Sông vẫn chảy trong tôi
Huỳnh Viết Tư
Người ta thường ví cuộc đời
của mỗi người như một dòng sông, thăng trầm trôi qua biết bao bờ bến thân quen
và xa lạ. Dòng sông là những ký ức miên miết thẳm sâu với bao dấu ấn về những
thăng trầm của lịch sử. Tôi đã đi dọc dòng sông nhiều lần, ngủ qua đêm nhiều lần
trên dòng sông Thu Bồn, để được cảm nhận sự mênh mông đến vô cùng của đất trời,
để được lắng nghe những trầm tư của dòng sông...
Những ai đã sinh ra và lớn lên ở miền Trung nói chung và trên miền đất Quảng
Nam dọc theo dòng sông Thu Bồn nói riêng, đều có nhiều ký ức về dòng sông này.
Nhà tôi ở bên dòng sông Thu Bồn, sông bao bọc quanh làng và đã ôm ấp lấy tôi cả
một thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, khi phải xa sông để tìm cuộc sống mới,
dòng sông vẫn êm ả chảy trong tôi.
Theo dòng sông
Thu Bồn, từ biển, thuyền bè chở cá, tôm lên nguồn; từ nguồn, thuyền bè chở sản
vật của núi rừng xuống. Những đêm trăng sáng, dòng sông lấp lánh ánh trăng. Những
chiếc ghe thả lưới trên sông. Tiếng gõ vào mạn thuyền. Tiếng vặn mình kĩu kịt của
các lũy tre tạo nên một bản nhạc tình quê với âm điệu dặt dìu. Xa xa, những
chùm sáng nho nhỏ như hoa đăng bềnh bồng trôi, phát ra từ các chòi rớ, các ghe
đánh cá, các ghe soi đêm… Đâu đó tiếng khua đều của nhịp chèo vọng theo câu hò
xứ Quảng.
Tuổi thơ của tôi
hạnh phúc và chông chênh với dòng sông. Thu Bồn vẫn thấp thoáng khi nhìn qua bờ
tre trước nhà ông bà nội ở bên này sông và ở bên kia bờ sông là nhà ông bà ngoại
tôi. Cuộc tình đầy duyên nợ của ba má tôi được dòng sông như dải lụa đào kết nối
tơ duyên. Tôi sinh ra ở bờ bắc và lớn lên ở bờ nam. Từ khi nằm trong bụng má
cho đến khi trưởng thành, tôi đã cùng má ngược xuôi trên dòng sông để kiếm sống.
Khi màn đêm bao
phủ bầu trời, tôi cùng ba tôi đi soi đêm trên các triền sông quanh làng Cẩm
Nam, qua Cẩm Kim, xuống Cẩm Thanh, qua Bàn Thạch, Duy Vinh (huyện Duy Xuyên)...
Hình ảnh đẹp nhất, ấn tượng nhất mà tôi cảm nhận được là khi Hội An đã lên đèn,
phố cổ như ẩn, như hiện, lung linh qua mặt nước dòng sông. Tôi đã uống nước
sông, tắm nước sông, và lớn lên từ những sản vật của dòng sông nước lợ: hến,
cá, tôm…
Dòng sông như người mẹ hiền đã hiến dâng phù sa nuôi dưỡng bao làng mạc, bao cánh đồng suốt chặng đường nó đi qua để có trái ngon, quả ngọt và những mùa vàng bội thu. Dòng sông len lỏi vào từng thớ thịt, từng giọt máu để nuôi tôi khôn lớn. Dù sau này bước chân tôi đã đi “cùng trời cuối biển”, nơi nào tôi cũng chú ý những dòng sông đi qua xứ sở tôi đến. Nhưng khoảng không gian tuổi thơ của tôi bên dòng nước ấy vẫn được giữ gìn trang trọng một cõi riêng trong lòng. Khoảng không gian ấy trải dài hai bên dòng sông, chứa đựng những tên làng như Thạch Bích, Dùi, Chiêng, Tí, Sé, Phú Gia, Trung Phước, Đại Bường… với những đặc sản như quế, tiêu, dầu rái, bắp, cây trái. Xuôi về hạ nguồn là làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm trù phú những cánh đồng lúa chín óng ả vàng. Ngược lên vùng Gò Nổi, đây là vùng nổi tiếng về dệt các mặt hàng vải, tơ lụa vì có những ruộng dâu xanh ngắt ngút ngàn. Nơi đây, chuyện kể về cô hái dâu họ Đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu vẫn như văng vẳng đâu đây.
Dòng sông như người mẹ hiền đã hiến dâng phù sa nuôi dưỡng bao làng mạc, bao cánh đồng suốt chặng đường nó đi qua để có trái ngon, quả ngọt và những mùa vàng bội thu. Dòng sông len lỏi vào từng thớ thịt, từng giọt máu để nuôi tôi khôn lớn. Dù sau này bước chân tôi đã đi “cùng trời cuối biển”, nơi nào tôi cũng chú ý những dòng sông đi qua xứ sở tôi đến. Nhưng khoảng không gian tuổi thơ của tôi bên dòng nước ấy vẫn được giữ gìn trang trọng một cõi riêng trong lòng. Khoảng không gian ấy trải dài hai bên dòng sông, chứa đựng những tên làng như Thạch Bích, Dùi, Chiêng, Tí, Sé, Phú Gia, Trung Phước, Đại Bường… với những đặc sản như quế, tiêu, dầu rái, bắp, cây trái. Xuôi về hạ nguồn là làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm trù phú những cánh đồng lúa chín óng ả vàng. Ngược lên vùng Gò Nổi, đây là vùng nổi tiếng về dệt các mặt hàng vải, tơ lụa vì có những ruộng dâu xanh ngắt ngút ngàn. Nơi đây, chuyện kể về cô hái dâu họ Đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu vẫn như văng vẳng đâu đây.
Dòng sông mang
hai di sản thế giới, đó là Thánh địa Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội An chứa nhiều truyền
thuyết, trong đó có truyền thuyết sự tích về “Bà Thu Bồn”. Lễ hội Bà Thu Bồn là
một lễ hội lớn của cư dân ven sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Hằng năm, người đi
trẩy hội không chỉ người trong nước mà còn có cả du khách nước ngoài tham gia.
Đây là dịp để người dân nơi đây tỏ lòng thành kính biết ơn sự che chở của bà
cho không chỉ dân làng sống trên bờ cũng như trên sông nước được bình an, ấm no
mà còn cho mọi người, mọi dân tộc. Nó mang màu sắc tín ngưỡng dân gian có từ
bao đời thể hiện tinh thần đoàn kết các dân tộc Chăm, Cơtu, Kinh…
Tuy nhiên, chẳng
phải lúc nào dòng sông Thu Bồn cũng hiền hòa và tha thướt. Trong một bài hát đã
từng thịnh hành tại miền Nam Việt Nam thập niên 1960: The River of No Return,
có một câu: “Sometimes it’s peaceful, and sometimes wild and free” - tạm dịch:
Đôi khi nó hiền hòa, và đôi khi nó man dại và bất kham. Vận vào dòng sông này,
tôi liên tưởng tới những trận lũ lụt mà dòng sông đã giận dữ dâng lên cuốn trôi
bao nhiêu làng mạc ven bờ từ thượng nguồn đến hạ nguồn.
Hôm ấy, nước lên
rất nhanh, ban tối nước mới vào nhà, đến nửa đêm nước đã lên đến mặt bàn. Nhìn
ra ngoài trời, ban ngày mà như chập choạng tối, mưa gió tơi bời, nước từ thượng
nguồn đổ về cuồn cuộn chảy, nghe tiếng gầm thét của một loài thú dữ ở ngoài
sông, nhìn thấy rõ những mái nhà, những con bò, con trâu, con heo, có lúc thấy
cả người ngồi trên nóc nhà… trôi bềnh bồng theo dòng nước. Trong nhà, lúc ban đầu
ba tôi lấy bàn kê giường lên, và theo cột nhà, nước cứ leo dần lên… Nước leo
lên mặt bàn, tiếp tục dời lên kèo nhà, nước lên ngập cửa ra vào, cả nhà bị nước
nhốt lại, cuối cùng đành phải dỡ khu đĩ chui ra ngoài, may mà ở quê mỗi nhà đều
sắm sẵn một chiếc ghe để dùng khi mùa lũ đến. Ba tôi chở các con đến nơi
nhà thờ tộc bên trong làng để trú ngụ. Lúc bấy giờ, má tôi đang sinh đứa em thứ
năm tại một bệnh xá của làng, bệnh xá cũng còn xập xệ lắm, làm bằng cột gỗ sơn
chỉ nhỏ bằng cổ chân người lớn, phên tre, mái lá dừa nước, mưa lớn chỗ nào cũng
ướt…
Trận lũ năm Thìn
ấy vẫn còn hằn sâu trong ký ức của lớp người sinh ra từ thập niên sáu mươi thế
kỷ hai mươi trở về trước. Hễ miền Trung có trận lụt lớn nào thì người ta lấy trận
lụt năm Thìn ấy ra làm “chuẩn”. Năm ấy, tôi còn bé nhưng những gì xảy ra vẫn
còn in đậm trong ký ức của mình. Cả làng chẳng có một ngôi nhà lầu nào nên mỗi
khi trời lụt bão, ông nội tôi chỉ còn một cách duy nhất là lấy đũa bếp ra để chống
nhà - một cách “làm phép” đầy màu sắc tâm linh của những người nông dân nghèo.
Chống bão lụt bằng đũa bếp mà trời vẫn không ngưng gió, ngưng mưa, còn nước cứ
dâng thì chỉ còn biết kêu trời mà thôi! Sau khi ổn định chỗ ở cho bọn tôi, ba
tôi đưa ghe đi đón má tôi, khi đến gần bệnh xá thì nước chảy mạnh quá, nước xé
làm đôi làng tôi bằng một dòng chảy kinh khủng. Đứng bên này dòng nước nhìn qua
bên kia dòng nước là trạm xá, nhiều chiếc thuyền vượt qua đều lật úp trôi theo
dòng nước. Ba tôi đành gạt nước mắt quay về với chúng tôi. Thế là… ba nghĩ
trong bụng mà không dám nói ra.
Khi nước vừa rút
xuống, ba tôi tiếp tục đưa ghe băng qua dòng chảy để đến trạm xá tìm má tôi, đến
nơi, thì trời ơi! Bệnh xá đã bị cuốn trôi. Trên các cây dương liễu còn sót lại,
chỉ thấy rác nguồn và các cây thân dây bị trôi quấn quanh.
… Ở bên kia dòng
lũ, từ trong bệnh xá, những người đẻ cùng với bà mụ, bà giúp việc cho các người
đẻ toàn là đàn bà, đang lóng ngóng khi nước vào nhà, nước đang bò dần lên chân
giường. Họ được các thân nhân ở gần đó đến để đưa về nhà, chỉ còn lại má tôi và
một người nữa. Nước lại tiếp tục lớn. Như một phép lành, ông Lắm, chồng của người
đàn bà đẻ cùng với má tôi đưa ghe đến chở cả hai người về nhà ở xóm dưới. Chiếc
ghe vừa ra khỏi trạm xá thì những cái cột còn lại cũng bị xói gốc, trạm xá đổ
nhào. Thế là má tôi và em tôi thoát qua cơn hiểm nghèo và cái tên “ông Lắm” đã
đi vào kỷ niệm đẹp đẽ - một ân nhân của gia đình tôi với lòng luôn biết ơn và
trân trọng.
Ngày đó, phương
tiện dự báo thời tiết chỉ là “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng
bay vừa thì râm”. Người già ở vùng lũ truyền lại cho con cháu nhìn vào cách làm
tổ của con ong vò vẽ để đoán biết năm nay bão to hay nhỏ. Nếu ong làm tổ trên
cao thì không có bão lớn, ngược lại, ong vò vẽ cứ chui trong đụn mối mà xây tổ
thì thể nào cũng có bão to; nhìn đám cá hột bí hột bầu mà đớp mồi như sao, gọi
là “cá đớp sao” thì chắc chắn năm đó sẽ có lụt to. Tôi chợt da diết nhớ những
câu thơ của Tường Linh đã khắc họa bi kịch của trận lụt năm Thìn: Em hãy ghi:
Ngày mùng 6 tháng 10/ Năm âm lịch Giáp Thìn, em nhé!/ Ngày giỗ quê hương, dù
bao thế hệ/ Thảm nạn này biết thuở nào quên/ Xót thương về, em hãy đốt hương
lên…
Miền Trung nói
chung và vùng đất Quảng Nam nói riêng luôn đối diện với những cơn bão, trận lụt
hằng năm, nó như một phần tất yếu trong đời sống. Dòng sông vẫn đón nhận,
tích chứa và lan tỏa không ngơi. Như nhà thơ Thu Bồn đã từng thảng thốt: Hỡi
con ngựa chiến tuôn về biển,/bất kham dừng lại hóa phù sa (Qua sông Thu Bồn),
như một Bùi Giáng luôn bị ám ảnh bởi dòng sông quê khi rời xa chốn quê
nhà: Thu nay nằm nhớ Thu Bồn/Con sông xứ Quảng linh hồn quê hương (Thu,
Bùi Giáng).
Sau quá trình học tập, nó đã lập thân, lập nghiệp bằng các nghề khác
nhau, ngoại trừ nghề văn. Thế mà, khi đã bước vào cái tuổi thành đạt của một
đời người, như một lời nguyền, một cái nghiệp ở đời đã vay, phải trả mà cô giáo
nó đã phán truyền, nó lại khởi nghiệp cầm bút… Trường học của làng gấm hoa.
Làng Cẩm nằm giữa lòng sông sông Thu Bồn.
Từ thuở xa xôi, chỉ là một cồn bãi, người dân quanh đó, ban đầu đến trồng, tỉa,
cào hến và đánh bắt tôm, cá để kiếm ăn. Dần dần, phù sa mỗi năm tụ lại một
nhiều và cao dần lên, để thuận tiện cho việc làm ăn, sinh sống, họ định cư lại
đây, rồi sinh con, đẻ cái biến thành làng sau nhiều đời sinh sống. Làng đã
nghèo, mỗi năm lại một mùa lũ, hết lũ lớn kéo ra đến lũ nhỏ kéo vào, nhà cửa cả
làng phần lớn làm bằng cây tre và lá dừa nước, đây là những loại cây có sẵn
trong làng.
Các nền nhà đều được đắp đất cao nhưng không sao tránh được nước vào khi mỗi
lần lũ về,. Mỗi năm, làng sống chung với lũ một mùa. Chắc cũng vì thực tế đó,
các cụ đặt tên làng là Cẩm, theo nghĩa Hán - Việt có nghĩa là ’gấm", gởi
lại khát vọng tương lai cho con cháu biến vùng đất nầy giàu đẹp như gấm, như
hoa.
Người lớn cần cù một nắng hai sương vẫn chưa đủ, ban đêm còn đi đánh bắt cá,
tôm để kiếm cái ăn, cái mặc, vất vả quanh năm suốt tháng. Được cái , nhà nào
cũng lo cho con cháu học hành kiếm cái chữ. Trong hoàn cảnh còn nghèo khó đó,
người làng Cẩm đã chung tay, góp sức gầy dựng được một trường tiểu học từ rất
sớm, để bầy trẻ có điều kiện đến trường.
Hồi đó, sách giáo khoa không thay đổi xoành xạch như bây giờ, anh học xong để
dành lại cho em, cứ vậy mà tiếp tục …Nó là anh đầu của một gia đình có tám anh
em, giữ sách như một gia tài để có cái mà “thừa kế” lại cho đàn em. Nên khi có
lũ về ở triền sông, việc đầu tiên là đem tất cả sách vở bỏ vào bao, buộc lại
rồi treo lên xà nhà, trước khi bơi ghe đi bắt dế về chơi và vớt củi đem về
chụm.Khi cơn lũ ra, nó lại nới dây buột đưa bao sách trở xuống, đặt lại vào kệ
sách. Có những lúc lũ dâng lên cao quá, nó mang bao sách bỏ xuống ghe, cùng cả
nhà bơi đến trú tạm ở những nhà cao hơn. Nó là người rất ham đọc sách và quý
sách, được quyển nào nó giữ quyển nấy, quyển nào hay nó đọc đi, đọc lại nhiều
lần.Phải chăng, vì thấy nó mê sách, muốn nó có thói quen đọc sách hay vì chẳng
có tiền nhiều để mua các thứ khác, ba nó thường cho nó sách, phần lớn là sách
cũ mà ông tìm được.
Sự bất nhất của cô giáo dạy văn
Khi nó vào lớp năm, một hôm
đến giờ văn cô giáo ra đề “lời tâm sự của một cuốn sách cũ”. Đây là bài văn
theo thể nhân hóa được làm ở nhà rồi mang đến lớp nộp. Nó mang tất cả những kỷ
niệm, những hình ảnh, nhũng cảm xúc chân thành của nó đối với những quyển sách
cũ, gắn liền với quê nhà và hoàn cảnh của nó như máu thịt, rồi chắt lọc và gửi
gắm qua lời tự tình của quyển sách cũ thân yêu, xong, đem nộp bài cho cô giáo.
Đến giờ văn cô giáo trả bài cho lớp, bài văn của nó cô giáo giữ lại và đọc cho
cả lớp nghe. Cả lớp lặng thinh xúc động và nó là ngưòi xúc động nhất. Đây là
lần đầu tiên kể từ khi đi học, nó có giờ văn hạnh phúc nhất. Sau khi đọc xong
bài văn, cô gọi lên bảng, nhưng thật bất ngờ, cô làm nó choáng váng khi kết
luận:
- Đây không phải bài văn của em, ở tuổi em không thể có cảm xúc như người lớn
được, ai làm giúp em bài này?
Ai có thể giúp nó? Ba nó đi làm thợ ở xa, má nó phải chạy chợ từ sáng sớm tinh
mơ cho đến tối mịt mới về. Phải vất vả lắm mới nuôi nổi lũ con. Vả lại, cả hai
người cũng chỉ tự học để biết đọc, biết viết mà thôi.Nó chưa có tuổi thơ theo
nghĩa đầy đủ, mới học lớp năm nhưng ở nhà nó đã quán xuyến việc gia đình, dạy
cho các em học, vườn tược, lợn, gà… Nó đã trở thành người lớn khi tuổi còn con
nít. Nghĩ vậy ,nên nó oà khóc, không một lời thanh minh.
Bài văn chưa được chấm điểm, cho đến mấy ngày sau, cô giáo bất ngờ đến thăm nhà
nó.Nó đang cặm cụi sắp xếp những quyển sách cũ, với tâm trạng như muốn chia sẻ
lại những những điều gặp trên lớp với chúng. Hôm sau, giờ văn lại đến, cô nói
lại với lớp học những cảm nhận khi đến thăm nhà nó. Cô cho những điều nó mô tả
trong bài văn rất thực, những xúc cảm như vậy là rất chân thành, “cái gì xuất
phát từ trái tim sẽ đi tới trái tim” cô giáo dẫn chứng.Nó từ trạng thái rất
sung sướng đến khổ đau và bây giờ là niềm vui và nỗi buồn lẫn lộn… Cô cho bài
văn nó điểm chín và cũng không quên trừ bớt điểm thiếu sạch sẽ, số điểm cao
nhất trong cả một thời học tiểu học (thời đó chưa bao giờ thầy cô cho trên điểm
chín môn Tập làm văn). Chẳng hiểu lúc đó vì thương cho hoàn cảnh mà động viên
cho nó học tập, hay vì lý do nào trong sâu thẳm, cô giáo phán như đinh đóng cột
:
Nó còn có bao nhiêu trách
nhiệm đối với gia đình, ba má đặt nhiều kì vọng cho đứa con trai đầu lòng.Má kể
rằng, khi đến ngày thôi nôi, bà nội bỏ dưới giường nằm đủ thứ đồ chơi trẻ con,
các dụng cụ học tập, dụng cụ thô sơ của một số nghề mộc, nghề nề…, bảo nó bò
vào chọn một thứ lấy ra, nó đã chọn cây thước. Má bảo nó sẽ trở thành thầy
giáo, ba bảo nó có năng khiếu về kỹ thuật, ông bà bảo sẽ trở thành thầy thông,
thầy ký. Bà con, ai có ước vọng gì mà chưa làm được thì gán hết cho nó, nhưng
chẳng ai bảo nó trở thành nhà văn, nhà thơ cả.
Hè năm đó, nó là một trong số ít học sinh được chọn đi thi học sinh giỏi toàn
tỉnh và thi hết cấp, nó đỗ vào một trường phổ thông trung học công lập trên thị
xã. Nó mừng lắm, vì có thể tiếp tục được đi học, nếu không đỗ thì phải học
trường tư, nhà nghèo lấy tiền đâu? Những năm học ở trường trung học phổ thông,
nó thích các môn khoa học tự nhiên bởi câu: “Toán học là chìa khoá mở cửa tất
cả các ngành khoa học”.
Sau quá trình học tập, nó đã lập thân, lập nghiệp bằng các nghề khác nhau,
ngoại trừ nghề văn. Thế mà, khi đã bước vào cái tuổi thành đạt của một đời
người, như một lời nguyền, một cái nghiệp ở đời đã vay, phải trả mà cô giáo nó
đã phán truyền, nó lại khởi nghiệp cầm bút…Thuận Tình (Quảng Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét