Những nhà văn Việt Nam
đương đầu với cấm kỵ
Hai cuộc chiến tiếp theo nhau, với Pháp và rồi với Hoa Kỳ, từ
1946 đến 1975, ghi dấu vào tâm hồn cả nước. Rất lâu, dưới xung lực của Đảng Cộng
sản, văn học Việt Nam đã cắm neo trong “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”
ca ngợi tổ quốc và nhân dân, những giờ khắc anh hùng của những cuộc tranh chấp.
Thời thế đang đổi thay. Một thế hệ nhà văn mới kết nối lại với những giá trị
nghệ thuật khác, và lại có thể trở nên nói được tiếng “Tôi”.
*
Hơn hai phần ba người Việt Nam ra đời sau 1975. Sự anh hùng của quá khứ, tuy
còn gần, không còn là tham chiếu duy nhất dẫu cho nó in vết trong lịch sử một xứ
sở đã chiến đấu, hàng bao thế kỉ, vì độc lập và thống nhất.
Đoàn Cầm Thi, nhà phê bình văn học sống ở Paris nhận định: “Niềm tin vào một sự
giải phóng kép – giải phóng xã hội bằng chủ nghĩa Marx–Lenin, và giải phóng dân
tộc bằng chiến tranh, giữa lòng văn học quan phương – nay đã nhường chỗ cho sự
thiếu vắng lí tưởng trong giới trẻ sau chiến tranh”. [1]
Từ trong lòng cũng như ở mép bìa của Đảng Cộng sản Việt Nam, những người kháng
chiến cũ lo lắng về điều này. Nhưng những khoảng trống thường chỉ che phủ sự hiện
xuất của những xã hội phức hợp hơn. Sự phân hai quan phương – giữa cái tốt và
cái xấu – mờ nhạt theo dòng thời gian. Đó là Đoàn Cầm Thi lấy lại, dùng cho Việt
Nam câu phát biểu của Karl Marx về những xứ sở “nghèo nàn cả về anh hùng và biến
cố”. Trong một truyện rất ngắn, Đỗ Khiêm, người sống giữa nước Pháp, Hoa Kì, và
Việt Nam, trích dẫn Kiều, nhân vật chính bạc mệnh của một cuốn tiểu thuyết cổ
điển lớn của Việt Nam vào thế kỉ 19, “Chém cha cái số hoa đào/ Gỡ ra rồi lại
buộc vào như chơi” [câu 2149 – 2150]. Nhưng Đỗ Khiêm, mà văn viết rất được
giới trẻ văn học Việt Nam tán thưởng, làm thế để xác định điều trái ngược:
“Không có ai trói tôi”. [2]
Ngay sau những cuộc chiến tranh ở Đông Dương, một thế hệ nhà văn có tài cúi
mình trên những khốn khổ của chiến binh và những ngày mai của chiến thắng làm cụt
hứng. Phần lớn họ gốc miền Bắc và thuộc hàng ngũ của phe chiến thắng. Nguyễn
Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương và Phạm Thị Hoài là những kẻ đầu đàn. Cái
nhìn của họ về chiến tranh và xã hội phát xuất từ đó đã thống ngự những tác phẩm
thuộc giai đoạn những cải cách đầu tiên, quyết định do Đảng Cộng sản năm 1986,
và sự mở cửa của Việt Nam ra toàn cầu. Một số cũng tường trình những vết thương
lưu lại do cuộc Cải cách Ruộng đất tàn bạo những năm 1955 – 1956 [3] ở miền Bắc xứ sở,
hoặc những đợt sóng đàn áp sau này.
Trong thập niên 1990, vậy là Hà Nội là tâm điểm của một cuộc đổi mới văn học mà
tiếng vang dội nghe được ở bên ngoài nhiều hơn, đến nỗi một số tác phẩm bị cấm
tại chỗ và chỉ lưu hành chui [nguyên văn: sous le manteau = dưới áo
khoác], dù cho đôi khi rất rôm rả. Sự hiện xuất của thế hệ nhà văn này ắt hẳn
giáng một đòn chí tử vào văn học quan phương vốn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đó là sự cáo chung của một huyền thoại hoặc của một
sự giả hình. Nước Việt Nam đã trải qua những xáo trộn, chứ không phải một cuộc
cách mạng. Giáp mặt với một đợt sóng các nhà văn đồng thời là những người tra
xét, những người làm văn, quan phương chỉ có lối đáp ứng là kiểm duyệt hoặc viết
lại, nhất là lối viết lại của những sách giáo khoa về lịch sử. Công chúng rộng
lớn hoài công bị gạt ngoài lề, bây giờ đã là cuộc chiến đấu của lớp hậu vệ ngày
càng hết sinh lực.
Vậy nên, sự kiểm duyệt, thông thường nhất, chỉ hành xử sau khi sự việc đã xảy
ra. Những nhà xuất bản phải đảm đương trách nhiệm trước khi cho bày bán một cuốn
sách, với cái rủi là thấy nó thu hồi không cho lưu hành. Làm chứng thì có sự cấm
đoán, ít lâu sau khi phát hành cuốn Chuyện kể năm 2000 do Nhà xuất bản
Thanh niên. Bùi Ngọc Tấn trong cuốn này tường trình những tình huống gian nan
mà ông bị giam giữ, ba thập niên về trước, trong khuôn khổ một chiến dịch chống
“những kẻ xét lại”. Cuốn sách bị huỷ, theo lệnh của nhà cầm quyền, vài tuần sau
khi được bày bán. Đối lại, vào tháng 3 năm 2005, cuốn Chinatown, một tiểu
thuyết của Thuận, nhà văn nữ trẻ trong cõi dân lưu tán (la diaspora) Việt Nam ở
Pháp, đã được xuất bản ở Việt Nam, nơi những ấn bản của cuốn này bán chạy như
tôm tươi. Sáng kiến còn lí thú hơn nữa là cuốn này đề cập chủ đề nhạy cảm về sự
ô nhục mà cộng đồng người Hoa phải chịu sau khi nổ ra chiến tranh biên giới giữa
Trung Quốc và Việt Nam năm 1979. Đề tài này dường như trước đó là cấm kị.
Sự xuyên phá như thế đã hoàn tất còn chưa nói lên được trang giấy trắng mở ra với
thế kỉ mới sẽ viết nên như thế nào. Những tác gia của giai đoạn những cải cách
đầu tiên đã đặt lại thẩm xét căn nguyên huyền thoại của lịch sử quan phương và
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, một cách mạnh mẽ và tài năng. Ngoài biệt
lệ Dương Thu Hương, nữ chiến sĩ cho quyền của con người [4] , họ có lẽ ít có những
đề nghị về tương lai. Còn về phần mình, Đảng Cộng sản Việt Nam “cha của chiến
thắng”, muốn làm mới lại tính chính đáng của mình bằng cách dựa vào ba cột trụ:
mở rộng kinh tế, đấu tranh chống những hiện tượng “tiêu cực” – tham nhũng,
phong tục suy đồi – và sự quay về với những giá trị dân tộc hoặc, nếu ưng gọi,
lịch sử. Thay thế một sự “đoàn kết quốc tế chủ nghĩa” đang tan biến bằng hình ảnh
Khổng Tử có lẽ trấn an một dân chúng đã quá lâu được nuôi dưỡng bằng những khẩu
hiệu rỗng tuếch đến nỗi họ không còn quan tâm tới mấy nữa. Nhưng những cao vọng
là ở nơi khác, và đã báo hiệu một sự thay phiên.
Ngay những thị trấn xa xôi hẻo lánh nhất trong xứ, những quán cà phê cũng mọc
lên như nấm. Một giới trẻ đôi khi rách việc khám phá một thế giới không giới hạn [5] . Mạng lưới trời
internet đưa du lịch chốn xa tìm kiếm những tham chiếu khác. Nó phá nhiều chướng
ngại. Một số tờ báo tổ chức, những cuộc trò chuyện khá được ưa chuộng với những
tác gia đủ các bờ bến, kể cả những người trong cõi dân lưu tán ở hải ngoại. Những
biên giới biến mất và, trong cuộc kiếm tìm giá trị, họ bảo là “chiều ngang” dần
dà thắng “chiều dọc”. Họ đi tận chân trời tìm kiếm những giải đáp, vượt ngoài
thói quen muốn là phúc âm chỉ tới từ trên cao ban xuống.
Ai theo đường nấy. Lynh Bacardi, bút danh của một nhà thơ trẻ ở Thành phố Hồ
Chí Minh (Sài Gòn), là thành viên của nhóm nữ “Ngựa trời” lấy tên con bọ ngựa
chống trời là thứ côn trùng mà con cái phải ngấu nghiến con đực ngay trong khi
giao cấu, kể lại: “Chính phủ muốn mở cửa cho những nhà thơ, nhà văn trẻ, nhưng
đặt định những hạn chế. Họ từng muốn, theo truyền thống, là người ta viết về những
anh hùng chiến tranh, nhưng chúng tôi không thể làm được điều đó, chúng tôi
chưa từng sống qua. Chúng tôi nói chuyện tính dục”.
Một nữ phê bình nghệ thuật mê say sự gan dạ của giới trẻ giải thích: “Giới trẻ
tiếp cận các cấm kị: sự thoái bộ của đấu tranh giai cấp, ma tuý, sự suy thoái của
giáo dục công, đồng tính luyến ái”. Ngoài sự “dấn thân” hiển nhiên, Đoàn Cầm
Thi, về phía mình, gợi đến một nền văn học “thân tình và đáng quan tâm vì ‘cái
Tôi’ làm thành một phần toàn hợp của thế giới”. Bà nói thêm: “Không nhắm mắt
trước những vấn đề của xã hội, họ nói với chúng ta về cuộc đời họ, những bận
tâm, những ước mơ, những đau khổ của họ; khi mô tả một thế giới mờ đục, khi lặn
trong những miền u uẩn của vô thức, họ làm nhiều người đọc bỡ ngỡ và tạo ra một
sự bất an”.
Lý Đợi là người phát ngôn của nhóm thơ, gồm những nhà thơ “phản thơ”
(anti–poètes) trẻ – như họ tự nhận định – lấy tên là Mở Miệng, thành lập năm
2000 ở một vùng ngoại ô Sài Gòn. Anh đẩy xa hơn nữa trong một bản văn ngắn truyền
đi năm ngoái trên mạng nhan đề “Kiệt tác nghệ thuật”: [6]
Kiệt tác nghệ thuật là một nghịch lý không bị trói buộc bởi các luật tắc. Mọi
thứ luật tắc đều luôn luôn bị phá vỡ. Điều này làm rối loạn những đầu óc giáo
điều. Những bộ thuật ngữ tiêu chuẩn hoá và những quy định phổ thông về tính
cách của các thời đại. Kiệt tác nghệ thuật thì có thể có đấy, nhưng không có luật
tắc nào trói buộc những chất liệu dùng để tạo nên một tác phẩm hay tiến trình
tư duy làm nẩy sinh ý niệm về tác phẩm ấy. Nó được sáng tạo từ óc tưởng tượng của
con người trong mối quan hệ với thời đại của y. Khi tác phẩm nghệ thuật đã hiện
diện, nó trở thành truyền thống. Khi nó đang được sáng tạo, nó là một thực thể
chưa từng hiện diện bao giờ.
Tôi không có cảm giác về truyền thống. Tôi có cảm giác về những không gian vĩ đại.
Tôi có cảm giác về thời đại của chính tôi. Tôi không dính líu gì đến những thứ
khác.
Tôi không thuộc về bất cứ tục lệ nào - bất cứ đảng phái nào - bất cứ tôn giáo
nào - bất cứ ý thức hệ nào - bất cứ tổ chức nào. Mẹ kiếp thế, tôi thuộc về tôi.
Tôi có cảm giác về sự tự do nguyên thuỷ và chân diện của mình. Tôi cảm thấy muốn
tuyên chiến với những cái đang sắp hàng theo trật tự thương mại: bảo tàng viện,
những phê bình gia, những sử gia nghệ thuật, những nhà mỹ học và cái gọi là những
lực lượng văn hoá...
