|
Antoine de Saint-Exupéry - Bùi
Giáng dịch
Chương 1
Tôi xin lỗi các bé con, vì
đã đề tặng cuốn sách này cho một người lớn. Tôi có một lẽ chân xác để tự bào
chữa, và xin được thứ lỗi: người lớn nọ là người bạn chí thiết trong đời tôi.
Tôi còn một lẽ nữa: người lớn nọ có thể hiểu hết mọi sự ngay cả những cuốn sách
viết cho bé con, người ấy cũng hiểu nốt. Tôi còn một lẽ thứ ba để được tha thứ:
người lớn nọ hiện sống ở nước Pháp, và đang chịu đói và rét. Y thật cần được an
ủi. Nếu tất cả những lẽ đó không đủ để bào chữa cho mình, thì tôi rất muốn đề
tặng cuốn sách này cho đứa con mà xưa kia người lớn nọ vốn đã từng là (nó) vậy.
Mọi người lớn, ban sơ, đều đã từng là những bé con. (Nhưng ít người trong số đó
ghi nhớ điều kia). Vậy tôi xin sửa chữa lời đề tặng:
Gửi Léon
Werth
Thuở ông ta còn là bé con
I.
Thuở ông ta còn là bé con
I.
Thuở lên sáu, một lần nọ tôi
thấy một bức tranh lộng lẫy, trong một cuốn sách viết về rừng thẳm nhan đề Sự
tích đã sống. Bức tranh đó họa một con trăn đương nuốt con mãnh thú. Trên đây
là bản đồ mô phỏng bức họa kia.
Trong cuốn sách người ta
nói: “Giống trăn nuốt toàn thể con mồi không nhai nghiền gì cả. Rồi sau đó,
giống trăn không còn có thể rục rịch nữa, nên nằm ngủ ròng rã suốt sáu tháng
trời là thời gian tiêu hóa".
Từ đó, tôi đã suy ngẫm rất
nhiều về những trận lưu ly mạo hiểm của rừng sâu và, tới phen mình, tôi cũng đã
dùng một cây bút chì màu mà vẽ nên bức họa đầu tiên. Bức họa số 1. Nó như thế
này:
Tôi có đưa cho những người
lớn xem kiệt tác của mình, và hỏi họ có kinh khiếp trước bức họa kia không.
Họ đáp: “Làm sao một cái mũ
lại có thể xui người ta kinh khiếp?"
Bức họa của tôi không thể
hiện một cái mũ. Nó vẽ một con trăn đương nằm tiêu hóa một con voi. Tôi bèn vẽ
phía trong của cái bụng con trăn, cốt là để cho người lớn dễ lĩnh hội. Người
lớn bao giờ cũng cần có những sự giảng giải thì họ mới hiểu. Bức họa thứ hai
của tôi nó như thế này:
Những người lớn đã khuyên
tôi nên gác lại một bên những thứ họa trăn, trăn mở bụng hoặc trăn khép bao tử,
và hãy nên chuyên tâm vào bài học địa dư, sử ký, tính toán và văn phạm. Thế là
thuở lên sáu, tôi đã đành bỏ dở một tiền đồ sự nghiệp họa sĩ huy hoàng. Tôi đã
chán nản vì sự thất bại của bức họa số 1 và bức họa số 2. Những người lớn chẳng
bao giờ tự mình hiểu được cái gì cả, và trẻ bé nếu cứ phải giải thích đi giải
thích lại, mãi mãi, hoài hoài, cho họ hiểu, quả thật là điều mệt nhọc vô cùng.
Thế là tôi đành phải
chọn một nghề khác, và tôi đã học lái máy bay. Tôi đã bay lăng quăng khắp chốn
trên địa cầu. Và quả thật, môn địa dư đã có giúp ích tôi nhiều. Tôi chỉ cần
thoáng nhìn qua một cái, là nhận ra được đất Trung Hoa từ quận Arizona. Sự đó
rất cần ích, nếu ta lạc nẻo giữa ban đêm.
Và như thế, trong đời
tôi, tôi đã từng tiếp xúc hàng đống bự, với hàng khối bự những nhân vật bảnh
bao. Tôi đã từng sống nhiều ngày nơi nhà những người tai to mặt lớn. Tôi nhìn
họ ở sát nhãn quan mình. Và điều đó chả có canh cải ý kiến của tôi được chi mấy
chút.
