc nhiều tới ông Võ Văn Kiệt, người mà
anh có cảm tình và sự quý trọng đặc biệt:
“Khi biết tôi đang viết hồi ký, dĩ nhiên có nói tới ‘lực lượng thứ ba’, ông dặn:
‘Phải viết thật kỹ nha. Không được quên họ.’ Sau năm 1975, lực luợng đó coi như
bị ‘de’ rồi mà ông cựu Thủ tướng còn có suy nghĩ thuỷ chung và nhân ái như vậy,
quý hoá quá chứ.”
Tôi đồng ý với Ngô Vĩnh Long, muốn hoà hợp, hoà giải, trong nước phải là đầu
tiên, là quan trọng nhất. Phải là một tấm gương sáng, thật sáng đại nhân đại
nghĩa để mọi người có thể soi vào, mà noi theo. Cao Huy Thuần nói lên mong ước,
và cũng là kiến nghị, của nhiều người:
“Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, giữa người Việt với người Việt, kẻ thua có đạo
đức của kẻ thua, kẻ thắng có đạo đức của kẻ thắng. Ngày xưa ‘bất sát hạ mã chi
nhân’ là đạo đức của kẻ thắng. Ngày nay nên hiểu chữ ‘sát’ một cách rộng rãi
hơn. Đừng giết thể xác, đừng giết tinh thần. Cũng đừng nói thắng bại nữa: máu
chảy ruột mềm. Nói ngàn lời không bằng một hành động tượng trưng cụ thể. Thiếu
gì hành động như thế! She Stoops to Conquer, nhan đề đó của một cuốn tiểu
thuyết trong văn chương Anh e nói lên điều tôi muốn nói chăng? Cúi xuống để
chinh phục. Khiêm cung là thái độ của người quân tử. Anh nói ‘lòng tin’. Tôi
nói: Khiêm cung và thành tín. Chắc cũng giống nhau” [2] .
Có ý kiến, quan điểm khác nhau nhưng đều có tấm lòng tha thiết đối với quê
hương đất nước đã là quá quý, là quá đủ để có thể ngồi lại với nhau, bàn thảo
chuyện trò với nhau. Chuyện đó đâu có gì là bất thường mà là quá bình thường với
thực tế của cuộc sống trong thế giới ngày nay, trong chính truyền thống chống
xâm lược và ngay trong xây dựng hoà bình của Việt Nam. Vậy cớ làm sao các nhà
văn không ngồi lại được với nhau? Cớ sao chúng ta lại không làm được điều mà
Voltaire nói: “Tôi ghét câu nói của anh nhưng tôi sẽ tranh đấu đến chết cho cái
quyền anh được nói câu đó!”
Ngay đến như thượng nghị sĩ John McCain, một cựu tù binh nổi tiếng trong chiến
tranh cũng nói rằng, có những vấn đề còn khác biệt giữa hai bên mà Mỹ cần thúc
đẩy tiến triển nhưng, “Chúng ta không cần phải làm điều này như những kẻ
thù mà trên tinh thần những người bạn.” [3]
*
Vậy, với các nhà văn, chúng ta nên bắt đầu từ đâu? Hãy từ những việc đơn giản,
chứ cũng chẳng có gì quá to tát.
Nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đề xuất về việc “đọc nhau”:
“Ta nên có một bộ phận nghiên cứu cho nhập với số lượng cần thiết tất cả những
gì có thể nhập được để nghiên cứu. Về nội dung có thể mình không xài được nhiều
nhưng về hình thức ít ra mình cũng học thêm được một cái gì mới. Vấn đề quyết định:
thử hỏi ai trong chính quyền ta làm được việc này? Hay lại giao cho con buôn
mang danh cơ quan Nhà nước thực hiện? Tôi chưa tìm được câu trả lời.” [4]
Ý kiến của anh Xuân là chân thành và thẳng thắn, nhưng tôi nghĩ, có thể làm được
nhiều hơn thế. Những ngày đầu hè 2007 này, anh Xuân cũng có dịp đến Boston tham
gia chương trình nghiên cứu của WJC. Tại đây, nói chuyện với tôi và Nguyễn Bá
Chung, anh đã đề xuất những kiến nghị mạnh mẽ để có thể có sự đóng góp nhiều
hơn của những Phật tử chân chính mà các học trò của thầy Nhất Hạnh đang ở hàng
đầu và có những ý kiến mạnh mẽ, thiết thực hơn để làm sao các nhà văn “trong -
ngoài” có thể ngồi lại với nhau “bàn việc nước”.
Có không ít tác phẩm hay, sáng tác và nghiên cứu, của các tác giả người Việt ở
nước ngoài cần đưa tới người đọc trong nuớc chứ không chỉ đến với các nhà nghiên
cứu và, cần những người “xắn tay áo” nhưng không nhất thiết phải là Nhà nước,
dĩ nhiên, cuối cùng cũng phải được “ông” Nhà nước ủng hộ. Nhưng tôi không tin
lúc này có “ông” Nhà nước nào lại công khai không ủng hộ việc hoà giải, hoà hợp
giữa nhà văn với nhau. Tôi nghĩ, để “bắt đầu của bắt đầu” và để kế hoạch có
tính khả thi, trước hết, Hội Nhà văn cần có bộ phận văn học Việt Nam ngoài nước.