Tôi tin rằng thời đại của tôi là thời đại quan trọng nhất trên thế giới. Rằng
kiệt tác nghệ thuật của thời đại tôi là nghệ thuật quan trọng nhất. Rằng thứ
nghệ thuật trước thời đại tôi không có một đóng góp nào trực tiếp vào óc thẩm mỹ
của tôi bởi cái nghệ thuật đó đã là lịch sử, nó giải thích thái độ của quá khứ,
chứ không nhất thiết cung ứng những biện pháp cho những vấn đề của tôi hôm nay.
Kiệt tác nghệ thuật không ly dị khỏi cuộc sống. Nó mang tính biện chứng. Nó
không ngừng đổi thay và lật đổ quá khứ. Nó là một con cặc nứng của hôm nay.
Những nhà văn trẻ này chạm gần tới chủ nghĩa hư vô. Đôi khi họ thô thiển, nhưng
không dung tục. Họ vận dụng sự kích động với một thị hiếu nghiêm túc về giễu cợt,
để làm “rớt mặt nạ” và như thế cung cấp một luồng không khí tươi mát. Lý Đợi giải
thích: “Sự kích động trong ngôn ngữ không phải là cái thiết yếu. Cái thiết yếu
là trông nhờ vào một ngôn ngữ bình dân, thông tục; cái thiết yếu là sự lương
thiện”. Họ không tìm cách xuất bản những cái gì họ viết, cái gọi là “Nhà xuất bản
Giấy Vụn” của họ chỉ là chuyện in sao bản và đĩa CD–Rom phân phối. Là những
sinh viên đã tốt nghiệp, họ đòi nhận lại những tính cách bên lề của mình và viết
bằng cách sử dụng tiếng nói phổ thông của miền Nam, mà không làm che lấp những
chỗ thô nhám của nó. Văn bản của họ muốn biểu hiện những khu ngoại ô mà họ xuất
phát, một nền văn học bụi đời (poussierès de vie, cát bụi cuộc sống) nhưng là
những kẻ bụi đời có một hành trang văn hoá và lịch sử vững chắc.
Trong mày mò, lối đi của họ là một sự kiếm tìm cái khác, trong tư tưởng cũng
như trong biểu hiện. Họ chịu ảnh hưởng của một trong những bậc huynh trưởng là
Nguyễn Quốc Chánh, kẻ tự nhận là “công dân thế giới” và là đứa con quái kiệt của
khung cảnh văn học Sài Gòn, tác giả của một bài thơ nhan đề “Đụ vỡ sọ” gây được
dư luận trong cái hóc bà tó văn học Việt Nam. Đó là sự từ khước những con đường
mòn. Họ có thể cũng là phản ánh của một tầng lớp trẻ tìm cách chống chọi với
cái trống rỗng, cái buồn nản, cái khắc khoải khác với sự nương náu vào ma tuý,
tính dục, hoặc làm tiền. Đoàn Cầm Thi tóm lược: “Một niềm ham sống đơn thuần,
dù chỉ là sống khác, nghĩ khác với những người đi trước”. Lớp trẻ không phải chỉ
có những kẻ ghiền ma tuý phải cải tạo vào con đường thẳng hoặc chỉ lo kiếm tiền.
Trong lòng Đảng Cộng sản Việt Nam, những người cựu kháng chiến nhận thức được
là một đảng vừa đá bóng vừa thổi còi gây ra một tình thế hàm hồ và không có viễn
ảnh. Thiếu đối trọng và đối thoại, cuộc vận động không có dự án đích thực. Một
người Pháp rất am tường về Việt Nam ngày nay gợi ra “Sự trống rỗng phi thường bỏ
lại do những ‘nhà tư tưởng mới’ Mác-xít – tư bản Việt Nam trong lãnh vực ý hệ,
thông điệp, luân lí, và đạo đức, vì họ lấm bê bết bùn trong hệ thống”. Việc trở
về với truyền thống và sự tán dương chủ nghĩa dân tộc không đủ để lấp đầy sự
thiếu hụt. Chúng còn có khuynh hướng càng làm nổi bật sự thiếu hụt kia lên, và
đào sâu sự cách biệt giữa quyền lực chính trị và một xã hội phải đương đầu với
một tình huống hoàn toàn mới mẻ: nước Việt Nam thống nhất và độc lập phải quản
lí, lần đầu tiên kể từ thế kỉ 19 không chỉ sự chung sống với Trung Quốc, mà còn
cả vị thế trong sự toàn cầu hoá.
Trong tác phẩm À nos vingt ans (Tuổi hai mươi yêu dấu), truyện kí –
tiểu thuyết xuất bản bằng tiếng Pháp năm 2005 (Nxb L’Aube), Nguyễn Huy Thiệp gợi
đến một lớp trẻ lạc lối mà chỉ sự quay về thiên nhiên và truyền thống mới cứu vớt
được. Là sản phẩm của một thất vọng bản thân, truyện kể này có một tầm quan tâm
giới hạn: tác giả tự đặt – hay toan tự đặt mình – vào hình hài một thiếu niên
con nhà tử tế lao vào thế giới nghiện ngập ma tuý và băng đảng. Cậu chỉ thoát
ra sau khi đã bị đưa vào một hòn đảo trong vịnh Hạ Long, nơi cậu buộc phải cai
trước khi được đám thuyền chài đón nhận và họ đem lại cho cậu hương vị cuộc sống.
Tin người cha, một nhà văn nổi tiếng và phẩm hạnh hầu như không thể chê trách,
qua đời, đã gây ra một cú hích giải thoát khiến cậu ăn năn sám hối. Tất cả như
vậy trở lại trong vòng trật tự.
Vào dịp kỉ niệm 30 năm của năm 1975, Nguyễn Huy Thiệp viết rằng: “Ngày nay, để
lấp đầy sự mất mát những giá trị truyền thống, người ta theo đuổi một lối sống
duy vật, bạo động, hưởng lạc” [7] và ông thêm: “Sự
tham nhũng là một tai ương mà người ta không thể be bờ”, rằng: “Những sự tham ô
này đầu độc tinh thần của tuổi trẻ”. Thị kiến giản lược này tuy nhiên không
mang lại giải đáp đích thực vì sự quay về thiên nhiên và về trật tự truyền thống,
cũng được nhà cầm quyền rao giảng, là không tưởng. Nó bị phản biện bởi sự bừng
nở của một thế hệ mới các nhà văn, mà những mối quan tâm thuộc một trật tự rất
khác.
Nước Việt Nam là một xứ sở mà động năng lại được dâng lên sau hai cuộc chiến
tranh kéo dài cả 30 năm, rồi sau cả một thập niên lầm lạc và một thập niên nữa
do dự. Một hoạ sĩ thuộc cõi dân lưu tán Việt Nam ở Hoa Kì là Lê Quang Đỉnh (Đinh
Q. Lê), đã giải thích như thế này về hành trình của người Việt: “Họ đã đánh
nhau trong 20 năm. Họ không có một ý tưởng nào về cách quản lí đất nước. Vậy
là, họ tiến lên, họ ngất ngư, rồi lại tiến nữa. Nhưng bạn cũng thấy trong xã hội
này một điều làm nó khác biệt ở Đông Nam Á: một xung động tự cải thiện, để làm
đời mình phải ra cái gì”. [8]
Vài tác phẩm
Dương Thu Hương, Terre des oublis [Chốn vắng], Nxb
Sabine Wespieser, Paris, 2006.
Nguyễn Huy Thiệp, A nos vingt ans [Tuổi hai mươi
yêu dấu], Nxb L’Aube, la Tour – d’ Aigues, 2005.
Đoàn Cầm Thi, Au rez-de-chausée du paradis. Récits
Vietnamiens, 1991 – 2003 [Tầng trệt thiên đường – truyện kể Việt Nam, 1991 -
2003] Nxb philippe Picquier, Arles, 2005.
Chu Lai, Rue des soldats [Phố lính], Nxb L’Aube,
2003.
Nguyễn Huy Thiệp, Une petite source douce et tranquille,
suivi de Les démons vivent parmi nous [Suối nhỏ êm dịu, kèm với Quỷ ở
với người], Nxb L’Aube, 2002.
Dương Hướng, L’Embarcadère des femmes sans mari [Bến
không chồng], Nxb L’Aube, 2002.
Phạm Thị Hoài, Menu de dimanche [Thực đơn chủ nhật],
Nxb Actes Sub, Arles, 1997.
Bảo Ninh, Le chagrin de la guerre [Nỗi buồn chiến
tranh], Nxb Philippe Picquier, 1994.
Chú thích:
[1] Đoàn Cầm Thi, Au rez-de-chaussée du paradis. Récits vietnamiens,
1991 - 2003, Nxb Philippe Picquier, Paris, 2005.
[2] Sách đã dẫn, tr. 83-87.
[3] Cải cách ruộng đất theo
kiểu mẫu Trung Quốc được loan báo từ 1953 trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) gây ra sự bất mãn và cả những cuộc nổi dậy ở nông thôn. Những cuộc nổi
dậy này bị trấn áp thẳng thừng.
[4] Tới Paris vào tháng
2/2006 vào dịp phát hành cuốn Terre des oublis (Chốn vắng), Nxb
Sabine Wespieser, Paris, Dương Thu Hương ở lại đây kể từ ngày đó để “hoàn tất
những tác phẩm dở dang từ hai chục năm nay”. Bà nói thêm, ở Hà Nội “sự trợ giúp
những tù nhân chính trị và cuộc chiến vì dân chủ tiêu hao toàn bộ năng lực của
tôi”. (Cuộc nói chuyện dành cho tạp chí Focus Asie du Sud-Est [Tiêu
điểm Đông Nam Á], xb tại Bangkok, tháng 7-2006; www.focusasie.com).
[5] Trong số những trạm văn
học Việt Nam trên mạng internet: bằng tiếng Anh, www.vietnamlit.org (Hoa
Kỳ); bằng tiếng Việt: www.tienve.org (Úc), www.talawas.org (do nhà
văn nữ Phạm Thị Hoài phụ trách, trụ sở ở Berlin), và www.evan.com.vn (Hà Nội).
[6] Bản dịch tiếng Pháp của
Đoàn Cầm Thi.
[7] Xb trên www.remke.net, tạp chí
do Francois Bon phụ trách, bản dịch tiếng Pháp của Đoàn Cầm Thi.
[8] Nhật báo
International Herald Tribune, bằng Anh ngữ, Paris, 9-6-2005.
[2] Sách đã dẫn, tr. 83-87.
[3] Cải cách ruộng đất theo
kiểu mẫu Trung Quốc được loan báo từ 1953 trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) gây ra sự bất mãn và cả những cuộc nổi dậy ở nông thôn. Những cuộc nổi
dậy này bị trấn áp thẳng thừng.
[4] Tới Paris vào tháng
2/2006 vào dịp phát hành cuốn Terre des oublis (Chốn vắng), Nxb
Sabine Wespieser, Paris, Dương Thu Hương ở lại đây kể từ ngày đó để “hoàn tất
những tác phẩm dở dang từ hai chục năm nay”. Bà nói thêm, ở Hà Nội “sự trợ giúp
những tù nhân chính trị và cuộc chiến vì dân chủ tiêu hao toàn bộ năng lực của
tôi”. (Cuộc nói chuyện dành cho tạp chí Focus Asie du Sud-Est [Tiêu
điểm Đông Nam Á], xb tại Bangkok, tháng 7-2006; www.focusasie.com).
[5] Trong số những trạm văn
học Việt Nam trên mạng internet: bằng tiếng Anh, www.vietnamlit.org (Hoa
Kỳ); bằng tiếng Việt: www.tienve.org (Úc), www.talawas.org (do nhà
văn nữ Phạm Thị Hoài phụ trách, trụ sở ở Berlin), và www.evan.com.vn (Hà Nội).
[6] Bản dịch tiếng Pháp của
Đoàn Cầm Thi.
[7] Xb trên www.remke.net, tạp chí
do Francois Bon phụ trách, bản dịch tiếng Pháp của Đoàn Cầm Thi.
[8] Nhật báo
International Herald Tribune, bằng Anh ngữ, Paris, 9-6-2005.
25/12/2007Jean-Claude PomontiVăn Nguyễn dịchNguồn: Nguyệt san Le Monde diplomatigue (Thế giới ngoại giao), số tháng 12-2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét