Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Bình minh phía trước00000

Bình minh phía trước

Nhà văn Nguyễn Trọng Luân sinh năm 1952, quê quán ở Đan Hà, Hạ Hòa, Phú Thọ. Ông đã xuất bản 15 đầu sách, trong đó có 4 tập thơ, 2 tiểu thuyết, 4 tập truyện ký, 2 tập truyện ngắn, 3 tập tản văn và được trao Giải thưởng Cuộc thi Bút ký năm 2002-2003 của Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Giải nhì Cuộc thi Truyện ngắn và ký năm 2012 của Tạp chí Cửa Việt, 3 lần được Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tặng thưởng cho tác phẩm xuất sắc của năm.
Nhà văn Nguyễn Trọng Luân
Vào năm 1972, Nguyễn Trọng Luân đang học năm thứ 3 Khoa Cơ khí, Đại học Cơ điện Thái Nguyên thì nhận lệnh động viên. Sau chiến tranh Nguyễn Trọng Luân về trường cũ hoàn thành chương trình đại học. Những năm quân ngũ, ông chiến đầu trong đội hình sư 320 ở mặt trận Tây Nguyên, giữ chức vụ tiểu đội trưởng trinh sát, một vị trị mà trọng trách đòi hỏi phẩm chất của người chỉ huy cũng như sự thành thục nghiệp vụ điều-nghiên của lính trơn; bởi liên quan trực tiếp đến xương máu đồng đội và thành bại mỗi trận đánh của đơn vị.
Trong chiến cuộc đã tàn, có hàng ngàn hàng vạn người tiểu đội trưởng trinh sát, kí ức xương máu giờ đây đôi khi là cơn mê sảng hoặc vụt lộ rời vụn trong mỗi cuộc gặp cựu binh; Nhưng với Nguyễn Trọng Luân thì khác, phận số ông đã lĩnh nhiệm phải trở thành nhà văn để kể lại nghiệm sinh của thế hệ sinh viên Bắc Việt vào trận. Một biểu tượng tuyệt sinh đối cho Tổ quốc tồn sinh.
Đó là lý do tại sao tác phẩm của Nguyễn Trọng Luân đều chuyên biệt về chiến tranh. Ông tường trình một thứ văn xuôi, không quá cầu kỳ, nhưng đủ tinh tế,  giàu cảm xúc, ám, gợi, từ những chi tiết xác thực mà chỉ người trong cuộc mới thấm trải, gieo vào lòng người đọc những ngẫm suy buồn nhiều hơn vui. Một giá trị buồn, khiến người ta trở nên sâu sắc, thức tỉnh hơn với hiện tại. Ấy là những tác phẩm của Nguyễn Trọng Luân. Vanvn.vn trân trọng xin dẫn trích giới thiệu tiểu thuyết “Bình minh phía trước” của nhà văn Nguyễn Trọng Luân do NXB Quân Đội Nhân Dân ấn hành tháng 8.2023.
 
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 3
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 2
 
Chương 12
 
Tháng 9 Mưa liên miên cứ như mưa rào tháng 7 âm lịch ngoài Bắc. Lá cây dính vào nhau không thể gỡ được ra. Dưới đất những thảm lá khô bấy lên ẩm mục, hôi xì. Những con kì nhông ôm thân cây chớp chớp mắt rình những con mối con kiến đang vội vã bò đi trú nước mưa. Mùa mưa, rừng Tây Nguyên luôn có một thứ mùi hôi hôi như quần áo lâu không giặt.
Những lớp lá khô gặp mưa lâu ngày mục dần trở thành thứ thức ăn cho hàng triệu con mối con giun và lũ tê tê lò dò đi bắt mối. Thi thoảng có ngày tạnh mưa chợt nắng lên là cả cánh rừng bốc hơi như khói. Những vạt đồi mùa khô đầy hoa dã quỳ hoa trinh nữ nay bốc lên cái mùi khai khai dai dẳng. Ở những rãnh phân thủy vẫn có những loại cây trông như cây riềng le lói hoa đỏ. Những bông hoa như cái nắm tay trẻ con mới đẻ. Mỡ màng yếu ớt. Càng mưa cái màu đỏ của loại hoa rriềng rừng này càng ánh lên nhóng nhánh. Ở kiềng c7 hầm nào cũng đầy nước và những con giun chết trương phềnh tái nhợt. Những cái hố đào xuống ở một góc hầm để làm chỗ tích nước mưa đầy ứ. Lính múc nước ở cái hố ấy đổ ra không kịp. Những cái sạp nứa trải trong hầm lem nhem bùn. Thằng Nhớn và thằng Hoan hì hụi tát nước bằng hai cái mũ sắt lính ngụy. Trung đội trưởng Phiến ngó vào hầm dặn dò. Mưa thế càng phải tăng cường cảnh giới đấy nhá. Bọn lính thám báo hay lợi dụng trời mưa mà xâm nhập vào chốt của mình rồi chỉ điểm cho pháo bắn. Nhớn nói cụt lủn. Rõ.
Trời càng mưa phía ta thì càng hay đi cải thiện. Đi cải thiện rất hay mò vào sát các ấp các bản. Ở đấy dễ gặp nhiều thứ rau hay quả hoặc măng tre. Những năm 1972 , 1973 mặt trận không vận chuyển được lương thực vào khiến quân ta đói. Lại có những đận xe chở lương thực từ tây nam về cao nguyên không có gạo mà toàn là đậu xanh. Chịu không thể hiểu đậu xanh ở đâu ra mà nhiều thế. Lính ta cứ đổ cho bọn lái xe vận chuyển nhầm. Lúc đầu ăn đậu xanh thấy ngon thế. Đã vài ba năm nay từ ngày rời quê hương miền Bắc đã ai được ăn canh đậu xanh, đã ai được ăn rá đỗ. Nay thì không có gạo cả tiểu đoàn cứ hết đồ xôi rồi lại nấu cháo đậu. Các tiểu đội ngâm rá đỗ rồi hì hụi ăn rá muối chua, canh rá, rá sào. Không có cơm ăn toàn đậu xanh hàng tuần liền bụng sôi rào rào. Thằng Hoan chả biết nghe ai mà nó bảo với thằng Nhớn, đấy nhá mày ăn rá đỗ nhiều quá quần mày ướt hết cả kia kìa. Thằng Nhớn cãi. Tao vừa bị té nước mưa vào đấy chứ. Cả hầm cười phá lên rồi hỏi thằng Hoan. Sao mày biết ăn rá đỗ nhiều thì ướt quần. Thằng Hoan cười he he. Mày hỏi tao thì tao biết hỏi ai? Nhưng tao nghe nói đậu xanh bổ lắm đấy nó tốt cho cái đường sinh lí sinh sản nghe chửa. Chúng nó trầm ngâm. Vậy mà chết thì phí đậu xanh quá. Nói rồi cả bọn cười hinh hích.
Mưa ra rả. Phiến lo lắng nhìn ra ngoài trời. Phía Thanh An có tiếng nổ đề pa ùng ùng. Tiếng đạn pháo réo eo éo qua đầu. Trái phá nổ rõ là xa thế mà lá cây cũng rung lên, nước mưa rơi rào rào. Đại trưởng chùm cái áo mưa rách ngắn đến ngang lưng cái mũ tai bèo nước rỏ từng dòng xuống cổ. Phiến ơi! Thằng Đấu đi cải thiện về chưa? Phiến chột dạ Chưa đại trưởng ạ. Đại đội trưởng chạy ngược trở ra. Phiến vội xách súng chạy theo. Trên hầm c bộ đang có cả ba b trưởng mặt mũi lo lắng. Chính trị viên phổ biến vội. Do mưa liên tục nên con suối ngăn kiềng tiểu đoàn với đường đi ra kiềng tăng gia lũ rất to. Theo bộ đội địa phương phổ biến những trận lũ ống đã từng diễn ra ở vùng này vào những năm 1969 , 1970 rất khủng khiếp. Điện thoại từ kiềng tăng gia báo về tiểu đoàn là có hai chiến sĩ gùi hai gùi rau sắn đã về từ trưa. Đại đội trưởng nói tiếp. Như vậy rất có thể hai đồng chí của đại đội ta mắc kẹt ở cơn lũ này. Cầu mong cho họ biết trèo lên cây cao hay không đi vào dòng lũ ống.
Trở về trung đội Phiến gọi Nhớn đi cùng mình. Đêm xuống rồi. Rừng trơn đất cứ bết lên dép. Mò mẫm mãi người mệt nhoài mới ra đến con suối kiềng tăng gia. Con suối lũ dữ thế mà nay đã cạn như thường. Những thân gỗ mục rác rưởi ràn rạt hai bờ suối có những chỗ dồn ứ lại. Đêm như đen quánh lại. Hai anh em mò mẫm dọc con suối. Thỉnh thoảng dừng lại, ngồi xuống rồi khẽ gọi. Đấu ơi. Cứ thế quá nửa đêm hai thằng mệt quá ôm gốc cây ngủ gật trong khi muỗi bám u u. Cho đến mờ sáng thì Phiến tìm thấy Đấu nằm chết mắc vào một ngọn cây sung chốc gốc. Thằng Đấu vẫn ôm gùi rau sắn. Mắt nó mở trừng trừng da nó bợt bạt. Trời sáng hẳn và mưa cũng đã tạnh. Hai người mang Đấu lên bờ chặt lá chuối rừng để Đấu nằm đó để làm cáng khiêng về. Những ngày tháng mưa rào đi câu cá trộm ở ao hợp tác xã lại hiện lên. Những ngày còn trẻ con hai đứa cùng chăn trâu cắt cỏ với nhau. Phiến vào đại học còn Đấu ở lại quê sản xuất. Chiến tranh lại làm cho những đứa trẻ cùng quê về cùng một đội ngũ và trớ trêu thay chiến tranh không bao giờ sắp xếp những nấm mồ theo thứ tự tuổi tác hay quê hương. Nấm mồ chiến sĩ hy sinh nào cũng như một cái nôi trẻ thơ úp ngược.
Tìm suốt một tuần lễ mà không thấy người lính già làm anh nuôi trên tiểu đoàn bộ. Có nhẽ anh ấy mắc vào một hốc đá nào không nổi lên được. Mà đã bị mắc trong hầm đá dưới suối dưới sông thì quá đau lòng. Là một lính sinh viên nên trung đội trưởng Phiến hay cả nghĩ. Rồi mai đây giấy báo tử của người anh nuôi ấy sẽ ghi thế nào? Vẫn viết là chôn ở nghĩa trang của đơn vị gần mặt trận hay sao? Những cái chết vô tình rất đỗi bình thường nhưng đằng sau nó là cả một nỗi không bình thường.
Trung đội trưởng Phiến mấy hôm nay như người mất hồn. Chôn thằng Đấu rồi bó rau sắn nó mang về muối đã chua khẳn lên mà chả ai dám nấu.
Đại đội gọi Phiến lên đả thông. Đồng chí là người cùng làng với đồng chí Đấu lại có họ hàng với nhau càng phải quán triệt cho thấu đáo. Sự hy sinh nào cũng là đóng góp xương máu cho kháng chiến thành công. Chúng tôi giao một số kỉ vật như thư từ, múi dù hoa và cái cát tút đạn 20 ly mà Đấu đã làm thành cối giã trầu cho mẹ. Còn chuyện này đồng chí là B trưởng cũng nên quán triệt tư tưởng. Có bộ quần áo và cuộn dây dép của đồng chí Đấu thì đại đội giữ lại bổ sung cho anh em đang thiếu thốn.
Ngoài trời vẫn mưa rinh rích. Nỗi buồn như những hạt mưa mùa hạ gõ vào cái vỏ đạn pháo làm vại nước ngoài cửa hầm nhoi nhói buốt. Ở chiến trường không có thứ tình nào sâu nặng như tình cảm người cùng làng. Chỉ nhìn thấy người cùng làng thôi là mỗi người lính như thấy làng mình hiện lên, thấy như mình đang ngồi bên cha mẹ anh em và những bữa cơm dưới mái nhà tranh thanh bình.
Hai tháng sau, trung đội của Phiến có đợt quân bổ sung toàn lính Phú Thọ. Lính mới vào đến chiến trường vừa mười tám tuổi rưỡi. Đánh nhau hùi hụi vài tháng sau chú nào cũng già khú đế. Có anh nhà văn nào đấy bảo là lính ta già theo mỗi chiến công nghe cũng có lí. Phiến nhìn lính của mình và nhẩm trong đầu từng người từng đặc tính nết ăn nết ở nết đánh đấm, để mà giao nhiệm vụ cho họ. Lính vùng cao như Hà Giang Cao Bằng chậm và ít sốt rét hơn lính miền xuôi. Lính từ nông thôn đi có vẻ sốt rét cũng đỡ vật vã hơn lính học trò, lính sinh viên đại học và lính thành phố. Dần dần, đánh trận một thời gian thì lính nào cũng như nhau về mặt sốt rét, nghĩa là anh nào cũng như anh nào cũng rất có thể từ sốt thường tiến tới ác tính. Sốt ác tính là rất có thể sẽ ra đi.
Trung đội bám địch trên dãy 784 vừa mới khiêng thằng Bàng Thông người Lâm Thao đi viện Trung đoàn ở tuyến sau vì nó sốt lơ mơ mà tay huơ huơ như đứa trẻ con đi bắt chuồn chuồn. Trung trưởng Phiến báo về đại đội cho người lên khiêng thằng Thông đi viện ngay. Buộc cái võng để khiêng thằng Thông đi mà thấy khai khắm khú. Thì ra những cơn sốt rét đã làm nó đã đái cả ra võng. Thế mà cũng phải già một ngày mới ra đến viện. Lúc đi từ trên núi cáng còn nặng. Lúc đến viện cáng nhẹ hều. Chỉ nguyên trên đường đi viện thằng Thông hao có nhẽ đến vài kí. Ra đến viện mấy thằng khiêng Thông cúi xuống nói đủ nghe. Thôi, ở lại đây vài ngày cắt sốt thì về với chúng tao Thông nhé. Anh Phiến gửi cho mày lạng đường đây này. Chúng tao nhét trong cóc ba lô của mày rồi. Thông lờ đờ ứa ra giọt nước mắt. Mấy chú lính vội vã biến vào cánh rừng lồ ô đi như chạy về phía trận địa. Thông chìm vào giấc ngủ mơ màng như rơi từ trên cao xuống. Ở cái viện này ai cũng có cảm giác suối chảy ào ạt xung quanh lán bệnh nhân và rất nhiều chim chóc hót rền rĩ.
Hôm sau Thông tỉnh táo hơn. Đầu đang đau thon thót bỗng như rỗng tuếch khiến cả khối óc như quả bóng lá chuối sọc xoạch va vào vỏ sọ. Nằm trên giường quay nghiêng đầu là buốt cả đầu. Càng xê dịch càng thấy đau. Đau đến cả từng sợi tóc từng cái mụn ruồi cũng buốt nhoi nhói. Có người nói, sốt rét là nỗi đau tình ái của thần rừng, là nỗi khốn khổ trong cái không gian màu sắc hoang mang lơ mơ hụt hẫng của con người bị sốt. Đến ông Thần rừng cũng sốt và khi sốt thì màu rừng xanh bỗng trở nên toàn màu vàng. Trên đời này chỉ có động vật trong rừng sâu nó mới không sốt. Mà kỳ thật con người cũng không hiểu thú vật nó có sốt hay không? Vì con người chỉ tiếp xúc với thú rừng khi nó đã bị bắn hay bị bẫy chết. Con thú nó gần với rừng nó gần thiên nhiên rừng rú hơn nên có thể nó không sốt, còn con người thứ động vật siêu đẳng mới phải sốt. Sốt để thấy trời vàng ểnh, nước vàng tái, cây cối vàng thiu vàng thỉu. Nhìn đồng đội xung quanh,thấy ai cũng vàng nhun nhủn. Khi sốt, màu sắc cảm nhận được đều có mùi đó là mùi mồ hôi và ngay cả cái mùi cũng mềm oằn oặt. Người sốt rét nhiều quá nước tiểu vàng hươm, mắt vàng, da dẻ vàng, đến cái lưỡi cũng vàng khè bừa bựa. Đến khi bị cơn sốt chuyển thành ác tính thì da không vàng được nữa mà chuyển sang trắng ngai ngái như sáp ong, đôi mắt đờ dại, đi đái không ra nước tiểu, mà ra cặn nước lẫn máu tươi. Thế rồi chết mà cứ mở mắt trừng trừng. Nhiều kiểu sốt lắm. Sốt liên miên ngày này qua ngày khác. Sốt cách nhật là loại sốt công tử, ngày sốt ngày không. Sốt có khi chỉ về đêm, nên rất ghét bóng đêm. Có người chỉ sốt ban ngày. Có người cứ 1 giờ chiều là sốt và những người ấy luôn căm ghét buổi chiều, chỉ mong mau đến tối. Có người sốt là nôn. Nôn ọe váng cả rừng. Cứ phải ọe ầm ầm lên cho có cảm giác đỡ sốt. Nôn ra tiếng cũng là một cái thú của thằng sốt rét. Nhưng cũng có anh li bì nằm không một tiếng động. Có anh rên hừ hừ từ lúc sốt đến lúc cắt cơn. Rên đến mức võng đang lặng mà cũng đung đưa. Cái nhịp võng đung đưa theo tiếng rên của lính thật là hồn vía. Có anh rên thành bài, rên rất có nhịp điệu. Những bài rên não nùng, cảm giác như nếu mà không rên không đỡ sốt. Rên làm cho cái giường làm bằng tre nứa kêu cọt kẹt. Rên to đến nỗi muỗi không đốt được. Thôi thì rên chả có gì là xấu. Sốt rét mà rên cũng là sự tất nhiên, cũng như rừng thì phải xanh cây xanh lá.
Đã là lính Tây Nguyên thì tháng nào cũng phải sốt một lần. Cơn sốt cứ đến đúng theo chu kỳ tháng một lần hệt như đàn bà hành kinh. Chịu không hiểu sao lại thế. Lính ta chuẩn bị sốt là biết liền. Lúc ấy thấy người ăn khỏe hơn, bụng đói hơn, mà ăn cái gì cũng thấy ngon. Anh nào sốt cũng thèm của chua giống như gái ăn dở. Khốn nỗi người ngoài nhìn mấy anh sắp lên cơn sốt cứ như người giả vờ, mặt mũi ngoặt ngoẹo lử khử lừ khừ, mắt thì cứ vằn lên nhưng chân tay thì lười động đậy. Có anh hễ đã sốt là sốt tới 40, 41 độ và mồ hôi vã ra như tắm. Thế mà cắt sốt rất nhanh. Cũng có anh chỉ 38, 39 độ nhưng sốt liên miên vài ngày. Ai cũng như ai cắt sốt là ăn khoẻ như trâu. Nhưng lấy gì mà ăn cơ chứ. Chiến trường này là một vùng rừng đói, đói mê mẩn. Đói từ trên xuống dưới, đói toàn diện. Mà cơ thể yếu thì hay sinh bệnh nên càng đói càng dễ sốt. Thế là sốt xong cứ mò mẫm đi tìm cái mà ăn. Quanh khu vực bệnh viện của Trung đoàn, bệnh viện Sư đoàn đầy những cái bóng lính tráng run chân, run tay đi đào măng, tát suối… Sợ nhất là cơn sốt đầu tiên. Đang khỏe mạnh người sốt đổ sụp xuống rất nhanh. Càng to cao người sốt càng dễ gục. Càng những anh người thành phố càng dễ bị sốt ác tính. Còn mấy anh nhà quê nó chịu khổ nhiều rồi, nó lam lũ quen rồi thì có đỡ hơn.
Họ bảo sức đề kháng của người nhà quê tốt hơn, nên cái sự chống trả sốt rét cũng tốt hơn. Người sốt rét sợ nhất là đau đầu. Đau đầu từ khi sốt cho tới sau khi đã cắt cơn. Thậm chí khi cắt sốt rồi đau đầu còn tệ hơn, đau đến tận vài ngày sau. Đau đến mức có cảm giác đầu mình nó rỗng như có hai lớp vỏ, nó lỏng lẻo, nó lõng bõng lẫn cục sỏi trong đầu. Khi di chuyển trong óc có những hòn sỏi va vào vỏ sọ buốt nhói. Thế là kẻ sốt rét đi đứng không dám mạnh bạo, người rón rén co ro như con cuốc. Nhưng lính ta khi gần sốt là biết. Biết nên quyết tâm chống lại. Chỉ huy bảo với lính, phải đè những cơn sốt xuống không cho nó trỗi dậy. Không thể ngồi yên mà chịu chết vì nó. Biện pháp rất đơn giản là làm việc gì đó cho ra mồ hôi để quên rằng mình sẽ ốm. Vì thế mới có chuyện cán bộ biết lính sắp sốt rét liền phân công cho lính đi đào hầm. Đào xong cái hầm mồ hôi đổ túa ra khiến nhiều anh… hết sốt và quên sốt.
Sống ở Tây Nguyên vài năm không đếm được mỗi người đã uống bao nhiêu liều thuốc quy nin, đã chịu tiêm bao nhiêu ống thuốc vào mông đít và bao nhiêu lần nhìn thấy đồng đội mình bị sốt rét ác tính ra đi. Người ta bảo mọi thứ thuốc sốt rét đều là thứ thuốc rất độc, các trai trẻ cứ tự nguyện lùa những liều thuốc độc ấy vào người để chiến thắng sốt rét mà chiến đấu với kẻ thù. Không cần biết rồi nó sẽ ra sao sau này. Việc trước hết là chiến đấu chiến thắng kẻ thù. Người lính nào cũng từng nhìn thấy đồng đội mình bị áp xe mông vì thuốc tiêm Quinin. Những cái mông xẹp lép sau khi moi cả đống máu mủ và thịt thối rữa vì thứ thuốc sốt rét liều cao. Đã bao nhiêu người đã bị thọt chân vì áp xe mông, đi cứ nghiêng nghiêng một nửa người như sắp ngã xuống suối. Hầu như những người sốt rét nhiều quá anh nào cũng bị sa lá lách. Lính nào sa lá lách là bụng to như người chửa. Lính bụng to ở viện thường hay hỏi nhau mày sa độ mấy? sa lá lách độ 4 là nặng nhất có thể phải đưa ra hậu phương chữa trị. Loại bệnh này các cụ ta ngày xưa gọi là bụng báng. Còn những người sốt rét rừng các cụ gọi là ngã nước. Các cụ hay bảo, ngã nước rồi bị báng là dễ chết lắm. Những cái võng đung đưa cùng nhau đấy mà chả biết trên cái võng nào sẽ có thằng ác tính. Trong những cánh rừng chiến tranh cái chết cứ lởn vởn.
Vùng chiến địa cao nguyên có hai mùa khô mùa mưa trong đó có một khoảng giao mùa là lúc dễ dàng sinh bệnh. Nước độc, rắn độc, muỗi rừng, ở ăn trong hang trong hố lại thêm cái đói, cái suy kiệt dinh dưỡng, áo quần không đủ, khiến sốt rét Tây Nguyên trở thành nỗi ám ảnh của người lính mới vào chiến trường. Lâu rồi thành quen. Lính ta bảo đến cái chết còn quen nữa là sốt rét. Người dân tộc Tây Nguyên khen bộ bộ đội chăm chỉ, khen bộ đội thương đồng bào, khen bộ đội bắn thằng giặc giỏi. Khen bộ đội quen chết. Cái gì bộ đội cũng quen. Quen đói, quen ốm đau, quen hát hay, quen cái chữ dạy đồng bào. Nghe đồng bào khen mà rớt cả nước mắt. Bộ đội quen tất tần tật. Đến cái chết cũng còn quen thì chả còn gì đáng sợ nữa. Môi thâm, rụng tóc, mắt kèm nhèm gầy gò là thương hiệu của lính B3. Dọc đường Trường Sơn nhìn lính đi trở ra là nhận biết được lính ở chiến trường nào, nhận ra lính nào là anh lính chiến đấu, anh nào hậu cần phục vụ, thậm chí rất dễ nhận ra những anh tụt tạt. Cũng trên con đường mang tên 559 ấy hễ thấy quần áo rách rưới gầy gò, da xám, môi thâm là lính B3. Sốt rét Tây Nguyên thành thương hiệu của lính B3. Một thứ thương hiệu buồn. Bàng Thông vào viện được hai hôm thì bắt đầu nằm rên li bì. Ngày thứ 3 nó hôn mê. Nó đái ra máu rồi nó đi. Lúc nó đi cái của quý của nó thẳng đơ nhả đạn ướt cả quần. Mấy y tá ở xê quân y bảo là nó thoát dương. Bản năng thằng người là thế. Cái thứ bản năng của những thanh niên chưa kịp làm người lớn thì đã hy sinh. Chiến tranh nó làm cho bao nhiêu người như thế ở khắp các chiến trường.
Dọc theo dãy núi Trường Sơn và trên mọi nẻo đường của chiến tranh có biết bao nhiêu nấm mồ người lính chết vì sốt rét. Chả có ai ghi trên nấm mồ chết trẻ ấy là chết sốt rét bao giờ. Cái chết nào cũng đau đớn thiệt hại cho quân mình đau đớn cho cha mẹ vợ con người lính ấy. Chết không có thấp cao. Những nấm mộ chiến sĩ và những nấm mồ sĩ quan đều hoang dại lạnh lẽo bên nhau. Ở chiến trường những nấm mồ không có cấp chức chỉ chung một cái tên liệt sĩ. Nếu con người mà phân biệt sự chết thấp cao ở chiến trường thì quả là sự nhẫn tâm. Sự phân biệt ấy chỉ làm yếu đi sức chiến đấu của người lính.
Mấy hôm sau, ở trên chốt trung đội trưởng Phiến thu dọn ở góc hầm có một cái túi ni lông bằng ruột rùa nước lính VNCH. Trong ấy có lá thư của thằng Thông gửi cho người yêu ở trường trung cấp Cơ khí ngành Giấy trên Bắc Thái. Nó viết là hi vọng sẽ quay trở lại với trường một ngày nào đấy, nó hi vọng sẽ về Phú Thọ quê nó có nhà máy giấy Việt Trì, nó sẽ góp phần làm ra những tờ giấy đẹp cho học trò quê nó và cả nước có giấy trắng tinh chứ không phải viết giấy đen hỉn như bây giờ nữa. Thằng Thông chết rồi chả có ai gửi lá thư này hộ nó. Lá thư ấy cũng nằm lại với vùng đất đỏ cao nguyên.
Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 2
Cập nhật ngày: 26 Tháng Mười Một, 2023 lúc 20:48
Vanvn- Bố hỏi, có thứ cây nào mà lá nó đã khô đã chết nhưng vẫn không rời thân mẹ nó như cây chuối, cây lúa không con? Có loài cây nào mà cứ cây già thì lưng còng để cây non to mập đứng thẳng lưng vươn lên trời như cây tre không con?  
14.
Nguyễn Phiến cùng trung đoàn hành quân vào Tây Nguyên gần hai năm mà đã như già đi cả chục tuổi. Từ một anh sinh viên Sư Phạm Ngoại Ngữ hiền lành nhập ngũ là vào ngay chiến dịch phản công Đường Chín nam Lào. Sau một chiến dịch Phiến trở thành trung đội trưởng của đại đội chủ công. Đã qua hàng chục lần giáp trận khiến chàng sinh viên ngoại ngữ chai lì trước bom pháo của địch. Lần này Phiến được cử chỉ huy bộ phận tăng gia của đại đội trong vòng một tháng. Nhiệm vụ của một tháng là đốt nương, trỉa lúa. Phủ xong 5 héc ta lúa nương và trồng mười ngàn hốc sắn rồi về đi chiến dịch. Một tháng làm người nông dân so với lính trận thật sướng. Dù có phải trần lưng hùi hụi làm nương cũng chỉ như đi nghỉ phép sướng chán. Được ra tăng gia là lính ta thích lắm. Cứ như là được đi nghỉ phép vậy.
Gọi là kiềng tăng gia nhưng chỗ tăng gia của các đơn vị chiến đấu cũng vẫn chưa thoát ra khỏi tầm pháo của địch. Có nghĩa là chỗ kiềng chiến đấu và kiềng tăng gia chỉ cách nhau chừng 5 cây số đường chim bay. Ấy thế mà mỗi lần được ra kiềng tăng gia là cảm thấy yên ổn lắm cứ như đã về đến hậu phương. Ở đó có vườn rau, có nương sắn có chuồng lợn chuồng gà và mỗi kiềng của đại đội có đến dăm bảy con chó sủa rinh rom khiến người lính cứ ngỡ như mình đang ở quê.
Bình thường kiềng tăng gia của một đại đội chỉ có 3 hay 4 người thôi. Đó là những thương binh mới đi viện về, hay những anh lính già yếu sức khỏe mà chưa đủ tiêu chuẩn ra Bắc thì đơn vị cho ra đấy nuôi lợn trồng rau, phát nương trỉa lúa thêm cái ăn cho đơn vị mình. Họ cũng như những người anh nuôi mỗi lần có thức ăn gì là gùi ra phía trước cho đơn vị. Tuy rằng phía trước và lính phía sau luôn là một khoảng cách tâm tưởng cũng như sự rủi ro chết sống dù thế lính ở phía trước vẫn rất thương lính phía sau và ngược lại mỗi khi thấy lính phía trước về kiềng tăng gia là lính tăng gia chiều chuộng hết mức. Ai đi viện về còn run chân run tay thì ở lại kiềng tăng gia vài hôm cho cứng cáp mới về chiến đấu. Có anh đi công tác lâu lâu mới về cũng ghé qua tăng gia làm bữa cơm có tí rau dưa và ngủ một đêm nghe chó sủa gà kêu yên lành rồi đeo ba lô về chốt. Kiềng tăng gia như thể chốn đi về, chốn gửi gắm chút bình tâm nhỏ nhoi của người lính luôn kề bên cái chết. Nói như đại trưởng Kế ở C7 thì kiềng tăng gia là hậu phương của bọn mình. Dù ai cũng thích về kiềng tăng gia nhưng chả ai muốn ở lâu ở đây vì người lính nào cũng rất sợ mang tiếng là lính tụt tạt phía sau, lính ốm yếu, lính hạng hai. Giữa mong manh sự chết sự sống mà con người vẫn phải luôn giữ sĩ diện với chính mình. Sự sĩ diện của lính không những là món quà về tinh thần mà còn là món nợ. Trước khi đi chiến đấu người lính nào cũng là niềm vinh dự của gia đình dòng họ. Người lính nào ra đi cũng là thay mặt gia đình mình làm phận sự cứu nước. Họ coi đó là sự đóng góp công bằng cho thời đất nước lâm nguy. Sự đóng góp không có trên có dưới có sang có hèn. Đó là bổn phận người trai thời loạn. Những ý nghĩ ấy là từ cha mẹ ông bà người lính truyền sang cháu con bằng dặn dò bằng niềm hi vọng vào những đứa con trai dòng họ của mình. Những ngày nghỉ phép chóng vánh đều là những ngày tôn vinh người ra trận nơi làng quê, dù là quê hương trên ngược hay dưới xuôi, nơi đông người hay heo hút. Bao nhiêu cuộc liên hoan tiễn đưa cảm động thiêng liêng rồi tiếp đó là đợi chờ chiến công gửi về làng quê luôn nằm trong tâm cảm của người ra trận. Chiến thắng và sự dấn thân không lùi bước luôn được người lính đặt lên hàng đầu trong bước chân chiến trận. Kỷ cương dòng họ, kỷ cương đất quê hương và sĩ diện tâm hồn đã làm nên bức chiến lũy ngăn những bàn chân hèn nhát.
Đã lâu lắm dễ đến gần một năm nay Phiến mới gặp Lộc là người cùng xã với mình, dù hai đứa ở chung một đại đội. Khi Phiến dẫn quân bổ sung vào E3 thì Lộc đã là lính ở đấy nửa năm rồi. Hồi ở nhà, Lộc chỉ học hết cấp 2 rồi về làm ruộng. Lộc là lao động chính giúp gia đình cầy cấy. Phiến học lên cấp 3 rồi đi đại học. Lộc to khỏe nhưng học kém nên luôn bị đúp lại lớp sau. Phiến là B trưởng dẫn quân vào rồi ở lại chiến đấu không quay ra miền Bắc. Đánh từ Kon Tum về Gia Lai, Phiến luôn là một B trưởng giỏi.
Tuy vậy sự thăng tiến không thuận với Phiến. Lúc ấy vừa mới ký kết, dãy chốt trên núi
Cư Rông của quân ta luôn căng ra chặn địch có ý đồ lấn chiếm. Đêm ấy sương buông trắng rừng, cảnh giới rất khó khăn. Một chú lính nhà ta bò sang tổ chốt bên trung đội bạn xin thuốc lào. Lúc bò về bò vào trước mũi cảnh giới của trung đội Phiến. Nhìn bóng đen bò trước mũi súng. Phiến hô khẩu lệnh. Không thấy tiếng trả lời mà vụt chạy. Phiến nổ một điểm xạ. Từ hôm ấy Phiến bỗng như người tâm thần, lúc nào cũng lảm nhảm gọi tên chiến sĩ bị mình bắn chết. Phiến bị hạ cấp thượng sĩ xuống trung sĩ và bị cho xuống làm trung đội phó. Phiến coi đó là sự may mắn vô cùng với mình. Phiến cảm ơn Đảng ủy tiểu đoàn. Phiến thấy mình có tội. Tội với gia đình người đồng đội xấu số kia, tội với đảng với đơn vị. Sự dằn vặt khiến Phiến đổ bệnh. Khi đã khỏi bệnh Phiến chỉ mong đi chiến đấu luôn và trong tư tưởng luôn muốn lập công chuộc tội. Phiến cũng biết có lập công bao nhiêu chăng nữa cũng không lấy lại được một mạng người. Một tháng trời
Phiến bị trầm cảm, lúc nào cũng gọi tên người chiến sĩ sấu số đó và đầu thì gật gật gù gù. Phải cho đến ba tháng sau, Phiến đánh trận ở X30 diệt được cả xe tăng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì Phiến lại lên làm trung đội trưởng. Ở đơn vị ai cũng thương người lính xấu số và không trách được Phiến. Cái sai nhất của Phiến là sự trớ trêu của chiến tranh. Phiến nghĩ nếu không có chiến tranh bao nhiêu tay súng thiện xạ của đại đội mình đều là những thợ cày, những người chồng tốt, những trí thức hiền lành giỏi giang và trong đó có cả những nghệ sĩ tuyệt vời.
Gặp Lộc ở kiềng tăng gia Phiến vui lắm. Hai đứa bạn cùng làng có được ít thời gian yên ổn không phải đánh nhau lại được ở bên nhau thì còn gì bằng. Phiến muốn nói nhiều chuyện ở quê và cũng muốn hỏi nhiều điều với Lộc nhưng khó quá. Lộc bị điếc sau một trận pháo ở đồi Sạc Ly trên Kon Tum năm 1972. Từ sau trận ấy Lộc không bao giờ tắm giặt hay rửa mặt đánh răng. Người Lộc luôn hôi hám khó chịu cho mọi đồng đội khác. Lộc vừa điếc vừa bẩn nên đại đội gọi là Lộc bẩn. Phiến lờ mờ đoán rằng Lộc bẩn thật còn điếc thì chưa chắc đã thật. Trận pháo ấy nhiều người cùng hầm với Lộc có anh nào điếc lòi điếc tĩ như Lộc đâu. Lộc ngơ ngơ. Ai gọi cũng mặc kệ. Thậm chí nghe tiếng đạn nổ Lộc cũng không giật mình. Dù vậy người ta vẫn đưa Lộc về phía sau. Lộc ở tăng gia và suốt mùa khô mùa mưa Lộc vẫn điếc và không hề tắm.
Người ở phía trước mỗi khi về kiềng tăng gia không ai muốn nằm gần với Lộc bẩn. Căn nhà hầm của Lộc nay chỉ có thêm B trưởng Phiến và chú liên lạc, còn thì anh em đào thêm hầm ngoài rừng và mắc võng bên cạnh mà ngủ. Một đêm pháo địch bắn vào ngay khu kiềng tăng gia. Đêm ấy trăng lại sáng, tiếng đầu nòng nghe bong bong. Mọi người lăn xuống võng. Phiến nghe thấy soẹt soẹt vội lao vào hầm. Phiến va vào một người đã ngồi trong hầm. Thì ra đấy là Lộc bẩn. Lộc điếc là thế mà đã lao vào hầm trước cả Phiến. Căn nhà hầm bị pháo tung tóe. Cả kiềng tăng gia không bị chết ai cả. Ngày hôm sau được một bữa dọn dẹp sửa sang lại hầm hố nhà cửa mệt phờ phạc. Chiều tối, Phiến và Lộc cùng xuống suối tắm. Nhìn quanh không có ai Phiến hỏi:
– Bố mẹ mày ở nhà có khỏe không? Hồi lâu im lặng nghe rõ tiếng nước óc ách.
– Khỏe. Tao cũng mới nhận thư nhà.
Khuôn mặt Lộc buồn rượi. Phiến thấy thương thằng bạn cùng quê quá. Đột nhiên Lộc quay nhìn xung quanh rồi khẽ nói:
– Mày biết tao giả vờ điếc phải không?
Phiến dừng tay đang cầm hòn đá suối kì lưng cho Lộc …ừ ừm. Thôi tao biết rồi.
Lộc xoay người lại:
– Tao muốn về đơn vị với chúng mày quá mà không biết làm sao?
Phiến đằm mình xuống nước hồi lâu ngoi lên rồi bảo với Lộc.
– Để tao nói với anh Đằng đại trưởng quân y tìm cách giúp mày. Hôm tao gặp bạn tao lính đại học Y Khoa Việt Bắc chúng nó bảo tổn thương áp khí thính giác có thể phục hồi. Mày khám lại coi như tai mày đã phục hồi và xin về chiến đấu với chúng tao. Mày đã đánh nhiều trận rồi mày lạ gì nữa. Đạn bom chắc gì đã trúng mình mà trúng thì chắc gì đã chết. Sống mà lúc nào cũng giối giếm giả vờ đóng kịch thì khổ hơn là chết.
Lộc nắm tay Phiến:
– Phiến ơi. Bây giờ tao sợ mày hơn là sợ chết. Tao xin mày. Sau này có sống trở về thì mày cũng đừng kể gì về tao mày nhé. Thầy mẹ tao họ hàng nhà tao sẽ đau khổ mà chui xuống kẽ nẻ ruộng mạ mất.
Phiến bỗng ôm chặt lấy Lộc. Sao mà Phiến thương Lộc thế. Phiến cũng thấy tự nhiên thương cái thân mình. Giữa cái sống cái chết luôn có con mắt thứ ba dõi nhìn cay đắng. Chiến trận là phải có kẻ sống người chết ấy thế mà những cái chết vẫn thường được ngắm nhìn từ mọi góc phản chiếu của những người còn sống. Chiến tranh là thế. Nó đau đớn ngay cả ở sự thật thà hay dối trá. Ở trong chiến trận sự thật thà và dối trá không thể biết đến lúc nào cái nào có tội cái nào không. Hai đứa cùng làng ôm nhau trong một chiều ở chiến trường Tây Nguyên có tiếng máy bay rin rít trên đầu và thi thoảng pháo địch vẫn nổ ở xa xa.
A painting of a river and a tree

Description automatically generatedTranh của họa sĩ Nguyễn Anh Đào
15.
Thành Ích về A trinh sát tiểu đoàn được vài tháng đã trở thành trinh sát cứng cựa. Cũng dễ hiểu vì Thành Ích đã từng chiến đấu nhiều trận ở bộ binh rồi, từng lập chiến công từng là dũng sĩ. Tiểu đội trinh sát ít người, người nào cũng sừng sẹo nổi tiếng từ trước đó. Đánh nhau thì dũng cảm gan lì nhưng so với lính bộ binh thì có vẻ tự do hơn, kém hơn về nếp sinh hoạt. Một trinh sát cứng cho xuống bộ binh thường làm A trưởng hay trung đội phó. A trưởng trinh sát mà về đại đội là làm B trưởng ngon ơ, sẵn có kinh nghiệm nghiên cứu bố trí trận đánh vả lại trinh sát nào cũng gan lì. Vì thế nhiều đơn vị bộ binh rất thích nhận lính trinh sát về làm cán bộ.
A trinh sát tiểu đoàn có hai thằng đều có cái tên “cối “ đó là Hợi cối và Tạ cối.
Có một thú vị là hai thằng cối này đều cùng một làng. Cái làng này trai tráng chuyên nghề đóng cối dạo gánh đôi bồ trong đó có cưa dao đục vồ đập đất và vài ít dăm cối đi khắp nơi trên miền bắc. Đi đến đâu rao lảnh lót đến đấy. Cối đê… ê. Cối đê… ê ê.
Bố thằng Hợi và bố thằng Tạ lúc trẻ từng là bạn đóng cối dạo của nhau. Hai ông bố từng có những mối tình sơn nữ ở những vùng đã đi qua. Hai thằng con trai thì khác hơn chúng nó thân nhau là thế nhưng rất giữ ý nhau về cái đường trai gái. Từ ngày miền Bắc tiến lên Hợp tác hóa nông nghiệp thì đều ở nhà làm ruộng cấy cày. Hợi và Tạ đều gan lì dũng cảm. Lúc Thành Ích lên Trinh sát thì hai thằng “cối” này đều về làm A trưởng dưới đại đội bộ binh. Hiếm có tiểu đội nào lại có hai thằng cùng xóm cùng tuổi mà hai ông bố cũng thân nhau như hai thằng trinh sát tên “Cối” này. Đi bám địch trận nào chúng nó cũng đi cùng nhau. Bò vào cứ điểm nào, ấp nào hai thằng cũng xin đi một mũi. Hút thuốc, hai thằng này cũng chỉ quấn một điếu hút chung. Hôm nay thằng này quấn thuốc thì ngày mai đến lượt thằng kia. Nếu một hôm nào đó thằng này đi công tác lẻ chưa về thì thằng kia vật vờ như thằng ốm dở. Mấy năm ở chiến trường đánh đấm lên xuống mà cả hai thằng đều mất ba lô chỉ có hai cái bao cát thắt lại bằng dây dù làm cái bồng đeo sau lưng. Thỉnh thoảng Hợi cối và Tạ cối lại cùng điểm nghiệm quân trang với nhau trong hầm. Những chuyện như thế này chúng nó không muốn cho những thằng khác biết. Những câu chuyện về “làng cối” hình như chúng nó cũng coi là tài sản riêng của nó. Chỉ duy nhất thằng Hợi có một cái phong bì gấp làm 8 trong ấy là tấm ảnh con Yến em gái thằng Tạ đã tặng cho thằng Hợi ngày tòng quân thì Hợi không cho Tạ biết. Lý do thì rất đơn giản. Chả phải thằng Tạ không biết chuyện thằng bạn thân nhất phải lòng con em gái mình. Nó biết cả đấy nhưng cứ im im. Hồi sắp nhập ngũ, một hôm nó có nghe được đứa trẻ choai choai nhà bên kể nhìn thấy anh Hợi bóp vú chị Yến. Thằng Tạ ức lắm. Hôm về đến đơn vị mới thằng Tạ mới bảo với thằng Hợi, mày yêu nó thì yêu những việc gì phải sờ mó thế cho người ta nhìn thấy. Thằng Hợi ngượng lắm từ ấy không bao giờ nó nói chuyện về cái Yến với thằng Tạ nữa. Dạo đánh địch ở đồn X30 thằng Tạ lấy được trong ba lô một thằng lính ngụy cái đèn pin cổ ngoéo và cái bật lửa Zippo cùng cái lọ đựng xăng của Mỹ. Nó bảo với thằng Hợi, tao sẽ mang về cho bố tao. Đêm đêm ông đi đánh lưới bóng có cái bật lửa này đến gió cũng khóc. Ngừng một lát nó nói rất trịnh trọng. Còn cái đèn pin để ông đi chơi tổ tôm với bố mày. Cả xóm chắc chỉ bố tao và bố mày có đèn pin Mỹ thôi nhể. Thằng Hợi thấy cay cay ở mắt. Tao cũng muốn kiếm cái đèn pin cho bố tao mà chưa được. Thế rồi trong đêm hai thằng làng cối toàn kể chuyện về bố của mình. Bỗng chốc cái làng cối hiện ra, con đường đất rất mịn và những người dân đi làm đồng rất hay đội trên đầu cái lá khoai thật to. Chiến tranh đã đưa hầu hết con trai của các ngôi làng đi ra trận, chiến tranh nó đưa tất cả các đàn bà ông già xuống ruộng và lên đồi, chiến tranh cũng làm các cổng ra vào công xưởng thưa vắng trai tráng, các cổng trường đại học bớt những tiếng cười đàn ông. Từ trong chiến tranh trong chết chóc thoắt ẩn thoắt hiện hình bóng người thân và rõ nhất là bóng dáng cha mẹ của người ra trận.
Hai thằng làng cối được thuyên chuyển về bộ binh làm A trưởng thì có ngay một thằng A trưởng vệ binh trên Trung đoàn bổ sung về tiểu đội. Vừa gặp nhau Thành Ích há hốc mồm nhìn nó. Thành Ích kêu lên:
– Ôi thằng này là thằng đâm chết lợn của Chính ủy Trung đoàn đây mà.
Cả tiểu đội giương mắt thán phục thằng lính mới. Thằng này thản nhiên phẩy tay:
– Thôi các ông ơi, các ông ở trinh sát thì “tội trạng” cũng chả kém tôi đâu. Bao nhiêu chuyện các ông để lại ngoài bản Làng Há, làng Le tôi biết thừa. Rồi nó cười điệu cười ranh mãnh hỏi Thành Ích:
– Nhân vật lính không ăn mì chính cũng ở đây à? Đến lượt Thành Ích há mồm nhìn nó. Thì ra nó cũng biết chuyện mì chính của Thành năm trước.
– Thế ra mày cũng biết chuyện tao không ăn mì chính à?
– Lúc ấy tao là A trưởng vệ binh, nên tao biết và để ý nhìn mày mỗi lần mày đi lấy cơm. Tao còn biết chuyện mày nhất định không để anh Xuân Dũng đại đội trưởng bị kỷ luật đi lấy cơm, mặc dù chủ nhiệm Ban 2 quyết tâm rèn anh ấy bằng cách lấy những việc vặt làm khổ nhau. Tao cũng thấy làm vậy là ác độc với anh ấy.
Rồi không để cho cả tiểu đội trinh sát khỏi phải đợi lâu nó đứng thẳng người ưỡn ưỡn ngực, dõng dạc báo cáo chuyện đâm chết lợn Chính ủy Trung đoàn như sau:
– Tao tên là Minh, Nguyễn Minh. Nhập ngũ tháng 1/ 1970. Tao không đâm chết lợn của Chính ủy mà là phi dao găm trúng vào bụng lợn. Có điều rất dở là con lợn này lại là con lợn mà thằng công vụ của Chính ủy nó nuôi. Hàng ngày nó tha thẩn đi lại trong E bộ. Một hôm rỗi việc, mấy thằng vệ binh thách đố nhau phi dao găm trúng lợn. Mấy thằng chúng nó toàn ném trượt. Con lợn khinh khỉnh nhìn những con dao găm lăn ngược lăn xuôi bên cạnh kêu ỉn ỉn. Tao điên tiết, nói bọn nó là đồ ăn hại rồi rút dao găm của mình ném một phát. Con lợn kêu đánh éc rồi đeo luôn con dao cắm ở mạng mỡ phóng thẳng về cửa hầm
Chính ủy nằm giãy giụa. Khốn nạn cho tao, chuôi dao găm khắc rõ chữ
“Nguyễn Minh” vẫn còn cắm vào bụng chú lợn tội nghiệp. Tao mang tên
“Minh Lợn” từ đấy. Ông Chính ủy chả nói gì, nhưng Trung đội trưởng cảnh vệ thì nhìn thấy tao là như thấy mẻ. Nó bảo tao ngáng đường tiến lên của nó. Điên tiết, tao xin về đơn vị chiến đấu và xin đích danh về đây, về trinh sát tiểu đoàn này. Đã về đơn vị thì về hẳn trinh sát cho máu. Hết,
Cả tiểu đội hoan hô:
– Hoan hô! Hoan hô Minh lợn.
Lần đi trận đầu tiên là bám địch đường x20. Sau ký kết, trung đoàn 45 hay điều quân lấn chiếm vào vùng này hòng quyết giữ con đường thông ra biên giới CPC.
Thường thì địch cứ lập căn cứ dã chiến dựa vào những căn cứ của Mỹ cũ mà củng cố hầm hào. Ngày ngày đưa quân nhỏ lẻ sục sạo các làng bản dọc hành lang ra biên giới. Chúng gọi pháo bắn dọn đường như xay lúa. Trên con đường X20 luôn có bọn thiết đoàn Z21 thập thò đi cùng với bọn E45. Tiểu đội bò vào tận tường đất, đếm hết những tháp canh và xác định hướng tiềm nhập cho bộ binh. Cách căn cứ địch chỉ vài trăm mét có một nương chuối xanh ngắt. Bọn Trinh sát chui vào đấy nằm nghỉ chờ trời tối. Nhìn thấy có buồng chuối có vài quả chín. Có thằng định chặt cây chuối để lấy quả ăn. Minh Lợn ngăn lại.
– Để tao! Nói đoạn nó bò tới rút dao găm chọc vào thân cây chuối một đoạn rồi xoay ngang lưỡi dao. Cây chuối từ từ gục xuống không một tiếng động.
Sau lần ấy cả tiểu đội nghe Minh lợn nói về cách ăn trộm chuối. Cách ăn trộm bưởi, cách bẻ trộm mía không gây tiếng động. Nó bảo, cây chuối đổ nhanh hay chậm là do mũi dao găm ngập vào thân cây chuối nông hay sâu. Khi cây bị gập xuống nó từ từ cúi xuống mà rất là êm tai. Chúng mày đừng chặt đổ cây chuối. Hơn một chục lá chuối to như cái lá buồm khi đổ sẽ sinh ra tiếng động rất lớn. Nghe chửa? Từ ấy tiểu đội trinh sát bỏ cái tên “Minh Lợn” mà đổi thành “Minh trộm”. Nó bảo, cũng được. Nghe Minh trộm còn hay hơn là Minh lợn.
Thành Ích và Minh trộm được cử lên Sư đoàn bộ học một tháng về nghiệp vụ trinh sát. Lính bộ binh chú nào đánh nhau khá khá trên Tiểu đoàn đều biết. Các cán bộ Tiểu đoàn cứ chọn thằng nào đánh nhau dũng cảm khôn lỏi thì rút lên trinh sát. Thế là cứ thằng cũ dậy thằng mới đi địa bàn, đọc bản đồ, dò gỡ mìn, rồi vài miếng võ dao găm đấm đá chứ chả đứa nào học hành bài bản gì.
Nay ra tận rừng xoài Lệ Thanh cơm no ba bữa để học đi bản đồ học vẽ đồ bản đắp sa bàn, rồi học cả võ thuật và dò gỡ mìn, gài mìn. Chỉ một tháng trời thôi mà hai thằng thấy mình như là một người khác. Những con suối, đỉnh đồi, bãi lầy mình từng đi qua bây giờ hiện lên trên bản đồ nó như có màu sắc mùi vị xa gần. Đôi khi nhìn vào bản đồ thấy những triền đồi cao nguyên tưởng như thấy cả tiếng gió tiếng mưa, thấy những triền gai xấu hổ tím tím hay vạt rừng vàng hoe dã quỳ.
Một lần Minh trộm bảo với Thành Ích:
– Mày đi về làng Ngo với tao không? Thành Ích chột dạ.
– Thôi thôi tao sợ ra bản lắm.
Tự nhiên Minh trộm kể chuyện cô Mít bản Ngo đi tìm ba chú lính ngửi mồm mình hai năm trước. Câu chuyện được lính ta dệt thành nhiều dị bản. Dị bản nào cũng là cái hôn khăng khít tình quân dân không nỡ rời nhau. Ấy thế chả hiểu tại sao sau khi được ngửi mồm rất chi là khoan khoái rồi mà cô Mít “đồng bào” lại đi báo cáo với bên bộ đội. Minh trộm cằn nhằn, thật không công bằng. Còn Thành Ích thì nín thinh.
Chiến tranh cũng chỉ là một sự bất bình thường của một xã hội và đời lính chiến cũng chỉ là sự bất bình thường của một đời người đó thôi, còn thì mọi sự yêu ghét thích thú ham muốn dẫu có bom rơi đạn nổ tung trời con người vẫn cứ thích, cứ yêu cứ muốn như thường. Minh trộm có lần nói với Thành Ích trong một đêm bám địch rằng, cái gì càng cấm hãm con người thì cái đó sẽ càng là nỗi ham thích mãnh liệt.
Mày đã từng hôm nào đi qua vòi nước của bản Ngo chưa? 5 cái ống lồ ô xối nước xuống 5 đứa đàn bà khép chân ngồi trên tảng đá kỳ cọ như 5 cái… Cái gì nhỉ… Ờ ờ.
Minh trộm nghĩ mãi rồi mới nói tiếp được… là 5 pho tượng thịt. Mẹ kiếp trông như cao su thịt. Nuốt nước bọt xong, Minh trộm nói rất chậm và chắc. Chỉ một lần qua đó và nhìn thấy 5 vòi nước ấy… là tao thấy hết chiến tranh. Mẹ kiếp đang lúc đánh nhau thí xác nhìn thấy những tấm thân con gái thật là… chả sợ chết nữa. hơ hơ!
Thằng Hợi cối và Tạ cối về dưới bộ binh làm A trưởng được vài tháng thì đánh trận địch nống ra làng Pheo đường X20. Hôm bám địch về Thành Ích và Minh trộm gặp bộ binh đang đi vào, nhìn thấy hai thằng tên “cối” liền gọi ơi ới. Thành Ích bảo
Hợi cối:
– Mày đi cùng với thằng Tạ cối, lo giữ gáo cho thằng anh vợ mày nghe không?
Mấy thằng lính trinh sát cùng cười nhìn bộ binh lỉnh kỉnh đạn thủ pháo cây que như thợ sơn tràng. Hai thằng tên cối hỏi xin thuốc lá. Minh trộm nhúm cho nó một nắm và bảo, hồ thêm nước đường cho nhẹ mà hút nhé. Nói rồi Thằng Minh còn dúi cho Tạ cối 2 viên đá lửa rồi chia tay.
Hôm sau, đánh xong điểm làng Pheo. Gặp thằng Hợi cối thất thểu đeo hai cái bồng trên lưng mắt đỏ hoe. Thành Ích lôi Hợi cối về hầm trinh sát. Hợi khóc:
– Thằng Tạ chết rồi. Lúc nó bị phóng lựu tao chạy sang mũi nó nhặt khẩu B40 của nó bắn một phát rồi cõng nó xuống. Nó bảo tao, mày mang cái gùi của tao về nhé, tao cho mày cái đèn pin cổ ngoéo còn cái bật lửa thì mang về cho bố tao.
Thằng Hợi cối hu hu to hơn. Nó quệt tay nước mũi nước mắt lằng nhằng và chỉ vào cái gùi của thằng Tạ cối.
– Thôi tao mang cả đèn pin và bật lửa về cho bố nó thôi. Tao chỉ sợ tao lại chết như thằng Tạ thôi. Nó ngồi lần lần tay lên ngực giở cái ảnh con Yến em thằng Tạ ra mà cổ cứ nghẹn mãi.
Thế là làng cối có hai thằng thì đến lúc này chết mất một thằng. Vài tháng sau thằng Hợi cối được đề bạt lên B trưởng. Cái gùi của thằng Tạ cối được Hợi cối gói riêng một bọc cho vào gùi của mình. B trưởng Hợi lẩm bẩm. Tạ ơi, bao giờ được bổ sung ba lô tao sẽ cho mày vào ba lô. Mày cứ yên tâm nếu tao không chết thì tao sẽ mang tất cả mọi thứ của mày về cho bố mày Tạ nhé. Thế là B trưởng Hợi cối lại ràn rụa nước mắt. Hàng đêm, khi đã im ắng tiếng đại bác của địch từ phía Hòn Rồng là Hợi cối lại thấy con đường làng mình hiện ra. Ở đó có những bụi cúc tần quấn đầy những sợi dây tơ hồng. Làng cối rất nhiều những bụi tre gai. Hợi nhớ bố mình nói rằng trên đời có những thứ cây hệt như con người, đấy là cây tre, cây chuối và cây lúa. Bố Hợi chỉ là người đóng cối dạo như bao người dân làng cối. Bố kể cho Hợi nghe chuyện cây tre. Hầu như loài cây nào cũng thế, tách nhau ra là dễ chết lắm. Tre càng sâm bụi càng tốt tươi, tre sợ nhất là lạnh gốc. Cũng như con người vậy thiếu anh em họ hàng thì khổ lắm con ạ. Bố lại nói về chuyện cây chuối cây lúa cho Hợi nghe, lúc ấy Hợi đâu có hiểu. Chỉ khi xa bố rồi, chỉ khi vào trận đánh với quân địch rồi trở về mới thấy lời bố thấm sâu trong thương trong nhớ.
Bố hỏi, có thứ cây nào mà lá nó đã khô đã chết nhưng vẫn không rời thân mẹ nó như cây chuối, cây lúa không con? Có loài cây nào mà cứ cây già thì lưng còng để cây non to mập đứng thẳng lưng vươn lên trời như cây tre không con?
 
 
Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 3
Cập nhật ngày: 30 Tháng Mười Một, 2023 lúc 06:54
Vanvn- Đây là lần thứ 2 Phiến bắn vào người bên mình. Trước đó Phiến từng 3 lần là dũng sĩ. Nhiều lúc Phiến cũng không lí giải nổi cuộc đời mình sao lại hẩm hiu đến thế. Phiến đã gần chục lần bắn hạ lính đối phương, đã gặp nhiều cái chết mà sao chẳng thể quen. Cứ mỗi lần hạ một tên địch là Phiến lại mất ngủ. Mỗi lần chôn đồng đội lại càng dằn vặt thao thức vài đêm…
Nhà văn Nguyễn Trọng Luân
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 4
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 2
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 1
 
                                    
3.
Mưa dã man.
Mấy thằng ở chốt về vừa đi vừa cằn nhằn có thằng còn chửi thề.
Hôm nay thay chốt còn mấy nắm cơm từ hôm kia đã lên mùi tương Bần rồi nhưng cũng để lại cho bọn lên thay. Trung đội phó Phiến bảo bọn lên thay chốt:
– Gọt vỏ ngoài đi mà khợp. Được tí nào hay tí ấy. Bọn lên chốt cười gật gật, mặt mũi mồm miệng nhợt nhạt nước mưa. Phía Hàm Rồng pháo đề pa ong ong…reo réo bay qua đầu, rơi choang choác phía đường 19. Đạn pháo nổ cách chốt hai trăm mét mà nước mưa trên lá rừng rơi rào rào như đuôi trâu vẩy bùn. Hàng ngày lính chốt luôn được hưởng những đợt pháo bắn của quân địch một cách vô tội vạ. Ở chốt căng thẳng bẩn thỉu và buồn bã. Pháo địch bắn vừa sợ vừa đỡ buồn. Cứ mỗi đận lên chốt là cả tháng trời, có khi còn hơn, kéo đến hai ba tháng. Tóc tai cắt kéo cho nhau sạch ơn ởn mà đến khi bàn giao chốt cho thằng khác tóc đã cờm cợp nuốt chửng cái tai. Tóc dài ra thì mắt sâu xuống, mặt quắt lại, rỉ mắt bám bụi đất bazan sau những trận pháo của địch được nước mưa loang ra nâu xin xỉn. Nhìn những mớ tóc của lính chốt nó như túm râu ngô già dính nước. Trung đội phó Quyết người Hà Giang dẫn quân lên chốt hỏi Phiến:
– Mày để lại cho tao xin mấy quả US đi. Cho tao xin cả mấy quả “tức thì” nữa nhé.
– Ừ để tao chỉ cho bọn mày những chỗ đã gài lựu đạn “tức thì “. Cẩn thận đấy nhá, mày phải quán triệt kĩ vào, nhất là bọn lính mới. Quyết chui vào hầm với Phiến rồi chui lên. Hai thằng B phó chỉ cho nhau các vật chuẩn, những hướng địch hay mò lên chốt và không quên bàn giao cả ôm rau khoai lang héo quắt chưa ăn đến. Trong lúc Quyết B phó chui ra chui vào với B phó Phiến thì Thành Ích nhìn vào cái giá súng ở góc hầm, tay xoay xoay những ống lồ ô cạo sạch vỏ xanh thành trắng làm thành những trang giấy xoay của lính. Hỏi Phiến:
– Thằng nào làm thơ đấy Phiến ơi?
– Thằng Hoan làm đấy.
Đại bác địch lại bắn. Trời mòng mọng những bọng nước dầm dề. Lá cây cứ dính vào nhau gỡ không ra. Thành Ích gọi:
– Hoan ơi, bọn tao sẽ làm nốt cho tròn hai ống thơ nhé. Ồi này bài này hay quá mày ạ. Say thuốc Lào là của đứa nào. Thằng Hoan bảo, bài của thằng Đấu Thái Bình đấy, hay dã man. Hí hí. Có hột thuốc lào chó nào đâu mà say. Nó bịa đấy. Thành Ích và thằng Hoan thân nhau vì chúng nó đều là hạt nhân văn nghệ Trung đoàn từ năm trước.
Thằng Hoan dặn:
– Khi nào “hết giấy” thì nhớ mang ống thơ về Thành Ích nhé. Chốt xê mình có đến 2 kilôgam thơ làm gì chả đánh thắng địch. Chúng nó cười he he lúc pháo địch éo éo qua đầu. Ngày đi vào chiến trường lính nào cũng có vài chục tờ giấy pơ luya, mươi cái ruột bút bi để biên thư. Có thằng mang bút máy Trường Sơn hay Hồng Hà thì lại thiếu mực. Xin nhau tí mực ở chiến trường khó ngang bằng xin thuốc ký ninh. Đánh trận lính dòm dòm kiếm được cái lọ mực trong ấp, trong đồn địch thì hết ý. Còn giấy Pơ luya chỉ sau vài tháng là khan hiếm vì lính xé ra làm giấy cuốn thuốc rê. Giấy hiếm, mực hiếm và đối với lính chiến dưới đơn vị thì hiếm nhất là khả năng gửi thư ra miền Bắc. Thế mà lính ta ở trên chốt vẫn làm thơ. Thơ như là niềm an ủi tinh thần lúc lính ta buồn. Khi đau khổ bi thương hoặc lúc vui sướng con người hay bật ra thơ. Nhưng hình như thơ ở lúc đau khổ buồn bã nhất thường hay hơn thơ lúc vui lúc sướng. Lính ta bảo với nhau thế. Thì ra lính lấy ống lồ ô lồng vào khung như giá súng. Cạo trắng mặt ngoài ống lồ ô ra làm giấy viết. Cái anh bút bi viết trên ống nứa đẹp đáo để. Viết đến đâu xoay ống đến đó. Thế là thành tờ báo tường trên chốt. Chả có tờ báo nào ngắn gọn súc tích và dễ xuất bản đến thế. Cũng chẳng người làm báo nào dễ chết đến như ở đây, viết báo trước mũi súng địch và buông báo là hạ gục những tên địch lầm lũi lao lên “tòa soạn”. Trên cái ống lồ ô ấy có cả thơ cả những bài văn xuôi ghi lại những trận giữ chốt của chính mình. Nó chính là sự ghi chép trận địa của lính. Hầu như những cảm xúc ở tờ báo ống này rất nhanh rất ngắn và rất thật. Ngồi ở trận địa mà viết ra văn được thì quá là tài. Phải là những con người dũng cảm và tài hoa. Thực ra nó có thể chả phải là văn. Cũng chả thể nói họ tài hoa nhưng nói họ dũng cảm thì rất đúng. Thành Ích từng biết có khúc lồ lô mang về được đến tiểu đoàn thì những người viết cũng đã hi sinh cả. Những trang “báo ống” có máu và âm âm những tiếng cười nói những thì thầm xen lẫn tiếng súng nổ của chiến trận.
Lần lên chốt này Thành Ích đọc được bài “ Ống “ của thằng Hoan. Thành Ích khoái lắm. Cái thằng da trắng như con gái nhưng được cái bắn cối 60 rất giỏi lại biết viết văn nữa chứ. Bài ống đại loại thế này. Lính chốt thuộc loại “ lính bốn ống”. Ống nước, ống cối, ống cóng, ống thơ. Góc hầm chốt nào cũng có vài ống bương nước dự trữ, những cái ống lồ ô nút lá để tích trữ nước dùng cho lính nhiều ngày không xuống suối. Ống cối là trận địa chốt nào cũng có cối 60. Thứ vũ khí cơ động bậc nhất của lính chốt. Ống cóng là cái cóng vật bất ki thân của những chiến sĩ đánh trận trong rừng. Cóng để đựng nước, cóng để lấy cơm để đun nấu. Một ống cóng chỉ đun vài cái lá bứa và tí mì chính là sống rồi. Chỉ có ống thơ thì gần đây lính ta mới sáng tạo ra. Làm thơ vào ống bương, đọc thơ trên chốt. Chả cần người uyên thâm nho nhe gì, lính ta cứ nói thật thế mà cũng ra cái câu nói rất chi quan trọng là “Bốn ống” nghe cao siêu vời vợi. Lính ta bảo cứ nói thật sống thật thì sẽ ra văn. Văn chương là ở sự sống bên cạnh sự chết. Không đặt cái sống bên cạnh cái chết thì sống có nghĩa lí gì? Sống chỉ quý giá khi đặt nó gần với cái chết. Vậy nên ở trên chốt nhiều thứ văn chương lắm. Văn chương chết và văn chương sống. Người chế ra văn thơ trên chốt chính là xạ thủ cối 60 tên Hoan. Thằng Thành Ích khoái ống thơ lắm. Nó bảo đấy là thơ lồ ô. Lồ ô là thứ tre Tây Nguyên nên thơ lồ ô rất chi là Tây Nguyên. Là người đi qua nhiều đơn vị khiến Thành Ích biết nhiều chuyện và thích ứng với nhiều hoàn cảnh. Cái thiệt thòi nhất của Thành là sự phấn đấu luôn bị đứt quãng. Sau này Thành cho rằng đó là sự đứt quãng đáng yêu. Thành chặc lưỡi, kệ đời thằng mục. Mình là lính chiến thì cứ chiến thôi. Thành Ích vui vì trong đơn vi nhiều thằng cũng nghĩ giống mình.
Trước khi về với trung đội của Quyết Hà Giang thì Thành Ích từng là lính của B phó Phiến. Thành Ích vẫn còn khoái một hồi được cùng Phiến đi làm nhiệm vụ ở nhà Hòa Hợp. Nhà hòa hợp là một dãy nhà tạm thời do hai bên dựng lên ở một vị trí giáp ranh chiến tuyến để hai bên quân ta quân địch đến đấy gặp gỡ nhau và để cùng hướng tới thực hiện các điều khoản Hiệp định. Nhà hòa hợp là nơi giao lưu để mong muốn người hai bên sẽ hiểu nhau hơn và cùng căm ghét chiến tranh cùng yêu hòa bình để một ngày nào đấy sẽ tiến tới thống nhất hai miền. Sự đời nghe thì dễ thế thôi mà đâu có dễ. Những tưởng nhà Hòa Hợp được dựng lên từ mong muốn hòa hợp thì sẽ là nơi chứng kiến sự nảy sinh và nhân rộng những ước muốn hòa bình cho cả hai bên. Thế mà chỉ vài tháng là thất bại. Mấy cái nhà hòa hợp không có người lai vãng khiến cả hai bên nhìn nó như một cứ điểm đã xuống cấp. Chả thấy bên ta phổ biến thất bại vì sao, cứ im im cho nó tự lùi vào dĩ vãng. Ấy thế mà Thành Ích và Phiến thì mỗi lần gặp nhau là dấm dứt nói chuyện về những ngày làm công tác hòa hợp. Theo Thành Ích đã thích hòa hợp thì hai bên đều không được tinh tướng. Cứ muốn tỏ ra ta hơn đối phương. Muốn hòa hợp mà không nhịn nhường nhau thì làm gì có hòa hợp. Hòa hợp để cho lính đỡ phải chết của cả hai bên cơ mà. Bên nào cũng khoe mình giỏi mình đúng. Giỏi cái khỉ gì, cứ cãi lấy được chả bên nào nghe bên nào. Thằng địch nói rất hăng về lí tưởng mà lí tưởng của đối phương đương nhiên là phải khác bên mình. Hì hì. Thành Ích cười. Chỉ tổ ban ngày nhìn nhau trên nhà hòa hợp tối lại phục kích nhau thì có mà còn lâu mới hết chết. Nói rồi Thành Ích thở dài.
Kể từ sau ngày nhà Hòa Hợp tan vỡ, bên nào bên nấy lùi về phòng tuyến của mình và lại là chuỗi ngày đánh nhau thí xác. Tiểu đoàn của Phiến nhận nhiệm vụ chốt giữ vùng ven liền tù tì vài tháng rồi. Mấy ông cán bộ tiểu đoàn lầu bầu, mẹ kiếp chả biết bao giờ các cốp ở trên mới cho D khác vào chia lửa ở cái hành lang “cắm cờ” này. Hoa thơm mỗi thằng ngửi một tí đi. Lính tráng rên rẩm, cách mạng là phải bằng nhau cơ mà. Có thằng lại bảo, thôi xay lúa khỏi ẵm em. Mẹ kiếp, chỗ nào chả oánh nhau. Chỗ nào chả là nhiệm vụ. Chỗ nào chả gian khổ hy sinh. Công việc tăng gia ở phía sau là trồng rau nuôi lợn cũng vinh quang chứ cứ gì thằng đánh nhau mới là dũng sĩ. Có thằng buông thõng một câu, chỗ nào chả chết. Ngay cả khi bỏ chạy về tuyến sau mà vẫn chết. Biết thế nào mà tránh được bom đạn. Lính tắc lưỡi, khắc đi khắc đến, kệ cha đời thằng mục.
Mưa thối nát cỏ cây, người thì nửa bò nửa đi nửa ngồi nửa đứng. Lên trên chốt mà ca cẩm khó khăn có mà ca cẩm hết ngày này sang tháng khác chả hết. Bao nhiêu nỗi khổ kể ra có mà đến mùa quýt chưa cạn. Lính ta thường nói thế. Ca cẩm mãi rồi lại cười với nhau hì hì. Đời thằng mục chỗ nào chả như chỗ nào. Bước chân vào đến Trường Sơn là lính nào cũng biết câu ca đời thằng mục… Thằng mục là thằng nào thì cứ mơ hồ vậy thôi, nhưng mà ai cũng thấy mình là thằng mục. Ấy vậy mà cấm có thằng nào bỏ chốt, chả bao giờ có thằng chuồn khỏi chốt cả. Cứ trần lưng ra mà đánh nhau mà chịu bom chịu pháo. Phía sau của lính là hậu phương mang nỗi hy vọng kỉ cương dòng họ và cha mẹ người thân trông chờ. Không ai muốn cha mẹ mình ở nhà sẽ một ngày bị xấu hổ vì sự hèn yếu của mình. Sống và chết cũng vinh quang như nhau đứng ngang hàng với nhau cho chí làm trai. Kỷ luật nặng nhất ở chiến trường là mất chốt là đào ngũ. Kỷ luật nặng thứ hai là bỏ mất xác đồng đội. Đã có những trường hợp hi sinh cũng phải quay lại mang xác đồng chí mình về. Đại đội trưởng bảo thế và lính thì thằng nào cũng hiểu thế. Bên kia suối là lính VNCH bên này suối là quân ta. Lính tráng được “quán triệt” rõ ràng. Đất đai của ta thấm máu đồng chí đồng bào nên chúng ta phải giữ, phải sống chết với đất. Không được nhu nhơ nghe chưa? Đừng có sợ chết. Sống ở ngay chỗ cái chết ấy, nghe chưa? Nghe rồi ạ. Lính đồng thanh dạ rồi nhưng vẫn phải hỏi lại. Thủ trưởng ơi, quán triệt là gì? Có phải là dặn dò không ạ? Thủ trưởng cười hì hì. Có thế mà cũng phải hỏi lại. Lại muốn tôi quán triệt cho lần nữa hả?
Bê phó Phiến dẫn trung đội xuống chốt. Mười một thằng tóc như rễ tre râu ria không ra râu ria, loe hoe khắp mồm cau cáu màu chì. Thằng Nhớn lầm lũi đi trước bỗng nó ngó lại:
– Anh Phiến ơi chỗ nào có nương cho bọn em kiếm quả bí quả mướp nắm rau làm vài ăng gô canh ăn nhé. Lại cái tội ca cóng. Phiến biết chiến sĩ của mình ở trên chốt mấy tháng nay háo lắm, nhưng kiếm quả bí quả mướp bây giờ là có tội với đồng bào. Thôi được, đoạn nữa đến cái nương đã bỏ hoang mấy năm trước hái rau tàu bay nấu canh với mì chính mà húp vậy. Phiến im im, rồi tiếng ừ chầm chậm thoát ra thành… hừ. Mùa mưa năm trước gạo ăn 2 lạng một ngày đói rã rời chân tay. Đi gùi sắn về cho anh nuôi vơ được mớ rau tàu bay xuống suối múc một ăng gô nước cứ xách đi mãi đến chỗ xa địch mới ngồi chẻ từng cái mảnh lồ ô khô mỏng như đóm hút thuốc lào rồi đun canh tàu bay. Đun như thế mới không có khói. Có sắn bên cạnh mà không dám ăn vì sợ mất phần anh em ở nhà đang đói. Vừa húp canh tàu bay vừa chảy nước mắt. Chảy nước mắt đấy mà không khóc được. Đói thì khó khóc lắm.
Chỉ nhớ nồi canh rau tập tàng của mẹ nấu lúc còn ở nhà thôi. Cái vị canh rau tàu bay hăng hăng ngòn ngọt…
Là lính đại học Sư phạm, Phiến đã từng ra nhà Hòa Hợp hồi tháng 3 tháng 4. Ở đấy Phiến và cán bộ địch vận từng nói chuyện với phía bên kia. Cùng hút thử thuốc lá của đối phương, cùng thăm hỏi quê quán tình hình vợ con rồi có cả lúc hát cho nhau nghe. Nhưng lính tráng thì đơn giản chứ cán bộ hai bên đối với nhau cứ sường sượng. Thế rồi lại oánh nhau. Con suối chảy dưới chân nhà Hòa Hợp nay thành ra con suối chạy phân chia hành lang Plei Dit. Nó chảy theo hướng đông về nam rồi quành sang tây. Thế là con suối chảy cả phía bên địch rồi lại sang phía bên ta. Hôm mới lên chốt thằng Nhớn quấn lá ngụy trang quanh người bò xuống suối. Nó lội qua suối chặt được mươi quả bắp chuối cho vào bao cát chưa kịp quay về thì gặp địch. Thấy tiếng AR15 rèn rẹt lại thấy tiếng US. Bê phó Phiến vội gọi thằng Hoan bắn mất vài quả cối 60 chặn đường cho Nhớn chạy về. Thằng Hoan bắn vài quả rồi lấy cành lá xua thật nhanh cho tan những làn khói mỏng. Tối hôm ấy Nhớn bị kiểm thảo về tội “ suýt chết vì miếng ăn”.
Ở chốt là cấm được ca cóng. Chỉ một tia khói le lói là ăn pháo ngay. Thế mà lính vẫn đun nấu được nồi rau khoai lang rồi húp xì xụp. Đêm khuya chui vào hầm che kín hai đầu bắc hăng gô lên nhóm lửa bằng mấy mảnh lồ ô khô chẻ nhỏ. Khói cay xè mắt, bịt mồm ho hừ hự. Đợt chốt này trung đội Phiến ăn may. Không mất thằng nào lại diệt được địch, đánh lui 5 lần địch mò lên trận địa, thu hồi súng và triển khai thêm hệ thống giao thông hào liên kết. Ngụy trang tài tình khiến địch không phát hiện được trận địa của ta. Vừa đi Phiến vừa cười một mình. Một sáng thằng Đấu ló đầu lên khỏi hầm cảnh giới. Quái lạ, cách cửa hầm chỉ chừng chục mét xuất hiện rau khoai lang xanh mơn mởn. Đấu mừng trong bụng. Lại được bữa no đây. Nhưng chột dạ, chiều hôm qua làm gì có lùm rau kia. Rất nhanh nó nổ súng đoàng đoàng vào cái mớ rau khoai lang. Một tiếng rú lên và hai cái mớ rau khoai lang khác vùng chạy. Cả chốt nổ súng. Có ba thằng thám báo chết ngay một thằng, hai thằng chạy qua suối thì cũng trúng đạn. Phiến cho thu hồi ngay rau khoai lang của địch quấn quanh người 3 thằng lính ngụy chết đưa vào hầm ăn dần. Trong mớ dây khoai lòng thòng còn lủng lẳng một củ khoai bằng ngón chân cái. Thằng Đấu lấy cái rút dép cạo đất trên củ khoai rồi nhai rom róp. Nó kêu ngọt thật. Ăn xong, mấy thằng ngụy trang lại cẩn thận rồi bò ra lôi xác thằng ngụy xuống chân đồi để khỏi ngửi thối.
Con suối chảy theo đường cắm cờ chỉ vài tiếng đi bộ thì nó lại quẹo về hướng quân ta. Thế là cái đường giáp ranh ấy cắt ngang suối. Từ lúc ấy con suối Yaleo này thuộc về quân Giải phóng.
Một hôm thằng Đấu Thái Bình gày cóc kẹ hỏi Phiến:
– Bê phó ơi, ở nhà Hòa Hợp ta và địch làm gì?
– Làm cái sự hòa hợp cứ làm gì. Mày không nghe chính trị viên quán triệt à? Cố đỉn thế!
Thằng Đấu lại hỏi:
– Các anh đi công tác hòa hợp hay được hút thuốc Điện Biên bao bạc. Bọn em ở nhà thèm vêu mõm.
Vừa lúc ấy gặp tổ tuần tra của tiểu đoàn đi ngược lại. Tổ trưởng tuần tra gọi B phó Phiến ra thì thầm vẻ nghiêm trọng. Rồi họ đi. Tổ tuần tra cho bọn đi chốt về nhúm thuốc rê của Miên. Phiến chọn một chỗ kín đáo cho nghỉ giải lao. Ngồi cuốn thuốc nhả khói mắt nhìn về mấy dẫy nương phía bên kia suối Phiến nhớ lại hồi đầu năm đi nhà Hòa Hợp. Cái nhà lợp tôn trắng của VNCH còn phần thân và tường do quân Giải phóng làm đơn sơ nhưng đẹp. Chỉ tội mấy ngày đầu mùi phảng phất xú uế vẫn còn. Phía ta, cán bộ chính trị chọn một số chiến sĩ có văn hóa ra tiếp xúc với phía địch. Bên kia cũng vậy, họ chọn sĩ quan tâm lý chiến ra đối đáp. Cái sự đề phòng nhau ấy khiến cho những cuộc tiếp xúc hòa hợp cứ sường sượng gai góc. Chỉ có những thằng lính đi theo cán bộ thì vô tư. Lính ta được hút thuốc Ruby của VNCH còn lính bên kia thì hít hà cái mùi thuốc Điện Biên bao bạc và chè gói Hồng Đào thơm ngát. Phiến bần thần ngồi kể với anh em trong trung đội của mình ngày cùng thằng Thành Ích ra nhà hòa hợp, rồi lại kể đận Thành Ích bị kỷ luật cho đi tăng gia tít ngoài núi Chư Prông. Mãi đến gần đây Thành Ích được phục hồi cấp binh nhất làm xạ thủ B40 và chuyển về trung đội của Quyết Hà Giang.
Chuyện cứ như bịa.
Phiến kể.
Phiến và Thành Ích cùng 2 cán bộ địch vận được cấp trên cử ra nhà Hòa Hợp. Có người lính VNCH hỏi Thành Ích:
– Anh có biết ca không?
Thành Ích cười:
– Tưởng gì, ca ngon lành mà. Thành Ích là cây văn nghệ của đội văn nghệ trung đoàn cứ mỗi năm biểu diễn một lần.
– Vậy anh ca tui nghe. Tôi thích nghe bài ca bên Việt cộng các anh.
Sẵn máu văn nghệ Thành sốt sắng:
– Anh thích bài gì bên tôi?
Người lính bên kia nói khe khẽ;
Tôi thích bài có câu… bến nước Cửu Long còn đó em ơi…
Thành Ích cười rất tươi. À, bài hát TÌNH CA”. Bài này là của nhạc sĩ người miền Nam đấy…
– Dạ vâng, chúng tôi thích lắm mà đâu có dám hát
Thế là mặc cho cán bộ hai bên đang chính trị chính em, mấy người lính xúm vào nghe nhau hát. Lính VNCH thì hát cải lương còn quân giải phóng Thành Ích hát Tình Ca.Phải nói là lúc ấy sự việc diễn ra quá đột ngột ngoài kịch bản của mấy anh sĩ quan địch vận trung đoàn. Họ nín bặt. Bài diễn thuyết dở dang. Họ nghe tiếng hát và chứng kiến nước mắt ngân ngấn của bộ đội Thành Ích và những người lính đối phương.
Ngay chiều hôm ấy từ nhà Hòa hợp về, Thành Ích được gọi lên Tiểu đoàn ngồi kiểm thảo. Sự kiểm thảo tức là viết bản kiểm điểm thật sâu sắc nộp cho chính trị viên tiểu đoàn rồi hôm sau vác ba lô đi tăng gia. Chỉ huy nói, không thể để loại lính tráng yếu kém về ý thức chính trị ra phía trước, nơi cọ xát cả về thể xác và tinh thần người chiến sĩ cách mạng với quân thù.
Phiến kể với anh em trong trung đội chuyện thiếu úy trợ lí địch vận tên Dụng là người quản lí số thuốc lá kẹo bánh từng ngày lên nhà hòa hợp. Mỗi hôm lính bên này bên kia hút thuốc của nhau cũng chỉ vài điếu, còn lại cuối ngày anh Dụng địch vận lại mang về niêm phong lại ghi sổ đàng hoàng. Hôm sau lại mang bao thuốc ấy lên nhà hòa hợp. Chỉ một tuần là bao thuốc hết mùi thơm. Lên nhà hòa hợp chả ai động tới. Bao thuốc dở để mốc được anh Dụng ghi vào biên bản giao ban “còn 4 điếu thuốc mất mùi…”. Thằng Nhớn nuốt nước bọt. Phí thế mất toi 4 điếu Điện Biên bao bạc.
Thằng Đấu còi hỏi Phiến:
– Thế còn vụ thịt bò hòa hợp là sao? Hồi đó em cũng được ăn thịt bò nhà Hòa Hợp đấy nhé.
– À ừ ừ chuyện thế này. Phiến kể:
Một hôm bò của dân tràn qua lối hàng rào cũ của đồi X30 thì dính mìn. Con bò to dễ đến hai tạ. Cách nhà Hòa Hợp chỉ chừng 100 mét. Cả hai bên nhìn nhau. Chả bên nào nói gì. Phải cuối giờ trưa viên sĩ quan bên kia mới rón rén đề nghị. Hai bên cho người ra xẻ thịt con bò cho lính ăn kẻo phí. Bên ta thì ông trợ lý địch vận giả vờ ngần ngừ hồi lâu… rồi mãi sau cũng đồng ý. Thế là lính ta lính địch mỗi bên cử hai người dò dẫm ra xẻ con bò ra làm đôi. Bỏ cái đầu lại, còn mỗi bên vác về một nửa con đủ 2 chân. Chiều tối hôm ấy chia mỗi đại đội một ít. Giữa mùa đói kém được ăn miếng thịt bò thật như uống nhân sâm.
Ngồi hút thuốc ven rừng, kể chuyện với đồng đội mình về nhà Hòa Hợp hồi đầu năm Phiến lại nhớ lúc ngồi ở nhà Hòa Hợp nhìn về phía đông, phía bên kia con suối. Phía ấy, những mái nhà lợp tôn trắng lóa mắt, nghe ru ru động cơ xe bình bịch, cái thứ tiếng động rất quyến rũ mà xa lạ với lính mình. Ở đó cũng những bản làng có lùm chuối và những ngọn pơ lang chòi lên giữa xanh thẳm lồ ô. Phía trước phía sau hai bên con suối, cả hai phía đêm đêm vẫn pung ping tiếng tơ rưng thâm trầm vọng vào đêm vắng.…
Những bản làng người Gia rai, Ê đê ở bên vùng địch là vùng dồn dân nhà tôn loe lóe dưới nắng. Còn làng ở bên quân giải phóng thì tất cả là lợp lá trung quân. Đàn bà con gái ở những làng bên kia mặc quần ca tăng áo pul sáng màu nhóng nhánh. Rõ nhất là con gái bên kia mặc áo ngực còn con gái bên vùng giải phóng của ta thì thả rông. Phiến cười nói với anh em, gái bên giải phóng cứ để lũng lẵng thế trông lại hay đáo để.
Suỵt. Có hai người từ bên kia suối lội sang. Cả tổ chốt nép vào bụi cây. Thì ra đó là 2 cô gái đi nương về. Phiến thở phào còn thằng Đấu vui ra mặt.
– Chào đồng bào cách mạng.
Hai cô gái ngực căng như ngực chim cu gáy, hai cái quai gùi thít chặt khiến cặp vú vênh lên, cười đỏ má.
– Bộ đội đi công tác? Bộ đội ưng dưa, ưng bí của đồng bào à?
Thằng Đấu làu bàu:
– Mẹ kiếp họ lại bảo bọn mình đi mổ dưa đi mổ bí của họ. Cái đồng bào giáp ranh này cứ nhơn nhơn, họ thân cả bên ta lẫn bên địch anh Phiến ạ. Rồi nó hét to:
– Đồng bào nói chơi chơi. Bộ đội không quán triệt cái bí cái dưa của đồng bào đâu nhé.
Hai cô gái cười. Hạ gùi đầy ngô mới bẻ trên nương xuống và cùng ngồi dưới lùm cây dẻ gai. Thằng Đấu nhìn bê phó Phiến nói nhỏ:
– Em còn cái cuộn chỉ đen, anh cho em đổi mấy quả ngô nhé. Ngô của họ thơm lắm. Phiến ừ. Hai cô gái nhìn cuộn chỉ của thằng Đấu làm ngơ. Cả hai cô liếc về phía thằng Hoan trắng trẻo. Thằng Đấu còi hiểu ngay cầm cuộn chỉ đưa cho thằng Hoan.
Đấu liến thoắng:
– Bồ đồi Hoan đoàn kết đồng bào, đổi bắp, ăn bắp làm cách mạng.
Hai cô gái nhìn Hoan rồi ghé tai nhau nói nhỏ, đoạn cười ré lên. Thằng Đấu còi dỏng tai rồi cũng phá lên cười
– Đồng bào nói trúng cái bụng bộ đội rồi. Trúng rồi.
Hoan hỏi, nó nói cái gì hả mày? Đấu nháy nháy mắt. Nó bảo mày to cao trắng trẻo là nhiều nước, Còn tao gầy đen nó bảo tao ít nước. Cả trung đội cười rũ rượi. Hai cô gái đưa cho Hoan đến hơn chục bắp ngô. Xong xuôi vụ đổi ngô hai cô gái nói:
– Ây dà, bộ đội ưng cái bắp của đồng bào nhiều nhiều. Cái lính Quốc gia họ cũng vừa xin bắp mình. Mình cũng cho họ đấy mà.
Cả tổ chột dạ. Hỏi:
– Đồng bào vừa cho lính Quốc gia bắp hả? ở đâu?
– Bên kia suối kìa.
Đúng lúc ấy súng nổ. Tiếng AR15 roen roét. Phiến và Đấu lăn vào bụi cây rồi bắn mỗi thằng nửa băng AK về bên kia suối. Cả hai bên cùng kéo nhau chạy. Thằng Nhớn xốc một cô thằng Đấu kéo một cô. Váy áo và gùi bắp tơi tả. Rừng im lặng. Cả tổ vô sự. Hai cô gái bản cũng vô sự, một cô bị rách váy đến tận mông phập phành mếu máo:
– Ầy dà, cái línhlính Quốc gia nó xin bắp mình nó lại bắn mình chớ. Không tột không tột! Hu hu! Thằng Nhớn liếc cái váy rách phấp phới cười tủm tỉm. Hỏi, anh Phiến ơi bọn này nó không mặc quần lót à? Vừa lúc cả lũ cười ré lên thì lại một tràng AR15 réo qua. Phiến dẫn anh em đi về hướng tiểu đoàn còn hai cô gái lẹo dẹo đeo gùi bắp về bản. Con suối chảy giữa rừng tự dưng thành cái ranh giới tạm thời của vùng giải phóng và vùng còn của VNCH. Con suối chả có tội lỗi gì mà nó cứ phải chứng kiến những cuộc bắn nhau dai dẳng nhiều năm. Vừa lúc qua một khúc suối nhỏ thì gặp một chú lính trắng trẻo thư sinh ngồi bên cái ba lô cũ màu đã bạc. Nhìn thấy lính chốt về nhoẻn cười. Anh ta hỏi, này các anh ơi các anh đi chốt về đấy à. Chốt lâu không mà tóc tai gớm giếc thế? Qua suối này là sang nó ngay đấy hả. Chào nhé các đồng hương. Đột nhiên Phiến quay lại. Cái ba lô màu bạc, da trắng thắt k59… đúng rồi. Phiến gọi này đồng hương ơi, anh đi cùng chúng tôi về tiểu đoàn bộ luôn kẻo lạc đường vào địch. Anh lính trả lời, thôi các anh cứ đi đi. Tôi đi sau. Phiến gắt, anh đứng lên đi vào giữa chúng tôi. Người lính thoáng bối rối rồi đứng lên. Phiến mở khóa nòng AK đi kề sau người lính. Đúng rồi, cóc ba lô bên trái rách khâu bằng miếng ni lông đen. Người này cao 1 mét 65, da trắng đúng như tổ tuần tra vừa dặn dò kỹ với Phiến. Bỗng người lính quay phắt lại Phiến và rút khẩu súng ngắn. Đoàng đoàng Phiến bắn ngay. Trung đội giật mình quay lại thì người lính chiêu hồi đã chết. Ba lô vẫn dính trên người. Chỉ sau 15 phút các tổ tuần tra đã đến nơi. Nhìn thấy người lính nằm chết ven đường đều cẩn thận giở giấy ra xem những thông báo chi tiết từ trên sư đoàn. Sau khi đối chiếu thấy đúng là tên công vụ trên cơ quan đi chiêu hồi thì ai nấy thở phào. Tối hôm ấy điện từ Trung đoàn xuống khen ngợi tiểu đoàn của Phiến đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Họ nói đây là một chiến công đặc biệt. Chiến công đặc biệt mà chả thấy thưởng huân chương hay bằng khen gì cả. Nghe đâu ông chính ủy gửi tặng ban chỉ huy tiểu đoàn một gói thuốc lào An Thái loại 100 gam. Chiến công ấy được ỉm đi rất nhanh và không ai muốn nhắc đến. Người lính chiêu hồi ấy chỉ còn lại trong những câu chuyện nửa kín nửa hở. Ai cũng chỉ biết đến thế và được khuyến cáo không nên đồn đại nhỏ to gì nữa chỉ để lại cho trung đội phó Phiến đại học day dứt.
Đêm ấy B phó Phiến không tài nào ngủ được lấy một tiếng đồng hồ mặc dù ở trên chốt về đại đội cho nghỉ 1 đêm không phải gác. Người lính kia không hiểu vì sao mà lại đi chiêu hồi? lại lấy được cả sổ ghi chép của thủ trưởng, rồi lại cả súng k59 nữa. Phiến cứ phân vân, rồi người ta sẽ báo tử cho anh ta thế nào? Cha mẹ anh ta sẽ đau buồn ra sao. Đã chiến đấu nhiều trận diệt nhiều địch nhưng hôm nay Phiến lại phải diệt một người từng là đồng chí mình. Cảm giác bất bình thường cho một người lính. Sao anh ta lại chọn cho mình kết cục này? Chết và sống cứ liền bên nhau thậm chí có lúc lẫn lộn vào nhau.
Đây là lần thứ 2 Phiến bắn vào người bên mình. Trước đó Phiến từng 3 lần là dũng sĩ. Nhiều lúc Phiến cũng không lí giải nổi cuộc đời mình sao lại hẩm hiu đến thế. Phiến đã gần chục lần bắn hạ lính đối phương, đã gặp nhiều cái chết mà sao chẳng thể quen. Cứ mỗi lần hạ một tên địch là Phiến lại mất ngủ. Mỗi lần chôn đồng đội lại càng dằn vặt thao thức vài đêm. Nhập ngũ năm 1971 từ trường đại học, Phiến phấn đấu là trung đội phó huấn luyện quân rồi dẫn quân đi B. Vào chiến trường đúng năm đỏ lửa, chiến đấu liên miên. Trung đội trưởng Phiến đã nổi tiếng chiến đấu gan dạ trong tiểu đoàn. Cuối năm 1972 phục kích đánh địch giải tỏa đường x5 thám báo địch luôn bám sâu vào đội hình ta đặt mìn và tập kích. Một đêm Phiến đã bắn nhầm vào một chiến sĩ của trung đội bạn bò sang xin thuốc lào. Khổ nỗi khi Phiến hô khẩu lệnh thì anh lính đó lại bỏ chạy.  Thế là Phiến nổ súng. Những ngày sau Phiến như người mắc bệnh trầm cảm. Lúc nào đầu cũng lắc lư và lảm nhảm nói cái gì đó, rồi khóc rồi cười. Đang từ trung đội trưởng Phiến bị hạ xuống tiểu đội phó. Phiến tâm sự với anh em vào chiến trường sau mình, đời chả biết thế nào mà lần. Chả ai tài giỏi với súng đạn, chả có cái chết nào giống cái chết nào. Chỉ có mỗi một cái giống nhau đó là một nỗi đau buồn tột cùng cho một người mẹ ở quê thôi.
Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 4
Cập nhật ngày: 7 Tháng Mười Hai, 2023 lúc 13:56
Vanvn- Bỗng một loạt AK rồ lên. Dưới bờ suối cạn có tiếng chó kêu ăng ẳng. Thành Ích chạy vội xuống bờ cát vàng thì thấy thằng Đấu xách súng đứng mặt như mếu. Đấu còi bảo, mẹ cha mấy con chó nó tranh nhau cắn xé chân tay người. Tao bắn lũ chó khốn nạn ấy đấy. Thôi tao đéo uống uống nước ở đây nữa. Con suối này biết bao nhiêu là xác người…
A person standing in front of a body of water

Description automatically generatedNhà văn Nguyễn Trọng Luân
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 3
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 2
>> Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 1
 
24.
Nhật kí của Trung đội trưởng Quyết ghi:
Ngày… tháng… năm…
Chả biết bây giờ thằng Hán Vân Đồn ở đâu? Liệu nó có được đi học đại học tiếp hay không? Sức khỏe ấy cũng khó khăn cho nó lắm. Mình bổ sung vào chiến trường cùng đợt quân Quảng Ninh toàn những thằng to khỏe nhanh nhẹn. Thằng nào cũng nghịch như quỷ mà thương nhau đứt ruột. Lần đầu tiên mình mới hiểu người ta nói người khu mỏ ăn sóng nói gió mà thâm trầm sâu xa. Thằng Hán lúc thì gọi là Hán Vân Đồn lưc thì gọi là“Hán đảo”. Nhà nó ở tít ngoài một hòn đảo cuối Bái Tử Long. Nghe chúng nó bảo thế chứ cả đời mình đã biết biển là gì đâu. 
Vừa cắm cờ hiệp định xong, kẻ địch đã đưa quân phá hoại hiệp định. Chúng cho quân lấn chiếm vùng của ta. Tiểu đội mình được lệnh cùng đi với tổ cối 82 vác vai của tiểu đoàn luồn sâu vào đường 14 đánh tập kích. Nhận lệnh thằng nào cũng sương sướng. Sướng vì sẽ ra mặt đường mà tẩn nhau khỏi phải chui rừng chui rú nữa. Đánh nhau mà cứ phải né phải núp khó chịu bỏ mẹ. Lính ta nhiều khi cứ bảo nhau anh hùng thì việc gì phải núp. Nhưng rồi thằng nào cũng sờ sợ. Sợ vì lính ta ở mãi trong rừng như người cớm nắng, thò ra khỏi rừng là choáng là chói tai lóa mắt. Rõ thật là phải một vài trận mới quen mới định hình được tinh thần mới. Biết mình là sinh viên nên thằng Hán đảo và cả tiểu đội Quảng Yên cũng hơi quý mến. Cái thằng tên Đỗ Chủng người sắt như cái dầm chèo luồn rừng nhanh như sóc. Nó bảo quê tao là một vùng rừng rậm rạp ven biển mà cha ông đã làm nên sử sách đấy nhá. Thằng nào không biết chuyện nhà Trần cắm cọc đánh giặc Nguyên Mông thì đừng có hòng biết thế nào là chống ngoại xâm. Đêm đêm nghe thằng Chủng kể chuyện bãi cọc Bạch Đằng, nghe thằng Hán kể chuyện Trần Khánh Dư dụ địch ở Vân Đồn mình cứ như cậu học trò ngơ ngác. Những người đồng đội của mình đấy, họ vừa là bạn vừa là em là anh vừa là người thầy với mình. Người ta bảo đời bộ đội là một trường đại học quả là không sai. Nhưng mà cái trường đại học này hay chết sinh viên quá. 
Tết xong mới được hai tuần. Tiểu đội mình ra đến ngã ba An Mỹ. Chỗ này có một đường rẽ về Phú Bổn một đường chạy về Buôn Mê Thuột. Địch chốt ở đây có vẻ vững chãi đã nhiều năm. Lần đầu tiên chúng bị quân ta gõ đạn cối vào đầu rồi chuồn mất hút. Cứ thi thoảng tổ luồn sâu dựa vào du kích lại bê cối đến một khu vườn nào đấy thả vài quả rồi lại rút. Con đường quốc lộ chạy lên núi Hàm Rồng đầy hoa vàng cỏ xanh bỗng trở thành con đường chết chóc. 
Hai năm sau Quyết là trung đội trưởng và lại một cuộc hành quân đi về đúng nơi tiểu đội mình đã trú quân để phục kích đường quốc lộ đoạn ngã ba An Mỹ. Những chiến sĩ ngày ấy người đã hi sinh, người thì bị thương ra Bắc người thì là tiểu đội trưởng chuyển đi trung đội khác chỉ còn Đỗ Chủng là tiểu đội trưởng cùng trung đội.
Nhật kí của Trung đội trưởng Quyết ghi:
Ngày tháng  năm 1975.
Thế là đã hết một ngày hành quân. Hành quân từ sáng mặt trời ở bên má trái đến lúc mặt trời xuống dưới cằm má bên phải mới dừng lại. Không có cuộc họp nào về hành quân chỉ thấy bảo đi là đi, mà mang đi tất tật không bỏ lại cái gì chỉ trừ mấy nương sắn. Trung đội mình oải vì đeo hai con lợn con chừng hơn mười ký. Những anh nào đến phiên cõng lợn thì được chuyển bao gạo và bao đạn saang cho người khác. Hôm đầu chưa có kinh nghiệm lợn đái ướt hết ba lô khai khú. Nước đái lợn ngấm vào lưng áo, nắng lên cả lưng xót như xát muối khắm lặm. Từ hôm sau lính ta lót tấm ni lông trên bao lô khiến dọc đường hành quân nước đái lợn chảy tồ tồ. Tối hôm ấy tiểu đội trưởng Chủng mắc võng gần mình tỉ tê. Chỗ này ngang với ngã ba An Mỹ ông ạ. Ừ phải. Thế rồi lại quay sang chuyện về thằng Hán Vân Đồn. Nghe Chủng nói đến đây mình vùng dậy phải ghi vào nhật ký, đây là câu chuyện đã hơn hai năm rồi, khi ấy mình là tiểu đội trưởng… 
Hôm ấy, nắng le lói cuối mùa khô và lom thom những bông hoa quỳ cuối mùa dọc đường 14. Ngoài đường xe địch chạy lên chạy xuống, vừa chạy chúng vừa bắn hú họa sang hai bên đường. Phía Hàm Rồng và Thanh An pháo chúng nó gõ như cầm nhịp cho dàn đồng ca ra rả tiếng ve trên cao nguyên. Hôm vượt qua nông trường chè Bàu Cạn thằng Hán Vân Đồn vơ được một túi cóc đầy chè búp. Tối ấy chui dưới hầm nó vò nát chè rồi đốt lom nhom lửa dưới hầm sao chè bằng cái ăng gô vuông. Đã mấy ngày nay tiểu đội mình có một tổ du kích một nam một nữ đi cùng. Cô gái Gia rai mới 18 tuổi áo cổ thuyền eo thon như con ong bò vẽ. Cô bảo tên mình là Hơ RLấp. Vì cái tên khó gọi nên lính mình cứ gọi là Rấp cho tiện. Sáng ấy tiểu đội ra phục đánh đường. Nghe du kích báo hôm nay sẽ có một tốp xe có tên chi khu trưởng Phú Bổn đi lên Pờ lây Cu thế là cả cối và tiểu đội bộ binh áp đường phục kích. Xe địch chay qua bị đánh cháy 2 chiếc còn thì lũ lính tán loạn nhảy vô rừng. Chỉ trong vài phút pháo địch trùm vào trận địa có mươi tay súng của ta. Dứt loạt pháo nổ, mở mắt ra thằng Hán nhìn thấy một bàn tay đeo đồng hồ rớt trên bãi cỏ trước mặt kêu lên tay thằng nào kìa chúng mày ơi!. Cũng đúng lúc ấy nó nhìn xuống tay mình máu chảy mà nó vẫn chưa thấy đau. Mahr pháo đã cắt lìa bàn tay nó ngọt lịm. Mình hô anh em rút lui nhanh. Thằng Chủng rất nhanh chùm lên tay thằng Hán cái khăn bộng dạ dày trâu rồi buộc chặt lại và chạy. Cô du kích Rấp nhặt vội cái tay thằng Hán còn dính cả cái đồng hồ chạy theo sau. Chiều ấy tiểu đội mình đươc lệnh rút về kết thúc đợt luồn sâu. Thằng Hán được khiêng ra viện X211 rồi đi Bắc. Nó xa bọn mình từ bấy đến giờ. Nghe nói cô gái du kích tên Rấp mang cái tay thằng Hán về chôn ở vườn nhà mình và gửi trả cái đồng hồ pol jot cho quân giải phóng. Đêm ấy khuya lắm tiểu đội trưởng Chủng kể rằng mới đi với nhau vài hôm đánh phục kích mà cô du kích tên Rấp đã cảm tình với thằng Hán. Có lần cô ta hỏi Chủng. Anh ơi nhà anh Hán ở đâu? Ở vịnh Bái tử Long, Chủng đáp. Là ở chỗ nhiều nước hả? Chủng bật cười. Ừ phải nhiều nước lắm. Cô gái cũng cười, cái cười tươi như nắng đọng trên hoa dã quỳ. 
 Tháng ba Tây Nguyên trời trong và hoa cà phê muốt mát trắng cánh rừng. Cao nguyên xa tít tắp là màu vàng của nắng và tiếng đại bác tiếng máy bay tuyệt vọng.
Tháng ba Tây Nguyên nắng òa xuống những cánh rừng nức nở hương hoa cà phê. Đi trong hương hoa cà phê mà người như say. Bộ đội đuổi địch chạy ràn rạt trên những cánh rừng hoa xấu hổ bắt đầu hé mắt tim tím.
Tháng ba nền trời xanh đến thắt ruột. Màu rừng thì vàng. Cái thứ vàng óng ót và màu nắng có ánh lên bụi đất đỏ bazan… đánh trận đã liền hơn nửa tháng không nghỉ ngày đêm nào. Thắt thẻo, vội vã, nhưng nhức, rạo rực, thậm thịch bước chân chiến trận. Bấy giờ hai Tiểu đoàn của Trung đoàn 3 nằm lại trong những cánh rừng cà phê, cách Buôn Hồ 2 kilômét về phía bắc.
Nắng tháng ba ở Tây Nguyên như mật. Hoa cà phê trắng muốt, thơm nức nở. Bàn chân sưng tấy lên vì những chặng hành quân rồi tác chiến liên miên từ đầu tháng tới giờ. Lính của Thành Ích lấy được cây đàn ghi ta trên đồn địch từ hôm qua, mấy thằng chúi đầu vào nương cà phê ôm đàn tập tưng. Máy bay địch vè vè lên rồi lại vè vè quay xuống. Kệ mẹ nó, mấy thằng lính đang ngồi hát với ghi ta. “Róc rách róc rách, nước luồn qua khóm trúc lá rơi lá rơi”. Này! Hát bé thôi. Đợi lệnh hành quân mà cứ như đi hội diễn văn nghệ thế à? Có thằng nào đó cười he he, trung đội trưởng là ca sĩ Trung đoàn thấy anh em hát thì phải ủng hộ chứ ạ. Thành Ích nhìn mấy chú lính mới bổ sung da vẫn còn hồng hào đáng yêu chợt nghĩ, chả biết chúng nó có tồn tại qua hết chiến dịch này không? Trong số đó hầu hết là học sinh vừa học xong cấp 3 năm ngoái. Có một chiến sĩ tên Hạnh mới vào tặng cho Thành Ích cuốn sổ tay. Nó bảo để trung đội trưởng làm thơ vào đấy thỉnh thoảng đọc cho bọn em nghe.
Pháo địch vẫn soèn xoẹt trên đầu, nằm chờ xe chả có việc gì phải làm. Thành giở cái ví nhặt được của một người lính VNCH hôm 12/3 ra xem. Có mấy tấm ảnh. Mặt sau của một tấm chụp người con gái mặc đồ tắm trên bãi biển, đề “Tình yêu bất diệt – Nha Trang mùa hạ 1971”. Ôi thấy sao cuộc đời đẹp thế… Rồi lại nghĩ bao giờ mình có được tặng tấm hình như thế này nhỉ? Khao khát ngày về, khao khát yêu khao khát đi học cứ thường trực trong đầu người lính. Rồi chợt nhớ, không được hữu khuynh. Ừ thì rõ rồi mình đâu có yếu mềm trong chiến đấu, thèm yêu thèm hát những bài ca tình cảm cũng ngài ngại. Thành Ích cứ thấy mình mâu thuẫn ngay cả với mình. 2 giờ chiều. Lệnh phát ra. Tất cả hành quân. Ồn ào, vội vã tràn ra đường 14. Chân đã lở loét lại càng nặng chình chịch vì ba lô và súng đạn, khiến những gương mặt lính chỉ nhăn với nhó.
Nắng vẫn vàng sau lưng, mồ hôi ướt nhoáng cả trên nòng cối 82 và trên những khẩu DKZ. Nhìn bọn hỏa lực thập thiễng khiêng đế cối, rạp lưng vác bầu nòng 12 ly 7 mà thương… Xe ô tô ào đến, đón lượt đầu rồi lượt hai tụi tiểu đoàn 7, chạy ngược về hướng bắc. Còn d8 vẫn hành quân bộ. Cứ thẳng đường 14 mà đi, mà chạy. Ven đường là những cây thông to và những bụi lau bạc phơ. Trời tháng ba nóng như sấy ba lô. Hơi thở ra mà cứ như cốc nước sôi kê lên miệng. Sao không cho bộ đội đi vào rừng nhỉ, địch cho máy bay oánh thì sao? Cán bộ D bảo kệ máy bay, đã có thằng cao xạ lo rồi. Chừng 5 giờ chiều thì đoàn xe bụi ngầu đỏ, tơi tả lá ngụy trang quay lại đón D8. Ra là xe chạy cuốn chiếu Bộ đội mệt quá, chen chúc lên xe cả trung đội ngủ luôn. Trung đội của Quyết và Phiến vẫn còn phía sau, xe của Thành Ích vượt lên trước. Chắc được chừng non hai tiếng đồng hồ, thì giật mình vì pháo bắn cách chừng 100 mét. Mảnh đạn bay viu víu. Gần 7 giờ tối, nắng đã tắt, mà trời vẫn sáng mờ mờ. Rừng cứ hồng hồng cái màu rất sợ. Cái màu hồng trước khi tím sẫm lại. Hơi bom, pháo khét lẹt cả cánh rừng. Đạn rơi trên sườn núi đá, khói nghèn nghẹt. Tiếng nổ vang vọng bên này sang bên kia oang oang. Kệ, cứ cố mà ngủ. Đã gần hai chục ngày tác chiến, đi liên tục, không có một đêm ngủ, không có một nơi trú quân lấy nửa ngày. Chân sưng lên, mắt hõm xuống. Nắng và bụi đỏ nhuộm trên tóc. Bụi đất chui vào họng, vào mũi, dính khin khít. Cổ họng lúc nào cũng như sắp nghẹn. Mắt ai cũng hai cục rỉ to như con nhặng, đến khiếp.
Xe đổ quân ngay chân ngọn núi đá cao ngất có một con suối rất đẹp.
Trời sám quánh lại. Địch bắn pháo qua núi chặn đường tiến của quân ta. Nghe tiếng nổ vang dội, đập vào vách núi, biết phía bên kia là Cheo Reo. Cả Tiểu đoàn không theo con đường chính nữa, mà sẽ vượt ngọn núi này, chạy tắt rừng chặn địch ở phía nam thị xã. Trong lúc lội suối để sang chân ngọn núi phải trèo, cán bộ tiểu đoàn nói là D9 đã đi trước, đang chặn địch ngoài đường rồi. Còn D7 giờ này thì đang xuống núi, chỉ có chúng ta bây giờ mới bắt đầu trèo lên. Chắc phải đến sáng mai mới qua được núi.
Suốt đêm, súng đạn, ba lô thít chặt vào ngực, có những lúc tưởng như không thể bò lên được, có những lúc muốn khóc quá mà không thể nào khóc được. Thành Ích lấy đoạn dây dép đốt lên soi đội hình của trung đội. Nhìn những tân binh ra trận lần đầu mà thương. Họ hưng hức rên rỉ mà không ra được nước mắt. Nghe có đứa gọi mẹ ơi, bố ơi trong đêm… Mười hai giờ khuya lên đến đỉnh núi. Nhìn xuống thung lũng Cheo Reo lửa đỏ rực, đạn vạch thành những đường đan chéo nhau đỏ vùn vụt. Cả thị xã bùng nhùng chuyển động những khối lửa. Trên cao nghe chỉ thấy tiếng súng lớn, Mệt quá, mà không được nghỉ. Lúc thì chui trong rừng cây rậm rạp, lúc thì tụt xuống vách đá hun hút. Khi leo lên đã vất, nhưng vẫn còn dễ hơn lúc tụt xuống. Tối như hũ nút, tối như bưng mắt. Cứ tụt bằng đít. Đến lượt bàn tay bám đá toe toét máu. Liên tục cán bộ giục nhanh lên. Chậm là lực lượng địch chạy mất thì ra bã. Lính thì lẩm bẩẩm, chúng tôi cũng đang đi nhanh đấy, hành quân bằng chân, bằng tay, bằng cả đầu đấy thôi. Các trung đội bộ binh mỗi người phải vác thêm một quả cối cho bọn hỏa lực. Có tiếng rên ư ử. Thành vội chạy lại thì ra một thằng lính đợt quân Phú Thọ lần đầu vào trận, ôm trước bụng quả cối 82, mếu máo , tay trái em trèo cây bị gãy từ hồi bé, không ôm được quả đạn, nó cứ tụt xuống anh ạ. Thành bảo nó, đưa khẩu súng AK anh vác hộ. Lúc ấy nó mới khóc được. Khóc một lúc hình như nó khỏe ra, lại đòi lại khẩu súng.
Trời sáng thì Tiểu đoàn xuống đến chân núi. Cánh rừng từ đây ra đường 7 còn 8 kilômét nữa. Rừng thưa, bằng phẳng hơn, nhưng đầy đá và suối cạn. Cỏ mùa khô vàng hoe, cao đến gối, rặt những khoọc và loại cây có gai ô rô. Tiếng súng nghe càng rộn rã, bộ đội chạy cuống quít, cán bộ giục rối rít suốt hàng quân. Thành ngoái lại thấy Trung đội trưởng Quyết và Phiến đang hò hét trung đội mình thắt chặt ba lô để vận động. Ròng rã một đêm leo núi, bây giờ lại chạy. Người cứ lủng lẳng muốn lăn quay ra đất. Thỉnh thoảng đại bác lại xoe xóe qua đầu. Chỉ có tiếng pháo mới làm cho lính như khỏe ra, chạy được. Còn cách đường 7 chỉ một cây số thì D8 đụng địch từ trong rừng nhô ra, cả lính và xe tăng chạy dạt vào. Tiểu đoàn nhiều thằng không kịp quăng ba lô nổ súng đánh ngay.
Mấy đứa 12 ly 7 giá súng nhanh thế, hàng loạt đạn nổ đùng đùng. Mấy khẩu B40, B41 nã loạt đầu chả có xe tăng nào cháy, chúng quay ngoắt lại, rẽ hướng khác tháo chạy. Lá rừng đổ rào rào. Cành cây kêu rôm rốp. Có tiếng la hét: Một cậu B40 vừa phang một quả trúng vào tụm địch 5- 6 thằng. Lệnh Tiểu đoàn truy kích ngắn. Thành Ích dẫn trung đội vừa chạy vừa bắn. Một trận tao ngộ chiến chả biết đâu là đơn vị mình, đâu là đơn vị bạn, cứ thấy địch là bắn. Cánh rừng cỏ đẹp thế mà đã vài mươi cái xác lính.
Lúc này con đường từ thị xã về đèo Tu Na xe địch bị bắn cháy nhiều quá nên địch hoảng loạn, chạy thục mạng vào rừng. Khổ nỗi, cánh quân này lại chạy vào đúng sở chỉ huy Trung đoàn 3. Vậy là tiểu đoàn 8 đang lo xúi quẩy vì đến sau lại gặp ngay trận đánh trong rừng bảo vệ E Bộ và khối trực thuộc. Chả kịp đào hầm nữa.
Thành Ích cho bộ đội của mình khẩn trương ăn cơm nắm. Nắm cơm từ trưa hôm qua khô như quả bưởi Đoan Hùng ngày Tết chưa kịp gọt. Nước thì hết. Nấp sau tảng đá, bụi cây, lính ta làm bữa sáng. Ngoài đường chắc đánh dữ lắm. Tiếng xe tăng gầm rú, tiếng B40, tiếng lựu đạn, phóng lựu… lúc òa lên rộ rạt, lúc ắng xuống. Máy bay gầm rú thả bom ngoài bờ sông, phía đông trận địa của bọn tôi. Hướng nào cũng mù khói, cũng la hét. Cho tới chiều, đã mấy đợt đánh bằng súng bộ binh, bắn mấy đợt xe tăng mà những cánh quân địch vẫn tràn vào cánh rừng có trung đoàn bộ. Tranh thủ lúc truy kích địch, chúng tôi kiếm tìm ba lô mà chúng vứt lại. Thành Ích có được mấy bao thuốc Basto, tựa lưng vào gốc cây hút khoan khoái. Có thằng bảo lâu lắm mới có thuốc hút, thật là hút quên chết. Thành Ích quay nhìn người lính của mình mà thương.
Thì ra cái sống cái chết đơn giản thế thôi sao, ngay cả trong lúc gay cấn nhất người lính chỉ cần một sự vỗ về, một thỏa mãn giản dị thôi cũng đủ xoa dịu nỗi lo về cái chết đến bất kỳ lúc nào. Thành bỗng nhớ là mình đã có mấy tấm ảnh trai gái miền Nam. Tranh thủ im tiếng súng liền mở ra xem. Trong đì đùng bom pháo xem mà thấy nhẹ cả lòng. Ở chỗ chết người lính chỉ cần có tấm ảnh người thân để nhìn, có những dòng chữ thân thương để nhấm nháp là nỗi sợ cái chết sẽ tan đi rất nhanh. Thành Ích mò xuống con suối cạn khô đầy đá và bướm trắng. Không thể tưởng tượng nơi này đông người thế. Hàng trăm, hàng ngàn người dân di tản thất thần, nước mắt ngắn dài, ôm nhau chúi vào từng hốc đá. Đại đội quân y đang tất bật đun nước sôi khử trùng y cụ, tiêm cấp cứu cho dân, băng bó cho những người bị thương.
Trong một cái lều căng bằng mấy tấm ni lông bộ đội có tiếng trẻ oe oe. Gặp Đinh Ngọc, nó bảo, bọn y tá đang đỡ đẻ cho dân, mày không nghe thấy sao? Đấy đấy đang oe oe đấy. Cái lòng suối cạn ấy chẳng qua là một đường phân thủy. Chẳng có một giọt nước, chẳng có một ngọn cỏ, được cái nó sâu và dài, đầy cát vàng rất sạch. Ở đây đầy đá cuội to như quả bưởi đều nhau, nhẵn hứn. Hòn nào cũng có thể làm đá nén vại cà được. Cái rãnh khổng lồ ấy chứa hàng ngàn con người tránh bom tránh đạn, hàng ngàn mảnh đời bất hạnh dạt về gặp nhau. Vậy nơi con suối cạn ấy họ đang chữa trị người bị thương và đón đỡ những sinh linh ra đời, Những cũng chỉ cách con suối ấy độ trăm mét thôi là cánh rừng đang oang oác đạn nổ, là cuộc bắn nhau mịt mù đạn lửa. Trong gầm rít của bom pháo Thành khom người chui vào một bụi le khô vàng gục đầu xuống một lõm suối. Mấy tên lính bỏ chạy. Thành Ích không bắn theo. Thành dựa lưng vào bờ đất dưới bụi le, giở xem mấy cái ba lô của địch nằm lẫn với những mảnh bông băng, thuốc lá, thuốc tây và một xấp thư. Trung đội trưởng Thành lom khom bò ra ngoài với xấp thư đã cuộn lại và mấy bao thuốc lá, chạy về phía chốt chặn của trung đội mình. Nấp sau một gốc khoọc, giở thư lính VNCH ra đọc. Nét chữ của một người vợ lính cũng giống như nét chữ những người con gái miền Bắc, yêu thương nhớ nhung người chồng ngoài chiến trận. Thư viết “… Quy Nhơn ngày… 1975 Anh rất yêu thương. Mấy rày nghe đụng độ trên cao nguyên mà em lo mất ăn mất ngủ. Anh có thường không? Có phải hành quân không?… Cầu trời phật, cầu ông bà trên cao, anh mau chóng mà về với ba má và em. Cầu cho đất nước mình hết giặc giã anh ơi…” Trong cái ngày đang đánh nhau ấy mà đọc thư đối phương rồi nước mắt ứa ra như đọc lá thư gửi cho mình vậy. Thành đã vi phạm kỉ luật.  Sự vi phạm mà chỉ có người vi phạm biết. Gấp vội tất cả thư nhét vào túi quần, Thành lặng im lau nước mắt. Rồi trong những ngày tiếp theo Thành còn nhiều lần đọc nhiều lá thư của lính VNCH nữa, cả những trang sách học trò nhặt được trên đường. 5 giờ chiều hôm ấy đại đội của Thành Ích và Quyết ra thay trận địa ở đầu cầu cây Sung. Trận địa đầu cầu ùn lại hàng chục xe, cả tăng thiết giáp, xe Đốt và xe GMC.  Xác người vắt trên những chiếc xe cháy dở, nằm trong những bụi cây nằm dưới một đồi toàn những ngô và đu đủ. Đoạn đường 4km từ đấy lên cầu Sông Bờ là những rừng me cũng đầy xe cháy. Nhiều cái còn đang cháy dở, đạn trong xe nổ đùng đoàng. Chỉ có 4 cây số ven đường rừng nham nhở hố bom hố pháo xe cộ cháy ngổn ngang.
Vừa bàn giao trận địa chúng tôi đã phải nổ súng đánh những toán địch liều chết vượt cầu Cây Sung. Cây cầu đã gục thành chữ V xuống dòng sông cạn. Ở cái đít chữ V ấy là ba xe GMC chúi vào nhau.
Đến đầu cầu, Thành Ích gặp ngay thằng ca sĩ trung đoàn tên là Tạ Cư. Tạ Cư hỏi Thành Ích, chúng mày vào thay à, bọn tao mệt sắp chết rồi, tao sợ lắm rồi mày ạ. Chết nhiều quá. Thành hỏi, đại đội mày chết nhiều à? Cư không nói mắt đờ dại vì mệt vì thiểu ngủ. Bỗng nó nói gọn lỏn Thương quá.
Rồi nó đi luôn. Nó đi như chạy trốn một điều khủng khiếp. Thành Ích nhìn theo Tạ Cư, thằng bạn ở đội văn nghệ Trung đoàn hôm nào. Cái thằng luôn hát bài… “đám cháy rừng đã bốc cao ngùn ngụt…”.
Đại đội trưởng bố trí đội hình. Các B trưởng bò đi quan sát khu vực đoạn đường chừng vài trăm mét của đại đội mình. Trung đội của Quyết được bố trí cách cầu 100m, sau hai cây me chua. Hai cây me nằm cách đường mươi mét, gốc bằng đầu gối. Dưới gốc cây là ba xác lính và một xác dân thường. Cánh rừng này sao mà nhiều me chua thế. Tối nhoang nhoáng, Quyết bảo một chiến sĩ kéo một chiếc đệm từ cái xe tải vỡ toang, đắp lên mấy cái xác xấu số. Quyết cho lính đào hầm sau hai cây me nhưng không thể đào được vì không có cuốc chim. Đất ở đây khô khốc toàn đá sỏi. Mà quái lạ, chả thấy cái hầm nào của đại đội trước để lại cả chắc là họ vội quá chưa kịp đào hầm, mà kịp làm sao được khi mờ sáng chạy từ núi ra đến đường là nổ súng ngay rồi trận đánh liên miên tới tận chiều. Nhìn ra ngoài đường trong bóng tối nhập nhoạng, thấy chiếc cuốc Mỹ cài sau một cái xe Jeep, Quyết chạy nhào ra để lấy cái cuốc. Ra đến nơi mới để ý thấy người đàn ông mang binh phục sĩ quan chết gục trên vô lăng. Ở ghế bên, là xác người phụ nữ mặt mũi đã xám ngắt. Quyết bỏ ngay ý định lấy cái cuốc, chạy về sau hai cây me ôm ba cục đá to đặt lên phía trước để chắn đạn. Đêm ấy, chỉ vài lần nổ súng với những toán lính địch liều lĩnh vượt cầu. Cả trung đội không ngủ. Quyết cứ nhìn ra phía hai vợ chồng người sĩ quan chết trên xe. Hai cái xác ướt thũng sương lạnh cao nguyên. Mấy chiến sĩ nằm sau gốc me cũng lạnh gai người vì mấy cái xác chết phía ngoài gốc cây, chỉ cách mình vài sải tay. Không muốn nhìn những gì trên mặt đất, Quyết ngửa mặt lên cây. Đêm sáng suông. Từ trên cành me sương rỏ giọt lành lạnh. Đêm lặng xuống không còn tiếng súng như lúc sáng, không có tiếng chim không có tiếng gió. Nằm giữa những xác chết ngửa mặt lên nhìn trời sao có những con kiến bò lên mặt mà không dám đưa tay lên vuỗi sợ như tay mình sẽ chạm vào người những tử thi của đối phương. Đã hàng chục trận đánh từ khi vào chiến trường Quyết thấy những xác chết của lính bị đạn người nào trên khuôn mặt cũng đau đớn. Chỉ sau một vài tiếng đồng hồ là những khuôn mặt ấy trở lại thật hiền và ngây thơ. Người ta bảo đó là lúc ấy hồn đã lìa khỏi xác. Quyết lạnh dựng tóc gáy. Vậy ra trên đầu mình trên những vòm cây me kia những linh hồn chết trận nó đang ở trên đó , nó đang nhìn mình. Quyết nắm chặt lấy quả lựu đạn. Trong vòm trời lờ mờ, những quả me cong cong như quả đậu ván rung rinh hệt như có người động chạm vào nó. Ừ phải chúng nó cũng khát nước như mình lúc này. Quyết sờ vào cái bi đông đã khô nước. Trận địa đêm bi ai vắng lặng có rất nhiều sương rơi. Tháng 3 Tây nguyên sương nhiều lắm.. Ngoài phía bờ sông có những đống lửa chả biết của dân đốt nương, hay của người di tản leo lét cháy. Chả ai muốn mò ra xem ta hay địch nữa. Quyết nhận ra trong sự nín thinh của mình lúc nửa đêm trên trận địa, không gian giống như đang hấp hối. Nằm giữa vô vàn xác chết mà nghe tiếng chim đêm thấy như tiếng nói thần chết, nhìn những vì sao trên trời cũng bỗng nhiên nhòe nhoẹt đỏ như mắt cú. Quyết thở thật khẽ mà nghe rõ trống ngực đập thình thịch. Quyết không rõ là mình sợ sệt hay bình thản mà thấy mình đang chênh vênh bên cái vực đen ngòm. Quyết đang sống cùng với cái chết trong một cánh rừng chết. Quyết đang nằm dưới gốc me trên đường số 7.
Đêm buông từng giọt sương bải hoải. Những cây me cũng thức. Nó chứng kiến những sinh mạng kia lúc lìa đời, nó chứng kiến những chiếc xe tăng M41, M48 sáng nay biến thành cỗ quan tài lửa và chính nó bây giờ cũng tả tơi cành lá vì mảnh pháo.
Nhưng nó vẫn sống, đêm nay nó cũng nghẹn ngào ngậm những giọt sương đêm, nhọc nhằn che sương cho cả những người lính phía bên kia cho cả bên này đỡ lạnh…
Một ngày chiến đấu trôi qua. Đại đội lại vơi đi một ít. Ba thằng trung đội trưởng nhìn nhau buồn rượi. Trung đội nào cũng có những chú lính vào trận đầu tiên là hy sinh. Đứa nào cũng rất trẻ và đẹp.
Nắng suồm suộm trên khắp rừng. Đã qua những tháng ba ở Gia Lai, Kon Tum. Ở đấy miên man những là hoa dã quỳ, những triền đồi hoa xấu hổ bập bùng và nương rẫy cà phê xanh ngằn ngặt. Càng ra xa mé biên giới phía tây, càng nhiều rừng khộp. Rừng khộp nhôm nhoam vàng, xanh xỉn đói nước. Lúc này tháng ba ở Phú Bổn đã kém xanh. Màu của rừng Cheo Reo râm ran vàng. Cái màu vàng nhức nhối vì ve kêu và bụi đất. Hai ngày nay, mùi rừng cháy, nhà cháy, cả những lớp bụi ba zan cũng cháy khiến không khí của thung lũng này có mùi ngòn ngọt của đất cháy quyện lẫn mùi đăng đắng của thuốc đạn. Hít thở thứ không khí cay xè, khiến mắt bộ đội lúc nào cũng rỉ ngoèn, ngưa ngứa. Ngửa mặt lên giời, mây trắng tinh từng vạt mỏng như khăn voan bay dập dìu về phía Phú Yên. Trời tháng ba xanh thắt thẻo, xanh đến buốt lòng.
Phía bờ sông Ba và cả trong các bìa rừng, nhiều tàn binh địch rút chạy. Bên dưới cái cầu chữ V bằng thép là con suối chảy ra sông Ba. Về mùa khô dòng nước trong veo len lỏi giữa những đụn cát vàng. Bây giờ be bét những vết xích xe và xác người. Đại đội được lệnh chuẩn bị hành quân về hướng Phú Túc. Bộ đội ra ven đường núp vào dưới bóng những cây me cọc cằn. Nắng chói chang, lính xuống suối múc nước. Suối nhiều xác người. Có một chiếc xe đầu rúc vào bụi gai cũng đầy xác chết. Thành Ích cố không nhìn vào đấy. Anh dặn anh em, đào vũng ven bờ để nước suối ngấm qua cát vào mà gạn nước. Bỗng có tiếng trẻ khóc. Thành ngoái lại, một đứa bé chừng hai tuổi bò trên những cái thây người xám đen từ hôm qua. Kỳ lạ thế.
Nó rất tỉnh táo. Mắt ráo hoảnh. Thành nhìn lên đường thấy một lính bên trung đội của Quyết Hà Giang liền gọi. Chới ơi, xuống đây. Chới chạy xuống. Anh ào vào cái xe cháy thui. Đứa trẻ bám vội lên anh. Chới kêu, ối giời ôi sao mà mày còn sống được hả cháu! Chới ôm lấy nó. Cái quần của nó két đen máu Chới vứt đi, nó chỉ còn cái áo. Con bé đang tuổi tập nói. Nó í éo, mắt long lanh sáng. Nó đói lắm. Nó cấu rất chắc vào tay anh Chới. Chới bế nó xuống suối rửa chân tay và lau mặt nó rồi bế lên đường cho nó ăn miếng lương khô.
Bỗng một loạt AK rồ lên. Dưới bờ suối cạn có tiếng chó kêu ăng ẳng. Thành Ích chạy vội xuống bờ cát vàng thì thấy thằng Đấu xách súng đứng mặt như mếu. Đấu còi bảo, mẹ cha mấy con chó nó tranh nhau cắn xé chân tay người. Tao bắn lũ chó khốn nạn ấy đấy. Thôi tao đéo uống uống nước ở đây nữa. Con suối này biết bao nhiêu là xác người. Nói rồi nó quệt nước mắt lên ống tay áo đầy bụi đất bazan đỏ quạch và quay trở lên vạt rừng rất nhiều cây me chua. Chiều nắng oi nồng. Hàng quân đang ngồi đợi xe lên đường đuổi địch, mọi người xúm vào đứa bé mà Chới bế về. Cũng lúc ấy trung đội của Quyết mang về một thằng sĩ quan tâm lý chiến. Nó bảo nó người Huế và từng là cử nhân văn chương. Thằng nói đến là nhiều, nó nói về chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ và cam đoan rằng chủ nghĩa cộng sản các anh sẽ thua chúng tôi. Cả hàng quân toàn lính trẻ cười ồ. Kệ mẹ mày, cho mày hót. Lúc này chúng tao đang rất mệ và chả bụng dạ nào nghĩ về phạm trù của mày. Lúc này cũng chả ai thèm để mắt đến thằng tù binh bẻm mép. Chỉ lo cho cháu bé. Mấy thằng lính trẻ Phú Thọ đánh trận đầu hỏi Thành, bố mẹ nó đâu anh nhỉ? Thành Ích im lặng chả nói gì. Anh Chới bế đứa trẻ lại đưa cho tên tù binh. Này, mày là cử nhân cử tỏi gì cũng được. Nhưng bây giờ việc của mày là bế đứa trẻ này đi về hướng rừng xanh kia. Ở đấy có người của Quân giải phóng. Họ sẽ nuôi đứa bé và cũng cho mày nhập vào đội hình của tù binh ở đấy. Đứa trẻ khóc ré lên, ôm chặt lấy Chới. Chới cũng rơm rớm nước mắt, vỗ vỗ đít đứa bé nói khe khẽ, đi với nó để mà sống con ơi. Chú còn phải đi đánh nhau bây giờ. Thằng sĩ quan bế đứa trẻ đi rồi. Trung đội trưởng Thành bảo mấy chiến sĩ mới, chúng mày đi theo nó luôn đi. Thế nào nó cũng vứt con bé vào bụi cây mà xem. Mười phút sau, lính ta lôi thằng sĩ quan và cùng với đứa bé khóc ngặt nghẽo về. Chới ôm chầm lấy con bé. Một thằng dộng cho thằng sĩ quan tâm lý chiến mấy báng súng. Này thì cử nhân này. Mày muốn chết ngay bây giờ không? Hự. Đại úy này! Hự. Văn chương này! Hự, hự. Lắm mồm này, văn chương này hự hự. Chỉ việc bế đứa trẻ đi vô cái suối cạn, thì mày cũng sống và người ta sẽ cứu nó. Vậy mà mày nỡ vứt nó vào bui rậm. Thằng sĩ quan ngụy mặt tái dại, run rẩy. Vừa lúc có mấy thằng lính vận tải C25 đi vào. Chúng nó bế đứa bé đi. Anh Chới dụi mắt nhìn theo con bé đang khóc giãy giãy lên. Chúng tôi ngồi ở đầu cây cầu gãy cũng nghẹn ngào. Chới bảo, nó cũng bằng con bé nhà mình lúc mình về nghỉ phép đi B các ông ạ.
Đêm ấy cuộc hành quân truy kích địch trên đường 7 bắt đầu.
Bình minh phía trước – Tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Luân – Kỳ 5
Cập nhật ngày: 8 Tháng Mười Hai, 2023 lúc 17:47
Vanvn- Ở cuối chặng đường từ rừng ra biển là niềm vui cũng là bao nỗi buồn. Vui vì gặp biển, gặp lúa, gặp những người dân hiền lành. Buồn vì những cái chết thật tiếc nuối. Buồn vì bao người bạn đã hy sinh để cho tôi được thấy ngày vùng biển này được giải phóng. Con đường từ rừng ra biển là cả một khoảng thời gian lịch sử mà ở đó chúng tôi và đồng bào tôi đã sống bên cạnh cái chết gắng vượt lên mà chiến đấu để chiến thắng. Là quãng đường mà những cái chết của đồng bào tôi và đồng đội tôi luôn ở bên cạnh sự sống nảy sinh và vươn lên.
 
25.
Ở cuối chặng đường đuổi giặc
Đêm vượt qua đường số 1 đưa bộ đội vào chiếm lĩnh đánh chặn đường đèo
Cả, Thành Ích và “Minh trộm” lại gặp nhau. Bao năm chiến đấu trên rừng Tây Nguyên nên chưa có lần nào đi chiếm lĩnh trận địa lại lội trên đồng lúa. Bộ đội thở hì họp, lúc thì lội ruộng lúc đi trên bờ cứ trượt lên trượt xuống rúi rụi. Bám sát vào nhau không ai nói một lời. Phía trước mặt tiếng động cơ ô tô và tiếng chó sủa rinh rom. Lúc toàn đội hình vượt qua đường số 1 thì trăng bât thần nhú ra. Một loạt pháo địch bắn dọc đường số 1 rồi im bặt. Tranh thủ lúc cả đội hình hàng trăm người nằm bẹp dưới những bờ lúa Minh bò lên thì thầm với thằng bạn trinh sát cũ Thành Ích. Này mày quay lại nhìn xem cả đội hình hàng dọc kia ngày mai sẽ nằm lại cánh đồng này bao nhiêu thằng. Cái hàng quân lặng ngắt kia có bao nhiêu là sinh viên là thầy giáo bao nhiêu là nông dân và gần như tất cả là trai tân mày nhỉ. Thành Ích ghé vào tận tai Minh trộm:
– Mày gở mồm thế? Thôi không nói gì nữa cứ nghĩ ngợi hữu khuynh.
Trong nhập nhòe pháo sáng Minh chỉ vào mấy du kích đi cùng dẫn đường, mày thấy hai du kích kia không? Biết bọn mình học hết phổ thông các cô ấy ngạc nhiên quá đỗi. Hỏi sao các anh không làm to? Tao chỉ cười chả biết nói làm sao.
Đêm chiếm lĩnh cả tiểu đoàn lội đồng mà ngửi thấy mùi hoa sen hoa súng mùi bùn và cả mùi đòng lúa. Có lúc cả đoàn quân lội qua một quãng đầm có sen đang lác đác nở hoa. Mùi bùn mùi thuốc súng mùi thoang thoảng hương sen nôn nao bần thần trên gương mặt những người lính.
Chỉ chừng vượt qua cánh đồng rộng vài cây số là tới biển. Gió đêm đã thấy mằn mặn dinh dính trên tóc. Mùi bùn ruộng mùi lúa tháng tư là thứ mùi dịu dàng đến vô cùng.
Hai hôm sau trận đánh chặn quân địch ở chân đèo Cả kết thúc. Thế là cả tỉnh duyên hải miền trung này được giải phóng. Vào giờ phút ấy cũng là lúc đơn vị khâm liệm mấy chục chiến sĩ hi sinh. Họ là những người chết vào lúc chiến thắng huy hoàng chờ đợi hai mươi năm. Họ nằm lại trên bờ biển ngào ngạt hương lúa và gió biển mặn mòi.
Ở cuối con đường đuổi giặc 3 người trung đội trưởng thân nhau nay chỉ còn 1 lành lặn đó là Quyết Hà Giang. Trung đội trưởng “Phiến đại học” nằm lại trên đường số 1 ngay lối vào đèo Cả. Trung đội trưởng Thành Ích bị thương trên cánh đồng lúa Tuy Hòa. Ngoài kia biển ì ầm sóng. Những chú lính trên rừng lần đầu gặp biển, gặp lúa đồng cứ căng ngực ra mà hít. Con sông Ba chảy vội vàng theo bước chân lính Tây Nguyên ùa qua cầu Đà Rằng ra bể. Một chiều đầu tháng tư trời thật xanh và lúa cũng thật xanh. Con đường đuổi giặc dọc theo sông Ba và trận đánh cuối cùng từ rừng ra bể là nơi con sông gặp biển. Dòng nước của nó suốt mùa mùa lũ mùa chiến trinh, những đau thương chìm vào biển cả làm thành quá khứ.
Nhật kí của Trung đội trưởng Quyết ghi:
Ngày… tháng… năm 1975 
Hành quân tới ven một bãi lầy Phú yên. Ở đây dọc sông máng , bộ đội địa phương đã chặn đánh một đoàn xe – hành quân đêm trên bờ máng hít căng ngực gió đồng lúa đang kỳ trổ đòng.
Nhóm đi bám địch trước của mình có 5 người còn đơn vị vẫn ở đằng sau.
Khi đơn vị mình đánh địch trên Củng Sơn Phú Túc thì có một đoàn xe đã vượt qua rồi. Về tới khúc sông máng , đường 5 này thì gặp bộ đội địa phương chặn đánh. Việc đó đã diễn ra ngày hôm trước. Phía xa, làng mạc miền Nam đầy những vườn dừa, những đồng lúa xanh ngút ngát, chiều nắng vàng sau lưng. Không có quân địch , không thấy có súng nổ, chiều hôm ấy thật lạ. 5 thằng ngồi nghỉ trên mép sông máng, dưới chân là đồng lúa xanh mượt mà. Bỗng từ dưới ruộng có tiếng động. Nhổm dậy! Bờ ruộng bùng nhùng. Thằng Luật nổ mấy viên đạn lên trời. Từ dưới bùn rùng rùng đứng dậy một chú lính phía bên kia người bê bết bùn nước, tay xách cái làn nhựa đỏ lót kín bằng những mảnh ni lông, run rẩy. Thưa ông, con xin các ông…
Cả năm thằng nhào xuống bờ ruộng chĩa súng nhìn vào cái làn đỏ trước tiên vì nghi đó là vũ khí. Không… Không có vũ khí nào hết mà là… một hài nhi. Hài nhi hai tay hươ hươ mắt ti hí… Người lính sụp xuống… Thưa các ông con đưa vợ con chạy từ Quân khu 2, vợ con ngang đường sổ dạ rồi chết luôn. Các ông có bắt con xin các ông làm phước cho con gửi đứa bé này… cho nó làm… làm… người. Người lính VNCH gục đầu nức nở. Năm đứa tôi nhìn nhau… rồi vội nhìn đi chỗ khác. Chả thằng nào muốn thằng kia nhìn thấy mắt mình có nước. Có tiếng đạn pháo vút qua đầu, người lính VNCH ôm chặt cái làn đỏ vào ngực. Ới con ơi!
Chúng tôi cũng sà xuống che người xung quanh cái làn nhựa loe hoe những mảnh vải vụng về, và tiếng cựa quậy của đứa trẻ lọt lòng. 
Thằng Luật là đứa cục cằn nhất lên tiếng. Trung đội trưởng ơi chữ anh đẹp viết một tờ giấy chứng nhận Quân giải phóng đã đồng ý cho anh này gửi đứa bé vào địa phương đi. Làm nhanh kẻo du kích họ lại không tin thì khổ…
Ngó vào trong làn nhựa ở đó có hai hộp sữa rồi, bọn mình mỗi đứa đưa ramột hộp nữa.
Người lính VNCH đờ đẫn cám ơn. Mình đưa cho người lính mảnh giấy viết vội… quân giải phóng đồng ý cho người lính này mang con vào làng… giục anh ta… thôi đi ngay vào làng đi, anh không nuôi được cháu đâu, gửi dân họ nuôi thôi. Chúng tôi cảnh giới cho mà đi… Nhìn người lính xách cái làn đi qua cánh đồng vào làng trong hoàng hôn, bước cao bước thấp cho tới khi người lính khuất sau vườn dừa yên ắng rồi bọn mình mới hành quân…”.

Ngày… tháng… năm 1975
“Thế là cả Tiểu đoàn đã về đến một hang đá trên đất Phú Yên. Ở đây có thể nhìn thấy cánh đồng lúa ngời ngợi chạy ra phía biển. Lệnh trên cho nghỉ chuẩn bị đánh trận phục kích lớn tại đây. Đại đội được ngủ một đêm ngon lành nhất từ ngày vào chiến dịch. Mười hai ngày qua là một cuộc truy kích vĩ đại mà Trung đoàn mình được tham gia với tư cách mũi chủ công. Mười hai ngày bàn chân vượt núi băng sông suối và chiến đấu liên tục với một đội quân đông gấp nhiều lần trung đoàn. Đêm được nghỉ lại nằm trong hang đá bàn chân bắt đầu tấy lên, những vết loét vỡ ra khăm khẳm thối. Mình đã hòa muối rửa rồi, xót tê người. 
Chả biết rồi sẽ đánh đến đâu và chả biết bao giờ thì được nghỉ lấy vài ngày.
Từ đêm cho trung đội ăn thịt tê tê mình cứ lo ngay ngáy. Đêm hôm ấy Trung đội 27 người ăn thì bây giờ đã hi sinh mất 7 rồi, chiến dịch chưa kết thúc còn sẽ hi sinh nữa. Kể từ hôm đánh Cheo Reo đến giờ mới có ngày nghỉ mới có thời gian mà nhớ về đêm lửa cháy rực thị xã Phú Bổn. Đêm ấy dưới gốc hai cây me rừng những cái xác lính tử trận nằm đó. Từng giọt sương rơi từ vòm lá xuống những cái xác người xám xịt.
Tôi chắp tay khấn hai ông me. Hai ông chứng giám cho cái ngày máu lửa, hai ông che chở cho linh hồn những kẻ xấu số cư ngụ nơi gốc cây ông. Tôi cám ơn lắm.
Định mệnh nó sắp đặt như vậy rồi, chúng tôi muốn cưỡng cũng không được. Có hai
ông chứng kiến từ đầu đến đuôi, tôi lạy hai ông, cầu hai ông khỏe mạnh tươi tốt đề huề để chở che cho bao linh hồn đáng thương… ở cả hai phía, chở che cho những con người như tôi đây hôm ấy từng nổ súng ngay dưới chân ông, khói lửa làm hai ông ngả nghiêng đau đớn…
Mình cứ tưởng tượng những cây me đứng ven đường là những linh hồn chứng kiến những cái chết ở trận đánh hôm ấy. Đến bao giờ mình có thể quên đêm sáng suông ở trận địa rất nhiều người nằm chết dưới rừng me…
Ngày… tháng… năm 1975
Mình chả muốn nhớ con suối chảy ra sông Ba qua cầu Cây Sung hôm ấy chút nào. Nó cứ hiện lên là một bãi cát vàng đầy vết xích xe và giày dép áo quần nhà binh lẫn đồ dân thường. Ở đấy có cả những con chó hoang cắn xé những khúc xương người ghê rợn. Đã hai tuần nay mình không dám ăn thịt hộp. Bởi cứ khui hộp thịt ra là thấy nó bầy nhầy giống chỗ bị đạn bị bom của những người tử nạn.
Mình căm thù những con chó hoang trên những cánh rừng đường 7 đến vô cùng.
Trận đánh xe tăng bên bờ sông Ba tuần trước, trung đội phó Đàm đã hi sinh cùng với Mão địa chất. Phát súng bắn thẳng từ khẩu 12 ly 8 trên xe tăng trúng giữa trán của Mão. Nó nằm trên đất hai tay vơ cỏ nhét vào miệng chân đạp đạp. 
Những động tác hệt như đứa trẻ mới lọt lòng mẹ. Hình như con người mới sinh ra và con người lúc sắp lìa đời rất giống nhau thì phải. Con đường mình đã đi qua nó khủng khiếp đến ghê người. Cứ nhắm mắt lại là thấy cảnh tượng một đoàn quân tơi tả với một đoàn người tị nạn tâm thần hoảng sợ lết bết trên đường rừng. Đêm vượt sông Ba qua cầu phao Thành Hội hai bờ sông những đốm nhang thắp trên những nấm mồ chôn vội bên sông lập lòe như đom đóm. Chiến tranh lở loét khắp những cánh rừng, trên những con đường thơ mộng, những làng mạc xinh xắn và những con người hiền lành. Con đường mình đã đi qua từ rừng về đến biển giá như… giá như người dân không chạy hùa theo lính thì đỡ buồn biết bao… 
Trên con đường từ rừng ra biển mình đã từng ngồi vuốt mắt đồng đội dưới triền hoa dã quỳ cuối mùa. Hoa Quỳ cứ rưng rưng vàng trên những nấm mồ chết trẻ. Hoa Quỳ lúc nào cũng lung lay gọi gió. Gió trên những trận địa nhiều tử thương cũng vàng. Góc rừng hoa dã quỳ ấy vô danh không nhớ nữa. Những hang đá đầy những dơi bay chập choạng mà tôi đã đưa bạn mình sốt rét ác tính vào nằm trong hơi lạnh cũng đã vô danh. Những nấm mồ vội vã đào trong rừng khộp có những lá vàng phủ sơ sài trên đó cũng đã vô danh. Những nhát xẻng xúc đất mai táng đồng đội là những nhát xẻng nặng nề nhất trong đời người. Những cái huyệt chỉ kịp vừa đặt người bạn xuống sâu chừng nửa mét đất mà thăm thẳm tột cùng. Những xẻng đất cũng đã vô danh sau mỗi mùa chiến dịch. Chỉ có tiếng gọi mẹ gọi cha liệm vào võng tăng nhàu nát thấm máu chiến sĩ mình thì không vô danh, cứ nhói buốt hồn người còn sống cứ đi mãi bên cạnh cái sống mà cái sống thì không thể vô danh…
Suốt đêm qua khó ngủ quá. Chỉ còn hai ngày nữa là vào trận đánh then chốt, thủ trưởng bảo thế. Trận này ra tận bờ biển Tuy Hòa.
Đồng lúa xanh mướt mát và mùi bùn mùi ruộng khiến mình nhớ quê. Hôm hành quân dọc sông máng nhớ con mương ở làng quá. Nước trong veo từ sông Ba chảy về xuôi. Chỉ một đoạn vài cây số kênh đào mà dập dềnh những xác người xác lính.
Cố không nhìn xuống dòng sông máng mà vẫn nhận ra đàn ông trôi nằm sấp còn đàn bà trôi ngửa. Đau lòng lắm. 
Bẵng đi vài ngày chiếm lĩnh và đánh những trận cuối cùng ở vùng duyên hải này, bao nhiêu là mất mát bao nhiêu là nuối tiếc. Có những chú lính lần đầu tiên thấy biển thì cũng là lúc hi sinh. Có người bị thương nằm lại trong làng mà chống nạng ra sân ngó về phía biển. Hàng trăm xe quân sự xe dân sự nối đuôi nhau bỏ chạy về phia Nam. Sự tán loạn cướp phá diễn ra dọc đường rút của đoàn quân đang thua trận. Cái nút chặn cuối cùng để phá tan một cuộc hành quân triệt thoái lớn nhất của đối phương là đây. Trận đánh diễn trên đồng lúa trên bến cảng, trên cát, trên đèo, cả trên biển nữa. Hôm ấy là ngày thứ hai của tháng tư lịch sử với những người lính từ Tây Nguyên về đồng bằng.
Nhật kí của Trung đội trưởng Quyết ghi:
Ngày… tháng… năm 1975
”Sáng ra bố trí xong trận địa chặn đường thì xe địch rầm rập chạy từ thị xã về. Nhiệm vụ tiểu đoàn phải đánh cháy đoàn xe này, ngăn không cho địch chạy thoát về Nha
Trang. Khẩu 12 ly 7 và DKZ bố trí cách đường chừng 300 mét. Từ trận địa nhìn rõ địch đưa rất nhiều xe đò chở dân lên trước xe quân sự hòng đưa dân làm bình phong đỡ đạn. Lệnh nổ súng rồi mà cả hai trận địa ở hai bên đường không thấy phát hỏa.
Bỗng 12 ly 7 nổ đùng đùng. Đạn ăn lên nóc xe tóe lửa. Trung đội trưởng Phiến lao lên ụ súng thấy xạ thủ Cảnh đang nâng nòng lên cao nghiến răng bắn. Nhìn ra đường thấy hàng trăm người dân chạy dạt xuống đường. Lính ngụy gom họ lại rồi bắt họ lên xe đò. Phiến dặn anh em, bắn yểm hộ cho tôi. Rồi Phiến lao ra đường. Bên đại đội bạn cũng có vài chiến sĩ lao ra. Họ giải thích cho dân không nên chạy theo lính rồi họ hướng dẫn cho bà con dạt vào những vách đá ven đường ẩn nấp. Lúc này mạng sống của hàng trăm hàng ngàn đồng bào trên đường cần đến sự hướng dẫn ngăn cản của bộ đội. Nhưng quân địch quá đông, chúng kéo những xe của dân ra ven đường cho nổ bộc phá rồi đè lên dân chúng mà chạy. Trung đội trưởng Phiến và các chiến sĩ ra đến đường đều hi sinh cả. Xe địch đè lên xác của Phiến và ba chiến sĩ khác nát nhừ trên mặt đường nhựa. Lúc này hỏa lực của tiểu đoàn phát hỏa không thương tiếc.
Hơn hai chục xe lính nổ tung trên đường. Tất cả các xe dân xe lính đều quay trở lại thị xã chỉ vài xe địch thoát qua đèo. Chiều hôm ấy im tiếng súng. Những tràn ruộng lúa và đầm sen đang lác đác nở hoa. Mặt trời xuống sau những vẹt núi đá phía tây.
Mùi bùn mùi thuốc súng mùi thoang thoảng hoa làm mình buồn quá”.
Ở cuối con đường đuổi giặc 3 người cán bộ trung đội thân nhau nay chỉ còn 1 lành lặn đó là Quyết Hà Giang. Trung đội trưởng “Phiến đại học” nằm lại trên đường số 1 lối vào chân đèo. Thành Ích lên chỉ huy A trinh sát thì bị thương trên cánh đồng lúa Tuy Hòa.
Ngoài kia biển ì ầm sóng. Biển ru những khúc hát của đại dương lên trên đồng lúa đang thì ngậm đòng và đồng lúa cũng rì rào cất lên lời của đất. Đứng trước cánh đồng lúa ven biển mọi nỗi sợ về cái chết bỗng dưng biến mất, chỉ còn lại niềm tin vào sự sống. Những chú lính trẻ trên rừng lần đầu gặp biển, gặp lúa đồng cứ căng ngực ra mà hít. Con sông Ba nước chảy rất vội vàng theo bước chân lính Tây Nguyên ùa qua cầu Đà Rằng ra bể. Một chiều đầu tháng tư trời thật xanh và lúa cũng thật xanh. Ở cuối con đường đuổi giặc là nơi dòng sông gặp bể. Dòng nước của nó vần vũ suốt mùa chiến trinh từ rừng ra bể đẩy những nỗi buồn chiến tranh vào lòng đại dương thành nỗi buồn quá khứ.
Ngày… tháng… năm 1975
Mình chả muốn nhớ con suối chảy ra sông Ba qua cầu Cây Sung hôm ấy chút nào. Nó cứ hiện lên là một bãi cát vàng đầy vết xích xe và giày dép áo quần nhà binh lẫn đồ dân thường. Ở đấy có cả những con chó hoang cắn xé những khúc xương người ghê rợn. Đã hai tuần nay mình không dám ăn thịt hộp. Bởi cứ khui hộp thịt ra là thấy nó bầy nhầy giống chỗ bị đạn bị bom của những người tử nạn. 
Mình căm thù những con chó hoang trên những cánh rừng đường 7 đến vô cùng.
Trận đánh xe tăng bên bờ sông Ba tuần trước, trung đội phó Đàm đã hi sinh cùng với Mão địa chất. Phát súng bắn thẳng từ khẩu 12, ly 8 trên xe tăng trúng giữa trán của Mão. Nó nằm trên đất hai tay vơ cỏ nhét vào miệng chân đạp đạp.
Những động tác hệt như đứa trẻ mới lọt lòng mẹ. Hình như con người mới sinh ra và con người lúc sắp lìa đời rất giống nhau thì phải. Con đường mình đã đi qua nó khủng khiếp đến ghê người. Cứ nhắm mắt lại là thấy cảnh tượng một đoàn quân tơi tả với một đoàn người tị nạn tâm thần hoảng sợ lết bết trên đường rừng. Đêm vượt sông Ba qua cầu phao Thành Hội hai bờ sông những đốm nhang thắp trên những nấm mồ chôn vội bên sông lập lòe như đom đóm. Chiến tranh lở loét khắp những cánh rừng, trên những con đường thơ mộng, những làng mạc xinh xắn và những con người hiền lành. Con đường mình đã đi qua từ rừng về đến biển giá như… giá như người dân không chạy hùa theo lính thì đỡ buồn biết bao… 
Trên con đường từ rừng ra biển mình đã từng ngồi vuốt mắt đồng đội dưới triền hoa dã quỳ cuối mùa. Hoa Quỳ cứ rưng rưng vàng trên những nấm mồ chết trẻ. Hoa Quỳ lúc nào cũng lung lay gọi gió. Gió trên những trận địa nhiều tử thương cũng vàng. Góc rừng hoa dã quỳ ấy vô danh không nhớ nữa. Những hang đá đầy những dơi bay chập choạng mà tôi đã đưa bạn mình sốt rét ác tính vào nằm trong hơi lạnh cũng đã vô danh. Những nấm mồ vội vã đào trong rừng khộp có những lá vàng phủ sơ sài trên đó cũng đã vô danh. Những nhát xẻng xúc đất mai táng đồng đội là những nhát xẻng nặng nề nhất trong đời người. Những cái huyệt chỉ kịp vừa đặt người bạn xuống sâu chừng nửa mét đất mà thăm thẳm tột cùng. Những xẻng đất cũng đã vô danh sau mỗi mùa chiến dịch. Chỉ có tiếng gọi mẹ gọi cha liệm vào võng tăng nhàu nát thấm máu chiến sĩ mình thì không vô danh, cứ nhói buốt hồn người còn sống cứ đi mãi bên cạnh cái sống mà cái sống thì không thể vô danh…
… 
Ngày… tháng… 1975 
“Người như muốn bay lên. Những bàn chân như muốn nhảy nhảy trên đường. Chúng tôi đã giải phóng tỉnh Phú Yên. Đêm nay hương lúa đồng bằng lùa vào tóc vào áo quần những người lính trên rừng về. Trung đoàn bạn đã vào thị xã còn chúng tôi ở một làng rất nhiều dừa và những cây vú sữa. Mắc võng ngoài vườn ngửi mùi những quả trứng gà chín ngòn ngọt. Ngồi ghi nhật ký nửa vui nửa buồn.
Thế là trận đánh chặn đèo đã cướp đi những người bạn thân của tôi. Phiến ơi, Phiến nằm lại đây mãi mãi. Chiều nay chôn Phiến và 8 tử sĩ của đại đội mình cùng các tử sĩ của đại đội bạn trên cánh đồng Hòa Xuân, gió từ biển thổi vào lồng lộng. Nằm đây hít thở hương đồng mày nhé. Mày lỡ mất ngày trở về trường đại học cũ mất rồi Phiến ơi. Mày không còn dịp trở về cao nguyên đọc lại những trang nhật kí ba năm chiến đấu của mình rồi. Những cuốn nhật kí không hề vô danh mà vô chủ cứ buốt nhói người còn sống. Phiến ơi! Chúng mình đã cùng nhau đi từ Tây Nguyên ra biển. Con đường chỉ hơn một trăm cây số thôi mà đồng bào Tây Nguyên và những người lính chúng mình đi mất ba mươi năm mới tới nơi. Con đường chúng mình đi để lại bao nhiêu ngôi mộ âm thầm, bao nhiêu chiến công, bao nhiêu là xương máu. Trên những cánh rừng mà chúng mình đã từng qua, mỗi lùm hoa dại, mỗi gốc cây mỗi tảng đá như có linh hồn. Bởi vì rất có thể ở bên tảng đá hay dưới gốc cây, lùm hoa rừng ấy có những người đồng đội của chúng mình phải không. Suốt dọc đường Trường Sơn không có một gốc cây rừng một bờ suối nào là vô danh vì ở đó là những linh hồn chết trẻ tạc vào màu của rừng của núi. Phiến thân yêu. Tao sẽ gọi tên ngọn đèo này bằng tên của mày. Đèo thằng Phiến. 

Ngày… tháng… năm 1975
Vậy là ba thằng trung đội trưởng thân nhau ngày về đến biển còn lại một mình tôi là nguyên vẹn. Lúc chiều anh em khiêng Thành Ích bị thương đi viện, nó cười. Nụ cười như mếu. Giọng nó thì nhỏ nhưng mắt nó vẫn lấp lánh. Tao chỉ nằm viện đại khái thôi. Tao sẽ ra viện sớm nhất và sẽ đuổi theo chúng mày để đánh trận cuối cùng. Nhất định chúng mình sẽ lại gặp nhau Quyết nhé. Ôi thằng bạn có máu văn nghệ và đánh nhau thật cừ. Tao sẽ chờ mày ở trận cuối cùng của cuộc chiến này. Nhìn cái cáng thương đi khuất sau những hàng dừa cuối đồng lúa Tuy Hòa mơn man gió bỗng dưng nhớ bao nhiêu thằng đã chết dọc đường. Chúng nó gánh cái phần chết cho những thằng như tôi Bạn tôi chết để chúng tôi sống. Chả có ai ghen tị nhau về sự chia phần chết sống.
Ở cuối chặng đường từ rừng ra biển là niềm vui cũng là bao nỗi buồn. Vui vì gặp biển, gặp lúa, gặp những người dân hiền lành. Buồn vì những cái chết thật tiếc nuối. Buồn vì bao người bạn đã hy sinh để cho tôi được thấy ngày vùng biển này được giải phóng. Con đường từ rừng ra biển là cả một khoảng thời gian lịch sử mà ở đó chúng tôi và đồng bào tôi đã sống bên cạnh cái chết gắng vượt lên mà chiến đấu để chiến thắng. Là quãng đường mà những cái chết của đồng bào tôi và đồng đội tôi luôn ở bên cạnh sự sống nảy sinh và vươn lên.
Ngày mai đơn vị sẽ lại quay lại con đường số 7 để đợi xe đoàn 559 đưa chúng tôi đi tiếp đến trận đánh mới.
Tôi tin là chúng tôi sẽ đánh trận cuối cùng, bởi những hy sinh của đồng tôi bảo với tôi như thế. 
Hà Nội, 25/2/2022
Nguyễn Trọng Luân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy

Nguyễn Huy Thiệp - Con sông vẫn "Thao thiết" chảy Cuốn Anh hùng còn chi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa được NXB Hội Nhà văn ph...