Tham gia bộ phận này cần một số nhà văn, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm và hiểu
biết ít nhiều văn học hải ngoại, có khả năng nghe ý kiến đối thoại và đề xuất
sáng kiến. Bộ phận này có mấy việc phải làm .
Đề xuất những tác phẩm có chất lượng của văn học Việt Nam ở
ngoài nước để giới thiệu với trong nước.
Đề xuất và tham gia việc tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, hội
thảo về sáng tác, về học thuật và những nội dung có thể giúp đỡ nhau giữa nhà
văn Việt Nam trong và ngoài nước,trước hết chú ý đến lực lượng trẻ và những nhà
văn ủng hộ việc gặp gỡ, đối thoại (như cuộc gặp gỡ,trao đổi về thơ của các nhà
thơ Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Du Tử Lê, Nguyễn
Đức Tùng vừa qua mà nội dung được talawas ngày 07/6/2006 thông tin là
một hoạt động thuộc đề xuất này, cần được nhân rộng ra).
Hiện nay, có một hoạt động mà nếu có đủ mặt đại biểu nhà văn
trong nước và nhà văn Việt Nam ở nước ngoài thì đó sẽ là biểu hiện có ý nghĩa đầu
tiên của cố gắng này, là việc giới thiệu tác giả, tác phẩm tại Bảo tàng Văn học
Việt Nam.
Dĩ nhiên, những người bảo thủ truyền thống ở trong nước vốn luôn giữ thái độ
“ngạo mạn cộng sản” và lực lượng chống cộng cực đoan ở ngoài nước giống
nhau ở thái độ kịch liệt chống dối các nhà văn Việt Nam hiện sống
ở nước ngoài có mặt trong Bảo tàng. Nhưng dù còn nhiều tranh cãi gay gắt về mức
độ “có mặt”, dù còn không ít ý kiến chống đối sự có mặt, xu hướng có sức thuyết
phục để dần trở thành xu hướng chung là không đồng tình với thái độ trên đây.
Thái độ khoa học lành mạnh đã dần được khẳng định và cần khẳng định là:
Đây là Bảo tàng của văn học Việt Nam, Việt Nam của bốn ngàn
năm văn hiến, chứ không dành riêng cho một giai đoạn nào;
Với các tác giả có thể trong quá khứ đã có tác phẩm và thái độ
chống đối Đảng Cộng sản và Nhà nước, nhưng có tác phẩm có giá trị nghệ thuật
và hiện tại ủng hộ sự hoà hợp dân tộc và phát triển của đất nước thì chọn
tác phẩm để giới thiệu;
…
Ngay với tác giả trong nước đã từng tham gia kháng chiến, có
tác phẩm đóng góp cho văn học cách mạng, nhưng đã và đang có những hoạt động,
tư tưởng và tác phẩm đi ngược lại với định hướng của Nhà nước, vẫn không thể vứt
bỏ những đóng góp của họ trước đây.
Đó là những cái nhìn tỉnh táo, thực tế.
Dĩ nhiên còn nhiều tuế toái, phức tạp để có thể vui vẻ “ngồi chung một chiếu”
như vậy. Trong nước có phức tạp của trong nước, ngoài nước có phức tạp của
ngoài nước. Như có nhà thơ người Việt nổi tiếng hiện ở Mỹ đã cùng anh em trong
nước chọn xuất bản một tập thơ của mình (dĩ nhiên để có thể xuất bản tập thơ
này, anh em trong nước đã phải “toát mồ hôi” thuyết phục không ít “cửa”). Nhưng
khi tập thơ ra mắt bạn đọc, chính nhà thơ đó, không biết hãi “cộng đồng” đến cỡ
nào mà đã tuyên bố với họ là anh… không hề hay biết chi chuyện này hết! Anh em
trong nước tá hoả tam tinh và khi gặp lại hỏi nguyên cớ thì nhà thơ nọ trả lời
tỉnh quơ: “Tôi không nói vậy để họ thịt tôi à?!”
Anh em ớ người: ở cái xứ dân chủ mà sao không có lấy chút dân chủ nào vậy cà!
Nhưng chính cái tiền lệ “trật mấu đòn gánh” này lại gây khó cho anh em đã kiên
trì đề nghị “trải chiếu ngồi chung” trong Bảo tàng Văn học. Những người phản đối
việc ngồi chung lấy đó làm một trong những ví dụ cho sự phức tạp của việc “đưa
mấy cha” vào ngồi chung. Vẫn anh nhà văn có cách ăn nói “lính tẩy” nọ lên tiếng:
“Giả dụ, là tôi giả dụ thôi nhớ, cứ cho là chọn được bốn dăm người đi, nhưng cả
bốn dăm cha đó đều lên đài lên báo tuyên bố, mà toàn đài báo Tây cả nhé, là mấy
chả không thèm ngồi với mấy thằng cộng sản trong nước. Thế thì Hội Nhà văn là
cái…mặt mẹt gì!”
