Tản Đà - Người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại
Kiều Thu Hoạch
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) - người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba
Vì, Hà Tây) - được coi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu trên văn đàn Việt
Nam đầu thế kỷ 20. Với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối
thơ niêm luật gò bó, Tản Đà là người mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Ông có
thơ ngông, thơ buồn, thơ say, thơ lãng mạn... nhưng tất thảy đều thể hiện tấm
lòng yêu nước thương nòi. Tản Đà cũng là người đóng vai trò khai sáng và tiên
phong trong văn xuôi nghệ thuật.
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, nay thuộc xã Sơn
Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông sinh năm 1889, mất năm 1939. (1)
Cha ông là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân thời Tự Đức, được bổ tri huyện, tri phủ,
rồi án sát, nên ông được "tập ấm", thường gọi là Ấm Hiếu. Mẹ ông là
một đào nương nổi tiếng tài sắc ở phố Hàng Thao, Nam Thành, lấy lẽ thứ ba ông
Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu là con thứ tư, mà cũng là con út của bà.
Năm Ấm Hiếu lên ba tuổi thì bố mất, sau đó mẹ ông lại trở về nghề cũ. Từ bấy
giờ, ông được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích nuôi
dưỡng.
Theo tác phẩm Giấc mộng lớn, một cuốn tự truyện của Tản Đà, đồng thời là cuốn
tự truyện đầu tiên của văn học Việt Nam, thì ông đã thi hỏng luôn hai khóa ở
trường Nam (trường thi Nam Định). Sau lần hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới
thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của
người Thái Tây (2) và rất ham đọc báo chí Trung Quốc. Sự nghiệp làm báo của Tản
Đà bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong "Giấc mộng lớn", ông đã
viết: "Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu. Cảnh
ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan (3) từ đấy".
Trong thời kỳ này, Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con
đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện Tùng Thiện và Phúc Thọ của
xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời, lại là người chịu
ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường
làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại cao cấp, tay sai của thực dân Pháp. Trong
"Giấc mộng lớn", Tản Đà tỏ ra hết sức kính phục tài văn chương của
quan huyện Nguyễn Thiện Kế, gọi ông là đại thi hào, đồng thời cũng ghi nhận ảnh
hưởng của nhà thơ này đối với mình: "Cái sinh nhai quốc văn của mình có
hay hơn mười năm nay, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện - Nguyễn
Thiện Kế, phát đoan, dẫn đạo".
Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn
đăng ở "Đông Dương tạp chí", năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra
mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức "Đông Dương tạp chí" phải mở riêng
một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông, và Tòa soạn đã ghi nhận
xét rằng: "Bản quán duyệt qua tập văn ấy, thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu
cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một cách kỳ
khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!".
Và suốt từ đó cho đến năm 1939 là năm Tản Đà mất, ông đã sáng tác liên tục
không mệt mỏi một khối lượng đồ sộ gồm đủ loại thơ, văn, truyện, ca kịch, các
làn điệu dân ca, từ khúc, diễn ca, dịch văn học cổ điển Trung Quốc như thơ Đường
và Kinh Thi, chú giải Truyện Kiều... Hiện nay, giới khoa học đã sưu tập được
khoảng trên 30 tác phẩm gồm các văn tập, thi tập của ông như: Khối tình con,
Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Còn chơi; Thơ trên các báo và An Nam tạp chí,
Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Tản Đà tản văn, Tản Đà tùng văn, Truyện thế gian,
Nhàn tưởng, Thơ Tản Đà,v.v.
Điều lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học cử nghiệp, vốn quen
thuộc với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục, với thơ luật Đường... thế mà
ông viết văn xuôi lại rất hay, rất sắc sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục. Năm
1916, khi tác phẩm "Giấc mộng con I" ra đời, Dương Bá Trạc đề tựa cho
Tản Đà đã phải khen: "Mới mươi mười lăm năm nay, sĩ phu trong nước mới có
cái khuynh hướng về văn quốc âm, giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt đã lập lòe một
tia lửa sáng xuất hiện trong văn giới hoàn cầu. Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Sơn Tây,
chính là một tay kiện tướng trên trường hàn mặc ấy!". "Giấc mộng con
I" cũng như "Giấc mộng con II" là hai tập du ký tưởng tượng, có
thể coi đây là tiểu thuyết viễn tưởng của Tản Đà. Ở "Giấc mộng con
I", Tản Đà chỉ lấy tư liệu trên báo chí mà tả lại những nơi danh thắng
trên thế giới, như thác nước Niagara ở Canada, đền Taj-Mahal ở ấn Độ, Kim Tự
Tháp ở Ai Cập..., thế mà ông miêu tả sống động, hứng thú y như là chính mình đã
tới chơi những nơi đó thật. Ở "Giấc mộng con II", ông kể chuyện cuộc
chơi lên thiên đình, gặp các danh nhân lịch sử thế giới và Việt Nam, như Lư
Thoa (J.J.Rousseau), Đông Phương Sóc, Khổng Tử, Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chiêu
Quân, Dương Quý Phi... Qua hai cuộc viễn du tưởng tượng, tác giả muốn đưa mọi
người đến những thế giới lý tưởng, diệu kỳ, đến với những cảnh sắc tươi đẹp,
gặp gỡ những nhân vật tài hoa. ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao thượng, tình yêu
thương và lòng tôn trọng lẫn nhau, khác hẳn cái xã hội xấu xa nơi trần giới.
Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực phê phán lại vừa có ý nghĩa lãng mạn, thể
hiện những ước vọng nhân văn của tác giả.
Tản Đà là người thích mở rộng, và có một trí tưởng tượng rất phong phú, song
nhiều khi mơ mộng, tưởng tượng chỉ là những yếu tố thi pháp trong cá tính sáng
tạo của ông, và điều đó không hề làm giảm giá trị phản ánh hiện thực xã hội và
ý nghĩa phê phán của tác phẩm. Trường hợp tiểu thuyết "Thần tiền"
chẳng hạn, là như vậy. ở đấy, với giọng văn châm biếm hài hước, tác giả đã mượn
lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố cáo thói ăn tiền bẩn thỉu của bọn
quan lại: "Khi đã vào trong cửa quan, trên thời quan nha, dưới thời lính
tráng, dân sự, mà các ông ấy để mình nằm trần truồng ra trước công đường. Lúc
ấy thẹn phải chết... Ngồi đấy, rồi thấy quan cũng thét mắng luôn, nhưng về các
dân sự chứ không phải là quát mắng mình, mà mình thỉnh thoảng thấy quan nhìn
mình thời nó như có ý thương yêu lắm!". Cách kể chuyện như vậy thật là hóm
hỉnh và hấp dẫn.
Tuy nhiên, trong nhiều bài văn ngắn, tùy bút, bút ký, nghị luận, ngọn bút Tản
Đà có khi chẳng cần bóng gió mà đả kích trực diện vào bọn quan lại bất lương,
vào tầng lớp trên vô liêm sỉ, đồng thời tỏ ý bênh vực những người nghèo khổ,
lương thiện, ca ngợi lòng yêu nước, thương nòi. Chẳng hạn trong tạp văn
"Thế nào là hạng người hạ lưu trong xã hội", đăng ở Đông Pháp thời
báo năm 1927, Tản Đà viết: "Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn,
cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mề đay kim khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất
nghĩa vô lương, hút máu mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, hiến vợ con cho
người ta để giữ bền phú quý, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay
không?". Hoặc một đoạn khác ông viết: "Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà
có những ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi, thời tức là người thượng
lưu vậy". Tác giả lấy đạo đức con người mà không lấy sự giàu nghèo làm
tiêu chuẩn để phân biệt thượng lưu, hạ lưu. Trong xã hội phong kiến thực dân,
đạo đức suy đồi, luân thường đảo ngược, cái ác đang ngự trị, cái lợi cái danh
đang chi phối cuộc sống mà Tản Đà lại công nhiên viết trên báo như vậy, há
chẳng phải là một nhà văn, nhà báo đầy khí phách, đầy dũng khí? (Chính vì vậy
mà bọn quan lại thực dân phong kiến đã tỏ ra không ưa ông, thường để ý xét nét,
rình rập ông; điều này ông có ghi rõ trong tập Giấc mộng lớn).
Văn xuôi Tản Đà còn có những thiên tùy bút, bút ký, tiểu phẩm, chan chứa tình
cảm nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện sự thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ nhục
của đồng bào trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Đó chính là loại văn mà Tản Đà
gọi là văn vị đời. Các bài "Cảnh nhà nghèo lấy vợ", "Cảnh túng
đi vay tiền"... là những tác phẩm như vậy.
Nhìn chung, văn xuôi Tản Đà đã đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội đương thời,
bằng một lối văn giàu tính nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, có bản lĩnh,
bản sắc riêng.
Có thể thấy rằng đó là thời điểm quốc văn mới phôi thai, mới bắt đầu, mà lại là
văn xuôi nghệ thuật, thì mới thấy hết vai trò khai sáng và tiên phong của Tản
Đà.
Trong lĩnh vực thi ca cũng vậy, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc
riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn
là ở vị trí dẫn đạo của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Mở đầu cuốn Thi nhân Việt
Nam (1941), Hoài Thanh và Hoài Chân trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà đã viết
những lời trân trọng: "... Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn 20 năm
trước, đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu
cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa". Trước đó, trong tuần báo Ngày
nay (số ra ngày 17-6-1939), Xuân Diệu, một người say mê thơ Tản Đà từ nhỏ, cũng
đã viết: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện
đại".
Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau
ông. Nhưng rõ ràng, ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi,
sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
Trong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như
bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là mới, rất mới!
Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên "một giọng
phóng túng riêng" trong phong cách thơ Tản Đà:
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
(Thú ăn chơi)
Loại thơ phóng túng của Tản Đà còn nhiều, đọc những bài như thế, có thể liên
tưởng đến giọng thơ Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Song cũng đúng như các tác giả
"Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét: "Cái dáng điệu ngang tàng chúng
tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao giờ có vẻ vay
mượn". Cái phóng túng, cái ngang tàng ấy chính cũng là cái ngông mà Tản Đà
đã tự nhận:
Vùng đất Sơn Tây này một ông,
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng,
Sông Đà núi Tản ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung...
Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!
(Tự trào, sau khi hỏng thi ở trường Nam Định, 1912).
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi,
Bán áo mà mua giấy viết ngông.
(Dạm bán áo đoạn)
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông
Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm
thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời:
Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu).
Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.
(Lại say).
Nhưng bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vẩn vơ,
cái nỗi sầu man mác và cái tình bâng khuâng, những yếu tố muôn đời của chủ
nghĩa lãng mạng, nhưng lại chỉ riêng có ở Tản Đà, và đó là chủ nghĩa lãng mạng
Tản Đà, nếu có thể gọi được như thế!
Mùa thu là mùa gợi buồn cho thi tứ và cũng là mùa muôn thuở của thi ca lãng
mạng. Nhưng thơ thu của Tản Đà không phải chỉ có buồn mà còn có nhớ, một nỗi
buồn nhớ vơ vẩn, bâng khuâng:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần giới em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơị
(Muốn làm thằng Cuội).
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)
Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
Và đây là một bài thơ thu nổi tiếng mà chính Tản Đà đã chọn để mở đầu các giờ
giảng văn ở trường Hồng Bàng, Hà Nội, bài "Cảm thu", tiễn thu:
Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai...
Tản Đà ngông, Tản Đà say, Tản Đà buồn, Tản Đà mơ mộng, có lẽ cũng chỉ là một
phần cảm của ông trước buổi giao thời "gió Á mưa Âu", cái thời mà chỉ
thấy:
Luân thường đổ nát, phong hóa suy,
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly...
(Trần ai tri kỷ).
Còn trong thực tế, Tản Đà không phải là con người thoát ly, nhắm mắt trước thời
cuộc. Thơ ông cũng không hiếm những bài hướng vào hiện thực xã hội, bộc lộ
những tình cảm yêu nước, thương nòi:
Này những ai, này những ai,
Ai có nghe rằng việc thủy tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
Lệ đầy vơi, tình chia phôi,
Bồng bế con thơ bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu,
Cha còn sống đó, con bồ côi
Và nói như Nguyễn Đình Chiểu: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay
thương". Tản Đà hay thương dân nên cũng hay ghét bọn tham quan ô lại hại
dân, hại nước:
Cũng phường dối nước quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân giống hại đàn.
Lạnh lẽo hơi sương tòa Tạp chí
Lệ ai giàn giụa với giang san.
(Cảm đề)
Đục nước năm nay cò lại béo,
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền
(Nhớ cảnh nước lụt ở bắc).
Tản Đà rất ghét bọn ăn hối lộ, ông được biết chuyện Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào
Trọng Vận nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài đã ăn của đút gần ba nghìn đồng,
ông đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết truyện "Tờ di chúc" để tố giác vụ này,
rồi ông lại viết bài thơ "Cảm đề" cho tiểu thuyết này với một giọng
châm biếm khá sâu cay, chua chát:
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian,
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan...
Là một người dân mất nước, lo cho vận mệnh của Tổ quốc, lại chịu ảnh hưởng sâu
sắc của những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ, Tản Đà có những vần thơ
cảm khái, nói đến các anh hùng dân tộc, nói đến dân vong quốc, nói đến nòi
giống Tiên Rồng... thể hiện tư tưởng yêu nước một cách kín đáo. Tiêu biểu cho
dòng thơ này của Tản Đà là bài "Thề non nước", một bài thơ đã đi sâu
vào lòng người và được lưu truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân:
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề
Riêng ở xứ Đoài, bài thơ này cũng như nhiều bài phong dao của Tản Đà từ lâu đã
trở thành những bài hát ru quen thuộc, như những bài hát dân gian.
Tản Đà là nhà thơ thân thương của xứ Đoài như ông đã tự khẳng định: "Tôi
là người gì? ở phía Nam Đông Á, ở phía bắc Việt Nam, ở phía tây Bắc Kỳ, một
người làm văn ở tỉnh Sơn Tây vậy!" (Giấc mộng lớn). Nhưng vượt khỏi
"Đà Giang, Tản Lĩnh nước non quê", Tản Đà còn là nhà thơ, nhà văn,
nhà báo tiêu biểu, như ngôi sao khuê rực sáng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX, đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét: "Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng
đáng ngôi chủ súy; trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi Hội chủ; mà làng
văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?" (4). Và Tản
Đà cũng hoàn toàn xứng đáng như đánh giá của nhà thơ Xuân Diệu trên Tuần báo
Ngày nay (17-6-1939) ngay sau khi Tản Đà qua đời: "Tản Đà là người thi sĩ đầu
tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại".
(1) Năm sinh, năm mất và thơ văn của Tản Đà đều căn cứ theo Tuyển tập Tản Đà,
Nxb Văn học, Hà Nội, 1996.
(2) Thái Tây: Chỉ Âu-Mỹ nói chung.
(3) Phát đoan: Bắt đầu.
eva airline
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
korean air vietnam office
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
đặt vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich