Màu thời gian - sắc màu tâm trạng
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi Xuân
Thu Nhã Tập trình làng năm 1942, có biết bao lời khen chê chủ quan, khách quan,
thẳng thắn hay thiên lệch... song, cái cách tìm tới "thơ, tình yêu, nẻo
đạo" của Xuân Thu Nhã Tập, ít nhiều đã thể hiện sự tìm tòi công phu và
sáng tạo nghiêm túc của nhóm tác giả này. Khó có thể phủ nhận tâm huyết sáng
tạo của những thi sĩ như Nguyễn Xuân Sanh, Đàm Phú Tứ hay Phạm văn Hạnh trong
nhóm Xuân Thu Nhã Tập.
Trên thực tế, đánh giá hình thức nghệ
thuật thuần túy theo quan điểm xã hội không tránh khỏi đánh giá phiến diện:
hoặc đề cao, tán dương thiếu chính xác hoặc hạ thấp, vùi dập một cách oan
uổng... Tình cảm, tư tưởng trong tác phẩm văn học cùng là tình cảm, tư tưởng về
thế giới, cuộc đời, nhân tình thế thái. Mỗi cách thức thể hiện của nhà văn đều
hàm chứa một quan niệm nghệ thuật, một điểm nhìn nghệ thuật về con người cuộc
đời một cách cụ thể. Nói tới Xuân Thu Nhã Tập, không thể không nói tới một bài
thơ nổi tiếng của nhóm tác giả này là "Màu thời gian" của Đoàn Phú
Tứ:
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng le lệ phụng Quân Vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn vương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Cái hay của "Màu thời gian"
chính ở sức gợi. Tâm tình kín đáo, bâng khuâng, khi mơ hồ, khi bí hiểm của bài
thơ có lẽ chỉ cảm được nhiều hơn là hiểu được. Không gian bài thơ được mở ra từ
điểm nhìn thời gian.
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Đó là một không gian êm ả, trong và dịu.
Cảnh sớm có tiếng chim hót nhưng không ồn ã, náo động. Làn gió xanh như khoác
thêm cho buổi sớm cái dáng vẻ thanh sạch và tinh khôi đến kỳ lạ. Gió tựa hồ
được thổi hồn ngơ ngác, non tơ để mà "sớm nay" chỉ thoảng nhẹ, mát
lành... Câu thơ thứ ba neo lại nét thần của cảnh, khí trời hương gió, tiếng
chim quyện hòa, bịn rịn. Trời trong cảnh tĩnh mà không thấy lạnh. Sự gắn kết tuyệt
diệu của cảnh sắc thiên nhiên tạo vật tạo nên "hương ấm". Lòng người
thêm xốn xang, lưu luyến. Những chữ "dìu", "vương",
"thoảng" buông ra thật nhẹ, thật êm mà chát chúa rồi lòng tha thiết,
lan tỏa. Cái tình xuân của tác giả ở đây tinh tế mà kín đáo. Tình gửi trong
tiếng chim, trong hơi gió, trong mùi hương tạo được dư âm vang vọng trong lòng
người. Ngẫm kỹ, điệu thơ như ru hời khoan nhặt, như vỗ về lưu luyến... Với
những câu thơ như thế này, Đoàn Phú Tứ đã chạm tới cái "rung động siêu
việt, trong trẻo và nhẹ nhàng" của thơ Xuân Thu Nhã Tập.
Khổ thơ thứ hai của "Màu thời
gian" thoắt chuyển nói chuyện "ngày xưa".
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian.
Những câu thơ nặng tâm trạng hoài cổ nhưng
vẫn tha thiết, tình nghĩa. Dọc theo trục thời gian, tác giả dừng lại ở câu
chuyện nàng Tần Phi. Cũng khó có thể hiểu "nàng" mà "ta lặng
dâng" ở đây là ai? Tần Phi hay một người nào khác. Người xưa, chuyện cũ
chỉ khiến cho lòng "ta" thêm u buồn, hồn "ta" thêm trống
trải. Thời gian xưa trở về phủ đầy trong tâm trạng. Nỗi lòng man mác, day dứt
của thi nhân gói trọn trong từ "nhuốm". Thời gian vô hình trong cảm
nhận của tác giả trở nên có màu sắc, hương vị.
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh.
Những tiếng "màu thời gian",
"hương thời gian" được nhắc lại như khắc sâu thêm tâm tưởng của tác
giả. Nếu như Xuân Diệu cảm nhận được từng bước đi của thời gian để khát khao
sống trọn vẹn thì Đoàn Phú Tứ tìm ở thời gian những sắc màu, những hương vị
vọng về từ những câu chuyện xưa cũ. Cảm thức về thời gian quá khứ và hiện tại
nối liền, từ hiện tại nhớ về quá khứ, từ quá khứ mong về hiện tại. Thời gian
không có sắc, không có hương trong hiện thực nhưng tồn tại trong tâm tưởng,
hoài niệm của tác giả. Hoài niệm xưa buồn bã bâng khuâng khiến cảm nhận về thời
gian cũng loãng nhạt, mơ hồ. Đây là màu, là hương của tâm trạng u buồn lặng lẽ,
không cuộn trào sôi sục mà bện chặt lòng người.
Những hình ảnh ước lệ tượng trưng được sử
dụng nhiều trong khổ thơ thứ tư: "tóc mây", "chiếc dao
vàng", "nghìn trùng e lệ", "trăm năm tình cũ",
"mày hoa", "thiếp" và "chàng"... Điệu thơ chuyển
từ ngũ ngôn thất ngôn có nét trang trọng nhưng xa vời. Có ý kiến cho rằng, Đoàn
Phú Tứ qua khổ thơ này phác họa chân dung người đẹp Dương Quý Phi xưa cắt tóc
dâng vua Đường Minh Hoàng để tỏ lòng yêu của mình. Dù thế nào, chuyện xưa của
Tần Phi và Dương Qúy Phi cũng làm cho bài thơ có vỏ bọc khó hiểu.
Nội hàm thơ vốn mang tính đa nghĩa, các
tác giả Xuân Thu Nhã Tập cũng rất chú trọng điều này. Xét theo góc độ đó, bài
thơ chở đi nỗi niềm bâng khuâng hướng về xa xăm huyền ảo của tác giả. Hai câu
thơ cuối lại được nhắc lại bởi sắc màu và hương vị của thời gian:
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn vương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Chuyện xưa đã khép, tình xưa còn nồng và
tình nay cũng vậy. Cái dư vị mênh mang xa ngái của những vần thơ tạo nên nét
độc đáo của toàn bài.
Nếu con đường của "trí thức là phải
sáng tạo" thì Đoàn Phú Tứ đã tạo cho mình một sự khai sáng mới trong cách
thể hiện và khám phá hiện thực. Dù cách thể hiện của tác giả còn có phần khó
hiểu nhưng cảm hứng chung của bài thơ vẫn hướng tới những cảm xúc chân thực,
tinh tế trước cuộc đời và số phận.
Theo
http://z14.invisionfree.com/
đại lý vé máy bay eva tại tphcm
vé máy bay đi california
ve may bay hang korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch