Thứ Hai, 29 tháng 5, 2023

Trăng buông 1

Trăng buông 1

CHƯƠNG 1
Tháng 5/1973. 9 giờ sáng.
Hai chiếc tàu sắt từ từ lùi ra giữa sông rồi quay mũi chạy về hướng đông.
- Mình đi đâu vậy anh?
Tuấn hỏi trong lúc đẩy mạnh cần ga. Hai máy dầu cặn rú lớn và kim đồng hồ từ từ tăng lên tới số 1000. Ngồi trên mui Quỳnh vừa nhìn vào bản đồ vừa trả lời chậm và nhỏ. Giọng của anh khàn khàn có lẽ vì thức khuya uống rượu và hút thuốc lá hơi nhiều.
- Biên Hòa…
- Mình biệt phái lên đó hả?
- Ừ…
Quỳnh trả lời gọn như không muốn nói chuyện nhiều nhưng Tuấn vẫn tiếp tục hỏi. Là lính mới xuống tàu hơn một tháng nên nó tò mò muốn biết đủ mọi thứ.
- Mình làm gì trên đó hả anh?
- Tuần tiễu… Giữ an ninh thủy lộ sông Đồng Nai…
Đưa tấm bản đồ lên ngắm nghía giây lát Quỳnh nói tiếp sau khi quẹt diêm đốt điếu thuốc.
- Địch dùng thủy lộ sông Đồng Nai vận chuyển vũ khí nặng cùng đạn dược để đánh vào Biên Hòa. Mình có nhiệm vụ ngăn chặn...
- Mình có hai chiếc tàu…
Nói tới đó Tuấn ngừng lại song Quỳnh hiểu người lính mới của mình muốn ám chỉ điều gì. Hít hơi thuốc thật dài, nhả khói ra từ từ anh nói với giọng thật chậm.
- Hai chiếc đủ rồi... Họ chỉ xin hai chiếc...
Tuy trả lời song Quỳnh lại nghĩ thầm thằng này hỏi nhiều quá. Hỏi thì ai cũng có quyền hỏi song cũng phải biết có những điều không nên hỏi và khi nào không nên hỏi.
- Mình biệt phái bao lâu?
Quỳnh cúi mặt gần sát vào tấm bản đồ hành quân chi chít chữ để giấu sự khó chịu của mình. Lát sau anh mới tằng hắng tiếng nhỏ.
- Tao không biết… Có thể một tuần, ba tháng hoặc lâu hơn…
- Anh tới Biên Hòa chưa?
- Vài lần… Hồi còn đi học… Thằng Thành nhà nó ở tại chợ. Mày muốn biết hỏi nó…
Tiếng Thành ở sau lái vọng lên khi nghe Quỳnh bán cái cho mình.
- Mày phải bao tao chầu cà phê. Tao hổng có làm vú em chùa đâu nghen…
Quỳnh hơi mỉm cười khi nghe người lính cơ khí của mình lên tiếng. Tuy chỉ mới có ba tuổi lính nhưng nó là một trong những người lính cơ khí giỏi nhất của đơn vị. Nhà có tiệm sửa xe gắn máy vì vậy nó nhiều kinh nghiệm trong việc sửa chữa máy móc. Đó cũng là lý do khiến cho nó trở thành một chuyên viên về máy dầu cặn. Cũng nhờ nó có nhiều kinh nghiệm và siêng năng chịu khó bảo trì nên máy móc của chiếc tàu ít khi bị hư hỏng bất thình lình.
Thành bước ra trước mũi tàu. Dùng miếng giẻ lau hai bàn tay dính đầy dầu mỡ của mình nó móc túi lấy ra gói thuốc lá. Rút một điếu, bật chiếc zippo đốt thuốc xong nó leo lên ngồi cạnh thuyền trưởng.
- Chiều nay anh lên nhà tôi chơi nghen…
Cười cười nhìn người lính ở dưới quyền chỉ huy của mình hơn ba năm, Quỳnh hỏi gọn hai tiếng.
- Chuyện gì?
- Nhậu…
Thành trả lời thật vắn tắt. Quỳnh lắc lắc cái đầu tóc hơi dài của mình.
- Tao nhậu với ông Dương tối hôm qua giờ còn ớn. Ngửi mùi đế tao chóng mặt…
Thành cười hì hì. Hít hơi thuốc nó nói với thuyền trưởng một cách thân tình như nói với anh em trong nhà của mình.
- Ai bảo anh uống đế với vĩnh tòn ten. Tôi mời anh uống 33 mà… Anh mà nhậu đế hoài có ngày cháy ruột cháy gan…
Búng tàn thuốc lá xuống sông Quỳnh hừ tiếng nhỏ rồi mới nói như cố tình từ chối lời mời uống bia của nhân viên.
- Tao hết tiền rồi…
- Có sao đâu... Tôi bao anh mà... Mình lai rai vài chai 33 cho ngà ngà rồi nhìn đời bằng con mắt màu xanh...
Tuấn bật cười hắc hắc khi nghe Thành cải lương. Còn Quỳnh im lặng nhìn hai bên bờ sông như không muốn nói thêm. Những khóm dừa nước xanh um. Cỏ vàng úa. Nhà dân chúng lưa thưa. Mặt sông rộng ra và nước cũng bắt đầu đục hơn vì gần tới ngã ba. Hai con sông Vàm Cỏ Đông và Tây sẽ gặp nhau để biến thành con sông rộng hơn mang tên Vàm Cỏ rồi chảy thêm một khúc ngắn lại đổi tên thành sông Vàm Láng, khi ra gần tới biển lại nhập vào sông Soài Rạp rồi đổ ra biển Đông bằng cửa Soài Rạp. Dĩ nhiên tên Vàm Láng không có trên bản đồ hành quân mà chỉ là tên của dân địa phương đặt cho khúc sông ngắn mươi cây số này. Gió thổi mạnh. Nước lớn kéo theo từng dề lục bình trôi lang thang. Hàng dừa nước đung đưa trong cơn gió. Khóm cây bần mọc sát bờ sông lá vàng úa. Chiến tranh làm đất đai bị bỏ hoang nhiều hơn. Quỳnh đã thấy đất dọc theo sông Vàm Cỏ Đông từ trên vùng Bến Sỏi, Gò Dầu dài xuống tới Cần Giuộc hoang vắng không người cư ngụ và trở thành vùng tác xạ tự do.
- Alpha 11 đây 9…
Quỳnh nghe tiếng của Quốc vang trong máy 46. Như quen lệ Tuấn nhấc lấy ống nói đoạn đưa cho Quỳnh. Nó biết hai thuyền trưởng muốn nói chuyện với nhau.
- 11 nghe 9…
Quỳnh chậm chạp lên tiếng. Giọng của Quốc vang gấp gáp.
- Mình ngáo ở chợ Bưởi tối nay hả mậy?
- Ừa…
- Mày có chương trình giải trí gì hông?
- Hông… Mình tới đó trễ…
- Mấy giờ?
Quỳnh trả lời với giọng mệt mỏi.
- Chắc sáu bảy giờ…
Tiếng cười ha hả của Quốc vang vang cùng với giọng nói chế diễu và cợt đùa.
- Sáu bảy giờ mà trễ… Mày thành ông già hay đi tu hồi nào vậy?
Quỳnh cười nháy mắt với Thành. Cả hai biết Quốc quá nhiều. Nó sinh ở ngoài Bắc. Năm 54, mẹ bỏ nó lên thúng gánh xuống tàu há mồm đi vào Nam. Định cư ở Nha Trang nên nó có giọng nói trọ trẹ trung không ra trung mà bắc không ra bắc. Ngoài ra nó còn nổi tiếng trong đơn vị về tài nói nhanh, nói nhiều và nói dai hơn đĩa đói.
- Để tao nói chuyện với thằng Thành…
Quỳnh trao ống nói cho Thành xong im lặng nhìn dòng sông sáng lấp lánh của một ngày nắng nóng. Anh ước gì trời mưa để được nằm trên chiếc giường quen thuộc trong lòng tàu chật chội, vừa hút thuốc, vừa nhâm nhi ly cà phê và đọc lại bộ Anh Hùng Xạ Điêu. Tàu chạy ngang qua làng Nhật Tảo. Biết bao lần tàu đã chạy ngang qua địa danh nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh hào hùng và bất khuất của dân tộc song anh vẫn chưa có dịp ghé thăm.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phơ đằng sau lái của chiếc Alpha 9. Khi biệt phái cho các đơn vị bạn, bộ chỉ huy thường chọn các chiến đỉnh mà máy móc đang nằm trong tình trạng tốt nhất. Do đó mà các khinh tốc đỉnh mang số 9 và 11 được tuyển chọn vì hỏa lực mạnh, tốc độ nhanh và máy tàu tốt so với số còn lại. Nguyên giang đoàn có 7 khinh tốc đỉnh mang số 7, 8, 9, 11, 12, và 14. Vị chỉ huy trưởng của giang đoàn tin dị đoan nên khi nhận tàu từ hải quân Hoa Kỳ, ông ta đổi chiếc tàu mang số 10 thành ra 14. Lính nói giễu là ông có máu cờ bạc nên không thích số bù. Tuy nhiên lính vẫn quen gọi là Alpha 10.
- Mình đi ngã nào hả anh?
Tuấn lên tiếng hỏi. Thành trả lời khi thấy Quỳnh đã bỏ ra sau lái.
- Chạy chút nữa mày sẽ thấy bờ bên trái có con kinh đổ ra. Đó là Kinh Nước Mặn. Thằng 9 đi đâu mày theo đó...
Không hỏi nữa Tuấn vừa lái tàu vừa cầm lấy tấm bản đồ lên chăm chú xem. Lát sau nó lẩm bẩm.
- Nước Mặn đi ra sông Nhà Bè… Nhà Bè đi Biên Hòa… Mình khỏi hỏi ai hết…
Thành mỉm cười khi nghe người lính mới lẩm bẩm. Tính mở miệng nói điều gì song nghĩ sao nó lại lắc đầu rồi chậm chạp leo xuống sàn tàu đứng nhìn chiếc Alpha 9 ở trước mặt đang từ từ rẽ vào Kinh Nước Mặn. Đi lại nhiều lần biết thủy trình có an ninh nên Quỳnh chui vào giường nằm đọc truyện chưởng một lát rồi thiếp ngủ.
- Anh Quỳnh… Tới Nhà Bè rồi…
Quỳnh hơi cựa mình khi nghe tiếng của Sang, thuyền phó vang bên tai. Giọng nói nhừa nhựa và còn ngái ngủ của anh vang chậm và rời rạc.
- Biết rồi… Chừng nào tới kho 5 gọi tao…
Sang vừa quay lưng đi Quỳnh nói vói theo.
- Nhớ bảo thằng Tuấn chạy sát bên bờ Thủ Thiêm khi gần tới bộ tư lệnh…
Sang gật đầu hiểu ý của cấp chỉ huy. Leo lên mui anh ra lệnh cho Tuấn đổi hướng đi sát bờ bên phải. Nhà sàn cất san sát dọc bờ sông xen lẫn với nhà ngói và cao ốc hai ba tầng. Thương thuyền trong nước và ngoại quốc buông neo đầy trên dòng nước khiến cho con sông Nhà Bè trở nên bận rộn suốt ngày đêm. Trong thời buổi chiến tranh thương cảng Sài Gòn trở thành một trong những thương cảng rộn rịp nhất của vùng Viễn Đông. Chậm chạp và lặng lẽ hai chiến đỉnh men theo bờ sông phía bên Thủ Thiêm đi lên Biên Hòa.
Khom người bước ra ngoài Quỳnh đứng nhìn hải quân công xưởng mà ngày xưa còn có tên sở Ba Son. Tàu chạy qua rạch Thị Nghè rồi lát sau tới Ngã Ba Đèn Đỏ, nơi sông Sài Gòn nhập vào sông Đồng Nai.
- Sông đó là sông Sài Gòn hả anh?
Tuấn vừa bẻ lái vừa nhìn bản đồ rồi đưa tay chỉ. Quỳnh gật đầu làm thinh. Rút gói thuốc lấy ra một điếu, gõ nhè nhẹ lên cái hộp quẹt rồi sau đó mới đốt thuốc. Hít hơi dài nhả khói ra từ từ anh cất giọng khàn khàn.
- Sông Sài Gòn là tên mà dân chúng hay gọi con sông phát nguyên từ hồ Dầu Tiếng, chảy qua địa phận tỉnh Bình Dương rồi đổ vào sông Đồng Nai tại Ngã Ba Đèn Đỏ mà mày vừa chỉ đó. Thật ra con sông này được chia ra nhiều khúc mà tên gọi khác nhau…
Quỳnh ngừng lại để hít hơi thuốc. Đang đứng nơi cột ra đa, nghe thuyền trưởng nói Thành lên tiếng.
- Thật hả anh. Tôi chỉ biết có tên sông Sài Gòn…
Quỳnh cười gật gù.
- Tao nói theo sách vở… Từ hồ Dầu Tiếng tới gần chợ Thủ có tên sông Ngã Cái. Từ chợ Thủ Dầu Một tới cầu Bình Lợi người ta gọi là sông Thủ Khúc. Đoạn sông từ Bình Lợi tới ngã ba Đèn Đỏ gọi là sông Sài Gòn…
Thành hứ tiếng nhỏ.
- Kỳ quá… Lấy khúc sông Sài Gòn ngắn ngủn mà đặt tên cho cả nguyên con sông dài mấy trăm cây số…
Quỳnh cười cười hít hơi thuốc rồi im lặng như không muốn bàn cãi thêm. Búng tàn thuốc rơi xuống sông Thành lại hỏi.
- Sao gọi là sông Thủ Khúc hả anh?
Quỳnh ngập ngừng khá lâu mới trả lời.
- Tao không biết nhưng đoán Thủ là Thủ Dầu Một còn Khúc là khúc sông. Như vậy sông Thủ Khúc là khúc sông chảy qua tỉnh Thủ Dầu Một… Đó là tên gọi xưa của tỉnh Bình Dương…
Nói dứt Quỳnh ngừng lại rít hơi thuốc thật dài rồi mới lên tiếng hỏi sau khi ném tàn thuốc xuống nước.
- Mấy giờ rồi?
Thành giơ tay lên nhìn vào mặt chiếc đồng hồ Seiko.
- 2 giờ rưởi…
Lẩm bẩm mấy tiếng trong miệng Quỳnh ngước nhìn xóm nhà khá đông nằm dọc theo bờ sông. Đó là Cát Lái, nơi có một căn cứ của hải quân. Đối diện với Cát Lái là kho đạn Thành Thủy Hạ.
- Căn cứ gì vậy anh?
Tuấn hỏi.
- Căn cứ hải quân Cát Lái…
Trả lời xong Quỳnh hỏi lại.
- Mày chạy bao nhiêu?
- 1200…
- Lên 1500 đi… Muốn đi uống cà phê ở chợ Bưởi thời mày phải chạy ngàn rưởi hay ngàn bảy mới kịp… Từ đây lên đó khá xa…
Tuân lệnh thuyền trưởng Tuấn nhấn mạnh cần ga. Hai máy dầu cặn rú lớn phun ra chút khói trắng tan nhanh trong không khí. Nước sau lái tàu sủi bọt trắng xóa. Gió buổi trưa mùa hạ nóng nhưng nhờ ở giữa sông lớn nên không oi bức lắm.
Sang cười nói với Thành.
- Một máy mới đại kỳ chạy đã nghe mậy…
Gật đầu Thành bật cười hắc hắc nói đùa với Sang.
- Cho sếp Quốc hửi khói của mình…
Nó vừa dứt lời thời giọng của Quốc vang vang trong máy 46.
- Alpha 11 đây 9… Tiên sư anh… Anh ỷ có máy mới anh cho tụi này hửi khói của anh hả…
Tuấn định chụp lấy ống nói thời Thành nhanh tay hơn hớt trước.
- Anh nhanh lên… Chậm là tui gả em gái của tui cho thằng Tuấn…
Cái giọng nửa Bắc nửa Nha Trang của Quốc vang ong óng trong máy truyền tin át cả tiếng cười khằng khặc của Thành.
- Mày đừng có dại dột đem em mầy gã cho thằng Tuấn. Đó là trao duyên lầm tướng cướp…
Giọng nhừa nhựa của Quỳnh vang lên chậm chạp.
- Còn hơn trao duyên cho thằng sở khanh như mày… Tướng cướp dù sao cũng có lương tâm hơn sở khanh…
Nhân viên của chiếc Alpha 11 cười ha hả khi nghe Quốc im lặng. Quỳnh tiếp liền theo.
- Trao duyên cho thằng sở khanh như mày để lãnh cái bầu à. Mày mà biết nó có bầu mà mày ca bài… Chiều nay ra khơi thoáng thấy dáng em có bầu… Tàu anh chạy tuốt…
Đang ngồi trong ụ súng đại liên 12 ly 7, Sang bật cười sằng sặc khi nghe Quỳnh ca bài Hoa Biển của Anh Thy. Bản nhạc này đã được thủy thủ ở các giang đoàn tác chiến của hải quân hát đi hát lại nhiều lần. Tùy theo hoàn cảnh và tùy theo người, họ sửa lời nhạc lại và hát như Quỳnh để biến bài Hoa Biển thành bài hát phổ thông đồng thời cũng làm cho Anh Thy nổi tiếng hơn dù nhạc sĩ tài hoa này không sáng tác nhiều vì đã hy sinh trên chiến trường lúc tuổi còn trẻ. Như hồi ở Rạch Giá anh đã nghe họ hát câu: Chiều nay ra khơi sóng lắc ghe chai muốn chìm...
Kỳ và Biên bước ra trước mũi. Cũng giống như nhiều chiến đỉnh khác, chiếc Alpha 11 có sáu nhân viên kể cả thuyền trưởng với ba ngành cần thiết nhất là vận chuyển, cơ khí và trọng pháo. Quỳnh với Tuấn thuộc ngành vận chuyển; Sang, thuyền phó với Kỳ ngành trọng pháo; còn Thành và Biên ngành cơ khí. Nguyên tắc thời như vậy song hầu hết nhân viên thuộc các giang đoàn tác chiến đều là thủy thủ đa năng, đa nghề và đa hiệu, nhất là vị thuyền trưởng.
Quay nhìn chiếc tàu của Quốc xả khói đen cố bám theo tàu của mình đang ngược con nước ròng đi về Long Bình, Quỳnh ra lệnh cho Kỳ.
- Mày coi lại ụ 20 ly đi… Mình sẽ đụng với tụi nó…
Kỳ vừa quay lưng đi ra đằng sau lái anh nói vọng theo.
- Hai cây 50 và khẩu M79 đằng sau lái nữa… Nhớ lắp thêm đạn…
Kỳ im lặng vừa đi vừa lầm bầm. Quỳnh hướng về Sang đang ngồi nơi ụ 50 trước nói như mắng vốn vì Sang là người chỉ huy trực tiếp của Kỳ.
- Thằng đó chơi thời được mà làm thời lầm bầm…
Sang cười khặc khặc.
- Anh biết mà... Có tài thời có tật… Anh chọn nó chứ ai…
Quỳnh làm thinh không muốn cãi với Sang. Chức vụ thuyền trưởng nhỏ bé và ít quyền hạn không cho phép anh từ chối việc bổ xung nhân viên từ bộ chỉ huy giang đoàn. Huống chi lúc đó tàu lại đang thiếu hụt nhân viên trầm trọng vì Sang và Thành đều bị thương đang nằm bệnh xá, do đó anh đành phải nhận Kỳ dù không có thiện cảm với người lính có tật xấu này. Anh không biết ở các đơn vị khác thì thế nào nhưng riêng ở giang đoàn này thì lính càng cũ chừng nào càng khó trị chừng đó. Ỷ vào thâm niên và cấp bậc, lính cũ trở nên ba gai, ba trợn và ba đá. Dĩ nhiên đây chỉ là thiểu số mà thôi. Kỳ là một trong thiểu số lính cũ có một trong ba cái ba đó.
Chiếc tàu sắt rẽ nước phăng phăng tiến về hướng Long Bình. Bờ bên trái cây lá xanh um. Nhà lá và nhà ngói xen lẫn nhau. Hàng cau cao vút vượt lên trên nền trời xanh. Ngồi trên mui tàu ngắm những cây cau lã ngọn Quỳnh chợt nhớ tới quê ngoại của mình. Đã lâu lắm rồi, từ khi vùng đất mến yêu biến thành vùng giải phóng của địch, anh không còn dịp trở về nữa. Anh cảm thấy giữa mình với quê làng càng ngày càng bị chia cắt và cách xa hơn. Điều đó làm cho anh đau lòng và nỗi đau thầm kín xoáy sâu vào trong tâm khảm, hình tượng hoài hủy sự khắc khoải và ưu tư của người lính trẻ về cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc.
Quỳnh hơi ngửng đầu lên nhìn chiếc ghe gắn máy đuôi tôm từ trong con rạch nhỏ chạy ra. Chiếc ghe lớn khẳm lừ xuôi về miệt Sài Gòn. Dòng sông Đồng Nai chói chang ánh nắng. Bọt nước nổi lăn tăn xa đằng trước mặt. Trong bóng nắng của nước anh hồi tưởng lại tuổi học trò của mình. Tuổi mười bảy. Đệ tam. Hè. Anh và cô bạn học trường Lê Văn Duyệt đạp xe lên Lái Thiêu. Vườn trái cây rợp bóng mát. Nắng rơi theo bước chân đi. Nắng lỗ chỗ đọng trên mái tóc huyền dài xỏa lưng của Bình Minh. Tà áo dài bay trong cơn gió đồng. Đôi mắt trong đen của Bình Mình nhìn sâu thẳm miên man tình ý. Hò hẹn lâu rồi anh nói đi… Quỳnh chưa hề nói lời tình tự dù Bình Minh hiểu anh muốn nói điều gì. Tình bạn ngày càng thêm gắn bó, thân thiết và kéo dài tới khi thi xong tú tài 1. Quỳnh đi lính mà không hề giải thích cho cô bạn gái biết. Từ đó là xa nhau, là thôi không thấy nhau nữa. Anh cũng không bao giờ trở lại trường Lê Văn Duyệt để tìm Bình Minh. Dù vậy trong tâm tưởng anh đôi khi vẫn nhớ nàng.
- Alpha 11 đây Tango…
Tuấn nhấc lấy ống nói trao cho thuyền trưởng. Nghe giọng nói sang sảng Quỳnh biết đó là trung úy Trực, trưởng ban hành quân kiêm sĩ quan giang đỉnh của đơn vị.
- Alpha 11 nghe Tango…
- 11 đang ở đâu?
- Trình Tango tôi đang ở cách Lima Bravo chừng hai ô vuông…
- Khi nào tới Bravo Hotel, 11 báo cáo cho Tango biết… Nghe rõ trả lời…
Hiểu ý Quỳnh nói nhanh.
- Trình Tango… Tôi sẽ báo cáo khi tới Bravo Hotel…
Cuộc điện đàm chấm dứt. Đưa ống nói cho Tuấn, Quỳnh bật lửa đốt thuốc xong lại cắm đầu xuống tấm bản đồ hành quân đoạn chui vào phòng lái lục lọi trong đống sách vở bề bộn.
- Anh tìm gì vậy?
Tuấn lên tiếng hỏi nhưng Quỳnh im lặng không trả lời. Có thể anh không nghe hoặc nghe mà không muốn trả lời. Thấy vậy Tuấn nín thinh luôn vì biết mình đã quá tò mò vào chuyện của cấp chỉ huy. Có lẽ cũng biết điều đó nên Quỳnh tằng hắng tiếng nhỏ rồi thong thả giải thích cho người lính mới xuống tàu của mình nghe.
- Tao tìm cuốn sổ tay...
Lôi ra trong đống sách vở và tài liệu, Quỳnh đưa cuốn sổ tay cũ rích lên cho Tuấn thấy.
- Tao có thằng quen cùng xóm đi giang đoàn 24 xung phong. Đơn vị của nó từng hoạt động trên sông Đồng Nai. Mỗi lần tụi tao gặp nhau nó kể chuyện bị du kích núp bắn. Tao nhớ là tao đã ghi vào cuốn sổ tay những địa điểm mà nó kể. Nếu biết địa điểm...
Quỳnh ngừng lại. Tuy anh không nói hết câu song Tuấn hiểu. Leo lên mui tàu, đốt điếu thuốc, Quỳnh chậm rãi lật cuốn sổ tay cũ mèm có nhiều trang đã rời ra.
- Đây rồi...
Quỳnh lẩm bẩm. Như để thưởng cho trí nhớ của mình anh mỉm cười thích thú rít liên tiếp hai hơi thuốc thật dài rồi nhả ra từ từ. Khói thuốc theo gió bay vào mũi của Tuấn mùi hăng hăng. Mới đi lính gần một năm nên nó chưa nhiễm thói hư và tật xấu của lính. Đối với Tuấn, hút thuốc và uống rượu là thói hư còn đánh bài và chửi thề là tật xấu. Năm người lính cũ trên tàu nếu không có thói hư thời cũng có tật xấu hoặc có người có cả hai thứ ngoại trừ Ông Từ Sang. Không hút thuốc, không uống rượu, không chửi thề cũng không đánh bạc; Sang là một người lính gương mẫu của đơn vị và gia đình. Bởi vậy Sang mới được lính dưới tàu đặt cho biệt danh Ông Từ. Tiền lương lãnh ra nó không xài đồng nào mà đem về cho vợ. Nó có một phương châm sống rất giản dị và thực hành một cách đúng đắn. Không ăn của ai và cũng không ai ăn của nó được. Sang rất sòng phẳng trong chuyện tiền bạc. Tuấn nhận thấy lâu lâu Quỳnh mời Sang ăn sáng thời sau đó nó lại bao thuyền trưởng chai 33. Ở chung tàu với nhau lâu nên cả hai hiểu tính nhau và đối đãi với nhau rất sòng phẳng và điệu nghệ. Quỳnh với Thành là hai người có thói hư mà không có tật xấu. Đó là hút thuốc và uống rượu. Quỳnh hút thuốc lá liên miên, hết điếu này sang điếu khác. Anh hút hai hoặc ba gói mỗi ngày. Có thể nói Quỳnh xài hơn phân nửa tiền lương của mình vào thuốc lá và rượu. Số còn lại cho sách đọc và chi tiêu lặt vặt. Tuấn nhận thấy thuyền trưởng của mình đọc sách nhiều ngang với hút thuốc. Trên môi điếu thuốc thời trên tay anh là cuốn sách. Sách gì cũng được. Tờ Bách Khoa cũ mèm, tờ Sáng Tạo rách tả tơi, bộ truyện Ba Sinh Hương Lửa, Dọc Đường Số 1 và bộ truyện chưởng của Kim Dung đều lại được anh nâng niu và gìn giữ kỹ lưỡng hơn bộ quân phục đang mặc trên người. Một lần khi làm sạch sẽ cho tàu Tuấn mới khám phá ra dưới gầm giường của Quỳnh có vô số sách báo được chứa trong những thùng đạn đại liên.
- Mình tới đâu rồi anh?
Tuấn hỏi. Quỳnh ngước lên nhìn vào bờ bên phải rồi lát sau mới trả lời.
- Căn cứ Long Bình...
Thấy người lính mới tỏ vẻ ngơ ngác khi nghe mình nói tới tên Long Bình, Quỳnh mỉm cười hít hơi thuốc rồi mới giải thích vắn tắt.