Cho dù có những nhà văn từ chối tham gia ngồi chung chiếu (Ngay trong nước cũng
có người từ chối chứ chưa kể ở nước ngoài. Và trong số nhà văn tôi quen biết ở
nước ngoài cũng có người từ chối vì nhiều lẽ mà lẽ chính tôi tin là… hãi cộng đồng).
Cho dù có những tác giả như nhà thơ sợ bị cộng đồng “thịt” đã nói trên kia…
Nhưng may thay, nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam ở nước ngoài không xa lạ với đất
nước như thế, không sợ bị “thịt” như thế.
Khi biết tin về dự tính của Bảo tàng Văn học, chỉ trong số các nhà văn, nhà
thơ, nhà nghiên cứu mà tôi quen biết, nhiều người đã tỏ thái độ hoan nghênh “sự
cởi mở, dù đã quá chậm” của trong nước. Những anh chị như Luân Hoán, Hoàng Khởi
Phong, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trương Vũ, Thuỵ Khuê, Cao Huy Thuần, Trần Kiêm
Đoàn, Nguyễn Bá Chung, Trần Vũ, Đặng Tiến… Họ giới thiệu những tác phẩm theo họ
là giá trị nhất của các tác giả mà họ am tường. Họ viết thư một lần và nhiều lần,
một khi nhớ thêm hoặc có suy tính mới. Họ không sợ gì hết, chỉ sợ sự thiếu
chính xác của trong nước và của chính mình thôi. Và đặc biệt khi được hỏi về
mình, họ rất tự trọng và tỏ ra am tường tình hình trong nước. Như Thuỵ Khuê chẳng
hạn.
“… Tôi chưa có tác phẩm nào ưng ý. Nhưng nếu phải chọn thì nên chọn cuốn Cấu
trúc thơ,cuốn này chuyên về học thuật; có lẽ nó dễ được chấp nhận hơn,mặc dầu vẫn
còn nhiều thiếu sót và cần phải hiệu đính lại. Còn các cuốn Sóng từ trường chuyên
về phê bình là lãnh vực của tôi, nhưng như anh thấy trên mạng. đã có 3 cuốn,
nhưng trong đó tôi viết nhiều điều rất có thể là chưa được dễ dàng chấp nhận
trong lúc này” [5] .
Sau khi gửi cho tôi đọc truyện “Giáo sĩ” sâu
sắc và độc đáo của mình, Trần Vũ từ Paris gửi tiếp cho tôi truyện vừa Miền
Vĩnh phúc của Vũ Quỳnh Hương (ở San Jose, Hoa kỳ), Vũ viết: “Để anh hiểu
thêm về văn học di dân. Chính những tác giả sống ngay trong xã hội Hoa Kỳ mới
có thể viết được như thế.” [6]
Vũ Quỳnh Hương vẽ lên cái mặt trái của xã hội Hoa Kỳ mà trong đó giá trị gia
đình truyền thống bị phá vỡ một cách thê thảm. Tác phẩm viết về những người già
sống những ngày cuối đời ở một Viện dưỡng lão thật cô đơn,khắc khoải vì khao
khát một chút hơi thở của người thân. Tôi xúc động khi đọc truyện này và thấy
ngay ở Việt Nam đã xuất hiện không ít kẻ lắm tiền hoặc chạy theo đồng tiền mà bỏ
bê con cái phải nuôi nấng, cha mẹ già phải phụng dưỡng và cần phải cảnh báo
tình trạng này. Qua nhiều lần liên hệ, xin phép tác giả, vì tôi cũng ngại biết
đâu tác giả cũng là người “hay sợ gió máy”, tôi giới thiệu tác phẩm trên tạp
chí Sông Hương số Xuân 2007. Sau khi nhận được tờ tạp chí đăng truyện
của mình, Quỳnh Hương gửi sự ngạc nhiên đến tôi:
“… Tôi cầm tờ báo trên tay với một sự ngạc nhiên dễ chịu. Lần trước tôi về Việt
Nam (cũng khá lâu rồi) chỉ thấy báo in đẹp là những tờ báo in hình tài tử màu
mè, không thấy một tờ báo văn học đứng đắn nào đẹp từ hình thức đến nội dung
như Sông Hương bây giờ. Có lẽ nhiều năm qua tình hình báo chí cả nước có tiến
triển, hay vì Huế là cái nôi của văn học miền Nam nên mới cưu mang sinh sản ra
được một tờ báo bề thế như Sông Hương?” [7]
Và Hoàng Khởi Phong.
Là người viết văn xuôi, tôi đã “cả gan” giới thiệu một bài thơ của Hoàng Khởi
Phong, bài “Ghềnh thác cho cha”, trên tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt
Nam. Tôi hỏi Phong có dám cho đăng mà không sợ cộng đồng “thịt” không, Phong vặc:
“Ông đánh giá tôi xoàng vậy à? Nhưng, không được thêm, bớt, chữa của tôi một
cái dấu phẩy, nếu Tổng biên tập muốn đăng.”
Và tôi viết lời giới thiệu bài thơ này:
“Hoàng Khởi Phong đã có nhiều thơ trước 75. Đã có rất nhiều bút ký, truyện
ngắn, hồi ký, tiểu thuyết…, sau 75, sống ở Mỹ và hiện đang gấp rút hoàn thành
trường thiên tiểu thuyết Người trăm năm cũ. Đa dạng như cuộc đời trầm
luân của anh: từng là sĩ quan quân cảnh, thợ cơ khí, người bán xăng, nhà báo…
Nhiều trang viết của anh khá dữ dội và cả… dữ tợn. Đó là văn xuôi. Còn
thơ, da diết và trải lòng. Anh dữ dội mà bao dung, nhân ái. Bao nhiêu năm xa
quê mà hồn vía vẫn ở một làng quê Hải Dương, nơi Nguyễn Vinh Hiển ra đời năm
1943.
Tôi đọc thơ Hoàng Khởi Phong từ trước 75, trong những ngày xe tăng Mỹ cày nát
vùng cát Phú Vang và đêm sững sờ nhìn những đám cháy loang lỗ lưng chừng trời của
vùng Tây Huế bị napal. Những bài thơ in roneo, vì không được cấp giấy phép xuất
bản, chỉ gửi biếu bạn bè chia sẻ nỗi lòng, tập Phục hồi quyền chức làm người,mà
một người bạn giáo chức Huế cho tôi mượn. Hơn ba chục năm trời đã qua, một bài
thơ lạ lùng trong tập ấy cứ ám ảnh, cứ đeo lấy trí nhớ kém cỏi của tôi mãi, bài
‘Ghềnh thác cho cha’. Số phận truân chuyên, bi hùng của đất nước đã nhập vào từng
làng xóm, từng gia đình, từng con người để thử thách, để giằng xé, để
chia nát… nhưng hơi thở của nòi giống, lòng hiếu nghĩa với đức sinh thành và
cái tâm đối với con người vẫn nguyên vẹn, dù trong xót xa cay đắng.
Qua Trương Vũ giới thiệu, mùa hè năm ngoái, tôi mới có dịp gặp Hoàng Khởi Phong
tại quận Cam. Theo yêu cầu của tôi, Hoàng Khởi Phong hai lần đọc cho tôi nghe
bài thơ, lần sau chậm hơn lần trước. Hoàng Khởi Phong kể rằng, anh là đứa học
hành không ra gì nhất, sống văng mạng nhất trong những người con nên khiến ông
già thất vọng nhất. Nhưng trong một dịp về phép ngắn, anh đọc bài thơ này cho
cha trước giờ quay lại mặt trận, cha anh đã sững sờ nhìn con. Từ đó anh là đứa
con mà ông thương yêu, chờ đón nhất nhà. Giọng trầm, vang của Hoàng Khởi
Phongchùng xuống, nghẹn ngào. Tôi giục Phong chở tôi tới nhà thằng cháu đích
tôn của ông già để kính cẩn thắp một nén nhang lên bàn thờ ông.
Tôi xin được giới thiệu bài ‘Ghềnh thác cho cha’ với bạn đọc tạp chí Thơ.
Huế tháng 8/2006
Tô Nhuận Vỹ"
Ghềnh thác cho cha
Cha mệt rồi sao không ngơi nghỉ
Cha già rồi sao còn gội nắng mưa
Con nhìn cha không thể nói được gì
Khi quá khứ cha viết bằng tủi nhục
Có phải cha đã dùng vũ khí thô sơ
Gậy tầm vông chui luồn ngõ hẹp
Tự vệ Thành không giữ nổi Thăng Long
Cha đã bỏ theo kháng chiến mùa thu bừng ngọn lửa
Cha đã kể con nghe
Về ba lô vá mộng sông hồ
Về anh lính biên khu mơ về đồng nội
Cuộc đời cha trôi trên dòng sông
Có nhiều ghềnh thác
Cha nói rằng cha ghét lính viễn chinh
Lính Lê dương bán rẻ tâm hồn
Cha chiến đấu cho chúng con được niềm kiêu hãnh
Sao cha đành bỏ lại chiến khu
Sao cha về thành
Để công lao dật dờ ra biển
Sao cha căm thù anh bộ đội áo nâu
Cha cần tiền cho con ăn học
Phải dằn lòng làm công chức héo hon
Ngày hai buổi cha chịu quyền dưới đám thực dân
Đêm nghe tiếng súng vọng từ xa cha trằn trọc
Cha dậy con phải giữ tin yêu
Độc lập hoà bình phải có tình thương làm căn bản
Bây giờ cha đã thật già
Đã dẫn chúng con qua mạch nước đen
Đã bỏ lại gia tài cha vun xới
Bây giờ chúng con đã lớn
Chúng con đi rồi ai phụng dưỡng cha
Nắng miền Nam đổ lửa
Mưa miền Nam tả tơi
Cha đã về hưu đi làm tư chức
Tháng tháng mươi ngàn nuôi mẹ nuôi em
Con không biết phải nói gì
Khi buổi sáng thấy cha dong xe ra ngõ
Áo trên người đeo chiếc thẻ ra vô
Sở của cha toàn người lạ mặt
Toàn người già toàn phụ nữ tanh ôi
Phục sức hở hang làm cha choáng váng
Nói nói cười cười làm nước mắt cha rơi
Bây giờ cha ở nhà còm cõi
Các em con rồi sẽ lớn khôn
Sẽ theo gót cha khinh bỉ lũ viễn chinh
Lũ mang quân phục mà vô tổ quốc
Lũ không đất đai nên dày xéo quê người
Chúng con đem xương máu đắp đường
Nâng gót chân cha trở về nhàn hạ
Cha cha ơi
Đã tham gia kháng chiến mùa thu
Đã làm công chức nuốt niềm tủi nhục
Đã làm tư chức chụi đựng đắng cay
Cha đã già xin giữ gìn nước mắt
Sẽ có một chiều cha lại khóc măng
Khi nhận chiếc đính bài con thường đeo nơi cổ
Để hôm nay con nhìn cha lòng buồn tức tưởi
Cha cha ơi
Cha già rồi sao không ngơi nghỉ
Cha mệt rồi sao còn gội nắng mưa
Hoàng Khởi Phong
Sài Gòn 1969
Bài thơ đã được Tổng biên tập Hữu Thỉnh giữ đúng lời hứa không thay đổi dù chỉ
là một dấu phẩy cũng như để y nguyên lời giới thiệu của tôi. Anh nói với tôi
qua điện thoại: “Bài thơ xúc động quá!”
Tôi kể hơi dài mấy trường hợp cụ thể như của Thuỵ Khuê, Vũ Quỳnh Hương, Hoàng
Khởi Phong… để thấy rằng không phải nhà văn nào ở hải ngoại cũng xa lạ với đất
nước và việc hoà hợp dân tộc. Tôi cũng nói thêm rằng, khi nhận được tạp chí Thơ giới
thiệu bài thơ này cùng với nhiều nhà thơ hiện sống ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp,
Nga, Đức…, Phong viết thư cho tôi. Dòng đầu tiên là: “Lời giới thiệu của anh
như thế là tuyệt vời. Ngắn, gọn và đầy đủ ý nghĩa…” [8]
Hoạt động để có thể “ngồi chung chiếu”, để góp phần vào hoà giải, hoà hợp, phần
ở nước ngoài,vì không có một tổ chức tương ứng và việc làm này có khó khăn hơn ở
trong nước, tôi nghĩ cần linh hoạt hơn. Ví dụ, các tờ báo lâu nay đã đăng nhiều
sáng tác và nghiên cứu của các tác giả trong nước như Hợp lưu, Văn, Văn học,
talawas… cần ủng hộ hai nội dung hoạt động trên bằng những sáng kiến cụ thể
và thường xuyên. Hoặc các nhà văn đã từng có mối quan hệ với văn học trong nước, tự
mình ủng hộ, tham gia chủ trương này, thông qua tổ chức Hội Nhà văn hoặc
cá nhân nhà văn đã có quan hệ. Tôi tin rằng, những người Việt Nam cầm bút ở nước
ngoài, cho dù bị nhiều áp lực, sẽ ủng hộ chủ trương này. Cuộc gặp gỡ tại thành
phố Hồ Chí Minh vừa qua của cá nhà thơ Thanh Thảo, Nguyễn Thuỵ Kha, Trần Mạnh Hảo,
Du Tử Lê, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đức Tùng là một gặp gỡ thật hay. Tôi tâm đắc
với câu nói của thiền sư Thích Nhất Hạnh: Con người không gắn với cội rễ,
làm sao sống hạnh phúc?
Với cái Tâm trong sáng vì đất nước, vì nền văn học thống nhất của những
người cầm bút Việt Nam chân chính, tôi tin là, dù bắt đầu bằng những việc nhỏ
bé, các nội dung trên sẽ góp phần thúc đẩy việc lớn.
5. Kết luận
Để kết thúc tiểu luận này, tôi muốn nói đến các nghệ sĩ Lê Bá Đảng và Điềm
Phùng Thị, hai nghệ sĩ Việt Nam hết sức tiêu biểu ở nước ngoài.
Lê Bá Đảng còn rất khoẻ và minh mẫn. Năm kia, vợ chồng tôi cùng anh đi nghỉ vài
ngày tại khu du lịch ở Lăng Cô. Buổi sáng nhìn ông già 82 tuổi bơi như cá kình
ngoài biển mà “ớn sườn” cho sức lực của mình quá. Tôi chú ý thì thấy trong việc
sáng tạo của anh, có thể do ra đời ở một vùng quê nghèo thường xao xác khô cháy
mỗi mùa gió Lào, xuất thân ngày ra đi của anh là một lính thợ và cái nghèo khó
đến mức không có tiền mua thuốc để chữa bệnh cho đứa con đầu lòng những ngày lạnh
giá năm xưa tại nước Pháp, và chỉ nhờ bức vẽ “Con mèo” mà gia đình anh tai qua
nạn khỏi, có thể từ đầu là như thế, nên anh rất hay làm, hay nói đến và hay tạo
ra những hạt gạo làng quê, bàn chân Giao Chỉ, vườn xanh, cây lá… “Phải làm
cái gì mà thằng Tây không có, chỉ của riêng nước mình”. Và bao giờ sáng tạo
của anh cũng đi đôi với việc phải thu lại đồng tiền tuơng xứng với công sức bỏ
ra. Nhiều người nói anh chị rất giàu vì tranh của anh bán ra khắp thế giới và rất
có giá. Tôi không chú ý và không biết điều đó. Chỉ biết rằng, lần anh về làng
năm 1992, cả làng Bích La của anh ba ngày không đỏ lửa để đến ăn cơm nhà anh do
anh chị mời và dịp đó anh bày tranh ở đình làng, treo trên hàng rào, móc ở cành
cây… cho bà con cô bác cả đời chưa một lần lên thành phố xem tranh bao giờ xem.
Và ai ai cũng khen “Chú Đảng hay thiệt!” Mà không khen sao được: anh bỏ tiền
xây trường học, trạm xá, đường làng. Anh xây ngôi nhà nhỏ mà đủ tiện nghi để có
thể là nơi làm ra các mẫu sản phẩm nghệ thuật đưa đi chào, ngay trên mảnh đất của
cha mẹ anh. Hôm ra dự khánh thành khu nhà, tôi bần thần khi anh chỉ vào một gốc
trầu xù xì mà anh vun xới lại nên vẫn còn ra lá tươi tốt: “Gốc trầu ngày xưa mạ
tôi vẫn hái ăn cau trầu đó” - rồi anh chỉ vào các viên đá xanh, tròn
chất ngay cạnh – “Đó là mấy hòn đá kê cột nhà tôi ngày xưa, sẽ dùng lại
nó đấy!” Anh nói năng bộc trực, dân dã, cứ mở miệng ra là “tôi là thằng nhà
quê”, ăn thì thích nhất là về làng để cô em dâu, năm nay cũng hơn 70 rồi, nấu
cho ăn những món ăn nhà quê và theo cách nhà quê mà anh luôn hít hà: “Cô em tôi
nấu ăn ngon không ai bằng!” Anh cũng có những bức xúc với trong nước. Anh đã thổ
lộ với tôi không chỉ một lần: “Tôi đã làm bao nhiêu việc giúp phái đoàn Mặt trận
của bà Bình lúc hoà đàm, mới được tặng cái bằng khen cờ nửa xanh nửa đỏ treo
ngoài nhà mà anh đã thấy đó, vậy mà sau giải phóng về nước cứ bị công an theo
kè kè như theo tên gián điệp, ai chịu được!”
Nhưng đáp lại sự mong mỏi của anh em văn nghệ, của cả những người hiểu biết nhất
trong chính quyền, và nhất là xuất phát từ tấm lòng luôn hướng về quê cha đất tổ
của anh, Lê Bá Đảng lại về bày tranh, bày một cách hoành tráng trong Festival
Huế 2002, 2004, bày ngay tại Bảo tàng Hồ Chí Minh do anh chọn. Và ngày 10 tháng
6 năm 2006, Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng đã khánh thành tại số 15 Lê Lợi,
toà nhà đẹp nhất bên bờ sông Hương, toà nhà mà Thừa Thiên - Huế đã từ chối lời
đề nghị trước đó để thành lập Trung tâm Văn hoá của một cường quốc mà dành trọn
vẹn cho Lê Bá Đảng. Đây là Trung tâm Nghệ thuật tạo hình đầu tiên của một cá
nhân người Việt ở nước ngoài có mặt ở Việt Nam, sau Nhà trưng bày nghệ thuật Điềm
Phùng Thị, nhưng hoành tráng, thoáng rộng hơn. Trung tâm được giao toàn quyền
cho Lê Bá Đảng điều hành. Tại buổi khai trương, Lê Bá Đảng ký giấy tặng nhân
dân Thừa Thiên - Huế 108 tác phẩm trưng bày đợt 1 trong toà nhà và những ngày sắp
tới của hè 2007, lại đúng vào dịp 10 tháng 6, Lê Bá Đảng sẽ trao tặng tiếp số
tác phẩm vừa chuyển từ Paris về.
Còn chuyện Điềm Phùng Thị. Tôi có dịp gần gũi và gắn bó với chị Điềm Phùng Thị
kể từ ngày chị quyết định xây dựng Nhà trưng bày tác phẩm tại Huế. Nhà điêu khắc
Việt Nam nổi tíếng nhất ở phương Tây, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Văn học
Nghệ thuật châu Âu, người mà các bạn Pháp ca ngợi là biểu tượng xuất sắc sự hài
hoà của hai nền văn hoá Việt-Pháp… đã khiến tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác và khi ra đi, chị đã để lại trong sâu thẳm lòng tôi và cả gia đình
tôi niềm tiếc thương khôn xiết. Người đàn bà nhỏ bé và xinh đẹp ấy đã bỏ lại
phía sau lưng tất cả cuộc sống nhung lụa của một gia đình thượng lưu quyền quý,
sự giàu sang của cái nghề nha sĩ hái ra tiền ở phương Tây, bỏ qua cả những xử sự
cay nghiệt một thời trong nước đối với cái lý lịch thượng lưu Tây của mình, bỏ
qua biết bao nhiêu bực bội, bức xúc xảy ra hàng ngày mà cái cơ chế “bó rọ” một
thời trong nước mà chị phải đương đầu cũng như bao sự lôi kéo, nỉ non và cả sự
phá bĩnh của không ít kẻ chống cộng cực đoan tại Pháp không muốn có sự hiện diện
rạng rỡ như vậy của chị tại Việt Nam trong suốt mấy năm trời xây dựng Nhà Trưng
bày Nghệ thuật Điềm Phùng Thị tại số 1 Phan Bội Châu - Huế. Chị bỏ qua tất cả,
để chỉ vì Tổ quốc và Nghệ thuật. Chị đi suốt, lúc Bắc lúc
Nam, lúc Pháp lúc Việt, đến tất cả những nơi nào cần đến để thuyết phục, để năn
nỉ, để cãi lộn nữa, để có một sự đồng tình, để đừng cản trở, để kiếm một chỗ
trưng bày xứng đáng với Huế, để có một loại đá tốt nhất có thể ở Việt Nam, để,
để… với cái chân tật nguyền, với ông chồng điên tàng luôn đem theo bên cạnh, với
phong thái vừa sang đài vừa cần lao, vừa nặn óc vẽ kiểu tượng vừa xắn tay đục đẽo…
Có lúc tôi phát khiếp: người đàn bà đã ở cái tuổi cổ lai hy ấy lấy đâu ra sức lực
phi phàm như thế? Rồi khi anh Điềm - người chồng, người bạn thân thiết nhất cuộc
đời chị - ra đi, chúng tôi tưởng chị sẽ không còn sức để trụ lại nữa, vậy mà chị
còn lăn xả với công việc nhiều hơn, lăn xả để vượt qua cả sự cô đơn ngặt nghèo.
Có đêm, đã hơn hai giờ sáng, chị gọi điện lên nhà tôi. Tôi hoảng quá, tưởng chị
gặp chuyện gì bất trắc, nhưng giọng lào thào của chị đã khiến nước mắt tôi trào
ra: “Chị kêu anh Điềm mãi mà anh không về. Em xuống đây nói chuyện với chị một
lúc, chị buồn quá.”
Và khi Nhà Trưng bày khánh thành, chị ký ngay biên bản chính thức: “Tặng tất cả
136 tác phẩm tại Nhà Trưng bày cho Nhân dân thành phố Huế”!
Cũng phải kể đến quyết tâm thực sự của lãnh đạo thành phố Huế và tỉnh Thừa
Thiên - Huế, cho dù còn nhiều ý kiến không đồng tình, vẫn quyết định chuyển cơ
quan giáo dục của thành phố đi nơi khác, để giành vị trí đẹp vào loại nhất
thành phố cho Nhà trưng bày của chị Điềm và chuyển Trung tâm Festival cùng Sở
Bưu chính viễn thông đi nơi khác để dành toà nhà 15 Lê Lợi cho Lê Bá Đảng. Và
dĩ nhiên, đi đầu trong việc này luôn luôn là các nhà văn, các nghệ sĩ
tiêu biểu nhất của Huế. Tôi còn nhớ vụ chị Điềm có nhờ bạn bè ở Pháp in giùm chị
đoạn phim mà truyền hình Pháp vừa làm về chị và mới cho công chiếu, rồi gửi về
để chị cho chiếu trên truyền hình Huế. Nhưng, không ngờ gần cuối cuốn phim đó,
kẻ xấu đã cho chen vào một đoạn phim chống cộng rẻ tiền được dàn dựng ở nước
ngoài, khoảng năm phút, nên cơ quan văn hoá thành phố Hồ Chí Minh giữ lại. Tôi
và anh Mễ Chủ tịch UBND bàn với nhau và tôi vào trực tiếp gặp lãnh đạo bộ phận
xuất nhập văn hoá phẩm với tư cách là đại diện Điềm Phùng Thị tại Việt Nam lúc
đó. Chúng tôi ngồi xem và cùng khẳng định, chị Điềm không liên quan gì đến
đoạn phim này. Anh em cơ quan quản lý văn hoá cũng tin như vậy. Và họ đã cho cắt
bỏ đoạn phim mà bọn xấu đã tính hại chị Điềm, rồi trao lại cho tôi trọn vẹn cuốn
phim đem về cho chị. Còn chị Điềm thì mãi sau này chị vẫn còn ngẩn ra mỗi khi
nhớ lại chuyện này: “Họ hại chị mà làm chi rứa em hè?”.
Với tâm hồn trong sáng của một nghệ sĩ lớn, chị không thể hiểu sao trên đời lại
có kẻ mang danh trí thức yêu nước mà có cư xử “tèm hem” như vậy.
Với riêng chị Điềm, tôi còn một ân hận mà mỗi lần nhớ tới chị tôi lại đau lòng.
Lần đó, chị nói với tôi: “Em thôi việc Nhà nước để làm việc này cùng với chị
đi! Một mình chị làm không nổi.”
“Việc này” là việc mở rộng cơ ngơi ở số 1 Phan Bội Châu để đủ chỗ trưng bãy
thêm hàng trăm tác phẩm chị sáng tác sau này và mới đưa hết từ Pháp về, là kế
hoạch triển khai vườn tượng ra vùng đồi gần lăng Khải Định, địa điểm mà chị đã
cùng tôi với anh Mễ lùng sục kiếm tìm và hai triều Đại sứ Pháp đã vui vẻ hứa sẽ
hợp tác, là tượng đài ở các cửa ngõ thành phố, là khu trưng bày tại hồ Tịnh
Tâm…
Tôi đã không làm được điều chị mong muốn. Tôi còn mang nợ chị Điềm. Nhưng tôi
tin rằng, Huế, với tâm huyết của anh em văn nghệ, trí thức ở Huế cũng như ở
Pháp (trong Hội bạn Điềm Phùng Thị) và nhận thức ngày càng mở ra của những người
có quyền lực, với sự trợ giúp của nhà nước Pháp… sẽ biến ước nguyện của chị sẽ
thành hiện thực.
Cả thế giới đang tiến bộ mau chóng, từng ngày, chẳng lẽ chúng ta không day dứt
trước cảnh “ăn sau chạy dọi” của đất nước mình? Nếu thực sự có tấm lòng với đất
nước, mỗi nhà văn Viêt Nam ở trong nước sẽ làm được. Các nhà văn, các nghệ sĩ,
các trí thức Việt Nam ở nước ngoài sẽ làm được, cho dù chỉ là một phần như Lê
Bá Đảng, như Điềm Phùng Thị đã làm. Như Trần Văn Khê, Phạm Duy, Tôn Thất Tiết,
Nguyễn Thiện Đạo… đã làm. Như Nguyễn Đức Tùng đã bày tỏ trong cuộc gặp gỡ với
các nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Du Tử Lê, Thanh Thảo, Trần Mạnh
Hảo:
“Tôi hy vọng rằng một ngày kia tất cả những người ra đi sẽ về lại bên nhau đầy
đủ, ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, mang theo cả những người không bao giờ còn có thể về
lại được nữa. Chia xẻ và thấu hiểu, kính trọng và tha thứ. Trên chiếc chiếu của
tình tự dân tộc và của thơ ca Việt Nam” [9]
Tôi xin mượn ý kiến của giáo sư Cao Huy Thuần để kết thúc bài viết này:
“… Văn nghệ sĩ hãy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự mình mở ra không gian
cho mình. Nếu đến bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau ‘khoán’ được một xã hội
dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau,’đọc nhau’, như anh đề nghị,
thì chúng ta còn làm cái gì được nữa? Chuyện đó, Nhà nước coi bộ cũng muốn,
cũng thấy cần thiết. Nhà nước đã muốn, anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng
phải là chức năng của anh sao? Anh chờ ai?” [10].
Chú thích:
[1] Nguyễn Bá Chung, “Thiền hành trên quê hương”, Phù Sa online
6/5/2005
[2] Cao Huy Thuần, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 18/8/2004
[3] John McCain - Phát biểu tại Gala dinner chiêu đãi thủ tướng
Phan Văn Khải tối 22/6/2005 nhân chuyến thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống
Bush, VietNamNet 22/6/2005, www.vietnamnet.vn/.
[4] Nguyễn Đắc Xuân, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 05/9/2004
[5] Thuỵ Khuê, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 26/ 10/ 2006
[6] Trần Vũ, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 20/ 10/2006
[7] Vũ Quỳnh Hương, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 30/ 5/2007
[8] Hoàng Khởi Phong, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 14/8/2006
[9] Nguyễn Đức Tùng, “Mừng vui còn có hôm nay”, talawas ngày 9/6/2007, bài đã dẫn
[10] Cao Huy Thuần, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 4/11/2006.
22/12/2007Tô Nhuận Vỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét