Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Bây ráng học để làm người nhân nghĩa

Bây ráng học để
làm người nhân nghĩa

Nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên là hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Tên khai sinh Nguyễn Việt Trung, sinh ngày 12.02.1959, quê quán Ô Môn, Cần Thơ hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố Cần Thơ.
Tác phẩm của Nguyễn Trung Nguyên đã xuất bản: Lời khẩn cầu của đất – Bút ký – NXB Văn Nghệ 2008, Chút lãng mạn đồng bằng – Tập thơ – NXB Hội Nhà văn 2015, Thơ tình Nguyễn Trung Nguyên – Tập thơ – NXB Hội Nhà văn 2016, Cuộc hành trình kỳ lạ – Văn xuôi – NXB Hội Nhà văn 2017, Thơ trên tường facebook – Tập thơ – NXB Hội Nhà văn 2018.
Ông đã được nhận các giải thưởng văn học: Giải III và giải KK cuộc thi viết về đề tài Tệ nạn xã hội do Sở Công An tỉnh Cần Thơ phát động năm 2002, Giải KK cuộc thi Bút ký & Truyện ngắn tỉnh Cần Thơ năm 2002, Giải III cuộc thi Thơ Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ II năm 2003, Giải II cuộc thi Thơ tỉnh Cần Thơ năm 2004, Giải II (không có giải I) cuộc thi Truyện ngắn viết về ngành Thuế Cần Thơ năm 2004, Giải II cuộc thi Bút ký văn học TP. Cần Thơ 2006, Giải KK cuộc thi “Viết về mái ấm gia đình” do Tạp chí Truyền hình Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức năm 2007, Giải II cuộc thi Thơ Bộ VHTT đề tài xã hội năm 2008, Giải III cuộc thi Thơ ĐBSCL 2009, Giải I cuộc thi Thơ tỉnh An Giang 2010, Giải IV cuộc thi Ký sự “40 năm những dấu ấn không thể nào quên” do báo Sài Gòn giải phóng tổ chức 2015 và một số giải thưởng khác.
NGHE ÚT TRÀ ÔN CA "TÌNH ANH BÁN CHIẾU"
Chiều châu thổ khề khà ly rượu đế
Tréo ngoảy đùi nghe Út Trà Ôn
Giọng kể lể “Tình anh bán chiếu”
Nỗi đắng cay của kiếp thương hồ
Mùi biết bao nhiêu chổ dứt câu xề
Ngày xuôi ngược đêm thức cùng sông nước
Đôi chiếu bông dệt cho người năm trước
Trở lại đây em đã theo chồng
Ngã nào đâu em vội vã xuôi dòng?
Sông bảy ngã ông cách chi tìm được!
Đôi chiếu ấy hãy tặng tôi một chiếc
Đêm gối đầu chắc sẽ nằm mơ
Ông đừng trách chi chuyện người ấy làm ngơ
Không biết ông nâng niu từng cọng lác
Thời bây giờ người ta nằm nệm mút
Công của ông là công cốc rõ ràng!
Tôi với ông đều là kiếp dã tràng
Cố xe cát xây lâu đài ảo mộng
Người tôi yêu chê tay tôi lọng cọng
Dệt chẳng nên thân chiếc chiếu sang giàu
Ông mất nàng mà chẳng biết nàng đâu
Tôi biết rõ mà cuối cùng vẫn mất
Vậy ông với tôi ai là người hạnh phúc!?
VỀ NHÀ XƯA UỐNG RƯỢU
* Tặng Anh Hai Lúa nhà tôi!
Tưởng chừng như lâu lắm
Mới gặp lại anh mình
Mời nhau chung rượu nhạt
Sẻ chia một chút tình
Anh một đời lận đận
Vợ quê đàn con thơ
Chữ nghĩa xưa trôi cả
Theo con nước tràn bờ
Có dăm con cá bự
Đem về biếu cha già
Cọc cạch xe đạp cũ
Nắng cháy đường xa xa
Ta mòn tay thơ phú
Nắng không tới lưng trần
Về thăm cha tay trắng
Nhìn anh mà rưng rưng
Vẫn cái cười hào sảng
Anh khen thơ em mình
Nhà ta nhờ có chú
Con cháu phần hiển vinh
Tay nâng chung rượu nhạt
Nghe đắng cả tim mình
Anh biết đâu thơ phú
Chợ đời giờ rẻ khinh
Bao năm hao giấy mực
Vợ con vẫn nhọc nhằn
Thơ nào nói hết được
Cái nghĩa tình trăm năm
Chiều nay ngồi uống rượu
Mái nhà xưa năm nào
Anh em đường phiêu bạt
Hội ngộ nào biết đâu
Tiễn anh về nơi ấy
Ta nhìn theo ngậm ngùi
Chiều ngã vàng trang giấy
Bóng một mình ta trôi.
TRỜI MƯA Ở HUẾ!
Gởi nhà thơ Võ Quê 
Trời mưa ở Huế ra sao nhỉ!
Có kéo dài luôn… đến mấy ngày?
Bằng hữu có đun bầu rượu nóng
Đốt hương cùng mưa gió thi gan
Trời mưa ở Huế buồn sao nhỉ!
Có như chàng bán chiếu mất tình?
Hay giọt rớt đêm tàn điện ngọc
Đất rồng nước mắt cũng lung linh
Trời mưa ở Huế thơ sao nhỉ!
Hai vạt sông Hương đã ướt mềm
Áo em trắng mờ trời mưa trắng
Da ngà trong trắng đến đau tim
Trời mưa ở Huế hay sao nhỉ!
Có giúp người đi bớt nhớ nhà
Cởi khăn choàng tắm làm dải lụa
Gởi hồn ta đến với quê xa
Trời mưa ở Huế. Ừ! Mưa Huế
Răng… chừ… tình cứ trải mênh mang                                                    
* Chữ nghiêng: Ý thơ Nguyễn Bính
NÓI VỚI CHÚ CHIM CÔ ĐƠN
Buổi trưa chim hót trên đầu nắng
Gió đuổi mây bay kéo hạ về
Chim kêu ý bảo chừng ta nghỉ
Vui gì sáng tối cứ còng lưng
Chim ạ! đành rằng tay cầm bút
Nay thử cầm leng vẫn thẳng hàng
Xong chuyện áo cơm ta sẽ nhớ
Trồng một luống hồng mi ghé sang
Ta sẽ trồng lại cả thời tuổi trẻ
Đã lỡ tay hoang phí dọc đường
Nếu được mi cứ về làm bạn
Cận kề ríu rít chuyện yêu đương
Buổi trưa chim hót nghe là lạ
Sao chẳng sóng đôi chỉ một mình
Chả lẽ mi cũng buồn mất bạn?!
Một mình một bóng nắng rung rinh
Mi làm ta nhớ thời trai tráng
Vụng trộm làm thơ bỏ hộc bàn
Thiên hạ có xem không chẳng biết
Đến giờ sực nhớ chợt bâng khuâng
Thôi nhé! có buồn mi cứ hót
Ta phải đào xong hết luống nầy
Mai cây ra quả, hồng xanh lá
Chắc hẳn tiếng cười sẽ vút bay.
VÙNG SÂU QUÊ TÔI
Quê tôi – bạn bè gọi “vùng sâu”
Độ mặn của nước – tính bằng lớp lớp váng phèn
bám vào da cha, da mẹ
Tóc ông nội bạc – lẫn cả màu vàng của nắng
Lưng bà còng – cong như con ốc lác mùa khô
Ngày cha sinh – ông nấu nước chụm rơm
Bà đẻ rớt trên đồng mùa giáp hạt
Bông súng, cù nèo cũng qua ngày đói rét
Hạt gạo dầu hơi – nửa trắng nửa vàng không đủ mà ăn
Ông hay tự trào: “Tao dốt đặc cán mai!
Bây ráng học để làm người nhân nghĩa”
Vậy mà Lục Vân Tiên – không hiểu sao ông chẳng quên một chữ
Cái nghĩa “bất bằng…” bám vào ông như rễ đước, rễ còng
Chúng tôi lớn lên nghe quen vần trắc, vần bằng
Đã thuộc tự bao giờ câu thơ lục bát
Mẹ bảo chúng tôi nhớ câu: “Nhân sinh tự cổ…”
Cha dạy chúng tôi: “Cái cò lặn lội bờ sông…”
Vùng sâu quê tôi – hạt lúa lớn lên cũng chẳng dễ dàng
Mùa khô nứt nẻ – lũ cuối nguồn đầy mãi
Thế kỷ mới – vẫn còn chuyện lo cứu đói
Chỉ có chữ tình – mái lá nào cũng thật dư thừa
Tôi đi học xa – Thím Bảy chèo xuồng tiễn đưa
Bác Năm dúi vào bọc đòn bánh tét
“Ráng học nghe con! Thành tài về giúp quê – giúp nước
Câu dặn dò chung của cả xóm nghèo
Thành thị xa cứ nhớ mãi vùng sâu
Đêm thắc thỏm tiếng ễnh ương: “Quềnh quệch…”
Mẹ lên thăm kể: “Quê mình có điện…”
Tôi nghe mà nước mắt rưng rưng.
ĐIỂM DANH ĐỒNG ĐỘI
Năm hàng dọc – những mộ bia đứng thẳng
Một hàng ngang – kia lau trắng cuối trời
Ba mươi năm! Nay điểm danh lần nữa
Những đứa – những thằng biền biệt xa quê!
Đâu hết rồi! Đời lính trẻ ngông nghênh
Ba lô cóc ôm cả hồn danh tướng
Da ngựa bọc thây – “nhân gian bất kiến…”
Tao nhớ tụi mầy như nhớ giai nhân!
Mãi mùa xanh – mãi hai mươi tuổi Trường Sơn
Thằng Hiển – Cần Thơ, thằng Hùng – Kinh Bắc
Cung đường ngày xưa bom rơi trụi lá
Bồi đắp máu xương nay đã xanh màu
Tao trở lại đây màu trắng trên đầu
Men rượu trắng mỗi năm mẹ khóc
Những đứa con gái trắng trinh như ngọc
Thiếu phụ buồn! Trắng song cửa chiều hôm
Đâu hết rồi! Những “mi – tớ – chi – mô”
Khi cất giọng cả ba miền góp mặt
Về đây uống cùng tao chung rượu nhạt!
Như ngày xưa chia sớt miếng rau rừng
Chiều Trường Sơn lộng gió đại ngàn
Hồn lính trẻ – đồng đội già khóc bạn
Thằng mất tuổi tên – đứa không còn xác!
Đất nước nầy hạt bụi hóa linh thiêng
Hàng dọc – hàng ngang, đồng đội điểm danh
Những nấm mồ xếp hàng ra trận
Nén nhang trắng khóc tụi mầy lần cuối
Mai gặp nhau rồi… cùng thét xung phong!
ĐIỀU MUỐN NÓI VỚI CON
Quê mẹ – quê cha chẳng có núi cao
Cũng chẳng có bạc đầu sóng vỗ
Đất đồng bằng mỗi năm một mùa bão lũ
Ông bà thắc thỏm lo âu
Con bây giờ sống ở phố xa
Ba tuổi đã quen đèn đường xanh đỏ
Mỗi dịp về quê là một lần ghẻ lở!
Nước phù sa lạ trẻ thị thành
Con đâu tưởng tượng được rằng
Ông bà xưa lượm mù u thắp đuốc
Lụa mo cau – sâu kèn vấn thuốc
Nuôi cha khôn lớn thành người
Cha cũng đã ăn cả đời
Hạt gạo ẩm – thiếu no ngày thất bát
Mò con cá, con cua khi giáp hạt
Bông súng, cù nèo độn cháo thay cơm
Cha mẹ sinh ra trai ruộng – gái đồng
Con sinh ra lại xa đồng – xa ruộng
Quãng đường cách xa thật ra chẳng mấy
Vậy mà biết bao lâu chưa về
Khi con lớn lên mọi chuyện khác rồi
Mẹ cha khổ để đời con sung sướng
Nhưng con ơi! Quê mình lận đận
Mong con đừng bao giờ quên.
6/1/2023
Nguyễn Trung Nguyên
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tâm sự của cây Chổi Tôi sinh ra trong thời đại tân tiến; cho nên, hình dáng, thể lực và khả năng của tôi vượt trội cha mẹ, cô bác, và ...