- Mày ở Cai Lậy nên không biết nó đâu. Long Bình là căn cứ của lính Mỹ. Bây giờ Mỹ rút rồi nên giao lại cho lính mình. Hải quân cũng có một căn cứ dọc bờ sông...
- Tại sao lại đặt tên Long Bình?
Quỳnh bật cười hăng hắc vì câu hỏi này. Anh chưa kịp trả lời, tiếng của Thành vọng ra từ trong phòng ngủ. Chắc nó nghe được câu hỏi của Tuấn.
- Tại sao mày tên Tuấn?
- Ba má tôi đặt mà. Ổng bả nói hồi mới sinh ra tôi đẹp trai lắm nên ông bả đặt tên Tuấn, có nghĩa là tuấn tú...
Quỳnh mỉm cười khi nghe giọng cười khặc khặc trong họng của Thành. Được dịp xỏ xiên nên nó không khi nào chịu bỏ. Từ trong hầm chui ra đứng nơi mũi tàu nó xỏ liền một câu.
- Hồi nhỏ mày tuấn tú, đẹp trai sao bây giờ mười hai con giáp tao thấy mầy hổng giống con giáp nào...
Sang thêm vào một câu mà khi nghe xong Quỳnh không nhịn được phải bật lên tiếng cười.
- Chắc tại nó ăn trúng cái gì nên người nó méo mó, khỉ không ra khỉ mà người không ra người... Nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi là nó đó...
Thành phá ra cười sặc sụa khiến cho Tuấn xụ mặt xuống và im lặng không dám nói thêm câu nào nữa. Nó đã khôn ra và biết im lặng là cách hay nhất để khỏi bị chọc quê thêm nữa, nhất là không tranh cãi với mấy người lính cũ chuyên ăn nói sống sượng và tìm đủ mọi cách chọc ghẹo mình.
- Chừng nào mình mới tới Biên Hòa hả anh?
Tuấn cố tình lãng sang chuyện khác bằng cách quay qua bắt chuyện với thuyền trưởng của mình. Hiểu ý Quỳnh cười cười.
- Chừng năm giờ rưởi...
- Anh đi nhậu hả?
- Chắc không...
- Thằng Thành rủ anh mà...
Quỳnh nhẹ lắc đầu.
- Tao ớn nhậu rồi. Chỉ muốn ngủ... Để thằng Quốc đi với nó...
17 giờ. Dòng sông nước trong xanh làm cho Quỳnh nhớ tới con sông Vàm Cỏ Đông khi lên tới vùng Trà Cú và Hiệp Hòa. Đang chăm chú vào tấm bản đồ, Quỳnh ngước lên khi nghe Tuấn hỏi.
- Mình đi ngã nào anh?
- Đi sát bên trái... đi thẳng...
Cắm đầu vào bản đồ Quỳnh nói chậm rãi như muốn giải thích cho người lính mới của mình biết rõ hơn.
- Chỗ này là làng Hiệp Hòa. Sông Đồng Nai tới đây chia ra làm hai dòng. Dòng bên trái là dòng sông chính, còn dòng bên phải là dòng phụ có tên Rạch Cát. Nó uốn cong hình chữ U tạo thành một cù lao tên Cù Lao Phố... Đây là địa danh nổi tiếng ngày xưa...
Tuấn im lặng đưa ống dòm lên quan sát rồi lên tiếng.
- Có nhà dân nhiều lắm... Chắc bưởi Biên Hòa trồng ở đây...
Quỳnh im lặng không nói chuyện nữa vì bận làm việc. Anh đọc cuốn sổ tay của mình rồi sau đó dùng viết mực đỏ khoanh tròn các địa điểm trên bản đồ. Anh nhận thấy các địa điểm được mình ghi ra đều nằm ở khúc sông qua khỏi Rạch Ông Tiếp tới Uyên Hưng và kéo dài lên tới ngã ba của con sông Rạng Đông.
5 giờ rưởi chiều. Hai chiếc Alpha 9 và 11 cập vào cầu nổi của căn cứ tạm thuộc giang đoàn 24 xung phong. Quỳnh cùng Quốc đi lên bộ chỉ huy nhẹ của giang đoàn 24. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau hai thuyền trưởng trở xuống tàu. Quỳnh nói với nhân viên.
- Mình nghỉ ở đây đêm nay. Sáng mai mình mới vào vùng công tác...
Thấy bạn đang ngồi sau lái nhìn dòng nước trong xanh lừ đừ chảy Quốc lên tiếng.
- Mày đi nhậu không?
Quỳnh lắc đầu cười.
- Tao nhức đầu chỉ muốn ngủ...
Nhìn mặt trời còn treo lơ lửng trên ngọn của hàng cây bên kia sông Quốc cười hà hà.
- Giờ này mà ngủ cái gì. Đi... Tao với mày lai rai vài chai rồi về...
Quỳnh lắc đầu uể oải đứng dậy.
- Mày đi với thằng Thành đi... Tao nằm đọc sách một chút rồi khò...
Không nài ép thêm Quốc nhảy lên cầu nổi trong lúc Quỳnh chui vào giường của mình.
CHƯƠNG 2
giờ sáng. Mưa. Mưa rơi trắng xóa trên dòng sông rộng. Gió từng cơn vật vả, mang theo nước mưa tạt vào mặt Quỳnh rát rạt. Chiếc tàu sắt lầm lủi đội mưa đi lên thượng nguồn sông Đồng Nai. Hai chiếc tàu biệt phái được lãnh vùng công tác khó nuốt. Đó là đoạn sông từ Rạch Ông Tiếp, ngang với núi Bửu Long dài lên tới sông Rạng Đông. Khúc sông dài ba bốn chục cây số này là thủy lộ chuyển quân từ các vùng Bến Cát, Phú Giáo, Tân Uyên về tỉnh lỵ, nơi có bộ tư lệnh quân khu 3 và phi trường Biên Hòa.
- Sao họ không cho mình tuần tiễu ở gần chợ hả anh?
Tuấn hỏi nhỏ. Quỳnh trả lời thật gọn.
- Tại mình là con ghẻ. Mày biết con ghẻ hông?
Tuấn cười lặng lẽ trong màn mưa mù mù sương vì cái giọng dấm dẳn của cấp chỉ huy. Những giọt nước mưa theo cổ áo mưa chảy vào áo rồi từ từ thấm vào quần áo khiến cho nó hơi khó chịu vì bị ướt và lạnh.
- Mình biệt phái cho đơn vị bạn thời mình là con ghẻ của họ. Họ sẽ đẩy mình vào chỗ nào họ chê, họ ớn. Đó là vùng nguy hiểm nhất, bị địch bắn nhiều nhất... Khúc sông mà mình có nhiệm vụ tuần tiễu là khúc sông bị áp lực nặng nhất... Tuần trước hai chiếc khinh tốc đỉnh của tụi 24 bị bắn tả tơi bằng B40 và 57 không giật... Tao nghe nói hai chiếc tàu này bị một trung đội súng nặng của địch phục kích...
- Tại sao nó bắn mình hả anh?
Hỏi xong Tuấn nghe thuyền trưởng cười hực rồi giọng nói vang mỏi mệt.
- Tại vì mình cản không cho tụi nó tự do hoạt động trên sông. Nó dùng thuyền chở súng nặng từ chiến khu D, C gì đó về để pháo hay đánh vào tỉnh lỵ...
- A...Tôi hiểu rồi... Mình cản đường cho nên nó phải bắn mình...
- Ừ... Mầy có mặc áo giáp không?
- Có... Tôi đội luôn nón sắt cho chắc ăn...
Tuấn cười hắc hắc sau khi dứt câu. Quỳnh mỉm cười quay nhìn người lính mới. Anh không thấy gì hơn ngoài chiếc nón sắt và cái poncho trùm kín thân thể. Những thứ đó làm anh liên tưởng tới câu hát... Poncho buồn phủ kín đời anh... Đột nhiên anh cảm thấy ruột gan như thắt lại khi nghĩ tới một điều. Chết... Lắc lắc đầu anh nói nhỏ với Tuấn.
- Mày nghe máy nghen... Tao đi hút thuốc... Lạnh quá...
Tuột xuống sàn tàu, tay vịn lan can Quỳnh đi lần ra sau lái. Thành và Biên mặc áo giáp, đội nón sắt đang ngồi uống cà phê và hút thuốc. Không đợi cho cấp chỉ huy hỏi, Thành tự động rót cho Quỳnh ly cà phê. Quẹt diêm đốt thuốc, bập bập mấy cái cho thuốc cháy đều xong anh mới hớp ngụm nhỏ cà phê. Đầu thuốc lá cháy đỏ rực trong bầu trời xám xịt mịt mờ hơi nước mưa. Gặp mùa mưa nên nước trên nguồn đổ xuống chảy phăng phăng cuốn theo những thân cây khô chết trôi đầy trên sông khiến cho tàu phải tránh né một cách khó khăn. Sáng hôm nay, khi ngồi nghe thuyết trình về tình hình chiến sự, trung úy Bình có nhắc cho anh và Quốc về chuyện đặc công địch đặt mìn để đánh chìm tàu của ta. Người nhái địch, lợi dụng mùa nước lũ, máng mìn vào các thân cây trôi trên sông rồi đẩy vào tàu cho nổ. Hai giang đỉnh của giang đoàn 24 đã bị chìm vì đụng phải mìn.
- Mình tuần tiễu khúc nào hả anh?
Thành hỏi. Hít hơi thuốc nữa Quỳnh hắng giọng.
- Mình lãnh khúc sông từ Rạch Ông Tiếp tới ngã ba sông Rạng Đông...
Thành trợn mắt nhìn thuyền trưởng của mình giây lát mới lên tiếng.
- Hai giang đỉnh của tụi 24 mới bị bắn tuần trước...
Quỳnh nhẹ gật đầu. Ánh mắt hơi đăm chiêu của anh nhìn dòng nước cuồn cuộn sau lái tàu.
- Tao biết.... Bởi vậy họ mới xin mình lên đây. Tàu của mình hỏa lực mạnh hơn và tầm hoạt động xa hơn... Mình sẽ ở trên đó hai tuần rồi về chợ nghỉ một ngày rồi lại trở lên. Mày biết khúc sông đó?
Thành lắc lắc đầu. Hít hơi thuốc dài rồi nhả khói ra nó nói chậm.
- Tôi không biết... Hồi nhỏ có chèo xuồng lên núi Bửu Long chơi mà cũng không có đi xa hơn...
Quỳnh trầm ngâm không nói. Mưa có vẻ nhẹ hạt hơn. Gió cũng bớt thổi mạnh. Bóng chiếc Alpha 9 chạy phía sau mờ mờ trong màn mưa giăng kín bầu trời và mặt sông rộng.
- Mình lãnh bao nhiêu dầu?
- Năm ngàn lít...
Gật gật đầu tỏ vẻ hài lòng, Quỳnh nhìn những tấm giáp chống đạn B40 che kín hai khẩu đại liên 50 đặt hai bên hông tàu.
- Hai đứa bây ở đằng sau nên cẩn thận. Coi chừng tụi nó bắn sẻ...
- Anh đừng lo... Tụi tui che hai lớp giáp lận... Che kín mít hết trơn...
Hớp ngụm cà phê, Quỳnh nhìn những tấm giáp dầy chống đạn được giăng kín khắp nơi chỉ chừa lối đi nhỏ hẹp. Búng tàn thuốc rơi xuống nước, uống cạn ly cà phê anh chậm chạp đứng dậy. Trùm lên người chiếc áo mưa anh men theo hông đi lần về phía mũi tàu. Sang ló đầu lên khỏi ụ súng đại liên.
- Tôi đi uống trà cho ấm...
Quỳnh gật đầu leo lên ngồi trên mui bên cạnh Tuấn đang lái tàu.
- Tạnh mưa rồi anh ơi...
Tuấn mừng rỡ cởi cái nón sắt xuống. Chút nắng le lói trên bầu trời vẫn còn xám đục và mưa bụi giăng giăng trên mặt sông. Khúc sông này vẫn còn khá rộng. Tuy nhiên Quỳnh biết càng lên thượng nguồn lòng sông càng hẹp dần lại và nước chảy như cắt cuốn theo cây cối trên rừng thành từng bè lớn khiến cho tàu phải né tránh hoài. Điều mà anh lo ngại nhất là địch có thể bám theo các thân cây có cột sẵn mìn rồi lao vào để đánh chìm tàu. Anh cũng hy vọng khúc sông mà tàu của mình có trách nhiệm tuần tiễu vẫn còn rộng ở ngoài tầm bắn của B40 hoặc đại bác 57 ly không giật của địch.
- 11 đây 9...
Quỳnh nhấc lấy ống nói khi nghe giọng của Quốc vang vang.
- 11 nghe 9...
- Mày để tao đi trước...
Quỳnh cười đùa một câu.
- Mày sợ đi sau bị vẹm bắn bể gáo hả...
Tuấn nghe tiếng của Quốc cười ha hả trong máy 46.
- Chứ sao... Đời em còn đẹp như mơ mà lị...
Quỳnh lắc đầu đưa ống nói cho Tuấn xong nói.
- Mày nghỉ đi để thằng Thành lái...
Ngồi trên mui tàu Quỳnh thấy được khu phố dọc theo bờ sông. Nhà lầu hai tầng trắng mốc. Nhà ngói lơ thơ. Xóm nhà lá nằm lẻ loi xa về bên trái. Xa trên kia núi Bửu Long sừng sửng. Ngồi vào ghế lái Thành chập chạp đẩy cần ga lên tới số 1000. Chiếc khinh tốc đỉnh nặng nề rẽ nước bám theo chiếc chạy trước. Biết sẽ biệt phái dài hạn nên Quỳnh đã xin lãnh đạn tối đa song chỉ được cấp phát một cách giới hạn. Một ngàn viên đại bác 20 ly, năm ngàn viên 12 ly 7, một ngàn viên đại liên M60. Ba trăm viên M79 cho khẩu súng tự động ở sau lái. Chỉ có vậy thôi. Tuy nhiên anh không lo ngại vì thiếu đạn dược hay xăng nhớt mà quan tâm tới tình hình chiến sự nhiều hơn. Mặt trận miền đông không còn yên tịnh nữa mà càng ngày áp lực của địch càng gia tăng xuyên qua sự có mặt của các sư đoàn chính qui của bộ đội Bắc Việt từ ngoài Bắc vào. Các đại đơn vị này được trang bị đầy đủ với các loại vũ khí tối tân nhất do Nga Tàu cung cấp. Trong lúc đó sự thiếu vắng của quân lực Hoa Kỳ, nhất là tiếp liệu giảm dần, khiến cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải gồng mình nhận lãnh nhiệm vụ ngăn chặn sự xâm lăng của cộng sản. Sáng hôm kia, tham dự buổi thuyết trình về tình hình chiến sự, vị chỉ huy trưởng giang đoàn đã bày tỏ mối lo âu của ông ta về tình hình có vẻ không thuận lợi của quân lực.
Tàu chạy ngang qua núi Bửu Long. Nhìn vào con rạch khá lớn ở bờ bên trái rồi đối chiếu với bản đồ Quỳnh biết đó là Rạch Ông Tiếp. Xế trên kia một chút là ngã ba, nơi sông Đồng Nai chia làm hai dòng chính và phụ. Dòng phụ bên trái chạy quanh co rồi cuối cùng nhập vào dòng chính để làm thành một cù lao khá rộng. Cù lao này nhỏ hơn cù lao Phố và cũng không nổi tiếng bằng có lẽ vì ở xa thành phố.
- Alpha 11 đây 9...
Thành nhấc lấy ống nói rồi trao cho Quỳnh khi nghe tiếng của Quốc vang từ máy 46.
- 11 nghe 9...
- Mình theo ngã nào?
Không nhìn vào bản đồ Quỳnh trả lời liền.
- Cập bên phải... Mình đi dò đường trước nên theo ngã bên phải lớn hơn...
Cười ha hả Quốc đùa một câu.
- Em tuân lệnh sếp...
Quỳnh lắc lắc đầu cười một mình. Các giang đoàn tác chiến có một luật bất thành văn. Khi có công tác xa đơn vị và có từ hai chiếc tàu trở lên thời thuyền trưởng có cấp bậc cao hơn đương nhiên sẽ là trưởng toán. Trường hợp cấp bậc ngang nhau thì thâm niên quân vụ sẽ được tính. So cấp bậc và thâm niên quân vụ thì Quỳnh thuộc đàn anh của Quốc do đó anh đương nhiên trở thành cấp chỉ huy.
- Anh có đi núi Bửu Long chưa?
Thành lên tiếng. Đốt điếu thuốc, hít một hơi, Quỳnh nói trong khi nhả khói ra.
- Không... Tao có đi núi Châu Thới và suối Lồ Ồ... Hình như Bửu Long có núi và hồ...
Thành gật đầu nhẹ bẻ tay lái cho tàu đi vào khúc sông rộng bên mặt.
- Hồi còn đi học tôi dẫn bồ cũng lên núi chơi hoài...
Quỳnh quay nhìn Thành đoạn cười đùa.
- Mày mà cũng có bồ à... Tao tưởng...
Người lính cơ khí cười hi hí.
- Anh nói giỡn anh... Tôi không có tuấn tú như thằng Tuấn nhưng cũng sạch nước cản...
Quỳnh bật cười khi nghe Thành xỏ xiên. Tiếng của Tuấn từ sau lái vọng lên.
- Mày mà sạch nước cản... Cu dính dầu đầu dính mỡ mà sạch...
Quỳnh lại bật cười lớn hơn khi nghe Tuấn ăn miếng trả miếng với Thành. Nó vừa nhắc tới một câu nói nhạo báng dành cho các nhân viên thuộc ngành cơ khí là cu dính dầu đầu dính mỡ. Câu nói này tuy thô tục song lại diễn tả xác thực về nghề sửa máy của người lính cơ khí trên tàu. Chui vào trong lòng tàu chật hẹp nên đầu tóc, tay chân và quần áo của họ thường xuyên bị dơ dáy vì dính phải dầu mỡ và xăng nhớt do đó mới phát sinh ra câu nói đùa trên. Cười xong Quỳnh đưa ống dòm lên chăm chú quan sát bờ bên mặt của mình. Nhà dân chúng lưa thưa. Đa số là nhà lá cất dọc theo bờ sông.
- Mày chạy sát bờ để tao quan sát...
Quỳnh ra lệnh và Thành bẻ lái cho tàu chạy sát bờ chỉ cách chừng ba bốn chục thước. Dùng ống dòm quan sát giây lát Quỳnh cau mày lẩm bẩm. Anh biết ngay trở ngại của mình. Nếu địch phục kích bắn tàu tại đây thì anh không thể bắn trả vì sẽ trúng vào nhà của dân chúng. Dòng sông nhỏ lại dần dần nên nằm trong tầm bắn của B40 hoặc đại bác hạ nòng bắn thẳng. 57 không giật xưa rồi so với nhiều thứ vũ khí tối tân mà anh không biết. Anh cũng nhận ra một điểm thuận lợi cho mình là nhờ mùa mưa nước dâng cao bằng với mặt bờ sông nên súng trên tàu bắn sẽ có hiệu quả nhiều hơn mùa khô nước xuống thấp.
- Lên ngàn rưởi đi...
Tuy không hiểu chuyện gì song Thành im lặng tuân lệnh đẩy cần ga lên. Hai máy dầu cặn rú lớn và con tàu nặng nề rẽ nước lên nguồn. Quỳnh vẫn chiếu ống dòm vào bờ bên phải. Nhà dân chúng thưa dần dần rồi sau đó không còn nữa. Thay vào đó là đồng cỏ và cây cối xanh xanh. Điều khiến cho anh chú ý là vùng này có nhiều đồi, cao có, thấp có, cũng như nhiều mô đất chạy dọc theo bờ sông. Anh tự hỏi những mô đất này tự nhiên hay do người ta đắp lên. Nếu do người ta đắp lên thời họ là ai. Địch? Hay dân chúng đắp dưới áp lực của du kích? Những đồi cao thấp và các mô đất cây cỏ um tùm này là vị trí lý tưởng cho địch đặt các ổ súng cộng đồng để bắn tàu. Đối chiếu với bản đồ của mình Quỳnh nhận thấy từ Uyên Hưng lên tới khoảng 5 ô vuông có nhiều nguy hiểm nhưng cũng không bằng khúc sông từ Uyên Hưng dài lên tới ngã ba sông Rạng Đông. Kinh nghiệm cộng thêm linh cảm cho anh biết điều đó.
- Mày có ống dòm không Kỳ?
Quỳnh hỏi Kỳ đang ngồi nơi ụ 20 ly. Đó là chỗ cao nhất nên dễ dàng quan sát trong bờ.
- Có mà ống dòm của tôi dỏm lắm...
Nhẹ lắc đầu Quỳnh nói nhỏ.
- Lấy ống dòm của tao nè... Trên đó cao hơn...
Quỳnh và Kỳ đổi ống dòm cho nhau. Đưa cái ống dòm cũ mèm lên nhìn giây lát anh càu nhàu mấy tiếng rồi leo xuống đi vào phòng lái lấy ra chiếc ống dòm mới tinh. Leo lên mui ngồi lại chỗ của mình Quỳnh rút gói thuốc ra đưa mời Thành. Không từ chối nó lấy một điếu ngậm lên môi nhưng chưa vội đốt. Chờ cho Quỳnh lấy điếu thuốc nó mới bật chiếc zippo đốt luôn cho hai người. Rít liên tiếp hai hơi dài Quỳnh lại cắm cúi vào bản đồ và cuốn sổ tay của mình. Chiếc tàu sắt im lìm đi trong ánh nắng của một ngày mùa hè.
1 giờ sáng. Chiếc Alpha 11 ì ạch chạy ngược dòng nước. Cây cối trôi lang thang đầy trên mặt sông. Nhìn cảnh này Quỳnh liên tưởng tới mấy câu thơ của Huy Cận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi một cành khô lạc mấy dòng...
Gió đêm man mát nhưng anh vẫn cảm thấy nóng vì phải mặc thêm chiếc áo giáp dày cộm. Tuy đang ở giữa dòng song vì lòng sông hẹp khiến địch vẫn đủ sức bắn trúng tàu, do đó tất cả nhân viên đều phải mặc áo giáp và đội nón sắt. Ngay chính anh cũng cảm thấy khó chịu vì đội chiếc nón nặng chình chịch lên đầu, nhưng phải làm gương cho nhân viên, nhất là nghĩ tới lúc bị thương hay chết anh đành phải mặc áo đội nón cho an toàn.
Mảnh trăng thượng tuần sáng vằng vặc, buông xuống dòng nước mênh mông thứ ánh sáng mông lung, mờ ảo và bàng bạc chút hơi sương dọi trên áo của Tuấn biến thành màu trắng nhạt. Tiếng máy nổ rì rầm hoài hủy làm cho anh buồn ngủ. Lấy tay chà sát lên da mặt của mình cho tỉnh táo anh cầm lấy chiếc starlight scope lên. Mặt sông Đồng Nai sáng rực màu lân tinh trong ống kính. Dưới ánh trăng buông toàn thể cảnh vật đượm màu huyền hoặc, lung linh và mơ hồ. Anh cảm thấy được sự dịu dàng, nhẹ nhàng của ánh trăng lười biếng buông rơi từng sợi ánh sáng xuống cảnh vật đang yên tịnh ngủ trong lúc nửa đêm. Tất cả đều yên ngủ trừ ba thứ là máy tàu đều đặn nổ, máy truyền tin kêu xè xè và hai người ngồi câm nín, nhưng thỉnh thoảng cọ quậy như để chứng tỏ sự có mặt của mình. Có thể đâu đó cạnh bờ sông cũng có những người lính của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đang thức chờ bấm cò khi thấy bóng chiếc tàu sắt nằm trên đường thẳng từ lỗ châu mai tới đỉnh đầu ruồi. Viên đạn mang nhãn hiệu Made In China hoặc Made In Russia được nhắm bắn vào chiếc khinh tốc đỉnh Made In USA, trên đó có những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả thứ vũ khí đều sản xuất từ ba siêu cường khác nhau, trừ những người lính Việt Nam của hai phe quốc cộng ở hai miền Nam Bắc.
Quỳnh kéo lê chiếc ống dòm một cách chậm chạp trong khi tự hỏi để làm gì? Mong thấy được những bóng người di động mà anh biết mình không thể bắn vì sợ trúng phải dân chúng. Anh không biết người dân ở trong bờ thuộc phe bên này hay bên kia, do đó anh không được quyền bắn ngay cả khi bị bắn trước. Người lính du kích, bộ đội bên kia được quyền bắn vì họ mượn, họ khoác lên cái vỏ bọc dân chúng. Cái vỏ bọc nhiệm mầu này khiến cho họ muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết bởi vì nhân danh nhân dân thì không ai có quyền kết tội họ được.
Tuấn đẩy nhẹ cần ga tới trước. Máy tàu rú nhỏ và chiếc chiến đỉnh chầm chậm rẽ nước. Cây đèn bấm của Quỳnh chiếu lên vòng tròn màu đỏ. Hai chữ Bình Hòa màu xanh hiện ra trong ánh trăng bàng bạc. Xa đằng trước chừng vài trăm thước, chiếc Alpha 9 đen xì hiện rõ ràng trên mặt sông lấp lánh sáng ánh trăng buông. Từ giữa sông vào tới bờ không quá năm mươi thước, cho nên vẫn nằm trong tầm bắn của súng địch. Hai chiếc tàu sắt biến thành mục tiêu cho địch thực tập tác xạ. Bum... Qua ống kính của chiếc ống dòm ban đêm Quỳnh thấy được ánh lửa nháng lên trong bờ.
- Nó bắn...
Quỳnh lên tiếng báo động cho nhân viên của mình. Tuấn đẩy mạnh cần ga tới trước. Hai máy dầu cặn rú lớn. Chiếc khinh tốc đỉnh nặng hàng chục tấn vọt tới trước. Ngồi trên mui Quỳnh đặt vội chiếc ống dòm xuống. Anh thấy ánh lửa lóe sáng nơi chiếc Alpha 9 và tiếng nổ ầm vọng vang trên mặt sông rộng. Khom người anh hét vào tai của Tuấn.
- Vào thẳng bờ...
Thấy người lính mới còn ngần ngừ vì chưa hiểu ý của mình anh lập lại.
- Cắm mũi vào bờ cho tao...
Được lệnh của thuyền trưởng Tuấn bẻ lái cho tàu tiến thẳng vào ngay chỗ địch vừa khai hỏa. Quỳnh hét thật lớn. Sợ nhân viên không nghe được anh còn đưa tay làm dấu hiệu.
- Sang... Kỳ... 45 độ...
Ở dưới chiến đỉnh lâu năm nên Sang và Kỳ hiểu ý cấp chỉ huy. Không được bắn thẳng vào nhà dân chúng, nhưng lại muốn làm câm họng súng của địch chiếc khinh tốc đỉnh chỉ còn cách đánh đòn hù. Đó là bắn, song bắn lên cao để hù dọa đám du kích. Hành động lái tàu đâm thẳng vào ngay chỗ vị trí phục kích của địch sẽ làm cho đám du kích hay bộ đội hoảng hốt vì nghĩ là mục tiêu đã bị lộ. Do đó chúng chỉ còn cách xách súng chạy vì biết không thể nào bắn trả lại hỏa lực hùng hậu của tàu. Kinh nghiệm của nhiều lần đụng trận cộng thêm sự liều lĩnh, Quỳnh hy vọng hành động của mình khiến cho địch không bắn thêm phát nào nữa.
- Alpha 11 đây 9...
- 11 nghe 9...
- Nó bắn trúng tao...
- Tao biết... Báo cáo thiệt hại...
Giọng Bắc pha Nha Thành của Quốc vang lên vui vẻ. Điều đó khiến cho Quỳnh an tâm vì đoán không có thiệt hại về nhân mạng.
- Nó bắn trúng vách che... Tiên sư nó... chút nữa là lọt vào ngay giường tao...
Quỳnh đứng bật dậy khi thấy tàu sắp vào tới mục tiêu.
- 9 đây 11... Cắm mũi vào bờ... nghe rõ trả lời...
- 9 nghe 11...
Thấy tàu còn cách bờ chừng ba mươi thước Quỳnh hét vào tai Tuấn.
- Quay... quay mũi...
Như sợ người lính mới không hiểu anh lấy tay làm dấu hiệu. Tuấn quay tay lái thật nhanh để đổi hướng cho tàu quay mũi lên thượng nguồn.
- Bắn...
Hai khẩu đại liên 50 trước mũi nổ liền theo khẩu lệnh. Còn khẩu đại bác 20 ly trên mui rống thành âm thanh lùng bùng lỗ tai. Đạn lửa kéo thành dây dài lê thê từ ngoài sông vào chênh chếch trong bờ. Chiếc Alpha 9 cũng bắt đầu bắn vịt trời để hù các anh du kích. Đúng với dự đoán của Quỳnh, địch không dám ngóc đầu lên để bắn nữa.
- Đủ rồi...
Quỳnh đưa tay làm dấu cho Sang và Kỳ. Âm thanh ngưng nhưng âm hưởng còn đồng vọng trên mặt nước sáng bàng bạc ánh trăng.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
- Đủ rồi... bắn nhiều hao đạn...
- Dạ em tuân lệnh sếp...
Quỳnh mỉm cười lắc đầu nhè nhẹ khi nghe Quốc nói đùa. Hai chiến đỉnh lùi ra giữa sông để tiếp tục cuộc tuần tiễu. Ngồi im trên mui, hít hơi thuốc, Quỳnh tự hỏi tới bao giờ đất nước mới được nghỉ ngơi. Người ta nói hòa bình rồi mà.
CHƯƠNG 3
Tuấn reo lên mừng rỡ khi biết tin sẽ được trở lại thành phố Biên Hòa nghỉ xả hơi một ngày. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ tuy ngắn song có giá trị hơn huy chương của quân đội. Nó là phần thưởng của máu, nước mắt và mồ hôi; của mười bốn đêm thức ngủ chập chờn, của lo âu và sợ hãi. Mười bốn ngày. Mưa dầm ướt át. Nắng nóng cháy da. Đêm nửa ngủ nửa thức. Ngày ngủ gà ngủ gật. Nắng nóng như thiêu vì phải mặc áo giáp, đội nón sắt, thu hình trong ụ súng để chờ đợi một điều mà mình biết sẽ xảy ra song lại không biết lúc nào. Lo âu ở chỗ đó. Sợ hãi ở chỗ đó. Khổ cũng ở chỗ đó.
- Anh làm gì khi đi bờ?
Quỳnh mỉm cười khi nghe hai tiếng đi bờ của người lính trẻ vẫn còn quen ngôn ngữ ở quân trường.
- Lai rai... Tao kiếm chỗ nào khuất vắng, gọi một chai 33... lai rai một mình... Còn mày?
Quỳnh hỏi lại trong lúc đốt thuốc.
- Tôi theo thằng Thành lên nhà nó chơi...
Quỳnh cười cười.
- Coi bộ nó muốn bắt xác mày về sửa xe với nó...
Tuấn cười hắc hắc.
- Nó cho tôi coi hình em gái nó...
- Đẹp không?
Quỳnh tò mò hỏi.
- Khá đẹp... Con nhỏ học trường Ngô Quyền...
Liếc quanh một vòng có lẽ để nhìn xem sự có mặt của Thành không rồi Quỳnh mới lên tiếng.
- Nhiều khi thấy hình thì đẹp mà ở ngoài lại khác. Coi chừng em lùn tịt, mập ú, mặt rỗ, sứt môi lại thêm chân đi chữ bát, em hát cải lương, em ca vọng cổ...
Tuấn cười sặc sụa khi nghe Quỳnh giở giọng tiếu lâm.
- Bởi vậy tôi phải lên nhà coi mặt trước... Ưng thời tôi mới nhào vô chứ ngu gì lãnh đạn anh...
Tuấn cười ròn rả sau khi dứt câu. Quỳnh phang thêm một câu.
- Thằng Thành nó cũng lựu đạn lắm. Mày coi chừng... Mày để em nó cái bầu là nó thiến mày...
Tàu cặp vào căn cứ tạm của giang đoàn 24 xung phong nằm cạnh bờ sông cách chân cầu chừng non cây số. Đó là một dãy ponton với mấy cái nhà tiền chế của Mỹ để lại. Tất cả nhân viên đều sẵn sàng để lên bờ. Kỳ với Biên họp thành một cặp. Thành với Tuấn đi chung với nhau. Hôm nay tới phiên Kỳ trực tàu. Muốn đi chơi nó phải hối lộ cho ông từ Sang ổ bánh mì thịt và ly sinh tố.
Quỳnh ngồi một mình trong cái quán ăn nhỏ nằm trên con hẻm mà anh không biết tên. Đối diện với quán ăn phía bên kia là tiệm tạp hóa. Tô cháo cá trống không. Chai 33 còn phân nửa. Gói thuốc lá nhầu nát và xẹp lép chỉ còn mỗi một điếu. Khói thuốc lãng đãng bốc mùi hăng hăng. Trời ẩm ướt dường như muốn mưa. Anh có thể ngửi được mùi ẩm mốc của rong rêu theo cơn gió nồm từ ngoài biển kéo về. Điều này khiến cho anh nhớ lại thời gian ở Phú Quốc. Đó là tên gọi thông dụng cho nguyên hòn đảo song nơi có căn cứ hải quân chính là Cây Dừa hay còn có tên gọi khác An Thới. Tùng sự tại Bộ Chỉ Huy Vùng 4 Duyên Hải, công việc của anh khá nhàn hạ và nhẹ nhàng của một nhân viên văn phòng. Những buổi chiều sau giờ làm việc anh thường ra bãi biển trước căn cứ nhìn ngắm vùng biển xanh để mơ mộng, để làm thơ cũng như hồi tưởng lại thời còn đi học. Gió nồm là gió từ hướng Nam thổi lên, từ ngoài khơi thổi vào mang theo hơi nước ẩm ướt tạo nên những cơn mưa triền miên và buồn bã. Những ngày cuối tuần, trời mưa dầm, nằm trong căn phòng nhỏ, đọc sách và nhìn mưa bay ngoài cửa sổ, đời lính của anh thật buồn, trống rỗng, nhàm chán đến độ phải mặc áo mưa đi tìm một quán nào khuất vắng, uống vài chai bia hay xị rượu đế để say và ngủ cho qua thời giờ. Nửa năm ở hòn đảo cách Rạch Giá gần một ngày tàu chạy đủ cho anh thấm thía được nỗi buồn xa nhà của lính. Rời An Thới anh ra Nha Trang thụ huấn khóa chuyên nghiệp. Cũng biển nhưng Nha Thành khác hẳn An Thới. Ồn ào hơn. Nhộn nhịp hơn. Xinh xắn hơn. Thiếu nữ Nha Thành mặn mà, trẻ trung và duyên dáng song anh không dừng chân được lâu để có kỹ niệm cũng như vấn vương và lưu luyến. Mãn khóa anh trở lại Sài Gòn rồi tháng sau khăn gói về Vĩnh Long. Đời lính chiến của hải quân bắt đầu. Anh tập làm quen với súng đạn, ngủ co rút trong con tàu nhỏ thấp lè tè mặt nước. Giang đỉnh cũ kỹ, han rỉ do hải quân Pháp để lại. Súng thời xưa hơn trái đất. Những chuyến công tác vào các vùng xa xôi. Sông Măng Thít. Sông Cổ Chiên. Sông Tiền. Sông Hậu. Rạch Ông Chưởng. Vàm Nao. Như dề lục bình anh trôi theo con nước lớn nước ròng. 1967. Anh lại lên đường trình diện đơn vị mới. Giang Đoàn 71 Thủy Bộ mà sau này cải tên thành Giang Đoàn 44 Ngăn Chận. Bến Lức. Quận lỵ nghèo xác xơ dù chỉ cách thủ đô Sài Gòn mươi ô vuông. Con sông Vàm Cỏ Đông đầy bất trắc. Tàu của hải quân Mỹ với lực lượng hùng hậu và hỏa lực khủng khiếp mà phải khó khăn lắm mới chế ngự được các ổ du kích điên cuồng. B40. 57 không giật. Bắn sẻ bằng súng trường bá đỏ, bằng khẩu Garant cổ lỗ sỉ song độc hại vô cùng.
Cắc bùm... Âm thanh của sự chết. Viên đạn thoát ra từ nòng súng dài lê thê có sức xuyên thủng nón sắt. Một viên đạn, một người chết. Quỳnh đã thấy người chết trong một tháng nhiều hơn ba năm anh đi lính trước kia. Trà Cú... Hiệp Hòa. Cẩm Giang. Trảng Bàng. Gò Dầu. Bến Sỏi. Biên giới Miên Việt ngút ngàn... Anh đã đi qua một đoạn đường máu lửa của người lính thủy ở một đơn vị thực sự đánh nhau với địch dù họa hoằn lắm mới thấy được mặt mũi của người lính địch. Ở đâu cũng vậy. Người lính thủy như anh đều nằm trong thế tự vệ, chờ đợi địch bắn rồi mình mới bắn trả lại. Tuần tiễu trên sông Vàm Cỏ Đông, Tây hay Đồng Nai, hay bất cứ nơi đâu cũng đều phải đưa cái mặt ra cho tên bộ đội hoặc anh du kích đấm trước. Đó là chỗ yếu của ta. Không nắm được thế chủ động thời bị thiệt hại nhiều hơn.
Quỳnh hơi cựa mình vì mỏi, mệt và buồn chán. Tuy mới hai mươi lăm mà đôi lúc anh cảm thấy mình già nua. Vói tay lấy gói thuốc anh quẹt diêm đốt điếu cuối cùng. Quán ăn vắng chỉ có anh và người đàn bà bán hàng. Từ chỗ tàu đậu ra tới con đường này gần nhất nên anh tạt vào ngay ngã ba ăn tô cháo lòng và uống chai bia. Con đường tráng nhựa cũ có nhiều ổ gà và đá cục.
- Chị cho tôi gói thuốc lá...
Quỳnh nói với chị chủ quán. Bà ta lắc đầu cười.
- Tôi không có bán thuốc lá...
Đưa tay chỉ cái quán bên kia đường bà ta tiếp.
- Quán của bà Lê có bán thuốc lá. Chú qua đó mua...
Gật đầu Quỳnh im lặng uống bia và hút thuốc. Tiếng xe gắn máy nổ ầm ỉ hòa lẫn trong tiếng trẻ con đùa giỡn la hét và tiếng ca nhạc phát ra từ dàn máy hát tạo thành âm thành hổn tạp. Chút nắng tháng năm về chiều rọi trên mái nhà tôn thành vệt vàng khè. Bây giờ là mùa hè... Quỳnh lẩm bẩm. Từ khi đi lính tới giờ anh ít chú tâm tới giờ giấc vì lẽ dễ hiểu là đối với lính giờ giấc không quan trọng. Chỉ có ngày và đêm. Mưa và nắng. Sống và chết. Tiếng hát của Nhật Trường vang nho nhỏ và âm thầm... Từ khi anh thôi học... Từ khi anh khoác áo trây di... Chiến tranh đã thiêu hủy, đã làm tan vỡ nhiều thứ trong đó có ước mơ được làm thầy giáo của anh. Tuy nhiên anh không hề ân hận khi tình nguyện đi lính bởi vì anh chiến đấu cho tự do, muốn được sống một đời sống theo ý của mình.
Quỳnh càu nhàu tiếng nhỏ khi nhớ ra gói thuốc lá không còn điếu nào. Uể oải đứng dậy, anh bước qua bên kia đường mua thuốc lá. Tiệm tạp hóa khá rộng và hơi sáng sủa.
- Xin lỗi anh... Anh muốn mua cái gì?
Giọng nói nhỏ, thanh thanh vang lên. Quỳnh nhìn về chỗ có tiếng nói phát ra. Ở trong góc tôi tối, bị che bởi một cái kệ cao, hiện ra một khuôn mặt. Cô bé, đúng là một cô bé, không biết bao nhiêu tuổi, chắc mười lăm mười sáu, Quỳnh đoán cô bé còn trẻ lắm, có thể búng ra sữa, đang nhìn anh mỉm cười. Nụ cười e ấp và thẹn thò song anh cũng thấy thấp thoáng chút thân quen và tò mò. Có lẽ cô bé chưa thấy người lính lạ như anh.
- Chào bé...
Quỳnh lên tiếng chào. Anh hơi ngạc nhiên khi thấy cô bé cau mày và câu trả lời làm cho anh mỉm cười.
- Tôi lớn rồi...
Quỳnh cười. Như muốn chọc tức cô bé anh nói với giọng cợt đùa.
- Vậy à... Bé lớn rồi mà bé được mấy tuổi?
- 16...
Cô bé trả lời gọn lỏn như tỏ lộ sự bất mãn của mình khi bị gọi là bé.
- Vậy à... 16 tuổi thời đúng là lớn rồi...
Quỳnh nhìn cô bé trong lúc nói. Anh thấy ánh mắt long lanh, hai làn môi hơi mím lại và một nụ cười rất lạ. Nó không giống nụ cười của bất cứ cô gái trẻ nào mà anh đã gặp qua.
- Anh muốn mua gì?
Cô bé hỏi lại lần nữa với giọng hơi nghiêm và Quỳnh trả lời bằng câu hỏi.
- Em có bán thuốc lá?
Quỳnh đổi cách xưng hô. Điều này khiến cho cô bé cười. Nụ cười rạng rỡ và thân thiện.
- Dạ có...
Cô bé thong thả đi tới quày hàng đặt phía bên kia. Quỳnh lặng lẽ theo sau. Nhờ vậy anh mới có dịp chiêm ngưỡng toàn thể phía sau của cô gái đang ở tuổi dậy thì. Dường như có cảm giác bị người con trai lạ chiếu tướng phía sau lưng của mình nên cô bé có vẻ luống cuống xuyên qua bước chân. Cuối cùng hai người đi tới quầy bằng kính bày nhiều món hàng. Đứng phía sau quày cô gái cười hỏi. Giọng của cô bé thanh và hơi trầm một chút.
- Anh muốn loại nào?
Quỳnh chỉ vào gói Capstan. Cô bé lấy gói thuốc lá đặt lên mặt bàn kính. Khỏ khỏ ngón tay trỏ lên mặt kính Quỳnh nói nhỏ trong lúc đưa ba tờ giấy 500.
- Anh lấy năm gói... Em tên gì?
Cô bé hơi ngập ngừng dường như không muốn nói tên. Quỳnh cười dọa.
- Em mà không nói tên thời anh kêu nhỏ, kêu bé... Lúc đó ráng chịu nghen...
Bị hăm he cô bé cúi mặt nhìn xuống mặt bàn rồi lí nhí trả lời.
- Dạ tên Hy...
Quỳnh mỉm cười gật gù. Cô bé tên Hy ngước lên. Câu hỏi được bật ra thật nhanh.
- Anh tên gì?
- Quỳnh...
Hy quay mặt đi để giấu nụ cười. Nàng thầm nghĩ.
- Con trai mà tên Quỳnh... Ngộ ghê...
Có lẽ cảm nhận được Hy cười về cái tên Quỳnh của mình, anh từ từ giải thích.
- Hồi má anh có thai ba anh mong có con gái nên chọn tên Quỳnh Hoa. Tới chừng sanh ra lại con trai nên ổng đành phải lấy tên Quỳnh. Thành ra tên của anh nửa con trai nửa con gái...
Không nhịn được Hy bật thành tiếng cười trong trẻo. Liếc nhanh anh lính trẻ nàng cười đùa.
- Bởi vậy mới gặp, tôi thấy anh có vẻ gì là lạ... Giống như con gái... Ngộ ghê...
Quỳnh gật đầu cười.
- Hy còn đi học?
- Dạ còn...
- Lớp mấy?
- Dạ tựu trường này lớp 10...
Trả lời xong Hy ngước nhìn vào mặt của Quỳnh.
- Anh đi lính gì vậy?
- Lính hải quân...
Nhìn chăm chú vào chiếc huy hiệu may nơi túi áo màu xanh nước biển Hy lẩm bẩm.
- Lực Lượng Trung Ương 214... Giang Đoàn 44 Ngăn Chặn... Lạ ghê...
Quỳnh xé gói thuốc lá, móc lấy một điếu rồi quẹt diêm đốt. Hít hơi dài anh nhìn quanh quất tiệm tạp hóa.
- Em học trường nào?
- Dạ trường Nam Hà...
- Lúc còn đi học anh có quen một cô học ở trường Ngô Quyền...
Hy lặng im không nói. Quỳnh cười nhẹ.
- Trường em học ở đâu?
- Dạ bên Cù Lao Phố...
- Phải qua cầu Gành...
- Dạ... Sao anh biết? Anh cũng ở Biên Hòa hả?
Quỳnh nhẹ lắc đầu cười hít hơi thuốc. Hy nhận thấy ông lính thủy này hút thuốc hơi nhiều. Mới đó mà hút gần hết điếu thuốc.
- Anh ở Sài Gòn... Anh biết tên cầu Gành vì đọc sách... Cầu Gành, cầu Rạch Cát cũng như Cù Lao Phố, núi Bửu Long, núi Châu Thới, suối Lồ Ồ...
Hy lại im lặng. Ở tại thành phố dĩ nhiên nàng nghe tên những chỗ này nhưng chưa có dịp đi tới. Ba má nghèo lại thêm đông con, lo ăn còn chưa đủ huống hồ gì đi du lịch. Ngoại trừ đi học nàng tối ngày chỉ quanh quẩn trong nhà.
- Em có tới mấy chỗ đó chưa?
- Dạ chưa...
Quỳnh trợn mắt nhìn cô gái đang cúi đầu nhìn vào mấy món hàng chưng bày trong quầy hàng bằng kính. Dáng của cô bé trông thật hiền lành và tội nghiệp. Có lẽ nhà của cô bé nghèo và đông con nên cha mẹ không có tiền dẫn đi chơi đây đó.
- Nhà em nghèo...
Hy ngước nhìn anh lính trẻ. Quỳnh cảm thấy lòng mình nao nao vì ánh mắt buồn của cô bé.
- Mai mốt anh rủ em đi nghen...
Thấy cô bé im lặng không trả lời Quỳnh tiếp bằng giọng thân tình như anh trai nói với cô em gái của mình.
- Chịu hông?
Ngần ngừ giây lát Hy cười lắc đầu.
- Hổng biết... Ba má em khó lắm...
Hít hơi thuốc thật dài rồi quay mặt ra hướng con đường để nhả khói ra hết xong Quỳnh mới quay lại. Nhìn vào khuôn mặt xinh xắn còn nguyên nét học trò của Hy anh nói chậm.
- Nếu anh còn trở lại đây anh sẽ tới nhà em xin phép ba má em...
Nhìn thấy nét mặt ngơ ngác của cô bé như không hiểu hết ý của mình muốn nói, anh tiếp với giọng thật trầm.
- Anh sẽ trở lại gặp em để mời em đi chơi núi...
Nụ cười tươi tắn nở ra trên môi, Hy nói với giọng như cô em gái làm nũng với anh trai.
- Nhớ nghen... Anh trốn là Hy nghỉ chơi anh luôn.
Quỳnh cười vui.
- Hy có anh trai không?
- Không... Em là con gái đầu lòng. Em có năm đứa em trai. Còn anh?
- Anh là con út... Anh có hai anh trai... Bởi vậy anh thích có cô em gái hiền và xinh đẹp như Hy...
- Em mà đẹp gì...
Hy cười nói khoe hàm răng trắng bóng. Bây giờ Quỳnh mới nhận ra cô bé có cái cổ cao ba ngấn. Giơ tay xem đồng hồ thấy đã quá ba giờ anh nói nhanh.
- Thôi anh đi... Cám ơn Hy...
Vừa ra tới cửa Quỳnh quay đầu lại cười.
- Đợi anh nghen...
- Dạ... Mà anh nhớ trở lại nghen...
Nhẹ gật đầu Quỳnh lẩm bẩm trong lúc bước đi.
- Anh sẽ trở lại nếu...
Đứng trong quầy Hy nhìn theo người lính xa lạ mang tên Quỳnh đi băng qua đường vào quán ăn bên kia.
Uyên Hưng. Địa danh này xa lạ đối với nhiều người kể cả Quỳnh và nhân viên của hai chiến đỉnh 9 và 11. Nó nằm tại ngã ba của hai dòng rẽ của sông Đồng Nai. Con sông này có hai lần rẽ khi rời khỏi thành phố Biên Hòa để đi lên thượng nguồn. Lần thứ nhất rẽ làm đôi tại Rạch Ông Tiếp rồi sau đó nhập lại thành một dòng lớn. Chảy chừng vài cây số nó lại rẽ thành hai dòng và cuối cùng nhập lại tại ngã ba Uyên Hưng.
Ngôi đồn của địa phương quân nằm trơ vơ trên khoảnh đất trống ngay tại ngã ba. Vị trí này quan trọng về chiến thuật trong việc kiểm soát các thuyền ghe xuôi ngược trên sông đồng thời các toán thám sát cũng nghe ngóng về sự chuyển quân của địch từ bên quận Tân Uyên về tỉnh lỵ Biên Hòa.
Chiếc Alpha 11 và 9 cắm mũi ngay tại đồn. Máy tàu nổ xình xịch. Trời trưa nắng gắt. Lá cờ vàng ba sọc đỏ rũ xuống vì không có gió. Mặt sông lấp lánh sáng. Nước trong xanh. Máy đuôi tôm kêu bành bạch, cố gắng đẩy chiếc ghe khẳm lừ xuôi theo con nước về thành phố.
- Alpha 11 đây Biên Hùng... Nghe rõ trả lời...
Đang ngồi trên mui Quỳnh chụp lấy ống nói trước khi Tuấn lấy để đưa cho mình. Biên Hùng là ám danh của trung úy Bình, sĩ quan trưởng toán của giang đoàn 24 xung phong, đồng thời cũng là vị chỉ huy trực tiếp của anh trong suốt thời gian biệt phái cho đơn vị này với nhiệm vụ tuần tiễu khúc sông Đồng Nai.
- Quỳnh Hoa tôi nghe Biên Hùng...
Giọng của trung úy Bình vang rõ trong máy.
- Cho biết tọa độ của Quỳnh Hoa?
Đễ bảo toàn bí mật nên tất cả tên tuổi, địa danh đều được mã hóa, do đó Quỳnh phải có cuốn sổ để giải mã. Lật nhanh cuốn sổ tay ngay chỗ đã được làm dấu anh trả lời liền.
- Biên Hùng đây Quỳnh Hoa... Tôi đang ở tại U Minh Hiệp Hòa...
U Minh là chữ tắt của Uyên, còn Hiệp Hòa là chữ tắt của Hưng; nhập lại thành Uyên Hưng.
- Quỳnh Hoa đây Biên Hùng... Anh gặp Ông Địa chưa?
Đang ngồi trên ghế lái Tuấn bật cười khi nghe tiếng Ông Địa. Thật ra ám danh dí dỏm này do các chiến đỉnh đặt ra để chỉ các người lính địa phương quân thân quen. Cũng như các ông địa thường hay gọi đùa lính hải quân thành ra lính hai quần.
- Quỳnh Hoa đang bắt tay Ông Địa... Biên Hùng nghe rõ trả lời...
- Biên Hùng nghe Quỳnh Hoa 5/5...
Chấm dứt liên lạc với Biên Hùng, Quỳnh vội vả leo xuống đứng trước mũi tàu khi thấy toán lính địa phương quân đang sẵn sàng.
- Tôi là thiếu úy Tính... Anh em sẵn sàng...
Quỳnh vui vẻ bắt tay người trung đội trưởng địa phương quân xong ra lệnh cho tàu lùi ra giữa sông. Đồng hồ chỉ 18 giờ. Mặt trời mùa hè vẫn còn treo trên ngọn của hàng cây cao dọc theo bờ sông bên mặt. Điểm đổ quân. Gò Miễu. Hoạt động. Phục kích và tuần tiễu. Lời giải thích có vẻ mơ hồ của vị sĩ quan trưởng toán khiến cho Quỳnh thắc mắc. Tuy nhiên anh im lặng vì điều đó ngoài trách nhiệm của mình. Nhiệm vụ của hai chiến đỉnh là đổ quân và yểm trợ hỏa lực khi có sự yêu cầu của Ông Địa. Thế thôi. 19 giờ tàu tới nơi hẹn. Đứng trên mui tàu Quỳnh rê ống dòm vào bờ với hy vọng thấy được những gì anh muốn thấy dù biết hy vọng của mình rất mong manh. Địch khôn ngoan và dư thời gian để ngụy trang. Họ ẩn mình sâu dưới hầm hồ cá nhân vững chắc và ghìm súng để chờ đợi. Đi lọt vào ngay chỗ họ phục kích là... Bùm... Quả đạn B40 hay 57 không giật bay ra chạm vào mục tiêu và nổ ra với toàn thể sức công phá.
Chiếc tàu sắt từ từ tiến vào bờ. Sang ngồi im trong ụ súng. Tay nó đặt lên một nút màu đỏ của ổ đại liên 50. Chỉ cần bấm nhẹ nút điện này, hai khẩu súng sẽ được khai hỏa với nhịp bắn hơn ba ngàn viên đạn trong một phút đồng hồ. Tuy nhiên điều đó không cản được địch bắn trước. Có thể kẻ nào đó nhắm vào Quỳnh đang ngồi trên cao dùng ống dòm quan sát mọi động tịnh trong bờ. Tuấn nghe tim mình đập thình thịch vì sợ hãi. Nó có cảm tưởng dù tiếng máy tàu nổ ầm ầm cũng không át được tiếng đập càng lúc càng lớn và càng mạnh của trái tim mình. Có sự va chạm nhẹ và chiếc Alpha 11 ghim mũi vào bờ cạnh mô đất khá lớn. Tính khoát tay ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền nhảy lên. Người lính địa phương quân cuối cùng rời tàu xong mà không có chuyện gì xảy ra. Tuấn thở phào nhẹ nhỏm. Nghe tiếng thở của người lính trẻ Quỳnh quay qua cười.
- Sợ hả?
Tuấn cười nhẹ.
- Teo bu gi luôn... Còn anh?
Quỳnh im lặng đốt điếu thuốc, hít hơi dài như để tìm lời nói rồi mới cười đùa.
- Không có teo bu gi như mày nhưng tao hổng biết nó còn hay mất...
Tuấn bật lên tiếng cười trong trẻo khi biết lính mới lính cũ gì cũng đều có cảm giác sợ hãi như nhau.
- Anh cho tôi xin điếu thuốc...
Quỳnh trợn mắt nhìn Tuấn giây lát rồi lặng lẽ móc gói thuốc ra đưa cho người lính trẻ. Anh biết đã tới lúc nó cần phải dùng thuốc lá để làm giảm sự căng thẳng thần kinh, sự sợ hãi và nỗi ám ảnh về một điều gì sẽ xảy ra cho mình. Mai mốt đây, khi thuốc lá kém hoặc không còn hiệu lực nữa, nó sẽ phải dùng tới rượu để giảm đi cơn sợ sệt, buồn phiền và chán nản. Anh hơi quay mặt chỗ khác để cười vì nghe tiếng ho và tiếng khọt khẹt của Tuấn. Ai hút thuốc lá lần đầu đều như vậy. Cũng như uống rượu. Anh nhớ lại lần đầu tiên mình uống rượu. Trời đất quay cuồng. Mửa thốc mửa tháo. Lăn đùng ra ngủ. Trưa thức dậy đầu nhức như búa bổ. Tay chân rũ liệt. Khát khô cổ họng. Nằm vật vờ như xác chết. Anh tự hứa sẽ không bao giờ say rượu nữa nhưng ba ngày sau anh lại ngồi uống bia một mình.
- Thuốc của anh nè...
Tuấn đưa trả lại gói thuốc. Quỳnh lắc đầu cười.
- Mày giữ luôn đi... Mày cần tới nó...
Không cần nói lời cám ơn Tuấn nhét gói thuốc Capstan còn phân nửa vào túi áo của mình.
- Lùi ra giữa sông...
Tuân lệnh Tuấn kéo cần ga về chữ R. Chiếc khinh tốc đỉnh chậm chạp lùi ra giữa sông. Phía bên trái Quỳnh thấy chiếc Alpha 9 cũng đang lềnh bềnh trên mặt nước sáng nhờ ánh trăng bàng bạc buông xuống cảnh vật như tấm lụa khổng lồ.
- 11 đây 9...
- 11 nghe 9...
- Bây giờ mình làm gì?
Quốc lên tiếng hỏi và Quỳnh trả lời không do dự.
- Tuần tiễu... Biên Hùng ra lệnh mình vừa tuần tiễu và yểm trợ cho Ông Địa. Mày chọn khúc nào?
Giọng của Quốc vang vang trong máy 46.
- Để tao lãnh khúc từ U Minh Hiệp Hòa xuống ngã ba...
- Gặp mày sau...
Cúp máy xong Quỳnh bảo Tuấn quay mũi hướng về thành phố Biên Hòa. Vì cần yểm trợ hỏa lực cho quân bạn nên tàu phải đi vào nhánh sông phụ nhỏ và dài hơn. Dòng sông lấp lánh sáng dưới ánh trăng đêm. Chút sương mù giăng giăng làm toàn thể mặt sông và luôn cả hai bên bờ mờ mờ ảo ảo, khi hiện ra lúc lại lẩn khuất. Nếu không có tiếng máy tàu nổ xình xịch Quỳnh sẽ có cảm tưởng mình là Lưu Nguyễn hay Từ Thức chèo chiếc thuyền con đi ngược dòng sông để lên cõi tiên mơ hồ mộng mị nào đó như lần đầu tiên đọc truyện Thần Tháp Rùa của nhà văn Vũ Khắc Khoan.
- Anh buồn ngủ hả?
Tuấn hỏi khi thấy Quỳnh ngồi im, đầu đội nón sắt gục xuống hai đầu gối.
- Ngủ gì được...
- Hôm qua anh đi đâu?
Tuấn lên tiếng vì biết nói chuyện sẽ làm cho mình quên đi cơn buồn ngủ. Quỳnh trả lời bằng giọng nhát gừng như mệt mỏi hoặc chẳng muốn trò chuyện.
- Tao uống ba chai bia rồi đi về... Mua mấy gói thuốc lá...
Anh ngừng lại mỉm cười. Tự nhiên hình ảnh của cô bé tên Hy hiện ra trong trí. Ánh mắt sáng long lanh. Nụ cười tươi. Cái cổ cao ba ngấn. Mái tóc đen dài xỏa nửa lưng. Khuôn mặt trái soan. Cô bé toát vẻ gì là lạ khiến cho anh chú ý và muốn làm quen dù biết mình và cô bé có nhiều khác biệt. Một người là lính, có đời sống nổi trôi, nay đây mai đó. Một người là học trò, suốt ngày ru rú trong nhà trừ khi đi học. Anh vẽ ra trong trí của mình hình ảnh một cô gái mặc áo dài trắng, dáng gầy gầy, cao cao, lặng lẽ đạp xe trên cây cầu sắt bốn nhịp bắt ngang sông. Gió thổi tà áo dài bay bay. Giọng nói nửa ngọt nửa chua như bưởi Biên Hòa, tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên vọng lên trong trí mường tượng âm thanh mơ hồ và xa xăm nào đó mà anh đã ước mơ từ lâu lắm. Tiệm tạp hóa cũ, nghèo, bề bộn có cô bé tới lui, ngồi cúi đầu vào quyển tiểu thuyết khi vắng khách. Nếu cô ta thích đọc sách thời mình sẽ lấy cớ cho mượn sách để làm quen... Quỳnh nhủ thầm như thế.
Tiếng súng đột ngột nổi lên khiến cho Quỳnh đứng bật dậy. Đưa chiếc starlight scope lên anh nhìn về nơi có ánh lửa lóe sáng. Xa xa hướng tây nam nơi tàu vừa đổ quân bạn lên bờ, ánh lửa sáng lên từng chập cùng với tiếng nổ của đủ loại súng. Không đợi lệnh của thuyền trưởng, Tuấn đẩy mạnh cần ga. Hai máy tàu rú lớn. Chiếc tàu sắt rẽ nước tiến về trước nơi có súng nổ.
Giọng của Quỳnh vang rời rạc.
- 9 đây 11... Anh ở đâu?
- 9 nghe 11... Tôi đang trở lại chỗ Ông Địa...
Quốc trả lời gấp gáp. Càng tới gần Quỳnh nghe tiếng súng rền rền. Dưới ánh trăng mờ mờ lửa sáng, xuyên qua chiếc ống dòm anh thấy nhiều bóng người di động.
- Quỳnh Hoa đây Tánh Linh...
Quỳnh chụp lấy ống nói thật nhanh.
- Quỳnh Hoa nghe Tánh Linh...
Giọng nói của thiếu úy Tính, sĩ quan trung đội trưởng của địa phương quân gấp rút và hối hả lẫn trong đó tiếng súng vang chát chúa pha tiếng lựu đạn nổ ầm ầm.
- Quỳnh Hoa... Quỳnh Hoa... Tôi đang đụng với tụi nó... Nó có gà cồ... Nghe rõ trả lời...
- Quỳnh Hoa nghe Tánh Linh 5/5... Anh cần tôi yểm trợ...
- Tôi cố giữ vững vị trí... Sẽ cho biết sau...
Cuộc nói chuyện bị cắt đứt một cách đột ngột. Quỳnh đoán tình hình trở nên tồi tệ. Thiếu úy Tính chỉ có một trung đội. Sớm muộn gì ba mươi người lính với súng ống cũ mèm này sẽ bị địch tràn ngập vì hỏa lực yếu kém hơn. Dù biết điều đó song anh không thể làm gì khác hơn ngoại trừ yểm trợ hỏa lực. Tuy nhiên chiến đỉnh của anh không thể yểm trợ một cách hữu hiệu vì quân bạn cũng nằm trong tầm bắn của tàu trừ khi nào bắn hủy diệt mục tiêu. Điều này có nghĩa là bắn gục bạn lẫn địch. Súng nổ càng lúc càng dữ dội cho biết hai bên đang giao tranh ác liệt. Nhân viên của hai chiếc Alpha 9 và 11 đều ngồi vào ụ súng sẵn sàng tác xạ. Ra lệnh cho Tuấn lái tàu vào gần bờ hơn, Quỳnh ngồi im dùng ống dòm theo dõi trận đánh đang diễn ra trong đêm trăng sáng. Đạn lửa xẹt đầy trời. Anh nhận ra được tiếng AK 47 nổ rền át cả tiếng nổ của M16 và Carbine M2.
- Quỳnh Hoa đây Tánh Linh...
Đã chờ đợi từ lâu Quỳnh chụp nhanh lấy ống nói. Anh biết một giây trong lúc này rất quý giá. Nó có thể cứu vãn tình hình chiến trận và cứu sống nhiều mạng người.
- Quỳnh Hoa nghe Tánh Linh...
- Tôi... Tôi... Tụi nó đông lắm... Bắn... Bắn... Chỗ đó đó... Tụi nó vào gần lắm... Tôi...
Tiếng nói của người sĩ quan trung đội trưởng lộn xộn không thành câu, khi có khi mất vì bị át bởi tiếng hô xung phong và tiếng súng nổ ầm ầm...
- Quỳnh Hoa... Tôi sắp bị tràn ngập... Bắn... Bắn lên đầu tôi... Nghe rõ trả lời...
Quỳnh lặng người. Bắn hủy diệt mục tiêu. Anh chưa bao giờ làm một chuyện như vậy. Tuy nhiên anh phải quyết định nhanh. Ầm... Con tàu rung chuyển với âm thanh lùng bùng lỗ tai. Địch đã khai hỏa vào chiếc tàu của anh đang lềnh bềnh giữa sông. Quỳnh đứng bật dậy.
- Bắn...
Sang bấm nút điện khi nghe khẩu lệnh của thuyền trưởng. Hai khẩu đại liên trước mũi, khẩu đại bác 20 ly chạm nổ trên mui, khẩu đại liên 50 và khẩu M79 tự động ở sau lái cùng lúc khai hỏa. Đạn lửa kéo thành dây dài đỏ rực trong ánh trăng buông xuống cảnh vật vẻ mông lung và man rợ. Không khí như nóng lên với hàng ngàn viên đạn xói vào bờ, xói vào da thịt con người. Ánh trăng sáng bàng bạc không còn nữa mà hình như đổi thành màu đỏ của máu.
CHƯƠNG 4
Uống đi anh...
Thiếu úy Tính đưa chiếc ly đầy bia lên tỏ dấu mời Quỳnh. Hai ngày sau khi trận đụng độ chấm dứt ông ta xuống tàu mời Quỳnh đi uống bia để cám ơn. Cũng nhờ sự can thiệp hữu hiệu của hai chiến đỉnh mà trung đội ông Địa mới không bị địch tràn ngập. Ông ta cho Quỳnh biết là sau khi gọi tàu bắn hủy diệt mục tiêu, ông ta đã cùng với lính nấp kỹ nên chỉ có vài người bị thương nhẹ. Phía địch phải chém vè, bỏ lại trận địa nhiều vũ khí và nhân mạng.
Uống một hơi bia Quỳnh hít hơi thuốc dài cười nói với Tính.
- Tôi ra lệnh cho lính bắn mà cũng sợ... Trúng các anh thời phiền...
Cười hà hà Tính ực hơi bia.
- Nhờ tôi và mấy thằng con lặn kỹ... Biết tàu sẽ bắn nên tui cho lính rút xuống sông...
Quỳnh gật gù cười vui vẻ.
- À ra thế... Như vậy thời mai mốt tụi tôi tha hồ bắn mà không sợ trúng các anh...
Rút điếu thuốc, quẹt diêm đốt xong Tính hỏi nhanh.
- Trên tàu có thứ súng gì mà tôi nghe nó nổ rền rền như lựu đạn vậy anh?
- Đó là M79 tự động... Đạn được kết lại thành dây...
Đang nói Quỳnh dừng lại khi thấy Tuấn bước vào cửa quán.
- Có chuyện gì?
Quỳnh hỏi nhỏ và Tuấn trả lời nhanh.
- Trung úy Bình muốn nói chuyện với anh...
Hơi gật đầu, Quỳnh uống cạn chai bia rồi cười nói với Tính.
- Rất tiếc tôi phải đi... Hôm nào gặp lại tôi mời anh chai bia...
Hai bên bắt tay nhau. Quỳnh và Tuấn hối hả trở lại tàu. Sau khi nói chuyện với Biên Hùng xong anh mới ra lệnh cho Tuấn lái tàu về Biên Hòa.
- Mình về lãnh thêm đạn... Mày coi mình thiếu đạn gì...
Quỳnh nói với Sang và ông từ trả lời không do dự.
- Mình cần đạn M79 dây. Họ có không anh?
Do dự giây lát Quỳnh mới trả lời.
- Tao không biết... Mình còn bao nhiêu dây?
- Hai chục...
- Mình nên để dành... Chỉ bắn...
Sang gật đầu tỏ ý hiểu cấp chỉ huy muốn nói gì. Hai chiến đỉnh xả hết tốc lực về thành phố. Họ hy vọng sẽ được nghỉ ngơi sau tuần lễ mệt nhọc. Bắt tay Quỳnh và Quốc thật chặt, trung úy Bình cười nói.
- Bên tiểu khu gởi công điện cho tôi nói về trận đánh ngày hôm kia. Họ khen hai anh... Tàu cần thứ gì cho tôi biết...
Quỳnh đưa ra danh sách xin lãnh dầu và đạn của mình. Liếc sơ qua ông ta cười lắc đầu.
- Dầu thời tôi có, còn đạn thời tôi chỉ có đạn 50 và 20 ly nhưng cũng không nhiều lắm. Để tôi điện về bộ tư lệnh trung ương xin thêm...
Nhân viên hai chiếc tàu vui mừng khi biết họ được ở lại thành phố đêm nay rồi sáng sớm ngày mai mới trở lại vùng công tác.
- Anh đi đâu?
Tuấn hỏi khi thấy Quỳnh thay quần áo.
- Uống bia...
- Uống bia mà sao diện dữ vậy?
Cười khặc khặc Quỳnh đùa.
- Đi với bồ. Mày không đi chơi à?
Tuấn thở dài sườn sượt.
- Tôi phải trực tàu...
- Thằng Sang đâu?
- Ảnh dở chứng không chịu coi tàu... Ảnh nói muốn đi chơi cho biết Biên Hòa...
Quỳnh cười chúm chiếm.
- Chắc nó biết mày có bồ nên làm eo làm sách... Mày coi chừng tàu...
Nhét gói thuốc lá và cái hộp quẹt vào túi áo, đội lên đầu chiếc nón lưỡi trai, Quỳnh nhảy lên cầu tàu.
Hy bỏ cuốn truyện xuống mặt bàn kính. Hôm nay tiệm thật vắng bởi vậy má của nàng bỏ đi từ sáng sớm. Bà giao khoán cái tiệm tạp hóa cho đứa con gái mười sáu tuổi để đi ra ngoài lo buôn bán. Cũng may nàng lanh lẹ, tháo vát, có trí nhớ dai nên làm rất chạy việc. Vả lại cũng chẳng có gì nhiều và khách cũng không vào một lượt. Nắng bên ngoài dọi xuống mặt đường nhựa đầy ổ gà. Nhìn qua bên kia đường nàng thấy bà hai Mến đang lui cui dọn dẹp. Hơn tuần lễ trước đây có một anh con trai bước vào quán đó. Anh chàng lính thủy cao cao, không ốm không mập, bộ quân phục màu xanh nước biển, nón lưỡi trai đội lệnh một bên khiến cho khuôn mặt của anh ta có vẻ gì là lạ khác với những anh con trai mà nàng đã gặp. Làn da sạm nắng. Ánh mắt thoáng buồn. Nụ cười chỉ là cái nhếch môi. Dáng đi lừng khừng. Anh này chắc khíu chọ lắm... Hy cười với mình khi nói lái hai tiếng khó chịu. Người gì mà có vẻ xa lạ và lạnh lùng. Ưa hổng nổi... Dù ưa hổng nổi nhưng trong lúc nhàn rỗi ngồi coi tiệm nàng lại mong anh ta có mặt để nói chuyện cho đỡ buồn. Nói chuyện với người sống vẫn thú hơn đọc sách. Sao anh ta lâu tới vậy. Người gì chậm như rùa, như cua. Đi cũng chậm. Nói cũng chậm. Hy cười lắc lắc mái tóc dài rồi thong thả đi ra cửa. Xa xa đằng kia một bóng người đi lại. Không hiểu sao nàng nghe tim mình đập hơi mạnh một chút. Bóng người đó quen quen rồi nàng nhận ra đó là anh lính thủy nhờ cái nón lưỡi trai đội xiên xiên trên đầu. Một ý nghĩ tinh nghịch nãy ra trong trí nàng cười hắc hắc quày quả quay trở vào trong tiệm.
Quỳnh ngừng lại nơi cửa của tiệm tạp hóa. Nắng bên ngoài hắt sâu vào bên trong nhưng cũng không đủ sáng. Yên tịnh. Vắng lặng. Anh ngập ngừng và ngần ngại không dám bước vào. Anh sợ gặp ba hoặc má của cô bé. Ông bà rất khó tính vì muốn bảo vệ cô con gái đầu lòng. Bước vào ba bước anh tằng hắng tiếng nhỏ. Không có ai xuất hiện. Định quay trở ra nhưng nghĩ sao anh lại đứng yên tại chỗ. Nếu rủi gặp ổng bả thì mình mua thuốc lá... Nghĩ mình có lý do chánh đáng nên anh chậm chạp đi thẳng lại chỗ tính tiền.
- Hù...
Âm thanh thật lớn đột ngột vang lên khiến cho Quỳnh giật mình. Tiếng cười hắc hắc kèm theo câu nói đùa.
- Xời ơi... Lính gì mà nhát hít... Mới hù đã giật mình gòi...
Quỳnh quay lại. Hy cười rũ ra khi thấy nét mặt ngượng ngùng và bối rối của anh lính thủy.
- Hy làm anh sợ muốn xỉu...
- Anh đi đâu vậy?
Hy cười hỏi. Câu hỏi khó của nàng khiến cho Quỳnh lúng túng. Anh nghĩ thầm: Cô này kỳ ghê... Mình tới đây thăm mà cổ lại hỏi một câu móc họng...
- Đi mua thuốc lá...
Bật cười vì câu trả lời này Hy lại phang thêm một câu.
- Ngoài đầu đường có hai ba tiệm bán thuốc lá mắc mớ gì mà anh phải vào tận đây...
Quỳnh cười gượng vì không biết trả lời ra sao. Cuối cùng anh bật lên câu nói mà khi nghe xong cô gái muốn cười mà phải nín vì sợ anh ta sùng.
- Thuốc lá của Hy thơm ngon mà lại rẻ hơn...
- Anh muốn mua thuốc gì?
- Capstan... Em lấy cho anh hai cây...
Cô bé tên Hy trợn mắt nhìn lom lom.
- Sao anh mua nhiều vậy?
Quỳnh nghĩ thầm trong trí: Cô bé này vô duyên ớn... Mình mua nhiều cũng bị rầy... bị hạch hỏi.... Có lẽ cũng biết mình đi quá trớn nên Hy cười giả lả.
- Hy xin lỗi anh... Tại Hy coi anh như anh trai nên chọc anh chơi...
Quỳnh cười nhẹ. Hy cảm thấy nụ cười của anh lính thủy thật hiền và bao dung như không giận hờn về những lời nói của mình.
- Anh mua để dành vì lâu lắm mới về đây một lần...
Liếc không thấy ai trong quán anh cười tiếp.
- Chắc Hy không đi chơi núi được hả?
Cúi đầu nhìn xuống đất giây lát xong Hy mới ngước lên nhìn.
- Dạ hông... Em phải coi tiệm cho má... Mình ở đây nói chuyện nghen anh...
Hy nói với giọng năn nỉ khiến cho Quỳnh chỉ còn cách gật đầu ưng thuận. Thấy trên tay của anh có miếng vải băng nàng hỏi nhỏ.
- Anh bị gì vậy?
- Bị thương chút chút...
- Sao anh không đi nhà thương?
Quỳnh mỉm cười.
- Bị đứt tay mà đi nhà thuơng gì. Anh là lính nên bị thương hoài. Bị như vầy là nhẹ...
Quỳnh móc túi lấy ra gói thuốc, rút một điếu, dọng nhè nhẹ xuống mặt chiếc hộp quẹt mấy lần, đưa lên môi ngậm xong mới quẹt diêm đốt. Khói thuốc lá bốc mùi hăng hăng, bay vào mũi khiến cho Hy nhăn mặt.
- Hôi quá...
Quỳnh cười như có ý xin lỗi.
- Hy khỏe hông?
- Dạ mạnh. Hổng khỏe thời làm sao đứng đây nói chuyện với anh...
Quỳnh nhăn răng cười mà trong lòng nghĩ thầm. Cô bé này kỳ ghê. Hở ra là xỏ mình liền...
- Còn anh mạnh không?
- Anh cũng bình thường...
Nhìn thấy cuốn sách nằm trên mặt bàn Quỳnh cười tiếp.
- Hy thích đọc sách?
- Dạ thích... Mà mua sách tốn tiền lắm...
Quỳnh gật đầu cười như thông cảm về chuyện cô học trò còn đi học thời làm gì có tiền để mua sách.
- Anh có nhiều sách lắm...
Quỳnh ướm lời. Hiểu anh con trai muốn nói cái gì Hy hỏi.
- Anh cũng thích đọc sách?
Quỳnh hít hơi thuốc, ém hơi một chút rồi nói trong lúc quay mặt đi chỗ khác để nhả khói ra.
- Mê thời đúng hơn... Anh có một thùng sách dưới tàu... Anh sẽ đưa cho Hy đọc...
Hy nhìn đăm đăm vào một bên mặt của Quỳnh. Tóc đen dài không được cắt tỉa nên hơi rối. Làn da xạm nắng. Nốt ruồi đen gần bên tai. Quai cầm bạnh ra.
- Anh không cần phải làm vậy...
Quỳnh quay lại nhìn. Cô bé cúi đầu xuống đất như không muốn chịu đựng cái nhìn của anh ta.
- Anh thích làm như vậy. Hồi còn đi học anh rất thích đọc sách nên hiểu được sự say mê và ước ao của Hy. Với lại...
Hy ngước lên nhìn như chờ câu nói tiếp. Nàng thấy nụ cười hiền và độ lượng của Quỳnh
- Anh đã đọc rồi... Sách cũ để lâu bị mọt ăn...
Hy bật lên tiếng cười thích thú khi nghe câu nói của Quỳnh. Cho mình mượn sách đọc mà anh ta còn phải năn nỉ mình. Lạ ghê... Mới mười sáu, dù còn ngây thơ và hồn nhiên song nàng đủ nhạy cảm để hiểu lý do cho mượn sách của anh. Hai người đứng trong quán trò chuyện thật lâu. Đưa tay lên xem giờ Quỳnh nói nhỏ.
- Anh phải trở lại tàu...
Hy cười thối tiền mua hai cây thuốc lá lại cho Quỳnh. Bước ra gần tới cửa anh mới quay lại cười.
- Chút nữa anh trở lại...
Hy cười im lặng nhìn theo dáng người lính trẻ bước đi hơi có chút khập khiểng. Để coi anh ta có trở lại như lời đã hứa...
Đang lui cui xếp hàng Hy ngẩng đầu lên nhìn khi nghe tiếng bước chân vang nơi cửa. Nàng thấy anh lính thủy đi tới gần. Đặt cái túi vải nặng chình chịch xuống đất Quỳnh cười nói bằng giọng thân quen như anh trai nói với cô em gái của mình.
- Hy cứ giữ để đọc mà không cần phải trả lại cho anh...
- Nhiều quá...
Có lẽ cảm động nên Hy chỉ nói một câu. Quỳnh cười mở túi vải màu xanh ra và cô gái nhìn thấy đủ thứ sách báo nằm lũ khủ trong đó.
- Còn nữa nhưng anh chưa soạn ra hết. Lần tới...
Mân mê cuốn Điệu Ru Nước Mắt của Duyên Anh Hy ngước lên nhìn Quỳnh.
- Cám ơn anh...
Quỳnh cười im lặng. Bây giờ Hy mới biết tuy có nét lạnh lùng, khắc khổ và trầm lặng song anh lính thủy này có nhiều cái đáng mến hơn. Anh ta có cái gì không giống người khác, nhất là những người bạn trai học cùng trường với nàng.
- Anh thích văn chương không?
Quỳnh trả lời bằng cái gật đầu xong cười tiếp.
- Anh có viết truyện ngắn...
Hy tròn mắt nhìn Quỳnh. Anh lính thủy thấy trong đôi mắt long lanh của cô học trò xứ bưởi ánh lên chút ngạc nhiên lẫn thán phục. Chỉ vào trong chiếc túi vải đựng sách anh nói nhỏ.
- Trong đó có mấy tờ báo đăng truyện ngắn của anh viết...
- Vậy à... Hay không?
Hy buột miệng hỏi và khi hỏi xong nàng mới biết mình lỡ lời. Bụm miệng lại nàng cười nhìn Quỳnh.
- Em xin lỗi...
Quỳnh cười thản nhiên. Có lẽ anh không để ý tới câu hỏi đó hoặc anh nghĩ Hy còn ngây thơ và hồn nhiên nên không cố ý trong lời nói.
- Má em về...
Nói nhỏ với Quỳnh xong Hy vội vàng nhấc lấy chiếc túi vải đựng đầy sách bỏ vào trong góc. Hiểu ý Quỳnh cười nhẹ thì thầm.
- Lấy cho anh thêm một cây thuốc...
Khẽ gật đầu như hiểu ý của Quỳnh, Hy kéo cửa lấy cây thuốc lá đặt trên mặt bàn. Cầm lấy sáu tờ giấy năm trăm Hy nói lớn như muốn cho má của mình nghe.
- Cám ơn anh... Hôm nào anh trở lại Hy sẽ để dành cho anh...
Gật đầu cười Quỳnh quay lưng đi ra cửa vừa lúc má của Hy vào tới.
- Dạ chào bác...
Quỳnh vừa nói vừa cúi đầu chào má của Hy. Tuy ngạc nhiên về cử chỉ thân thiện nhưng bà ta cũng vui vẻ chào trả lại người khách lạ mới gặp mặt lần đầu tiên. Ra tới cửa anh nghe được tiếng của má Hy hỏi.
- Ai vậy. Quen với con hả?
- Dạ không. Anh là lính đóng ở dưới chân cầu tới mua thuốc lá...
Má của Hy liếc nhanh con gái mình. Dĩ nhiên bà biết con gái đầu lòng lớn rồi lại thêm xinh xắn và duyên dáng do đó sẽ có hàng tá con trai theo chọc ghẹo. Để cho con gái mới lớn ra đây phụ bán hàng bà cũng lo âu lắm; nhưng vì nhà chỉ có mình Hy là con gái nên bà phải bấm bụng cho con quán xuyến tiệm tạp hóa để bà có thời giờ đi ra ngoài ngoại giao chuyện này chuyện nọ.
- Thuốc lá ngoài đầu đường thiếu gì sao nó hổng mua...
Hy đưa tay bụm miệng để cho tiếng cười của mình không bật ra. Má của nàng cũng hỏi một câu giống như nàng đã hỏi Quỳnh. Phải có lý do và chỉ có người bán thuốc lá và người mua thuốc lá mới biết mà thôi. Dù vậy nàng cũng lên tiếng như phân bua.
- Ảnh uống bia ở bên quán thím hai Mến nên qua đây mua...
- Nó tới đây mấy lần rồi?
Hy hơi cau mày vì câu hỏi của má. Nàng biết bà hỏi dò.
- Dạ con cũng không để ý. Lâu lâu ảnh mới tới...
- Nó đi lính gì vậy?
- Dạ hình như đi lính hải quân... Đi tàu...
Bà Lê làm thinh không hỏi nữa. Mở ngăn tủ đựng tiền bà hơi mỉm cười vì thấy có mười sáu tờ giấy năm trăm ở trong đó.
- Con bán cho nó mấy cây thuốc?
- Dạ ba...
- Ừ... Thôi con đi nấu cơm đi... Chiều rồi...
Dạ tiếng nhỏ Hy khom người nhấc chiếc túi vải màu xanh chứa đầy sách báo trong đó.
- Con xách cái gì vậy?
- Dạ sách học của con Hiếu cho con mượn...
Trả lời xong Hy cúi đầu đi nhanh ra nhà sau như sợ má sẽ hạch hỏi nhiều câu khó trả lời. Nàng cảm thấy xấu hổ khi nói dối với má nhưng cũng không muốn cho má biết mình đã mượn sách của ông lính thủy. Nàng biết má mình tuy là đàn bà mà tính nóng còn hơn Trương Phi. Nếu biết bà sẽ chưởi tắt bếp luôn.
0 giờ. Trăng hạ tuần vằng vặc buông xuống trần gian màu trắng bạc long lanh làm cho cảnh vật yên tịnh thêm mông lung và huyền ảo. Mặt sông sáng ngời lấp lánh. Sóng vỗ lách tách vào mạn tàu. Hàng cây dọc theo bờ sông phía bên kia vùng Tân Uyên mờ mờ đen. Gió nhè nhẹ. Quỳnh ngồi im. Tiếng kêu xè xè của máy truyền tin hòa nhập với tiếng máy tàu rì rầm làm cho anh buồn ngủ. Anh biết nếu nhắm mắt lại anh sẽ rơi vào giấc ngủ một cách thật dễ dàng và nhanh chóng. Bảy ngày qua, chiếc Alpha 11 đã chạy từ Rạch Ông Tiếp lên tới ngã ba Uyên Hưng không biết bao nhiêu lần. Toàn thể nhân viên của hai chiến đỉnh mệt nhoài vì phải chia ra làm việc 24/24. Đêm nửa ngủ nửa thức. Ngày một mắt nhắm một mắt mở. Cứ như thế mà lập đi lập lại ngàn lần. Xa xa về hướng đông nam là Sài Gòn. Không xa lắm đâu. Chừng 30 cây số. Ngôi nhà nhỏ bên dòng sông. Mẹ già còm cõi, lặng thầm ra vào, chờ đợi nhớ mong đứa con trai đi biền biệt. Bà không phải vọng phu mà vọng tử. Chiều chiều ra đứng nơi cửa ngóng con. Chiến tranh càng lan rộng thời nỗi lo âu của bà cũng lớn hơn. Súng đạn càng nổ nhiều thời sự sợ hãi của bà cũng tăng dần cường độ. Người chết thật nhiều. Xóm thưa dần đi đàn ông con trai khiến cho đàn bà và con gái phải làm việc nhiều và nặng nhọc hơn.
Tiếng súng nổ vu vơ khiến cho Quỳnh choàng tỉnh. Ngơ ngác nhìn anh thấy Tuấn đang ngồi im lặng trên chiếc ghế lái tàu. Trăng vẫn buông xuống mặt sông rộng màu trắng mông lung phủ trên vai áo trận thành ánh sáng nhạt mờ. Sương ẩm ướt. Trong ánh trăng một khuôn mặt hiện lên. Mái tóc dài óng ả. Khuôn mặt trái soan. Ánh mắt nhìn tinh nghịch. Nụ cười hồn nhiên của tuổi mười sáu. Cô bé tên Hy vẫn còn ngây thơ dù đang cố gắng làm người lớn. Tuổi dậy thì. Tuổi chập chững bước vào đời sống bằng những bước chân rụt rè, ngơ ngác của tâm trạng háo hức muốn biết thật nhiều, muốn khám phá đời sống tình cảm của chính mình và của người khác. Tuổi bắt đầu làm dáng, học trang điểm, bắt đầu nghe lời chọc phá hay tỏ tình của bạn trai cùng trường. Tuổi của nụ cười vu vơ khi bắt gặp cái nhìn lén của người bạn trai cùng lớp mà mình ưa thích.
Quỳnh chép miệng vì cảm thấy thèm hơi thuốc và ngụm cà phê.
- Mày coi chừng tao đi hút thuốc...
Tuấn lặng lẽ gật đầu. Leo xuống sàn tàu tới đứng nơi ụ súng đại liên 50 anh hỏi Sang đang ngồi ngủ gà ngủ gật.
- Mình còn cà phê?
Sang ngước lên.
- Tôi không biết... Anh hỏi thằng Thành...
Không nói gì thêm Quỳnh đi ra sau lái. Thấy Thành đang ngồi co ro trong hầm máy anh lên tiếng.
- Mình còn cà phê?
- Còn... Để tôi rót cho anh một ly...
Quỳnh ngồi thụt sâu vào trong hầm máy rồi mới đốt thuốc. Hớp ngụm nhỏ cà phê xong hít liên tiếp hai hơi thuốc, anh cảm thấy cà phê sao mà ngon cũng như thuốc sao mà ngọt ngào. Anh cười trong bóng tối vì ý nghĩ của mình. Nếu đem ý nghĩ này nói ra cho Hy nghe chắc cô bé sẽ cười chọc quê anh và nói tại thuốc lá của tiệm cô Hy đặc biệt... Anh hút hoài anh sẽ ghiền... Quỳnh bật cười vì ý nghĩ của mình. Điều đó khiến cho Thành và Biên ngạc nhiên. Hai đứa ở dưới tàu lâu nên biết tính tình trầm lặng ít nói ít cười của anh. Bây giờ tự nhiên nghe anh cười nên hai đứa lấy làm lạ.
- Có chuyện gì vui mà anh cười vậy?
Thành lên tiếng. Quỳnh nói nhỏ.
- Tao nhớ lại hồi còn đi học...
Quỳnh cười lặng lẽ khi phải nói tránh đi không cho nhân viên biết ý nghĩ của mình. Sống chết với nhau song mỗi người đều có sự riêng tư và anh không muốn xẻ chia với bất cứ ai. Uống hết ngụm cà phê cuối cùng, rít vội mấy hơi cho hết điếu thuốc rồi dụi tắt tàn thuốc vào trong thùng đạn, Quỳnh thong thả đứng lên.
- Tụi bây ngủ đi rồi lát nữa lên thế cho thằng Tuấn...
Bước ra đứng bên hông tàu Quỳnh ngước lên nhìn vầng trăng lưỡi liềm khuất trong mây. Cảnh vật như mờ đi. Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay anh chỉ đúng 12 giờ rưởi sáng. Lẩm bẩm mấy lời anh leo lên mui ngồi thế chỗ cho Tuấn đi ra sau lái hút thuốc.
- Mày ngủ đi để tao lái cho...
Ngồi vào ghế lái Quỳnh quay mũi tàu về hướng thành phố. Đâu đó trong ánh trăng buông vằng vặc anh thấy khuôn mặt của cô bé hiện ra. Anh không hiểu sao mình lại nghĩ về cô bé tên Hy hoài dù chỉ gặp mặt có hai lần và cũng không nói chuyện nhiều...
Chở em đi học mưa chiều... Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa... Mưa thánh thót, mưa ngân nga... Hình như có bão băng qua thị thành... Chở em đi học mưa nhòa... Đường loang loáng nước lập lòa loáng cây... Lạnh vừa đủ siết vòng tay... Run đi em để sau này nhớ nhau... Chở em sa vũng lầy nào... Về nhà nói mẹ qua cầu sẩy chân... Mấy câu thơ tình của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên bật ra trong trí khiến cho Quỳnh mỉm cười...
Sương mờ mờ mặt sông rộng. Gió lành lạnh. Cái lạnh vừa đủ để làm cho anh co ro và cảm thấy trơ trọi... Lạnh vừa đủ xiết vòng tay... Run đi em để sau này nhớ nhau... Lẩm nhẩm hai câu thơ, Quỳnh hồi tưởng lại hình bóng của ai đó. Cuộc tình đã qua đi rồi. Người cũng đã xa rồi mà sao mình còn nhớ. Người ta không nhớ mình thời tại sao mình vẫn nhớ người ta... Ngày hai đứa yêu nhau cũng có trăng. Mùa hai đứa xa nhau cũng là mùa trăng. Ta gói tình ta trong mắt em... để cuộc đời ta mãi lao đao... trôi hoài trên sông nước... dạt bến này sang bến khác... Hôm nay Biên Hòa. Ngày mai Long An. Mốt Mỹ Tho. Bữa kia Tây Ninh, Trà Cú, Mộc Hóa, Cao Lãnh...
Tiếng súng nổ đột ngột nổi lên nơi hướng tây khiến cho Quỳnh ngước nhìn. Nghe tiếng súng anh biết đó là súng đại liên của chiếc Alpha 9.
- 11 đây 9...
Giọng của Quốc vang vang trong máy 46.
- 11... 11... đây 9... Nó bắn trúng tôi... Nghe rõ trả lời...
- 11 nghe 9... Tôi sẽ gặp anh...
Quỳnh đẩy mạnh cần ga. Hai máy dầu cặn rú lớn. Chiếc tàu sắt rẽ sóng. Tuấn leo vào ghế lái thế chỗ cho Quỳnh. Rảnh tay anh đưa ống dòm lên quan sát. Xa xa chừng ô vuông nơi khúc quanh anh thấy hàng chục đốm lửa từ trong bờ xẹt ra. Ngồi trên ụ súng cao nên Kỳ thấy rõ. Nó la lớn với Quỳnh.
- Bờ bên phải đó anh...
Quỳnh rê ống dòm. Nhờ ánh trăng sáng anh thấy được hàng cây đen mờ có nhiều ánh lửa nhấp nháy. Tiếng súng từ chiếc Alpha 9 gầm rống như giận dữ vì bị địch bắn. Đạn lửa kéo dài lê thê thành một dây từ ngoài sông vào tận trong bờ. Bốn viên đạn thường sẽ có một viên đạn lửa chỉ đường mà đạn lửa được nối thành dây dài đủ hiểu nhịp tác xạ khủng khiếp của chiếc tàu do Quốc chỉ huy. Bụp... Bụp... Bụp... Nghe tiếng nổ đó Quỳnh biết chiếc Alpha 9 đã xử dụng tới khẩu M79 tự động để hủy diệt mục tiêu của địch. Ba khẩu đại liên 12 ly 7 và khẩu đại bác 20 ly chạm nổ không đủ sức làm địch ngưng bắn vào tàu. Chiếc Alpha 11 nhập cuộc. Đạn trong bờ vẫn tiếp tục bắn ra. Quỳnh nghe được tiếng nổ của AK47 hầu như bị át bởi tiếng súng của tàu. Ụ súng đại liên của Sang rống lên từng hồi như bò rống trong khi khẩu đại bác của Kỳ nổ từng chập. Lửa trong bờ chớp tắt liên tục. Thêm hỏa lực của một chiếc tàu nữa khiến cho địch tạm thời ngưng bắn. Tuy nhiên xuyên qua kinh nghiệm Quỳnh biết cuộc phục kích chưa chấm dứt. Ít nhất địch phải có hơn trung đội súng nặng mới bắn nhiều và lâu như vậy. Thường thường nếu là đám du kích bắn tàu thời chỉ bắn một hai trái B40 và vài tràng AK47 rồi thôi vì biết không thể nào ngóc đầu lên để bắn tiếp dưới sự bắn trả của tàu. Sự tuần tiễu của hai chiến đỉnh đã gây trở ngại cho việc chuyển tải khí giới của địch từ bên vùng Tân Uyên vượt qua bên này sông để vào thành phố Biên Hòa. Bởi vậy chúng phải tìm đủ cách để làm tê liệt hoạt động của hai chiến đỉnh.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
Quốc lên tiếng. Nghe giọng nói bình tỉnh của nó Quỳnh an tâm.
- Anh có bị gì không?
- Không có thằng nào nghỉ phép... Một máy tàu bất khiển dụng... Tuy nhiên hệ thống điện của súng vẫn tốt... Mẹ tao xui quá...
Quốc cười ha hả sau khi nói. Hai chiếc tàu sắt xếp thành hàng dọc, lềnh bềnh trên dòng sông như thách thức kẻ địch khai hỏa trước. Ngồi trên mui Quỳnh im lặng quan sát động tịnh trong bờ. Dưới ánh trăng vằng vặc anh thấy lờ mờ mô đất, gốc cây, hàng dừa nước. Những chướng ngại vật đó là vị trí thuận tiện cho địch ẩn nấp để bắn tàu. Ngẫm nghĩ giây lát anh leo xuống đi ra đằng sau lái. Đưa ống dòm cho Biên quan sát xong anh mới nói.
- Mày câu M79 vào nơi đó trong lúc tao dùng ống dòm điều chỉnh mục tiêu...
Biên gật đầu bấm nút điện. Hàng chục tiếng lụp bụp thoát ra rồi hai ba giây đồng hồ sau tiếng lựu đạn nổ rền vang. Xuyên qua ống dòm Quỳnh thấy ánh lửa nhấp nháy.
- Qua bên trái năm độ...
Quỳnh hét vào tai Biên để cho nó điều chỉnh. Phút sau hàng chục quả lựu đạn rơi đúng vào vị trí có mô đất và gốc cây. Tiếng nổ của lựu đạn kéo theo hàng ngàn tiếng súng nổ của hai chiến đỉnh. Lát sau lệnh ngưng bắn được ban ra. Địch cũng thôi không bắn nữa. Hai chiếc tàu vẫn trôi trên sông. Quỳnh nhìn đồng hồ. 3 giờ sáng. Đêm còn dài, thật dài...
CHƯƠNG 5
Mưa gì mưa hoài...
Tuấn càu nhàu. Tuy nhiên dù có càu nhàu mà mưa thời vẫn mưa. Mưa rơi trắng xóa trên mặt sông rộng. Mưa hạt nhỏ hạt lớn. Mưa hạt ngắn hạt dài. Mưa kéo theo gió và gió đưa mưa khắp nơi. Gió mang mưa vào tận chỗ ngồi. Gió hắt mưa tận chỗ nằm. Gió thổi mưa xuyên qua áo mưa, thấm vào áo quần gây ẩm ướt thân thể. Mưa dưới đất mưa lên. Mưa trên trời cao mưa xuống. Quỳnh nhếch môi cười khi nghe người lính trẻ càu nhàu. Đi lính là phải nhẫn nhục chịu đựng, không than van, không phàn nàn. Có than van cũng bằng thừa. Có than thở cũng chẳng đi tới đâu. Có khiếu nại thì được trả lời một câu Thi hành trước khiếu nại sau. Đã thi hành rồi thời còn khiếu nại làm gì nữa cho sếp ghét. Sếp không ưa cái bản mặt của mình thời sếp sẽ đì mình tối đa bằng cách tống khứ mình vào vùng công tác cả tuần lễ không thấy nhà, cả tháng không thấy đàn bà con gái. Cái mà mình thấy thường xuyên là người lính mặc bà ba đen, đi chân trần, xách AK, nằm mọp dưới hầm hố, ngón tay đặt hờ lên cò súng chờ chiếc tàu xuất hiện.
- Anh hút thuốc...

Tuấn nói nhỏ trong lúc chìa gói thuốc móp méo ra. Khom người cản cho mưa đừng làm ướt gói thuốc, Quỳnh lấy một điếu xong bật chiếc zippo. Ngọn lửa cháy bùng bị gió lùa thành màu xanh lè. Bập bập mấy hơi cho điếu thuốc bị ẩm ướt cháy đều xong anh nhếch môi cười lên tiếng.
- Tao coi bộ mày lậm rồi... Có thói hư rồi...
Cười hắc hắc Tuấn nói một câu bào chữa cho việc hút thuốc lá của mình.
- Tôi nghiệm ra lý do giản dị giải thích tại sao anh hút thuốc và nhậu hoài...
Ngước mắt lên nhìn vào khuôn mặt đã bắt đầu cháy nám của người lính trẻ thâm niên quân vụ chưa tròn năm, Quỳnh cất giọng lửng lơ.
- Thế à... Lý do gì?
Hít hơi thuốc thật dài, ém hơi thật kỹ rồi mới nhả khói ra từ từ, Tuấn cười nhẹ. Giọng của nó rời rạc và mỏi mệt.
- Anh cần có cái gì để mê, để ghiền... Nó làm anh quên...
Cười hực một tiếng Quỳnh phang một câu.
- Mày nói chuyện như ông cụ non...
Tuấn bật cười hắc hắc như không giận vì lời phê bình thẳng thừng của cấp chỉ huy.
- Mà tôi nói đúng không?
Vành môi của Quỳnh hơi nhếch thành nụ cười song anh lại im lặng hút thuốc rồi lát sau mới từ từ lên tiếng.
- Cũng đúng chút chút...
Tuấn bật cười thích thú khi nghe thuyền trưởng thú nhận. Riêng Quỳnh cũng mỉm cười. Dù không nói ra anh cũng phải công nhận Tuấn có nhận xét tinh tế và nhạy cảm. Đã đọc lý lịch nên anh biết nó học tới lớp 11. Vì thi rớt tú tài 1 nên bỏ học đi lính hải quân.
- Ủa mấy cuốn sách của anh đâu mất tiêu rồi. Tôi tìm cuốn Loan Mắt Nhung hoài mà hổng thấy...
- Tao cho người khác mượn...
Quỳnh trả lời nhát gừng. Dường như cảm thấy có cái gì không bình thường trong câu trả lời của anh nên Tuấn cười hỏi.
- Cho ai mượn?
- Người quen...
Vì cúi đầu ngắm mưa rơi trên sông nên Quỳnh không thấy được Tuấn nhìn mình lom lom với vẻ kinh ngạc.
- Mới quen?
- Ừ...
Biết Quỳnh không muốn bàn chuyện riêng tư nên Tuấn im lặng. Nhưng lát sau nó lại hỏi tiếp vì không dằn được tính tò mò.
- Đàn bà...?
Quỳnh bật cười vì câu hỏi.
- Chứ hổng lẽ tao quen đàn ông. Tao không phải đồng tính luyến ái... Tao cũng không lại cái...
Tuấn cười hắc hắc khi nghe thuyền trưởng thanh mình thanh nga một câu dài.
- Tôi hỏi đàn bà là để phân biệt với con gái...
Quỳnh gật gù cười mỉm.
- Con gái... Cô ta còn đi học...
Nói tới đó như không muốn thố lộ thêm Quỳnh leo xuống mui rồi mới nói vọng lên.
- Tao đi hút thuốc...
Một tay nắm lan can đi dần về sau lái anh nhìn mặt nước nổi bong bóng. Cơn gió vật vả thổi lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phần phật. Lá cờ cũ mèm nên màu vàng đã phai cũng như ba sọc đỏ không còn là màu đỏ mà biến ra màu cam. Mình phải bảo thằng Sang thay lá cờ mới.... Quỳnh lẩm bẩm trước khi bước vào phía sau lái mái được che bằng tấm ny lông dày. Biên với Thành đang rút vào chỗ kín nhất vừa hút thuốc vừa nhìn mưa rơi mịt mù trên dòng sông Đồng Nai.
Mưa lất phất mưa bay. Tiệm vắng tanh. Hy ngồi im nhìn từng giọt mưa từ trên mái nhà rơi xuống. Trang tạp chí mở rộng. Nàng đọc chậm và kỹ để tìm đoán xem truyện ngắn nào do ông lính thủy tên Quỳnh viết. Anh ta không nói bút hiệu của mình và nàng cũng quên hỏi nên bây giờ phải mất thời giờ tìm hiểu. Điều đó cũng không có gì khó khăn vì trong cuốn tạp chí chỉ có ba truyện ngắn mà thôi. Vả lại nàng cũng dư thời giờ để đọc. Cuối tháng 7 mưa nhiều nên tiệm cũng ế ẩm. Má nàng bỏ đi suốt ngày để tiệm cho nàng mặc sức muốn làm gì thời làm. Mỗi buổi chiều trước khi đóng cửa bà trở về coi lại tiền bạc sơ sơ thôi. Ánh mắt của nàng ngừng lại nơi truyện ngắn có tên Nửa Vầng Trăng Xế... Đại khái cốt truyện là truyện kể. Một người lính kể cho người bạn mới quen nghe tình yêu của anh ta. Điều oái oăm và kỳ lạ là anh ta yêu một ni cô... Tác giả không kết luận chuyện tình yêu đó như thế nào mà lại dành cho người đọc tự tìm hiểu và phán đoán. Mới mười sáu, chưa hề biết yêu thương ai, sở dĩ nàng đọc chỉ vì tò mò muốn biết ông khách hàng đặc biệt viết cái gì, hay hoặc dở để rồi tìm cách chọc phá ông ta chơi. Nàng vẫn còn tính con nít, thích chọc quê và xỏ xiên người khác. Tuy nhiên sau khi đọc xong nàng lại cảm thấy buồn. Nàng nghĩ nếu yêu là sầu khổ mà tại sao người ta lại yêu. Nàng chỉ nghĩ như vậy thôi. Chưa hề có tình ý cũng như yêu ai nên nàng không biết yêu như thế nào.
Gấp quyển tạp chí lại nàng đi ra cửa đứng nhìn mưa rơi. Không khí mát nằng nặng hơi nước. Nàng tưởng tượng ra ông khách đặc biệt đang mặc chiếc áo mưa màu xanh nước biển, đi trong cơn mưa bay lất phất tới thăm mình. Tóc ông ta ướt sũng. Nụ cười không trọn. Ánh mắt hiền và trầm lặng. Tia nhìn như xoáy vào điều gì mà một cô học trò mười sáu như nàng không thể hiểu. Giọng nói chậm rãi, khàn vì hút thuốc lá. Nghĩ tới thuốc lá nàng như ngửi được mùi thuốc Capstan thoang thoảng quanh đây. Đứng nhìn mưa chán nàng lại trở vào. Ngồi lên ghế nàng nhìn vào tủ kính rồi kéo cửa lấy gói thuốc lá ra mân mê xong đưa lên mũi ngửi. Dù gói thuốc chưa khui nàng cũng ngửi được mùi hăng hăng và khen khét.
- Thúi hoắc mà hút hoài... Ngộ ghê...
Hy cười với chính mình khi một ý nghĩ hiện ra Mai mốt mình xin ảnh một điếu hút cho biết.... Ý nghĩ kỳ cục đó làm cho nàng bật cười hắc hắc. Đặt trả gói thuốc lá trở lại chỗ cũ nàng thấy Hiếu, bạn cùng lớp thân nhất của mình mặc áo mưa đang đi tới.
- Con nhỏ này khùng sao mà đi dưới mưa...
Hiếu dừng lại nơi cửa. Cởi áo mưa ra giũ giũ mấy cái cho nước mưa rơi xuống xong nó hất mặt cười với bạn.
- Nhớ ai vậy nhỏ?
- Đâu có nhớ ai... Có ai đâu mà nhớ...
- Tao hổng tin... Nhìn cái mặt thờ thẩn của mày như nhớ bồ... Nói thật đi có gì tao cố vấn cho...
Hy muốn dấu bạn về sự quen biết với Quỳnh nhưng cuối cùng bị Hiếu tra hỏi mãi nàng bèn phun ra hết.
- Anh ta đẹp trai hông?
- Tao hổng biết...
- Sao hổng biết... Bộ mày không nhìn người ta à...
Hy cười im lặng và Hiếu tiếp tục cuộc điều tra của mình
- Tính tình?
Hy cười hắc hắc như có điều gì thích thú.
- Khó ưa... Nhưng mà ưa được rồi là ưa hoài... Người trầm lặng, ít nói nhất là ít cười... Chắc anh ta sún răng...
Nói xong Hy bật cười và Hiếu cũng cười theo.
- Bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi ba...
- Lớn hơn mày bảy tuổi... Chắc ba má mày hổng thích đâu...
Hy cãi lại.
- Tao thích là được rồi. Ảnh quen tao chớ bộ...
- Mày có hình của anh ta?
- Mới quen mà xin hình làm gì...
- Mai mốt gặp lại anh ta mày xin hình để tao coi mặt anh ta tròn hay méo, xấu hay đẹp rồi tao làm mai cho...
Hy xì tiếng dài.
- Xí... Cái mặt búng ra sữa của mày mà đòi làm mai... Ai mà thèm...
Hiếu cười hăng hắc, với tay lấy chiếc áo mưa mặc vào.
- Thôi tao về... hổng thôi má tao bả la chết... Sắp tới ngày tựu trường rồi...
Hy gật đầu ngồi im nhìn theo bạn đi trong mưa. Nàng liên tưởng tới Quỳnh mặc áo mưa ngồi co ro trong trời mưa bay lất phất.
- Chắc ảnh lạnh lắm...
Nói xong nàng thở dài. Đó là tiếng thở dài đầu tiên của cô gái mười sáu tuổi.
11 giờ. Đang ăn sáng ở Uyên Hưng, Quỳnh phải hấp tấp trở về tàu để nói chuyện với trung úy Bình. Hai chiến đỉnh sẽ nhận vùng công tác mới. Đó là khúc sông từ ngã ba Uyên Hưng dài lên tới sông Vũng Gấm. Hỏi thời được biết ngày đi có mà ngày về không, đúng hơn là chưa biết vì còn tùy thuộc vào tình hình chiến sự. Sang càu nhàu khi biết sẽ còn ở đây dài dài. Quỳnh gật đầu đồng ý. Rời Uyên Hưng, hai chiến đỉnh đi ngược lên thượng nguồn của sông Đồng Nai để tuần tiễu từ ngã ba Uyên Hưng dài lên tới ngã ba sông Vũng Gấm. Phong cảnh hoang sơ, tiêu điều và vắng vẻ. Ngồi trên ụ súng trước mũi, Sang nói lớn với Quỳnh.
- Coi bộ mệt nghen anh...
Quỳnh gật đầu im lặng. Hai bên bờ sông càng vắng vẻ chừng nào thời nguy hiểm càng nhiều chừng đó. Vùng này không có dân chúng ở tất nhiên phải thuộc vào vùng giải phóng của địch hay ít ra bộ đội cũng thường xuyên hoạt động. Nắng chang chang. Không có gió nên oi bức. Quỳnh đưa tay áo lau mồ hôi trán. Dù biết mặc áo giáp và đội nón sắt là cần thiết vì hai thứ đó sẽ che chở mình khi bị địch bắn nhưng anh vẫn khó chịu bởi nóng nực và nặng chình chịch. Anh có cảm tưởng cái nón sắt mình đang đội trên đầu giống cái vòng kim cô của Tôn Hành Giả. Ông ta phải đi hết con đường thỉnh kinh thời cái niền đầu mới rớt ra. Còn anh phải hết chiến tranh thời mới thôi đội nón sắt. Bao giờ chiến tranh mới chấm dứt. Quỳnh tự hỏi nhiều lần mà cũng không có câu trả lời thỏa đáng.
- 11 đây 9...
Quỳnh uể oải cầm lấy ống nói khi nghe giọng nói của Quốc vang vang trong máy 46.
- 11 nghe 9...
- Tao thấy ớn quá...
Quốc nói với giọng không được bình thường. Quỳnh cười trấn an.
- Không sao đâu... Mày để ý bờ bên trái, phía Tân Uyên...
Dứt điện đàm với Quốc, Quỳnh cầm ống dòm lên nhìn về phía trong bờ. Rừng chồi ngút ngàn với những trảng tranh và cỏ xanh rì. Dòng sông Đồng Nai bắt đầu hẹp lại dần dần và hai bên bờ sông cũng cao hơn mặt nước. Đây là một bất lợi cho tàu vì sự tác xạ sẽ không còn chính xác nữa. Mực nước sông phải bằng hoặc cao hơn bờ thời súng bắn mới có hiệu quả được. Ở đây nước hầu như chỉ chảy một chiều vì thủy triều không lên tới. Không những cao hơn mặt nước sông mà hai bên bờ còn có nhiều mô đất, gốc cây, đồi thấp rất tiện cho địch đào hầm hố ẩn núp để bắn tàu.
Sang chợt lên tiếng nói lớn.
- Hầm hố nhiều quá... Điệu này nó bắn mình xong tha hồ ngồi hút thuốc và uống cà phê... Mình bắn tới tết ma róc cũng hổng rụng sợi lông của nó..
Quỳnh cười im lặng. Sang nói tiếp.
- Dù sao nó cũng còn đỡ hơn sông Vàm Cỏ Đông... Anh nhớ lần mình vượt biên qua Miên?
Quỳnh gật đầu. Dù không muốn nhớ anh cũng không thể và không bao giờ quên chuyến hành quân vượt sang biên giới Miên. Đó là cuộc hành quân hổn hợp với bộ binh và biệt động quân. Điểm đặc biệt là anh có một thằng bạn thân ở trong tiểu đoàn biệt động quân này. Lần đầu tiên anh mục kích một cuộc kịch chiến giữa quân ta với quân địch. Hai bên chết như rạ. Sau khi địch rút lui anh mới gặp được thằng bạn thân. Hai đứa ôm nhau không khóc mà nước mắt ứa ra. Bộ quân phục bê bết bùn đất với máu, Hóa im lặng tận hưởng chai 33 nóng của anh đưa cho. Mới hai mươi ba tuổi mà trông nó già nua và cằn cỗi. Lửa của chiến tranh đã làm khô héo thằng học trò mơ mộng và lãng mạn. Ba ngày sau đoàn tàu mười mấy chiếc chở đầy lính ngược lên thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông để đổ quân vào trong đất Miên mà mục tiêu là vùng Lưỡi Vẹt. Con sông nhỏ bề ngang ba mươi thước khiến cho tàu xoay trở khó khăn. Hầm hố đầy hai bên bờ sông cao ngang với ụ súng 20 ly. Đại liên 50 bắn chỉa lên trời. Đại bác 20 ly chạm nổ không còn hiệu quả nữa. Tàu sắt cồng kềnh và nặng nề phải hứng B40, 57 không giật, lựu đạn và độc địa nhất là bắn sẻ. Biết bao nhiêu bạn bè, người quen, kẻ không quen biết đã nằm lại nơi xó xỉnh vô danh nào đó. Lần đầu tiên Quỳnh nhìn thấy cái chết rất gần. Năng, chết gục vì bị bắn một phát vào đầu trong lúc ngồi cạnh anh ăn tô mì gói. Máu bắn tứ tung. Hơn tuần lễ anh thức ngủ chập chờn vì nghĩ tới cái chết của Năng.
- Cà phê nè anh...
Biên đưa cho Quỳnh ly cà phê đen bốc mùi thơm thơm. Nhấp ngụm nhỏ anh tặc lưỡi cười đùa.
- Chừng nào giải ngũ mày mở quán cà phê đi...
Biên cười hắc hắc.
- Tôi thích mở quán nhậu hơn...
- Tại sao vậy?
Quỳnh vặn. Biên chưa kịp trả lời Tuấn đã vọt miệng hớt trước.
- Để khách không nhậu thời nó tha hồ nhậu...
Quỳnh bật cười rút trong túi ra gói thuốc mời Biên.
- Cám ơn anh tôi có rồi...
Thong thả lấy điếu thuốc gắn lên môi của mình, Quỳnh quẹt diêm. Tia lửa bùng lên rồi tắt thật nhanh dưới cơn gió mạnh. Càu nhàu anh khom người xuống phòng lái để quẹt diêm.
- Bum... Bum...
Âm thanh vọng âm u. Ngồi ở ụ súng trên mui nên Kỳ thấy trước nhất. Nó la lớn khi thấy ánh lửa lòe chớp trong bờ.
- Nó bắn... Bên trái
Ầm... Quỳnh cảm thấy một chấn động mạnh mẽ đẩy bật anh vào chỗ Tuấn đang ngồi lái tàu rồi sau đó là cảm giác đau buốt nơi tay. Nhìn xuống anh thấy cổ tay của mình máu tuôn đỏ tươi. Lồm cồm ngồi dậy anh cứng người sợ hãi khi thấy Biên nằm bật ngửa trên mui tàu. Máu từ nơi cổ của nó phún ra thành vòi đỏ tươi. Mặc cho vết thương của mình, anh chồm tới chỗ nó đang nằm. Mặt trắng bệch. Hai mắt mở lớn bất động. Hơi thở phì phò. Miệng há ra như muốn nói điều gì. Người lính thủy đang nằm trong trạng thái hấp hối. Không có gì. Không có ai có thể cứu sống được nó. Ứa nước mắt Quỳnh đưa bàn tay của mình ra cố bịn kín vết thương dài nửa gang tay trên cổ của người sắp chết. Anh biết việc làm của mình vô ích nhưng anh không thể làm gì khác hơn. Anh không đành lòng nhìn người lính dưới quyền đang đi dần vào cái chết. Nó còn trẻ quá mà. Mới có ngoài hai mươi. Súng trên tàu nổ ran ran. Máu nơi vết thương vẫn chảy. Chỉ có Biên đang nằm im lìm. Bàn tay nắm chặt lấy tay anh như lời gởi gấm. Gởi gấm cái gì. Hay chỉ là một níu kéo tuyệt vọng trước khi từ giã.
CHƯƠNG 6
Đang cắm cúi đọc sách Hy ngước lên khi nghe tiếng tằng hắng. Quỳnh đang đứng trước mặt với nụ cười im lặng và ánh mắt nói thật nhiều.
- Hy khỏe không?
- Dạ khỏe. Còn anh?
Thấy lớp băng trắng quấn nơi cổ tay bên trái của anh nàng hấp tấp lên tiếng.
- Anh sao vậy?
Quỳnh cười.
- Bị thương chút chút...
Đặt cái túi vải lên bàn anh cười nói nhanh.
- Anh có món quà tặng cho Hy...
Thấy cô bé còn ngần ngừ chưa chịu lấy anh tiếp nhanh.
- Anh phải đi bây giờ...
Nói xong Quỳnh đẩy chiếc túi vải tới gần hơn rồi quay lưng bước thật nhanh. Ra tới cửa anh hơi quay người lại nói lớn.
- Anh xin lỗi không nói chuyện được lâu... Mai mốt trở lại anh chở em đi chơi núi...
- Dạ...
Dạ tiếng nhỏ Hy im lặng nhìn theo bóng ông lính thủy cho tới khi không còn thấy nữa. Không biết ảnh tặng mình cái gì?. Nàng tự hỏi thầm trong lúc chăm chú nhìn cái túi vải. Lần đầu tiên nàng được con trai tặng quà. Điều này khiến cho nàng hồi hộp, sung sướng và kích thích. Cuối cùng nàng run tay mở cái túi vải ra. Cầm quyển Vòng Tay Học Trò lên nàng mỉm cười. Đây là quyển tiểu thuyết được đám bạn trong lớp bàn tán nhiều song nàng chưa có dịp đọc. Hiếu có một quyển và nói sẽ cho nàng mượn sau khi đọc xong. Lật trang đầu của quyển tiểu thuyết nàng thấy bức thư dày hai trang giấy học trò. Mặt đỏ bừng, tim đập mạnh vì xúc động nàng mân mê lá thư đầu tiên của một người con trai đã gởi cho mình. Mắt nàng như nhòa đi trước dòng chữ. Hy mến... Khi đặt chân lên thành phố Biên Hòa, anh không nghĩ là đời sống của mình sẽ có một đổi thay nho nhỏ. Khi ngồi trong quán ăn bên kia đường đối diện với tiệm tạp hóa, nhìn bóng em thấp thoáng, anh không nghĩ là mình có may mắn được gặp Hy, quen Hy và cuối cùng cảm thấy mến Hy nhiều hơn nữa. Ba tháng qua, giọng cười của Hy, tiếng nói của Hy, khuôn mặt hồn nhiên, đôi mắt ngây thơ, tia nhìn e ấp của Hy đã theo anh đi hoài trên sông nước Đồng Nai tới những địa danh xa không xa nhưng lạ thật lạ. Đêm đêm ngồi ôm gối nhìn vầng trăng buông xuống thứ ánh sáng bàng bạc mông lung, anh nghĩ về Hy rồi nỗi nhớ bùng ra làm thành cơn buồn bã không thể nói thành lời. Hy còn nhỏ quá. Hy đang là cô học trò 16, chưa mất hết thơ ngây và hồn nhiên; trong lúc anh là lính, không có tương lai và những gì sẽ xảy ra ngày mai anh không biết trước được. Mình quen biết nhau ba tháng, gặp gỡ mấy lần mà cũng không nói được nhiều. Tuy nhiên điều đó cũng không cản được anh càng ngày càng thấy gần gụi Hy nhiều hơn... Hy cười im lặng. Nàng không biết nói gì hơn ngoài sự xúc động khi đọc những dòng chữ của Quỳnh viết cho mình. Nàng sung sướng vì biết anh chú ý tới mình. Thật ra nàng cũng thích anh, mến anh, xem anh như là anh trai hoặc bạn trai lớn tuổi của mình. Dù sung sướng, vui mừng mỗi khi gặp lại Quỳnh, nàng cũng chưa yêu anh. Đang lần mò, chập chững bước đi vào thế giới huyền ảo của tình cảm, dù háo hức song nàng cũng e dè và lo sợ sẽ bị đau đớn và sầu khổ vì chưa có kinh nghiệm. Nó là một sự trải qua để nhận biết. Gấp lá thư chưa đọc hết vào cuốn Vòng Tay Học Trò, nàng cầm lấy món quà nhỏ được gói cẩn thận. Khi mở lớp giấy bọc nên ngoài ra nàng thấy nửa cái bánh trung thu thập cẩm. Mùi thơm của bánh thật quyến rũ. Màu đỏ của trứng gà nhìn thật hấp dẫn làm nàng muốn chảy nước miếng. Cầm tờ giấy gấp làm tư lên nàng đọc nho nhỏ " Bánh trung thu xẻ làm đôi... Nửa dành em đó, nửa anh ăn rồi.... Bật cười hắc hắc nàng nói lớn như có Quỳnh đang đứng trước mặt Hy tính để dành miếng bánh làm kỹ niệm nhưng mà nửa anh ăn rồi nên Hy ăn luôn cho có đôi.... Nửa cái bánh trung thu thật ngon. Lòng đỏ của hột vịt muối thật bùi và mằn mặn hòa với cái bùi bùi của hột dưa và vị ngọt của đường thật đậm đà. Vừa nhai Hy vừa nghĩ lần sau mình phải đòi ảnh cho nguyên một cái ăn mới đã thèm.
Quỳnh ngập ngừng, do dự trước cửa nhà của Hy khá lâu. Cuối cùng anh lẩm bẩm " Chết ai đâu mà sợ... Nói xong anh gõ cửa. Có lẽ đã thấy anh từ xa hoặc đã trông ngóng và chờ đợi nên Hy bước ra liền. Quỳnh nhìn thấy mặt cô bé hơi tái xanh vì hồi hộp và lo âu.
- Anh Quỳnh...
Hy kêu tiếng nhỏ. Quỳnh mỉm cười.
- Hy sợ hả?
Hy trả lời bằng cái gật đầu. Đôi môi của nàng mím lại như cố không để cho tiếng nói thoát ra. Cuối cùng nàng chỉ nói được bốn tiếng Mời anh vào nhà...
Quỳnh cười bước vào nhà. Đúng như lời Hy nói. Nhà nàng nghèo. Dù không nghèo lắm nhưng cũng nghèo. Đồ đạc bày khắp nơi. Nhìn thấy bàn thờ anh biết nàng theo đạo Phật. Ba má của Hy bước ra chào hỏi rồi bỏ vào trong. Mấy đứa em trai thập thò nơi cửa. Lần đầu tiên chị hai có bạn trai nên chúng tò mò muốn biết mặt mũi. Hai đứa ngồi nơi phòng khách nói chuyện. Cũng không có chuyện gì ngoài chuyện trường học và gia đình. Qua lời nói, bây giờ Quỳnh mới biết ba Hy người Việt còn má là người Hẹ.
- Vậy em là xẩm lai?
Quỳnh hỏi với giọng âu yếm pha chút giễu cợt. Hy cười e ấp.
- Dạ... Anh còn muốn làm quen hông?
Liếc nhanh vào nhà trong nơi chỗ ba má của Hy đang ngồi uống trà, Quỳnh cười đùa.
- Vẫn muốn... Chắc anh có duyên với cô xẩm lai...
Quỳnh chưa kịp nói nàng tiếp nhanh.
- Chỉ sợ ba má em không chịu. Em còn nhỏ... còn đi học...
Đúng ra Quỳnh muốn nói một câu bóng bẩy như Thương em... trăm năm anh cũng đợi, ngàn năm anh cũng chờ nhưng biết Hy còn nhỏ có thể chưa hiểu được nên chỉ cười lên tiếng.
- Anh đợi được...
- Bao lâu...?
Hy bật cười ròn tan vì câu hỏi của mình, nhất là nhìn nét mặt ngượng ngùng của Quỳnh.
- Em nói giỡn... Anh sùng hả...
Quỳnh lắc đầu cười. Hy liếc nhanh vào nhà bếp. Nàng biết ba má và các em nhỏ đang lắng nghe mình với Quỳnh nói chuyện. Điều đó khiến cho nàng cảm thấy không được thoải mái. Ngay cả Quỳnh cũng biết điều đó. Giơ tay xem đồng hồ anh nói nhỏ với Hy.
- Hy vào thưa với ba má anh xin phép đi về...
- Mình đi vào nhà trong...
Hai đứa đi vào nhà bếp. Cúi đầu chào ông bà Quỳnh nhỏ nhẹ thưa.
- Dạ cháu xin chào hai bác... Cháu phải đi... Nếu hai bác cho phép cháu sẽ trở lại thăm...
Ba của Hy cười nói một câu vắn tắt.
- Cậu thích thời cứ lại nhà chơi... Tôi cũng muốn con Hy có bạn trai nhưng nó còn đi học nên...
Hiểu ý Quỳnh cười thưa.
- Dạ cám ơn bác... Cháu biết nên chỉ xin hai bác cho phép thỉnh thoảng tới thăm Hy tại nhà...
Đang im lặng má Hy chợt lên tiếng hỏi.
- Cậu bao nhiêu tuổi. Gia đình ở đâu vậy?
- Dạ cháu 23 tuổi. Nhà ba má cháu ở Sài Gòn...
Thấy má của mình hơi cau mày song cũng không hỏi gì thêm, Hy nháy mắt với Quỳnh. Hiểu ý anh nói câu từ giã cùng ba má nàng rồi đi ra cửa. Hy theo sau lưng.
- Em nói với anh mà... Ba má em khó lắm...
Hy thì thầm và Quỳnh cười vui như không có gì phật lòng.
- Anh biết... Ổng bả có con gái đầu lòng nên phải giữ gìn. Từ từ ba má của em sẽ hiểu...
Dừng lại nơi sân Quỳnh cười nhìn Hy.
- Em mặc áo màu vàng đẹp lắm... Thôi anh về... Chắc hai ba tuần nữa anh mới gặp em...
Hy dừng xe đạp khi lên tới giữa cầu. Nhìn xuống dòng sông nước trong xanh nàng thấy một chiếc tàu đang chạy. Hình ảnh chiếc tàu làm nàng nhớ tới Quỳnh. Giờ này anh ở đâu hả anh? Anh đang làm gì? Anh có nhớ tới con bé này không anh? Anh có biết trên đường đi học nhìn tàu chạy trên sông Hy nhớ anh? Hơn tháng rồi Hy không thấy anh và hầu như quên mất mặt mũi của anh. Biết bao lần anh hứa sẽ chở Hy đi chơi núi mà lần nào gặp nhau anh cũng không giữ được lời hứa. Thật ra thì Hy biết không phải lỗi của anh. Anh là lính, giờ giấc không định, còn em ba má khó khăn do đó mình ít có thời giờ cho nhau. Thôi đành vậy. Làm thân con gái trong thời buổi chiến tranh phải chịu nhiều thiệt thòi. Hy chỉ cầu mong anh đi và anh trở về, để Hy còn được nhìn thấy anh, nghe anh nói anh cười. Hy rưng rưng nước mắt khi nghĩ có một ngày Quỳnh đi luôn không bao giờ trở lại thăm mình nữa. Dù còn đi học, dù không có anh em trong quân ngũ song bạn học của nàng cũng có người thân đi lính bị chết trận. Dù còn ngây thơ và hồn nhiên, ngày ngày nàng cũng đọc những lời cáo phó đăng trên báo hoặc lời chia buồn đại ý như đã hy sinh vì tổ quốc và anh dũng chết nơi chiến trường.
Đang ngồi trong lớp Hy được giấy mời xuống văn phòng của ông tổng giám thị. Vừa đi nàng vừa thắc mắc và lo âu không biết chuyện gì. Nàng không phải là đứa học trò xấu hay bê bối. Nàng không đi trễ, trốn học, phá phách. Nàng siêng năng, chăm chỉ và nghe lời thầy cô. Vậy thì không có lý do gì để bị gọi xuống văn phòng tổng giám thị trong lúc đang học. Gặp thầy giám thị mới biết có người nhà tới thăm. Khi bước vào phòng nàng ngạc nhiên và xúc động khi thấy Quỳnh đang đứng chờ.
- Anh Quỳnh đi đâu vậy?
Quỳnh mỉm cười. Tuy mỉm cười song trong trí anh lại nghĩ " Cô bé này kỳ ghê... Mình tới đây gặp mà cô bé lại hỏi đi đâu...
- Anh tới thăm Hy...
Quay sang thầy giám thị đang đứng Quỳnh lễ phép hỏi.
- Thưa thầy... Tôi xin phép cho em Hy nghỉ học hôm nay được không thầy?
Nhìn bộ quân phục mà Quỳnh đang mặc thầy giám thị biết anh là lính vì vậy ông ta cũng nể nang nên dễ dãi cười gật đầu.
- Được chứ... Ông là thân nhân thời cứ ký tên lãnh trò Hy là được...
Dù thắc mắc song Hy im lặng để mặc cho ông lính của mình muốn làm gì thời làm. Liếc thấy Quỳnh viết năm chữ anh bà con chú bác vào khung thân nhân của học trò nàng nghĩ thầm Ai bà con với anh hồi nào đâu. Đúng là thấy người ta sang bắt quàng làm họ... Nàng phải đưa tay lên bụm miệng mình để ngăn không cho tiếng cười phát ra. Ký tên vào tờ giấy, ngõ lời cám ơn ông giám thị xong Quỳnh nói nhỏ với Hy.
- Mình đi Hy...
Hai người đi ra cửa. Quỳnh nói nhanh.
- Anh đi với em lên lớp cho em lấy tập vở...
Hy liếc nhanh ông lính.
- Vậy là em nghỉ học hôm nay hả?
- Ừ... Anh chở Hy đi chơi rồi tới hết giờ học anh chở Hy về đây...
Cả lớp lao xao khi thấy Hy trở lại với một thanh niên mặc quân phục. Riêng Hiếu vì được nghe Hy kể nên biết đó là bạn trai của Hy. Nó cười nói nhỏ với bạn.
- Nhớ kể cho tao nghe hổng thôi tao mét má mày...
Hy gật đầu chào xin phép cô giáo xong hối hả theo Quỳnh ra khỏi cửa trường.
- Xe của anh hả?
Hy hỏi khi thấy Quỳnh mở khóa chiếc xe Honda.
- Anh mượn của một người quen ở dưới tàu. Nhà nó ở gần sân banh...
- Mình đi đâu hả anh?
Hy hỏi nhỏ.
- Em biết chùa Ông...
- Dạ biết... Má Hy dẫn Hy đi hoài...
- Anh chở Hy tới chùa Ông chơi... Chùa này gần trường học...
Không hỏi nữa Hy im lặng ngồi lên yên xe với tâm trạng hồi hộp, lo âu và mắc cỡ. Nàng lo có người quen thấy rồi về học lại với ba má thời nàng sẽ bị la mắng và có thể bị đòn nữa. Nàng hồi hộp và run rẩy tới độ nghe được tim mình đập thình thịch. Lần đầu tiên ngồi chung xe với Quỳnh nàng đâm ra e thẹn tới độ chỉ biết nắm chặt yên xe cho khỏi té chứ không dám vòng tay ôm ngang hông anh. Nàng chưa dạn dĩ tới độ làm cử chỉ thân mật như nhiều cô gái khác. Có lẽ hiểu được nên Quỳnh cười trấn an.
- Anh chạy chậm và em nắm chặt cho khỏi té...
- Dạ...
Hy chỉ dạ tiếng nhỏ. Bình thường nàng là một cô gái vui vẻ, liến thoắng và cười nói tía lia, song ngồi sau lưng Quỳnh nàng không hiểu tại sao đầu óc mình trống rỗng, chữ nghĩa bay mất tiêu. Mình đang đi chơi với bạn trai... Nàng chỉ nghĩ được một câu đó thôi. Điều đó là một sung sướng và hãnh diện xen lẫn với nhiều dao động và thay đổi trong tâm hồn. Quỳnh lái xe chậm trên con đường tráng nhựa từ trường tới chùa Ông. Hai đứa cùng im lặng. Anh cũng run chứ hổng phải mình đâu... Lính gì nhát hít.... Không nhịn được Hy bật cười vì ý nghĩ của mình. Nghe tiếng cười trong treo ở sau lưng Quỳnh hỏi.
- Hy cười gì vậy?
Hy lúng túng vì câu hỏi của Quỳnh. Cuối cùng nàng ấp úng.
- Dạ... dạ... em cười em...
Đang lái xe Quỳnh liếc nhanh ra sau lưng. Anh thấy cô bé mặt ửng hồng, tay níu chặt lấy yên xe và đôi môi hơi mím lại như cố giấu đi nụ cười e ấp. Có lẽ biết Quỳnh nhìn mình nên nàng vờ quay mặt sang hướng khác. Xe ngừng bên vệ đường ngay trước cửa chùa. Gởi xe xong hai đứa thong thả đi ra phía bờ sông. Mặt nước xanh gờn gợn sóng. Gió mát thổi tà áo dài trắng của nàng bay bay.
- Sông đẹp hả anh?
Hy thì thầm. Không nghe Quỳnh trả lời nàng hơi ngạc nhiên quay sang nhìn. Nàng thấy khuôn mặt của người lính thủy buồn bã lạ thường. Hình như có chút nước mắt ứa ra từ đôi mắt đăm chiêu.
- Sông đẹp nhưng...
Quỳnh chỉ nói có ba tiếng rồi móc túi lấy ra gói thuốc. Mân mê gói thuốc lá giây lát, anh lấy một điếu đưa lên miệng ngậm rồi bật chiếc zippo. Ngọn lửa bùng lên thành màu xanh vì bị gió lùa. Khói thuốc tan thật nhanh trong gió song Hy cũng ngửi được mùi thơm nồng. Hít hơi dài, nhả khói ra từ từ Quỳnh cất giọng trầm. Hy nghe giọng nói của anh hơi nghèn nghẹn.
- Sông đẹp lắm... Anh nghĩ bất cứ con sông nào cũng đẹp theo dáng vẻ riêng của nó. Mưa rơi trên sông cũng đẹp. Chiều trên sông cũng đẹp. Nhưng trăng trên dòng sông mới là cái đẹp tuyệt vời nhất. Khi đất nước thanh bình anh sẽ lái tàu đưa em ngắm trăng trên dòng sông Đồng Nai. Lúc đó em mới thưởng thức được cái vẻ mông lung, huyền ảo, mơ hồ và mộng mị của ánh trăng buông trên dòng sông...
- Anh nhớ nha...
Hy cười. Quỳnh gật đầu bước trên con đường mòn chạy dọc theo bờ sông. Gió từ mặt nước lùa vào thổi tà áo dài của Hy quyện vào chân anh. Tà áo em bay giữ chân đời anh... Quỳnh mỉm cười vì ý nghĩ hiện ra trong trí của mình. Anh liếc nhanh khuôn mặt trái soan của Hy. Có hai dòng máu chảy trong người cho nên nàng đẹp khác lạ. Dáng cao và mảnh mai. Đôi mắt to đen láy. Cái cổ cao trắng ngần. Bờ ngực của cô gái dậy thì vun cao. Mũi thẳng và cao. Tất cả hòa hợp hình thành một vẻ thanh tú và ưa nhìn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ của linh hồn. Điều đó Quỳnh không biết có đúng không. Nhưng anh biết ở Hy đôi mắt là tiếng nói của nàng. Ngoài ra nó còn cho anh biết Hy có thể chất khỏe mạnh. Tinh anh của nàng hiện lên lên ở đôi mắt sáng long lanh kỳ diệu mà mỗi lần nhìn vào anh cảm thấy bị cuốn hút. Biết Quỳnh đang chiếu tướng mình nên Hy im lặng nhìn ra sông để che giấu cảm xúc. Trong lòng nàng đang có những cảm giác rẩy run, hồi hộp, sung sướng và e thẹn. Nàng cảm thấy hơi thở của mình đứt quãng, nặng nhọc và nổi gai ốc vì sợ. Nàng sợ bị Quỳnh nắm tay. Nếu ảnh nắm tay thì mình phải làm gì? Để yên hay rút lại? Cuối cùng nàng thở ra nhè nhẹ khi thấy Quỳnh bước đi.
- Mình có vào chùa không anh?
Hy lên tiếng như để có chuyện nói. Hít hơi thuốc rồi búng tàn thuốc rơi xuống nước Quỳnh quay lại cười.
- Chùa nào?
- Chùa Ông...
- Em biết sự tích chùa Ông?
Hy lắc đầu cười phô hai hàm răng trắng bóng và đều đặn.
- Hông... Anh biết hông mà hỏi người ta...
Nghe Hy vặn lại mình Quỳnh cười hắc hắc nhìn vào mặt nàng. Mặt cô học trò nóng bừng vì tia nhìn âu yếm của anh lính thủy.
- Dân chúng quen miệng gọi chùa Ông nhưng đúng ra thời phải gọi là miếu...
- Tại sao phải gọi là miếu?
- Chùa là nơi để thờ Phật trong khi miếu để thờ các vị thánh thần. Bởi vậy tên đúng nhất để gọi chùa Ông là Miếu Quan Thánh Đế mà người được thờ chính là Quan Vân Trường, một danh tướng thời tam quốc... Em biết truyện Tam Quốc không?
Do dự giây lát Hy mới trả lời.
- Có nghe ba má nói...
Nhìn Quỳnh nàng cười hỏi lại.
- Anh có đọc hông hay là anh hù em...
Hy cười hăng hắc sau khi hỏi. Đốt điếu thuốc Quỳnh gật đầu lia lịa.
- Anh đọc rồi... Đọc hồi mới có 9, 10 tuổi và bây giờ cũng còn đọc...
- Em muốn đọc...
Quỳnh gật đầu.
- Để mai mốt anh đưa truyện Tam Quốc cho em đọc. Anh sẽ cho em gia tài của anh. Đó là những quyển sách mà anh đã mua bằng tiền dành dụm của anh từ hồi nhỏ cho tới bây giờ...
- Nhiều hông?
Sau khi hỏi Hy bước tới một bước. Anh lính thủy nghe được mùi hương thân thể của cô bạn gái quyện vào mũi của mình và đọng lại trong đó thành nỗi rung động dịu dàng và xuyến xao thật nhẹ.
- Nhiều lắm...
Giọng nói của Quỳnh mơ hồ. Anh hầu như bị choáng ngợp khi nhìn vào đôi mắt long lanh, còn nguyên nét ngây thơ và hồn nhiên đang ánh lên chút tình cảm của Hy. Dù chưa hẳn là tình yêu song đủ nói lên sự cảm mến mà nàng dành cho mình. Từ cảm mến chuyển sang thương yêu chắc không xa.
- Mấy giờ rồi anh. Em phải đi về...
Hy hỏi và Quỳnh nhìn đồng hồ chỉ 11 giờ 10.
- Lẹ quá... Anh chở Hy về trường...
Chiếc xe gắn máy phóng đi nhanh. Cũng như lần trước Hy im lặng không nói suốt đoạn đường từ chùa Ông trở lại trường.
CHƯƠNG 7
Chiếc xe đò Biên Hòa- Sài Gòn ngừng lại nơi Ngã Ba Hàng Xanh. Bước xuống đất, đốt điếu thuốc anh đứng nhìn quang cảnh nhộn nhịp của xa cảng, giao điểm của xa lộ Biên Hòa và con đường nối liền Thị Nghè- Bà Chiểu. Mùi xăng nhớt lẫn trong không khí bụi bặm làm cho anh phải khịt khịt mũi. Tiếng xe gắn máy, xe hơi nổ ầm ỉ. Tiếng người nói chuyện lao xao. Chiếc xe buýt thưa người ngồi đậu lại. Quỳnh chậm chạp bước lên. Ngồi im nơi băng ghế cuối cùng anh lơ đểnh ngắm phong cảnh hai bên đường. Nhà cửa cũ kỹ. Mái ngói rêu móc. Bức tường gạch của viện dưỡng lão dơ dáy đầy những chữ viết nguệch ngoạc. Xe dừng rồi lại chạy. Bao lâu rồi mình mới trở lại Sài Gòn? Quỳnh băn khoăn. Chắc hơn nửa năm. Hình bóng lãng đãng trong trí nhớ. Kỹ niệm hổn độn, chồng đống và trộn lẫn với nhau khiến cho anh mỗi lần muốn hồi tưởng phải tìm kiếm và ráp nối lại mới có thể thấy được. Xe ngừng lại nơi trạm có năm ba người đứng chờ. Chiếc buýt uể oải lăn bánh bỏ lại Quỳnh đứng im nhìn ngôi nhà thờ đối diện với mình bên kia đường. Cây thánh giá màu trắng trên nóc đã ngã sang màu trắng ngà. Mấy bực tam cấp bằng xi măng nứt nẻ, có chỗ rong rêu bám vào. Đi ngang qua căn nhà, anh giơ tay lên chào một người đàn bà đang đứng ngó mong ra đường. Đó là vợ của một người anh bà con đã chết trận từ lâu lắm, có lẽ hồi Quỳnh còn ở trung học đệ nhất cấp. Vào nhà xác để nhìn mặt ông ta lần cuối, anh hiểu được nỗi khổ đau của những người có chồng con đã hy sinh vì tổ quốc qua tiếng khóc nghẹn ngào và bi ai của họ. Hy sinh vì tổ quốc, anh dũng đền nợ nước. Mấy tiếng đó nghe xa vời quá. Người lính nằm xuống thì được xưng tụng anh hùng. Chỉ riêng vợ con họ còn sống thời gian truân và vất vả suốt đời. Mười hai tháng lương trong thời buổi vật giá leo thang so sánh còn ít hơn giá tiền chiếc nhẫn hột xoàn của một bà tướng hay chếnh tứ sắc của phu nhân một ông bộ trưởng. Sinh mạng của người lính Việt Nam rẻ mạt cũng như thân phận bọt bèo của vợ con họ trong nhiệm vụ thiêng liêng được hô hào bởi hai thế lực đối nghịch.
- Ê Quỳnh...
Đang thọc hai tay vào túi quần và trầm tư nghĩ ngợi, nghe tiếng người gọi tên mình Quỳnh ngước đầu lên dáo dác nhìn. Trong chiếc quán cóc bên con hẻm nhỏ có bàn tay vẩy vẩy. Bước tới gần anh nhận ra Châu, thằng bạn thân cùng lớp 11 với mình đang ngồi nhâm nhi xị đế.
- Mày về thăm nhà?
Châu lên tiếng. Quỳnh hơi ngạc nhiên khi thấy nó mặc quân phục rằn ri.
- Mày đi lính hồi nào vậy?
- Gần một năm rồi... Tao sẽ lên Kontum...
Rót đầy chung rượu đế đẩy sang cho bạn Châu hỏi nhỏ.
- Mày nhớ thằng Cương?
Quỳnh trả lời bằng cái gật đầu. Đốt điếu thuốc Châu lên tiếng.
- Nó chết rồi...
Quỳnh thở dài khi nhớ tới thằng bạn thân cùng lớp. Trong trí anh hiện lên hình ảnh một thằng con trai nhà giàu, thông minh, hào sảng, vui vẻ, rất được con gái thích. Đậu tú tài xong ba má nó tính cho nó đi du học nước ngoài. Thế mà nó lại tình nguyện đi lính dù đang học khoa học. Ra võ bị Đà Lạt nó chọn nhảy dù. Lần gặp nhau cuối cùng nó nói với Quỳnh là đi nhảy dù mới bảnh. Bảnh thì cũng bảnh mà lên bàn thờ cũng sớm hơn.
- Uống đi mày...
Châu lên tiếng nhắc. Quỳnh cười đưa chung đế lên ực một cái. Mùi rượu cay nồng làm chảy nước mắt. Bóc miếng khô mực, chấm vào dĩa tương đầy ớt đỏ tươi anh bỏ vào miệng nhai xiệu xạo. Chị chủ quán cười bắt chuyện với Quỳnh.
- Em về thăm nhà hả?
Dù quen mặt song phải khá lâu Quỳnh mới nhớ ra tên của chị là Thoa.
- Dạ... Em về thăm nhà... Anh Bá ở đâu hả chị?
- Ảnh ở Ban Mê Thuột...
Uống vài chung rượu đế xong Quỳnh từ giã Châu. Hai thằng bạn bắt tay nhau, không có lời chúc lành vì biết chẳng đứa nào cần cũng như nhớ tới lời chúc lành của bạn. Chết hoặc sống đều tùy thuộc vào những gì mà người ta không biết hoặc không thể đoán định trước.
Quỳnh đứng tần ngần trước cổng vào nhà của mình. Vẫn không có gì thay đổi. Ao nước đầy rau muống. Cây cầu ván nhỏ. Con đường trải đá. Hàng so đũa lá xanh xanh. Cây dừa xiêm mà bà ngoại đem từ quê lên giờ đã có trái xum xê. Cây chùm ruột già cỗi. Chùm trái vàng ươm. Mấy chậu mai tứ quí. Nhà tôn vách ván cũ kỹ. Có tiếng gâu gâu rồi con chó già vẩy đuôi chạy ra mừng cậu tiểu chủ trở về thăm nhà. Má anh rơi nước mắt. Trong tất cả năm người con trai và gái, anh được bà thương nhất. Có lẽ vì giống và hợp tính với bà. Sau khi bị bán thân bất toại bà trông già nua và hom hem. Còn đâu một tiểu thư từng trẻ đẹp và giàu sang. Dĩ vãng như trôi mất theo bụi thời gian còn trơ lại một nét mặt buồn bã, âu sầu vì thương nhớ hai đứa con trai vắng nhà. Quỳnh nói đôi lời thăm hỏi ba của mình. Ở giữa tình cảm cha với con vẫn còn có một khoảng cách mà anh biết không bao giờ có thể nối liền được. Hai mươi lăm năm không thấy nhau là hố sâu để ngăn cách tình cha con. Tuy nhiên hai người, dù không nói ra đều cố gắng giữ hòa khí để cho tình cảm không đi tới chỗ tồi tệ hơn. Bất đồng về quan điểm chính trị, tuổi tác, nền văn hóa đã được hấp thụ cộng thêm tính tình khác biệt; những điều đó tạo thành một bức tường chia ngăn cha con với nhau. Anh kính trọng ba của mình nhưng cảm thấy không thể gần gụi và thương mến ông được. Tình thương không thể có nếu thiếu sự cảm thông, đùm bọc, che chở và xẻ chia với nhau. Ba anh đã không có những điều đó với con cái của ông.
Bữa cơm gia đình chỉ có ba người diễn ra trong im lặng ngoại trừ câu chuyện trời mưa trời nắng. Quỳnh có vài điều muốn nói với má nhưng vì có mặt ba nên anh đành im lặng chờ dịp khác. Anh muốn khoe với má về Hy vì biết bà sẽ vui vẻ bàn tán khi được con trai kể cho nghe chuyện tình cảm. Bà biết tính mơ mộng, lãng mạn của con. Ăn cơm xong, nhân lúc không có mặt ba, Quỳnh nhét vào túi áo của má nguyên cả tháng lương vừa lãnh. Anh biết số tiền của mình không có bao nhiêu song cũng đủ cho bà xài vặt và mua quà bánh cho cháu nội ngoại.
- Con làm gì vậy?
Đang cặm cụi lục trong đống sách cũ, nghe tiếng má hỏi Quỳnh ngước lên nhìn rồi cười trả lời.
- Dạ con tìm sách cũ mang lên cho Hy...
- Cô bé bao nhiêu tuổi?
- Dạ 16...
Quỳnh thấy được thoáng ngạc nhiên trong mắt đấng sinh thành. Lát sau bà cười đùa.
- Tình cảm không phân biệt tuổi tác hả...
Cầm lấy quyển Chân Trời Tím của Văn Quang, Quỳnh cười nói lại.
- Dạ... Cảm thông không phân biệt tuổi tác như con với má...
Quỳnh cảm thấy lòng ấm áp khi nghe má mình bật ra tiếng cười. Lâu lắm rồi anh mới nghe được giọng cười tươi vui của bà vì thỉnh thoảng anh mới trở về nhà hai ba ngày rồi lại vội vả đi. Khoảng thời gian ngắn ngủi đó anh lại mãi vui chơi với bạn bè nên bỏ quên với người mẹ già của mình. Với lại anh nghĩ khi có chồng bên cạnh thời bà sẽ không cần tới sự săn sóc của con cái nữa. Nhắc chiếc ghế mời bà ngồi xong Quỳnh bật ra câu hỏi. Khi hỏi rồi anh mới biết là không nên hỏi. Tuy nhiên đó cũng chính là thắc mắc mà anh muốn biết.
- Má hạnh phúc với ba...?
Quỳnh thấy được nét băn khoăn của má mình. Có thể bà không biết cái ý của anh hoặc chữ mà anh dùng. Có thể lớp tuổi của bà tiếng hạnh phúc được hiểu theo một nghĩa khác. Cuối cùng bà thở dài. Giọng nói của bà chậm và đều đặn.
- Mình không thể thay đổi những gì đã xảy ra cho nên mình phải chấp nhận và chịu đựng...
Hình như không muốn bàn luận thêm về đề tài trên nên bà cười hỏi.
- Bé Hy...
Hiểu ý má Quỳnh kê khai lý lịch một cách vắn tắt.
- 16 tuổi, học lớp 10, nhà nghèo, cha Việt mẹ Tàu, không sắc nước hương trời nhưng duyên dáng, thông minh và nhạy cảm. Thích đọc sách...
- Có vợ xẩm lai con tha hồ xực phàn...
Quỳnh cười hắc hắc vì câu nói đùa của má mình. Liếc nhanh ra sân trước nơi chỗ ba đang ngồi hóng gió anh nói một câu thoạt nghe như giỡn song anh biết nó rất thật với mình.
- Có được một người vừa là mẹ vừa là bạn thời thật vui thích...
Má Quỳnh vỗ vỗ lên lưng con trai trong lúc nói một câu làm cho anh rưng rưng nước mắt.
- Có được một người vừa là con vừa là bạn thời còn sung sướng hơn nữa...
Quỳnh cười nhìn má của mình. Bước đi được vài bước bà quay đầu lại nói với đứa con trai cưng của mình.
- Nói với Hy là má có lời hỏi thăm...
Ngước trông theo dáng đi khập khiểng của bà Quỳnh nói nhỏ.
- Dạ... Con sẽ...
Cầm quyển Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ lên ngắm nghía Quỳnh biết Hy còn nhỏ tuổi để đọc các loại sách này nhưng cuối cùng anh tặc lưỡi.
- Cứ đưa cho cô bé đọc...
Chậm chạp anh bỏ vào túi vải một lô sách báo và tiểu thuyết của các cây viết nổi tiếng đương thời. Anh cũng không quên nhét vào cái túi trọn bộ truyện Tam Quốc như đã hứa với Hy. Đêm Sài Gòn yên lặng qua khi anh tắt đèn nằm trong bóng tối. Khuôn mặt của cô học trò có đôi mắt đen lay láy và mái tóc dài hiện ra lung linh.
Đang ngồi nơi hàng hiên ngoài sân, thấy nhỏ Hiếu xách một cái túi vải nặng Hy hơi ngạc nhiên. Khi cô bạn tới gần nàng hồi hộp vì nhận ra cái túi vải quen thuộc của Quỳnh.
- Mày đi đâu vậy?
Hy hỏi cho có lệ. Xà vào chỗ bạn đang ngồi Hiếu thì thầm.
- Anh Quỳnh ghé nhà tao trưa thứ bảy. Anh nhờ tao đưa sách cho mày...
- Vậy à...
Hy hỏi gọn hai tiếng xong rồi mới cười tiếp.
- Còn gì nữa không?
- Còn...
- Gì?
- Thư của ảnh. Mày muốn đọc hông. Nếu mày nói không tao trả lại ảnh...
Hy đấm vào lưng con bạn thân.
- Quỷ... Đưa đây...
Móc trong túi áo bà ba ra lá thư đựng có phong bì được dán cẩn thận Hiếu cười cười.
- Mày cho tao coi ké nghen...
Hy vùng vằng.
- Thôi đi... Kỳ lắm...
Hiếu nắm chặt phong thư.
- Hổng cho coi là tao hổng đưa...
- Mày coi để làm gì... Thư của người ta mà...
Hiếu cười hắc hắc.
- Để rút kinh nghiệm. Mày nói ảnh viết văn thời viết thư tình chắc phải mùi lắm... Tao muốn học...
Hiếu cười hắc hắc. Đấm nhẹ vào vai bạn Hy gật đầu.
- Quỷ... Được rồi sau khi tao coi xong...
Vừa nói Hy vừa giựt phong thư trên tay bạn. Hiếu đứng dậy nói nhanh.
- Thôi tao về...
- Ừ mày về... Mai mốt tao sẽ đem thư tới trường cho mày coi nghen...
Đợi cho Hiếu khuất bóng nàng mới đưa phong thư lên nhìn. Phong thư được dán lại song không đề tên người nhận. Hy cảm thấy hai bàn tay của mình run run và trống ngực đập nhanh hơn bình thường khi mở thư. Trên nền giấy học trò những dòng chữ hiện ra. Nét chữ gãy gọn. Hy nhận thấy ông lính thủy viết tháu và viết tắt khá nhiều. Chữ không thay vì viết đủ anh lại viết ra khôg; những thời viết thành nhữg... Hy nghĩ thầm trong trí của mình Viết như vầy là sai chính tả, là bị khẽ tay nghe chưa... Viết như vầy mà cũng khoe viết văn.... Nàng bật cười hăng hắc vì ý nghĩ của mình.
- Hy mến...
Cô bé cảm thấy mặt mình nóng bừng, tim đập mạnh và hai bàn tay run lên vì e thẹn lẫn sung sướng. Lần đầu tiên nàng được một người con trai gọi bằng thứ ngôn ngữ chở chất chút tình cảm.
- Hôm qua anh về thăm nhà. Anh có nói chuyện với má anh về Hy. Bà rất vui khi được biết anh quen với Hy...
Bật cười Hy lắc lắc đầu nói như có Quỳnh đang đứng trước mặt mình.
- Chưa có gì hết mà đã đi khoe... Ông này kỳ quá...
Tuy lẩm bẩm như vậy song Hy lại thầm cám ơn Quỳnh. Điều đó chứng tỏ anh thành thực chứ không có xạo. Nàng nghĩ nếu ba má mình biết điều này chắc sẽ không ngăn cấm nàng giao du với Quỳnh.
- Anh buồn vì không gặp được Hy để nói với em tin vui này. Tuy nhiên vì không có nhiều thời giờ nên anh phải nhờ Hiếu trao thư và sách cho em. Mai mốt anh về mình sẽ nói chuyện nhiều hơn...
Hy gấp lá thư còn hơn một trang chưa đọc bỏ vào túi áo của mình. Nàng muốn để dành đọc sau khi học bài xong. Bây giờ còn phải lo nấu cơm chiều. Xách cái túi vải khá nặng chứa đầy sách báo của Quỳnh đem giấu vào dưới gầm giường của mình, nàng mong gặp lại anh lính thủy để bàn luận với anh về những cuốn tiểu thuyết mà mình đã đọc qua. Nghĩ tới đó nàng háo hức muốn biết anh đã đưa cho mình loại sách gì.
Quỳnh tất tả bước vào căn nhà tiền chế dành làm bộ chỉ huy nhẹ của giang đoàn 24 xung phong. Giơ tay chào trả cái chào kính của Quỳnh, trung úy Bình cười vui vẻ lên tiếng.
- Tôi chỉ có dầu cho anh thôi. Đạn thời phải chờ tuần tới. Tiếp tế của mình bết lắm... Anh nên dặn nhân viên tiết kiệm đạn dược...
- Tôi biết thưa trung úy... Tôi bảo lính đếm từng viên thưa trung úy...
Quỳnh nói gọn một câu. Cầm lấy cái phiếu tiếp liệu anh chào Bình rồi quay ra cửa. Nửa tiếng sau hai chiến đỉnh ngược con nước đi lên thượng nguồn. Ngồi trên mui tàu Quỳnh cầm lấy ống nói.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
Giọng của Quốc rời rạc và mỏi mệt.
- Mày có bao nhiêu dầu?
- Bốn ngàn lít...
- Đạn?
- Đủ xài nếu Vẹm hổng có bắn mình nữa...
Quỳnh nhếch môi cười vì câu nói diễu của thằng bạn thân.
- Mày năn nỉ tụi Vẹm đi... Bảo mấy thằng em của mày nếu bị Vẹm bắn thời đưa lưng ra đỡ chứ đừng có bắn lại...
Quốc cười khặc khặc.
- Mày đưa lưng đỡ trước cho tụi tao bắt chước đi...
Tuấn cười hắc hắc vì câu nói diễu của Quốc. Dứt điện đàm Quỳnh lắc lắc đầu thở dài sườn sượt. Hôm qua anh bảo Kỳ chùi mấy khẩu đại liên thời nó nhăn mặt bảo hết dầu chùi súng rồi. Đạn mỗi khẩu chỉ còn ngàn viên. Với các khẩu súng điều khiển bằng điện này, ngàn viên đạn chỉ chớp mắt là hết nhẵn. Ngay cả các loại súng cá nhân như M16, M79, M60 và lựu đạn cũng dưới cấp số tồn trữ. Thấy Kỳ mặc bộ quân phục cũ rách nhiều nơi anh thắc mắc hỏi thì nó trả lời hơn năm rồi chưa được cấp phát quần áo. Anh im lặng vì biết điều đó. Chính anh cũng vậy. Lính thiếu quần áo mặc nhưng chợ trời thời có đủ thứ. Muốn có quân phục cứ ra đó mà mua. Quỳnh nhớ có một ông tướng nào đó đã nói một câu Một vị tướng mà còn để cho người lính dưới quyền của mình thiếu đôi giày để mang thời ông ta không làm tròn trách nhiệm của mình.... Căn cứ vào câu nói này thời có rất nhiều ông tướng tá của quân lực đã không chu toàn trách nhiệm của mình. Quần áo thiếu thốn mà khi lãnh được thời chẳng đủ vào đâu. Giày mới chính là cái thảm hại nhất vì chỉ mang được ba tháng là bung đế liền. Ra chợ trời mua giày và quần áo còn tốt hơn của quân đội cấp phát.
Nắng tháng 9 chói chang. Không khí ngột ngạt. Chơn, người lính mới vừa được bổ xung sau khi Biên chết chưa được một tháng ló đầu lên nói với Tuấn.
- Mày để tao lái cho...
Tuấn gật đầu rời ghế lái leo lên mui ngồi kế bên thuyền trưởng. Vì tàu chưa vào vùng nguy hiểm do đó không ai mặc áo giáp và đội nón sắt kể cả Quỳnh. Tiếng phi cơ phản lực chiến đấu gầm rú trên cao tiếp theo tiếng bom nổ ì ầm vọng lại từ hướng tây. Quỳnh cười chúm chiếm khi thấy Tuấn hút thuốc lá một cách thành thạo dù chỉ mới hơn một tháng. Học cái tốt khó khăn chứ học thói hư tật xấu thời dễ dàng và nhanh chóng. Nhớ lúc vào quân trường Nha Trang anh không biết hút thuốc và uống rượu mà bây giờ thuốc lá ngày hai ba gói còn uống rượu như tàu uống dầu cặn. Anh nhớ lại thời ở Rạch Giá, theo mấy đứa bạn đi vào tiệm hút thuốc phiện thử cho biết. Anh chỉ đi một lần rồi thôi vì không thích cái không khí lù mù ánh đèn dầu phọng, tiếng dọc tẩu kêu lọc cọc, nhất là sự yên lặng của tiệm hút. Khung cảnh dơ dáy, ẩm mốc và phảng phất cái mùi hăng hắc đó không hấp dẫn được một thanh niên mới lớn như anh. Anh thích uống rượu hơn. Khi cơn say la đà anh để cho tâm hồn của mình vượt qua giới hạn thường tình đi vào thế giới của mộng mơ, tưởng tượng, trong đó có ánh mắt, nụ cười, tà áo màu chuyển động, giọng nói thánh thót, hình thành một xuyến xao dịu nhẹ nhờ âm thanh và ngôn từ của những bản tình ca.
- Quỳnh Hoa đây Biên Hùng...
Quỳnh cầm lấy ống nói.
- Quỳnh Hoa nghe Biên Hùng...
- Anh tới U Minh Hiệp Hòa gặp Ông Địa... Họ cần hai lần tango...
- Tôi nghe Biên Hùng 5/5...
Ngưng nói với trung úy Bình, Quỳnh bốc máy gọi Quốc.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
- Mình tới U Minh Hiệp Hòa để bốc mấy Ông Địa đi hai lần tango... Nghe rõ trả lời...
- 9 nghe 11 rõ...
Chiếc Alpha 9 phun khói trắng dẫn đầu. Quỳnh ra lệnh cho Chơn.
- 1500 đi...
- Hai lần tango là gì hả anh?
Quỳnh giải thích vắn tắt.
- Hai lần tango là tuần tiễu...
- Tôi nghe anh nói năm ô vuông là gì?
Quỳnh cười đốt điếu thuốc. Hít hơi dài, trải tấm bản đồ hành quân ra anh vừa chỉ vừa nói.
- Mày thấy bản đồ có đường ngang và đường dọc...
Chơn nhẹ gật đầu nhìn vào tấm bản đồ chi chít địa danh và những đường ngang dọc.
- Các đường ngang và dọc này làm thành một ô vuông. Tùy theo tỷ lệ của bản đồ, mỗi ô vuông chỉ khoảng cách nhất định như 1, 5 hoặc 10 cây số... Như tấm bản đồ mà mình dùng đây thời khoảng cách là 5 cây số. Bởi vậy khi mình nói đang ở cách U Minh Hiệp Hòa 3 ô vuông có nghĩa là mình cách 15 cây số...
Gật đầu tỏ vẻ hiểu Chơn hỏi tiếp.
- Mình đi đâu hả anh?
- Đi Uyên Hưng...
Biết thế nào Chơn cũng hỏi nên Tuấn xen vào.
- Mày chạy theo thằng 9...
Quỳnh cười nhẹ không nói gì. Có lính mới là Chơn xuống tàu nên Tuấn không còn là lính mới nữa. Là lính cũ cho nên anh cũng nên để cho nó có chút quyền hành.
- Mình chạy theo thằng 9 hả anh?
Chơn hỏi lại và Quỳnh trả lời bằng cái gật đầu.
- Hai thằng bây đứa lái tàu đứa nghe máy còn tao đi hút thuốc...
Nói xong Quỳnh leo xuống đứng nơi ụ súng 50 có Sang đang ngồi nghe nhạc.
- Tao nghe nói vợ mày có thai hả?
Sau khi đốt điếu thuốc Quỳnh lên tiếng hỏi. Vặn nhỏ cường độ âm thanh từ chiếc máy phát thanh Sang cười vui vẻ.
- Có rồi anh... Tôi hy vọng có thằng cu tí... Ba má tôi muốn có cháu nội trai để nối dõi tông đường...
Quỳnh bật cười. Tuy ngồi ở trên cao nhưng Kỳ cũng nghe được nên nói vọng xuống.
- Đường cát hay đường phèn...
Tuấn và Chơn phá ra cười khiến cho Sang xụ mặt.
- Đường gì kệ cha tao... Mắc mớ gì mày chỏ cái miệng vào...
- Tại tao nghe mày nói nối dõi tông đường nên tao thắc mắc...
Sang hừ tiếng nhỏ cười nói với Quỳnh.
- Gia đình tôi có mình tôi là con trai...
Kỳ cười ha hả chọc tiếp.
- Vậy là mày cần có con trai để nối dõi đường chôm chĩa của mày...
Không nhịn được được Quỳnh bật cười nhưng vội ngậm miệng lại khi thấy Sang trợn mắt nhìn mình. Ngoài cái danh Ông Từ, Sang còn được bạn bè ở dưới tàu đặt cho cái tên Sang Xách. Lúc giang đoàn còn ở chung với lính hải quân Mỹ, nó nổi tiếng lì lợm và phớt tỉnh Ăng Lê. Lính Mỹ giàu có nên đồ tiếp liệu để lềnh khênh ngoài trời không cần canh gác. Dò biết chuyện này nên mỗi lần đi ăn sáng về, khi đi ngang qua chỗ chứa đồ tiếp liệu là Sang hai tay xách hai thùng sơn đem về tàu. Không ai dám chôm chĩa kiểu này vì e ngại chuyện đổ bể sẽ bị mất mặt hay quê xệ. Bởi vậy nó mới nổi danh Sang Xách. Sau khi làm ăn một thời gian nó mới tiết lộ cho Quỳnh biết là mỗi thùng sơn như vậy đem về Khánh Hội bán được bốn năm chục ngàn. Nhờ đó mà nó có tiền cất nhà, mua xe Honda cho vợ đi làm.
Tàu chạy ngang qua Rạch Ông Tiếp. Nhìn núi Bửu Long vọt cao lên nền trời xanh lơ Quỳnh nhớ tới Hy. Anh đã hứa đưa cô bé đi núi chơi mà chưa thực hiện được lời hứa của mình. Tháng rồi anh không gặp được cô bé khi từ Sài Gòn trở lại Biên Hòa. Vì đã đi học nên cô bé không còn trông coi tiệm tạp hóa cho má nữa. Muốn đưa sách báo cho Hy anh phải tới nhà của Hiếu và nhờ Hiếu trao lại. Nàng khuyên anh đừng nên tới nhà nữa vì sau lần gặp nhau tại nhà nàng bị ba má rầy la, cấm không cho nàng gặp anh viện lý do nàng còn nhỏ phải lo học hành. Anh buồn nhiều vì chuyện quen biết bị cấm ngăn nhưng càng khó khăn và nhiều trắc trở anh càng muốn gần gụi và nhớ cô bé nhiều hơn.
- Anh có bồ hả?
Đang trầm ngâm suy nghĩ nghe Sang hỏi Quỳnh hơi giật mình. Thấy cử chỉ đó Sang tủm tỉm cười hỏi lại lần nữa. Giọng của nó thấp xuống như không muốn cho ai nghe.
- Anh có bồ hả?
Không trả lời Quỳnh hỏi lại.
- Sao mày biết?
Sang hiểu câu hỏi của Quỳnh như là nhìn nhận.
- Tôi để ý thấy anh có hơi đổi khác. Mọi lần tàu cặp bến là anh cặp kè với anh Quốc đi nhậu li bì. Còn bây giờ anh xé lẻ đi một mình, tất nhiên phải có cái gì lạ xảy ra. Anh thì chỉ mê rượu và con gái thôi...
Quỳnh bật lên cười một cách thích thú. Nhìn Sang anh nói trong tiếng cười.
- Mày mà cũng để ý nữa à...
Sang cười hề hề.
- Anh Quốc kiếm anh hoài hổng thấy nên đoán anh có bồ...
Quỳnh cười cười hít hơi thuốc xong búng tàn thuốc bay xuống sông.
- Tôi để ý thấy anh lôi về hai ba cây thuốc lá một lần...
- Tao mua để dành. Mua ở chợ Biên Hòa rẻ hơn ở các chỗ khác như Uyên Hưng...
Quỳnh chống chế mặc dù biết Sang không tin vào lời nói của mình. Cuối cùng anh nói nhỏ vừa đủ cho thuyền phó của mình nghe.
- Ừ... Tao có bồ...
- Đẹp không?
- Đủ để người ta thương...
Quỳnh cười sau khi trả lời.
- Cô ta làm gì?
- Còn đi học...
- Bao nhiêu tuổi?
Quỳnh nhăn mặt khi bị Sang điều tra.
- 16...
- Trời đất...
Kêu hai tiếng Sang trợn mắt nhìn Quỳnh đăm đăm.
- Anh nói thiệt anh...
- Đang học lớp 10...
- Nhà giàu hay nghèo...
Đốt điếu thuốc, hít hơi dài, nhả khói ra từ từ Quỳnh vặn.
- Mày hỏi chi vậy...
- Coi anh có tính chuyện đào mỏ hông...
Quỳnh cười hắc hắc khi nghe câu nói giễu của Sang. Nước chảy xiết cuộn thành xoáy ngay ở ngã ba. Hai chiếc tàu sắt cắm mũi ngay trước ngôi đồn có cây cột cờ cao. Lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới trong một ngày nắng ráo tháng 11.
CHƯƠNG 8
Đêm thăm thẳm. Mông lung. Yên lặng. Sao mờ mờ trên cao vì bị mây che. Gió bốc lên từ mặt sông mang theo hơi nước gây gai lạnh. Thành phố Biên Hòa sáng mờ mờ về hướng đông bắc. Chiếc Alpha 11 lầm lủi xuôi con nước về ngã ba Rạch Ông Tiếp. Từ 20 giờ cho tới 2 giờ không biết nó đã tuần tiễu bao nhiêu lần khúc sông từ Uyên Hưng tới Rạch Ông Tiếp. Ủ mình trong chiếc áo ấm Quỳnh ngồi co ro trên mui tàu. Bên cạnh anh Chơn im lìm lái tàu. Nếu không có tiếng máy tàu nổ xình xịch chắc hai đứa đều chìm vào giấc ngủ. Mặt sông sáng lấp lánh như có lân tinh hiện ra trong ống kính của chiếc starlight scope. Vì thiếu ánh sáng của trăng sao nên cảnh vật trong bờ hiện ra khi mờ khi tỏ. Hàng cây dọc theo bờ sông nhô lên cao.
- Anh buồn ngủ chưa?
Chơn lên tiếng. Quỳnh nói chậm và nhỏ.
- Chưa... Tao uống cà phê lúc 9 giờ... Chắc phải bốn năm giờ tao mới ngủ được... Mày buồn ngủ cứ kêu thằng Tuấn dậy rồi đi ngủ...
Quỳnh nói như thế vì biết Chơn đã ngồi lái từ lúc 11 giờ cho tới bây giờ.
- Tôi thức với anh... Uống cà phê tôi không ngủ được...
Quỳnh cười lặng lẽ trong bóng đêm. Lại thêm một thằng giống mình. Uống cà phê vào là hai mắt mở trao tráo. Mệt, ngáp dài ngáp vắn, song chui vào giường thời lại lăn lộn, trở trăn cho tới sáng mới thiếp đi. Riết rồi quen lấy đêm làm ngày. Sống trái với trật tự thiên nhiên anh cảm thấy mình già nua, mỏi mệt và đôi khi gây ra những xáo trộn tâm tư rồi tạo thành cơn khủng hoảng ngấm ngầm. Dù cấp bậc thấp và chỉ huy có năm mười nhân viên song trách nhiệm lại nặng nề. Hai chiếc tàu phải ngày đêm tuần tiễu một khúc sông dài nhiều nguy hiểm. Ngoài ra còn phải chở lính địa phương quân đi phục kích đồng thời các cuộc hành quân hổn hợp với bộ binh đã làm anh và nhân viên mệt đừ vì làm việc liên tục lại không được nghỉ ngơi.
- 11 đây 9...
Quỳnh uể oải nhấc lấy ống nói của máy 46 khi nghe giọng nói nhừa nhựa của Quốc vang vang.
- 11 nghe 9...
- Ủa mày còn thức à?
Quốc hỏi với giọng ngạc nhiên. Quỳnh chép miệng. Anh cảm thấy thèm ly cà phê nóng và điếu thuốc lá đầy mùi thơm quyến rũ.
- Còn thức. Mày chưa ngủ?
Quốc cười hì hì.
- Ngủ đếch gì được... Sao không thấy mấy Ông Địa la lối gì hết...
Quỳnh ngáp một cái muốn trẹo quai hàm. Anh chẳng cần đưa tay lên che miệng làm gì bởi ở giữa chốn không người này chẳng ai cần anh phải có cử chỉ lịch sự.
- Chắc mấy ổng kiếm chỗ khò rồi...
Có tiếng cười khằng khặc của Quốc vang lên.
- Mốt về Biên Hòa nghỉ xả hơi tao với mày đi nhậu nghen...
Thấy Quỳnh im lặng nó cười tiếp.
- Tao bao mày...
Quỳnh nói trong tiếng cười vui vẻ.
- Ừ... 33 nghen... Tao ớn đế... Tao hết tiền rồi...
- Mày mới lãnh lương mà sao mông tại vậy...
Liếc nhanh Chơn đang ngồi bên cạnh Quỳnh nói nhỏ. Giọng của anh nửa nghiêm nửa giỡn.
- Đi chơi với bồ...
Quỳnh nghe tiếng thằng bạn thân từng chia cơm xẻ áo và sống chết với mình cười khằng khặc trong máy truyền tin.
- Thiệt hông mậy... Ai mà xâm mình vậy. Tao phải gặp mặt để coi cô gái nào gan cùng mình...
Bật thành tiếng cười Quỳnh khỏa lấp như không muốn nói chuyện tình của mình nữa.
- Thôi dẹp chuyện đó mai mốt nói sau... Tao đi hút thuốc. Mấy giờ mày mới bốc Ông Địa...
- 5 giờ... Tao cũng đi khò một chút...
Đặt trả ống nói về chỗ cũ Quỳnh nói với Chơn.
- Tao đi hút thuốc rồi tao gọi thằng Tuấn thế chỗ cho mày...
Chơn im lặng gật đầu nhìn theo Quỳnh đi ra sau lái. Nhấc bình cà phê thấy còn ấm Quỳnh rót hết vào chiếc ly bằng nhựa. Hớp ngụm nhỏ anh nhăn mặt. Cà phê có mùi khen khét và vị chua chua. Lầm bầm mấy tiếng anh ngồi lùi vào trong hầm máy rồi khom người đốt thuốc. Giơ tay xem đồng hồ anh thấy 4 giờ sáng. Mặt sông tối mờ mờ. Xa xa về hướng Đông Bắc một vừng ánh sáng hắt lên trời cho anh biết đó là thành phố Biên Hòa. Xa hơn nữa về hướng Đông Nam là Sài Gòn. Cả hai đều gần sao anh cảm thấy xa lắc xa lơ. Đôi mắt long lanh và ngây thơ của Hy hiện ra. Mái tóc dài buông lơi trên vai áo học trò trắng. Giọng cười của nàng nghe mơ hồ và hình như bị át bởi tiếng máy tàu nổ rì rầm. Uống cạn ly cà phê và hút hết điếu thuốc xong anh đánh thức Sang và Tuấn thức dậy thế chỗ cho mình và Chơn. Để nguyên quần áo và giầy vớ anh nằm vật xuống chiếc giường của mình.
Đang mơ màng Quỳnh ngồi bật dậy khi nghe tiếng súng nổ. Vừa chui ra cửa anh nghe tiếng của Ánh, thuyền phó chiếc Alpha 9 vang vang trong máy 46.
- 11 đây 9... Nó bắn... Nó bắn trúng tụi này... Nghe rõ không trả lời...
Leo lên mui Quỳnh cầm lấy ống nói.
- 9 đây Quỳnh Hoa...
Linh cảm có chuyện gì quan trọng xảy ra, Quỳnh dùng danh hiệu truyền tin của riêng mình để liên lạc.
- Quỳnh Hoa đây 9... Nó bắn trúng tàu... ngay chỗ anh Quốc ngủ...
Quỳnh lặng người giây lát xong hét vào tai của Tuấn.
- 1700... Rạch Giữa...
Tuấn đẩy mạnh cần ga. Hai máy dầu cặn rú lớn. Chiếc tàu sắt rẽ nước tiến về điểm hẹn với toán lính đi kích của địa phương quân. Súng trên chiếc Alpha 9 nổ rời rạc. Quỳnh nhận ra chỉ có tiếng đại bác 20 ly mà thôi. Đưa ống dòm lên quan sát anh thấy từng tia lửa từ trong bờ xẹt ra giữa sông. Điều này chứng tỏ địch đã dàn trận đánh lớn nhằm mục đích tiêu diệt hai chiếc tàu sắt.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
- Báo cáo tổn thất cho tôi biết...
- 1 chết và hai bị thương... Một máy tàu bất khiển dụng... Anh Quốc chết rồi anh...
Quỳnh nghe giọng nói của Ánh nghèn nghẹn và sũng nước mắt. Khi tàu tới gần hơn anh nhận ra chiếc Alpha 9 đang lềnh bềnh giữa sông. Đạn lửa của khẩu đại bác 20 ly kéo thành dây dài lê thê xói vào hàng cây đen mờ mờ trong bờ. Đại bác 20 là đạn chạm nổ thành ra sức công phá không mạnh mẽ vì vậy hủy diệt mục tiêu không có hiệu quả bằng M79. Vị trí của địch chỉ cách chỗ toán kích của địa phương quân rất gần có lẽ chừng vài trăm thước. Điều này cho anh biết địch khôn ngoan không chận đánh toán đi kích mà dàn trận chờ đánh tàu. May mà chiếc Alpha 9 chưa vào sát bờ nếu không nhân viên trên tàu sẽ bị chết hoặc bị thương nhiều hơn nữa.
Quỳnh gọi lớn. Giọng của anh nghiêm như ra lệnh
- Kỳ...
- Dạ anh gọi tôi...
- Rót M79 vào bờ...
Hiểu ý của Quỳnh, Kỳ nhanh nhẹn rời ụ súng đại bác 20 ly để ra sau lái điều khiển khẩu M79 tự động trong lúc Thành thế chỗ cho Kỳ.
- 9 đây 11...
- 9 nghe 11...
- Ngưng bắn đi. Để tôi bắn hủy diệu mục tiêu...
- 9 nghe 11...
Đợi cho chiếc Alpha 9 dứt tiếng súng Quỳnh nói với Tuấn.
- Để tao lái, mày ra sau phụ tiếp đạn cho thằng Kỳ...
Ngồi vào ghế lái Quỳnh đẩy mạnh cần ga. Chiếc Alpha 11 vọt chênh chếch vào trong bờ. Ụ súng đại liên 12 ly 7 của Sang, khẩu đại bác 20 ly trên mui và khẩu đại liên 50 đằng sau lái do Chơn xử dụng bắt đầu khai hỏa nhằm kềm cứng địch quân không cho ngóc đầu lên để bắn tàu. Khi chiến đỉnh còn cách bờ chừng ba chục thước, khẩu M79 tự động của Kỳ bắt đầu rót vào mục tiêu. Những tiếng bụp bụp nổ đều đặn rồi vài giây đồng hồ sau tiếng lựu đạn nổ ì ầm, liên miên bất tận. Ánh lửa lóe lên sáng rực trong đêm tối sắp tàn. Khoảnh đất nhỏ hẹp dọc theo bờ sông như bị nóng, bị nung chảy bởi hàng ngàn viên đạn đủ loại. Một tay lái tàu, một tay cầm ống dòm quan sát, Quỳnh thấy lửa nháng sáng rực trong hàng cây đen mờ. Địch quân không bắn trả lại phát súng nào trước hỏa lực mạnh mẽ của chiếc Alpha 11. Lát sau tiếng M79 thưa dần rồi ngưng hẳn. Mấy ụ súng khác cũng thôi tác xạ. Hai chiến đỉnh cặp vào nhau. Ứa nước mắt Quỳnh ngồi nhìn thi thể của thằng bạn thân. Quốc nằm im trên chiếc giường bố. Nét mặt thật bình thản. Hai mắt nhắm lại như ngủ. Không có thương tích gì ngoài lỗ sâu hun hút nơi ngực trái. Máu đỏ phụt ra ướt đẫm áo. Anh thở dài nhè nhẹ. Nó đã đi trước anh một bước để trở về với gia đình nơi căn nhà nhỏ trong vùng đất của thành phố Nha Trang có cái tên Rọc Rau Muống. Đưa tay vuốt mắt thằng bạn thân anh lẩm bẩm.
- Mày nói bao tao chầu 33 mà sao mày lại thất hứa...
Hộ tống chiếc Alpha 9 tới căn cứ Long Bình xong Quỳnh ra lịnh cho Tuấn lái tàu trở về Biên Hòa. Khi tới ngay ngã ba Tân Vạn, không biết nghĩ sao anh bảo Tuấn rẽ bên phải thay vì đi thẳng. Tuy hơi ngạc nhiên và thắc mắc song Tuấn vẫn làm theo lệnh. Hiểu ý người lính dưới quyền Quỳnh cười nhẹ giải thích.
- Mình đánh một vòng thăm dân cho biết sự tình...
Cười hắc hắc Tuấn hỏi.
- Có phải Cù Lao Phố không anh?
Quỳnh gật đầu. Nắng tháng chạp vàng ươm. Anh nhớ lúc còn đi học ông thầy sử địa đã dạy là miền Nam có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 cho tới cuối tháng 10. Mùa mưa nóng và ẩm ướt. Mùa khô và mát từ tháng 11 cho tới cuối tháng 4. Tuy nhiên ông thầy còn nói thêm là từ tháng 12 cho tới tháng 2 là tháng khô và mát mẻ nhất. Theo ông ta thời đây là một mùa khác của khí hậu miền Nam. Sau này khi rời khỏi ghế nhà trường, đi đây đi đó cộng thêm kinh nghiệm, anh mới nhận biết lời giải thích của ông thầy sử địa rất đúng. Ở Cà Mau khí hậu khác biệt khá nhiều với Tây Ninh, Biên Hòa. Mùa mưa ở đây tới chậm hơn và lại ngắn hơn ở Cà Mau. Mùa khô và mát vì vậy lại dài hơn. Đó là lý do anh thích nhất vì nhằm vào dịp Tết. Dường như anh ngửi được mùi bông hoa cây cỏ từ hai bên bờ sông lan tỏa theo mặt nước và cơn gió đẩy đưa. Mặt sông sáng lấp lánh. Sóng gợn lăn tăn. Khúc sông này người ta gọi là sông Cái, nhỏ hơn sông Đồng Nai, bề ngang chỉ hơn năm mươi thước, nước trong xanh và chảy chậm. Dọc theo bờ sông phía bên cù lao Phố có nhiều con rạch, mương một phần tự nhiên và một phần nhân tạo. Các con rạch và mương lớn này dẫn nước vào tận trong các vùng xa phía trong.
Ngồi trên mui hút thuốc Quỳnh trầm ngâm mơ mộng. Anh không muốn nói cho Tuấn biết lý do lái tàu chạy vòng quanh cù lao. Anh hy vọng và ước mong thầm kín là khi tàu chạy qua cầu Gành sẽ thấy được Hy đạp xe trở về nhà sau buổi tan trường. Tuy đó chỉ là ước muốn viễn vông nhưng chỉ có cách đó anh mới thấy được cô bé. Nhìn đồng hồ đeo tay chỉ 11 giờ Quỳnh hỏi.
- Mình chạy bao nhiêu?
Tuấn liếc nhanh đồng hồ chỉ tốc độ rồi trả lời 1300. Quỳnh nói nhỏ.
- 1600 đi không thôi trễ giờ...
Tăng vận tốc lên 1600 Tuấn nghĩ thầm trong trí: Anh này dị... Hồi nãy anh nói chạy chầm chậm để ngắm cảnh mà bây giờ lại bảo mình chạy lẹ... Kỳ vậy...
- Trễ giờ gì vậy anh... Mình đâu có gấp...
Quỳnh làm thinh như không nghe câu hỏi của nhân viên. Dù xuống tàu chưa đầy năm song Tuấn cũng biết cái tật của cấp chỉ huy. Nếu có ai hỏi mà Quỳnh không muốn trả lời thời anh làm lơ, làm như không nghe câu hỏi đó. Thoạt đầu Tuấn cũng bực mình nhưng riết rồi cũng phải chấp nhận cái cố tật đó của cấp chỉ huy. Đôi khi nó tìm cách trả đũa lại như khi Quỳnh hỏi và nó làm lơ vờ như không nghe câu hỏi.
Nhìn hai bên bờ sông thấy nhà cửa san sát Quỳnh biết sắp tới gần điểm hẹn. Xa xa bóng cây cầu cao bốn nhịp bằng sắt hiện ra. Anh cảm thấy hồi hộp và xao xuyến khi tưởng tượng ra hình ảnh Hy dừng xe trên cầu nhìn xuống chiếc tàu của mình. Bóng dáng cô học trò nhỏ bé, gầy gò và lẻ loi. Tà áo dài trắng và mái tóc huyền bay bay. Trong tiếng gió thổi anh mơ hồ nghe được giọng nói dịu êm của cô bé thì thầm gọi tên mình. Tàu giảm dần tốc độ khi tới gần cầu. Không có bóng cô bé trên cầu trừ mấy chiếc xe gắn máy. Quỳnh buồn rũ người ra vì thất vọng. Chiếc tàu lầm lủi chạy qua cây cầu bốn nhịp đứng bơ vơ trong ánh nắng buổi trưa.
Chiếc Alpha 11 lềnh bềnh trên sông Đồng Nai khoảng gần ngã ba sông Rạng Đông. Thiếu mất bạn là chiếc Alpha 9 nó cũng đâm ra mỏi mệt và lẻ loi. 13 giờ. Mặt trời trễ tràng buông những tia nắng xuống mặt sông xanh ngày càng hẹp lại. Quỳnh ngồi cú rủ trên mui tàu. Trên đùi anh là quyển 2 của bộ Lục Mạch Thần Kiếm. Gió nhẹ thổi khói thuốc bay lãng đãng. Bên cạnh anh Chơn ngồi trên ghế lái đang im lặng đọc quyển 1 của bộ truyện. Ở trên tàu hàng tuần lễ nhân viên chỉ có hai cách giải trí là đọc sách báo hoặc nghe tin tức, nhạc và nghe đọc truyện từ hai đài phát thanh Sài Gòn và đài quân đội.
- Quỳnh Hoa đây Biên Hùng...
Mắt không rời quyển truyện, tay Quỳnh mò tìm ống nói.
- Quỳnh Hoa nghe Biên Hùng...
Giọng nói của trung úy Bình vang lên mà Quỳnh nhận ra chút vui vẻ và tếu.
- Cho biết tọa độ của Quỳnh Hoa?
- Trình Biên Hùng tôi đang ở cách U Minh Hiệp Hòa 5 ô vuông...
- Quỳnh Hoa biết hôm nay hăm mấy?
Quỳnh cau mày vì câu hỏi. Chưa kịp trả lời anh nghe Chơn nói nhỏ.
- Hăm ba...
Mỉm cười thích thú Quỳnh reo lớn.
- Lương hả Biên Hùng...
Tiếng của trung úy Bình cười vang vang trong máy 46.
- Anh về U Minh Hiệp Hòa đi... Tôi sẽ cho một con cá đem lên cho anh...
- Tôi nghe Biên Hùng 5/5...
Nghe được cuộc điện đàm nên không cần thuyền trưởng ra lệnh Chơn đã quay mũi tàu chạy về Uyên Hưng. 16 giờ. Chiếc Alpha 11 cặp kế bên chiếc tàu của giang đoàn 24 để lãnh lương và thư từ của gia đình. Quỳnh có vẻ buồn buồn khi năm nhân viên trên tàu đều có thư mà mình lại không có ai gởi. Như để che giấu cảm xúc anh ra lệnh cho Chơn lái tàu trở lại vùng công tác.
23 giờ. Quỳnh ngồi bất động trên mui tàu. Cảnh vật thê lương và vắng lặng. Không khí gai gai lạnh. Trăng mùng mười mênh mông buông những tia sáng bàng bạc xuống mặt sông rộng, đổ trên tóc và trên vai áo giáp. Quay qua Chơn đang ngồi lái tàu anh hỏi.
- Chừng nào Tết mày biết không?
Chơn nhẹ lắc đầu.
- Tôi không biết chắc...
Hướng về chỗ Sang đang ngồi nơi ụ súng trước mũi tàu Quỳnh hỏi lớn.
- Ê Sang. Chừng nào mới Tết?
- Anh để tôi tính coi ngày nào...
Lẩm nhẩm tính giây lát Sang mới từ từ trả lời.
- Bây giờ là mồng mười tháng chạp âm lịch. Như vậy còn 20 ngày nữa mới tới Tết. Anh định làm gì?
Trầm ngâm giây lát Quỳnh mới trả lời.
- Tao xin với trung úy Bình cho tàu của mình về Biên Hòa nghỉ hai ngày mồng 1 và mồng 2 Tết...
Vừa bước ra trước mũi Thành góp chuyện.
- Có lý nghen anh... Ba năm rồi tôi không được ăn Tết ở nhà...
Quỳnh gật đầu cười lặng lẽ trong đêm trăng.
- Tao chỉ nói vậy thôi còn được chấp thuận hay không là chuyện khác. Tết là thời gian hưu chiến nên tao hy vọng ông Bình sẽ cho mình nghỉ xả hơi...
29 Tết. 19giờ. Tuy bây giờ không còn là mùa nước đổ nữa nhưng vì lên gần tới thượng nguồn nên nước chảy một chiều. Nước của hồ Trị An, sông Bé, sông Vũng Gấm và sông Rạng Đông cộng thêm nước của ngàn con rạch lớn nhỏ biến dòng sông Đồng Nai có sức nước chảy mạnh không kém gì sông Tiền hay sông Hậu. Muốn được trung úy Bình chấp thuận cho nghỉ hai ngày mồng 1 và 2 để ăn Tết, Quỳnh và nhân viên phải làm việc ròng rả ba tuần lễ. Tuần tiễu ngày cũng như đêm, hành quân hổn hợp với bộ binh và địa phương quẩn để giải tỏa áp lực của địch đang đè nặng lên những vùng bao quanh thành phố và phi trường Biên Hòa.

Chiếc Alpha 11 lừđừ chạy ngược dòng nước lên ngã ba sông Rạng Đông. Trời thật xanh. Nắng vàng óng ánh. Quỳnh nghe được trong cơn gió thoang thoảng mùi gì thật mơ hồ như là mùi lá chuối mà người ta gói bánh tét, bánh chưng hòa lẫn với mùi mứt gừng, mứt bí. Dù không nói ra anh cũng biết năm nhân viên dưới quyền của mình đang âm thầm chờ nghe giọng nói của Biên Hùng vang lên trong máy 46. Chiếc máy phát thanh của Sang văng vẳng điệu nhạc xuân mà anh nhận ra bản Đồn Vắng Chiều Xuân với tiếng hát của Nhật Trường trong đó có câu Ðầu xuân năm đó anh ra đi. Mùa xuân này đến anh chưa về. Những hôm vừa xong phiên gác chiều. Ven rừng kín hoa mai vàng. Chợt nhớ tới sắc áo năm nào em đến thăm gác nhỏ. Mùa hoa năm đó ta chung đôi. Mùa hoa này nữa xa nhau rồi. Nhớ đêm hành quân thân ướt mềm. Băng giòng sông loang trăng đầy. Lòng muốn vớt ánh trăng thề viết tên em. Đồn anh đóng ven rừng mai. Nếu mai không nở anh đâu biết xuân về hay chưa. Chờ em một cánh thư xuân, nhớ thương gom đầy. Cho chiến sĩ vui miền xa xôi....
Bật chiếc zippo đốt thuốc Quỳnh hít hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Đưa gói thuốc Capstan xẹp lép và nhăn nhúm lên ngắm nghía anh nhớ tới Hy. Đôi mắt long lanh. Nụ cười e ấp. Mái tóc dài thả buông.
- Quỳnh Hoa... Quỳnh Hoa đây Biên Hùng...
Quỳnh chụp nhanh lấy ống nói đang ở bên cạnh mình.
- Quỳnh Hoa nghe Biên Hùng...
- Cho tôi biết tọa độ của anh đi?
- Trình Biên Hùng... Tôi đang ở cách U Minh Hiệp Hòa chừng hai ô vuông...
Giọng nói của trung úy Bình vang lên vui vẻ và thân thiện.
- Anh đem con cái anh về gặp tôi đi... Nghe rõ trả lời...
- Quỳnh Hoa nghe Biên Hùng 5/5...
Quỳnh chưa kịp bỏ ống nói xuống Tuấn đã tự động quay mũi tàu. Chiếc Alpha 11 xuôi theo con nước chạy phăng phăng về thành phố.
19/2/2016
Chu Sa Lan
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...