Lúc nào tôi gặp một kẻ
nào trong bọn họ, xem ra có vẻ sáng suốt một tí, thì tôi lại thử làm cuộc thí
nghiệm về họ với bức họa số 1 của mình mà tôi vẫn còn giữ luôn luôn. Tôi muốn
rõ xem họ có thật quả là sáng ý hay không. Hay vẫn tối dạ như lẽ hằng. Nhưng
luôn luôn họ bảo tôi: “Đấy là một cái mũ". Vậy thì tôi chẳng nói gì nữa
với họ, chẳng nói gì về giống trăn, về rừng hoang, rú thẳm, chẳng nói gì về
những ngôi sao trên trời. Tôi hạ mình xuống cho ngang tầm khả năng của họ. Tôi
nói về cách đánh bài, đánh cầu, về chính trị và về ca vát, những lối thắt
“nơ". Và người lớn đã rất hài lòng được quen biết một con người sao mà
lịch thiệp thấu lẽ thị phi đến thế.
II.
Thế là tôi đã sống cô đơn
vậy đó, không ai để chuyện trò thật sự, cho tới ngày phi cơ hỏng máy rơi tòm
giữa sa mạc Sahara, cách đây sáu năm. Một cái trục, một cái chốt nào đã gãy lìa
trong máy. Và vì lúc lên phi cơ không có đem theo thợ máy, cũng không chở hành
khách, tôi phải một mình lo toan cuộc chữa chạy hì hục khó khăn. Một vấn đề
sống chết. Tôi chỉ còn đủ nước để dùng giỏi lắm là trong tám ngày thôi.
Đêm đầu, tôi đành phải
nằm ngủ trên cát ở ngàn ngàn dặm để cách biệt với mọi miền có người ta cư trú.
Tôi đã chịu biệt lập còn hơn một kẻ đắm tàu, bó gối ngồi trên chiếc bè giữa
sóng gió đại dương. Thì hẳn bạn cũng hình dung ra cơn ngạc nhiên của tôi, lúc
bình mình đến, chợt một giọng nói nhỏ lớ ngớ kỳ lạ bỗng đánh thức tôi dậy:
"Nếu vui lòng... hãy vẽ
cho tôi một con cừu!"
"Hả!"
"Vẽ cho tôi một con
cừu..."
Tôi nhảy nhổm dậy một cái
trên hai chân như bị sấm sét đập vào lưng. Tôi giụi tay lên hai mắt. Tôi mở to
mắt ra nhìn. Và tôi thấy một chú chàng tí hon rất mực kỳ lạ đương chằm chặp
trầm trọng nhìn tôi. Đây là bức chân dung khá nhất về chú bé mà sau này tôi đã
gắng thực hiện được. Nhưng cố nhiên, bức tranh của tôi, đẹp là thế đó, vẫn còn
thua xa dáng dấp tuyệt vời của chú bé. Đó chẳng phải lỗi tại tôi. Từ lâu, từ
thuở mới lên sáu, tôi đã quá nản lòng trong nghề nghiệp hội họa bởi tại những
người lớn, và nào tôi có học vẽ được cái gì đâu, ngoài những con trăn khép bụng
và những con trăn mở bao tử.
Thế là tôi chằm chặp nhìn sự
đột hiện huyền ảo nọ, nhìn với hai con mắt tròn xoe kinh ngạc. Đừng quên rằng
lúc đó, tôi hiện đương ở cách xa những miền cư trú của con người, xa đến ngàn
ngàn dặm đất. Thế mà chú bé tí hon của tôi lại chẳng có vẻ gì lạc lối, chẳng có
vẻ gì là mỏi mệt, hoặc chết đói, hoặc chết khát, hoặc chết vì kinh hoàng. Chú
bé chẳng có vẻ gì một đứa trẻ lạc lỏng giữa sa mạc, ở cách cõi sống của con
người ngàn ngàn dặm đất. Cho tới lúc tôi gắng gỗ thốt được lời ra tiếng, thì
tôi bảo:
"Nhưng... nhưng mà chú
bé làm cái gì tại đây vậy?"
Và chú bé dịu dàng lặp lại
lời cũ, như dường coi đó là một sự vụ rất trang trọng:
"Nếu ông vui lòng...
xin vẽ cho tôi một con cừu..."
Khi sự huyền bí nó quá mức
kích động thì người ta không dám bất tuân. Dẫu sự vụ kia xảy ra có vẻ phi lý bao
nhiêu đi nữa ở cách xa ngàn dặm mọi chốn cư trú của con người và đứng trước
hiểm họa thập tử nhất sinh, tôi vẫn rút trong túi ra một tờ giấy và một cây bút
máy. Nhưng tôi chợt nhớ ra là mình vốn nghiên cứu nhiều nhất là môn địa dư, sử
ký toán tính, và văn phạm, và tôi bảo với chú bé (với một chút bực dọc) rằng
tôi đâu có biết vẽ. Chú đáp:
"Không hề gì. Vẽ cho
tôi một con cừu đi".
Vì tôi vốn từ xưa chẳng bao
giờ có vẽ một con cừu, nên tôi đành vẽ lại cho chú một trong hai cái loại tranh
trong vòng khả năng của tôi. Đó là bức tranh con trăn khép bụng. Và tôi đờ đẫn
kinh ngạc khi nghe chú bé tí hon đáp:
"Không! không! Tôi
không muốn, tôi không thích cái con voi trong bụng cái con trăn. Một con trăn,
thật là nguy hiểm, và một con voi, thì thật là lịch kịch rầy rà. Quê tôi thì bé
tí. Tôi cần một con cừu. Hãy vẽ cho một con cừu đi."
Chú bé chăm chú nhìn, rồi
nói:
"Không! Con này coi đã
ốm yếu quá. Vẽ một con khác đi."
Tôi vẽ.
"Bác thấy đó... đó
không phải là một con cừu, đó là một con dê đực, nó có hai cái sừng..."
Nhưng bức này cũng bị từ
khước, như mấy bức trước:
"Con này coi già nua
cọm rọm quá. Tôi muốn một con cừu sống sao cho thật lâu."
Vậy là tôi mất kiên nhẫn, vì
bận lo khởi sự vội vã tháo máy ra xem, tôi nguệch ngoạc vẽ bừa bức tranh sau
đây.
"Đó, đó là cái thùng.
Con cừu chú muốn, nó nằm ở trong ấy."
Nhưng tôi kinh ngạc xiết bao
khi nhìn thấy gương mặt chú “quan tòa" nhỏ dại bỗng rạng ngời ra:
"Thật đúng y như hệt!
Đó là cái tôi muốn đó! Bác nghĩ có cần nhiều cỏ cho con cừu nó ăn?"
"Vì sao hỏi vậy?"
"Vì quê tôi, thật bé
tí..."
"Không hề gì. Vẫn đủ
được lắm, chắc chắn vậy. Tôi cho chú một con cừu thật bé tí đó mà."
Chú nghiêng đầu lên bức
tranh:
"Không thật bé tí lắm
đâu... Coi kìa! Nó đã ngủ rồi."
Và như vậy đó, tôi đã làm
quen với hoàng tử bé.
III.
Phải một thời gian lâu tôi
mới rõ chú bé từ đâu lại. Hoàng tử tí hon, vốn chất vấn tôi rất nhiều, lại
chẳng bao giờ có vẻ nghe những câu tôi hỏi. Chỉ nhân những tiếng thốt tình cờ,
những lời nói ngẫu nhiên, mà dần dà tôi rõ được hết mọi sự. Chả hạn như khi chú
bé nhìn thấy phi cơ của tôi lần đầu tiên (tôi sẽ không vẽ phi cơ tôi, đó là bức
tranh quá phiền phức đối với tôi) chú hỏi:
"Cái đó là cái vật chi
thế?"
"Đó không phải là cái
vật. Đó biết bay. Đó là phi cơ. Đó là phi cơ của tôi đấy."
Và tôi rất hãnh diện lúc cho
chú bé biết rằng tôi là phi công bay. Chú thốt lớn:
"Sao! bác từ trên trời
rớt xuống!"
"Vâng", tôi nhũn
nhặn đáp.
"A! đó là cái
lạ..."
Và hoàng tử bé cười rộ một
cái thật tươi xinh, làm tôi phát cáu. Tôi muốn rằng thiên hạ phải coi trầm
trọng những hoạn nạn của tôi. Rồi chú hoàng bé nói tiếp:
"Thế thì té ra bác cũng
rớt từ trên trời xuống! Bác ở tinh cầu nào?"
Tôi chợt thoáng nhận thấy
một tia mờ, lóe ra giữa huyền bí của sự hiện diện hoàng tử, và tôi đột ngột
hỏi:
"Chú bé cũng từ một
tinh cầu khác mà tới đây?"
Nhưng chú bé không đáp. Chú
ngẩng đầu dịu dàng một cái, vẫn nhìn phi cơ tôi:
"Thật thì nằm ở trong
đó, bác chẳng có thể nào tới đây từ một cõi xa xôi gì cho lắm..."
Và chú bé chìm vào trong một
cơn mơ kéo dài dậm duộc. Rồi rút trong túi ra con cừu của tôi, chú triền miên
ngắm nghía kho tàng mình.
Bạn cũng hình dung được là
tôi đã xiết bao khích động hiếu kỳ bởi chút thổ lộ nửa vời về “những tinh cầu
khác" nọ. Tôi gắng tìm cách hiểu thêm:
"Này chú bé ơi, chú từ
đâu tới ? Đâu là cái chốn “quê của chú" ? Chú định mang con cừu tôi đi
đâu?"
Sau một lúc trầm ngâm lặng
lẽ, chú đáp:
"Cái tốt ấy là, với cái
thùng bác cho tôi thì ban đêm, nó là cái nhà cho con cừu nó ngủ."
"Hẳn là vậy. Và nếu mà
chú ngoan, thì tôi sẽ cho thêm chú một sợi giây nữa để cột con cừu lại ban
ngày, và cho một cái cọc nữa."
Lời đề nghị này dường như
làm phật ý chú bé:
"Cột con cừu lại? Cái ý
gì kỳ cục vậy!"
"Nhưng nếu chú không
cột nó lại, nó sẽ chạy quàng, nó sẽ lạc lối đi..."
Người bạn nhỏ của tôi lại
một phen cười rộ:
"Nhưng bác sợ nó chạy
lạc đi đâu mới được chớ!"
"Bất cứ đâu đâu. Thẳng
tới trước mặt..."
Bấy giờ hoàng tử bé mới
trang nghiêm nhận định:
Rồi với một chút sầu tư, có
lẽ, chú tiếp:
"Thẳng tới trước mặt,
người ta đâu có thể đi xa chi mấy đâu..."
IV.
Và như vậy, tôi lại
được một phen nữa biết được một sự vụ tối quan hệ: ấy là tinh cầu quê quán của
chú bé, giỏi cho lắm thì cũng lớn hơn cái nhà một chút xíu thôi!
Điều đó cũng chẳng thể nào
làm tôi ngạc nhiên chi lắm. Tôi biết rõ là ngoài những tinh cầu to bự như Trái
Đất, như Jupiter, Mars, Vénus, được thiên hạ đặt tên tuổi cho, còn hàng trăm
những tinh cầu khác, lắm khi nhỏ quá đến nỗi người ta khó nhọc lắm mới nhìn
thấy sơ bóng dáng qua ống kính viễn vọng. Khi một nhà thiên văn học khám phá ra
một trong những tiểu tinh cầu đó, thì ông cho nó một con số gọi là của tin canh
thiếp làm ghi. Ông gọi nó chả hạn: “tiểu tinh cầu 325".
Tôi có nhiều lý lẽ chắc chắn
để tin rằng cái tinh cầu của hoàng tử từ đó về đây là tiểu tinh cầu B 612. Tiểu
tinh cầu nọ chỉ một lần được thấy bóng phía sau ống viễn vọng vào năm 1909, bởi
một nhà thiên văn học người Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông ta đã từng mở một cuộc
chứng minh đồ sộ về sự khám phá của mình tại một đại hội quốc tế thiên văn
(Thiên văn quốc tế hội nghị). Nhưng thuở đó không ai tin lời ông cả. Vì lối y
phục luộm thuộm của ông ta. Những người lớn, họ là như vậy đó.
May thay cho tăm tiếng của
tiểu tinh cầu B 612, một nhà độc tài Thổ Nhĩ Kỳ đã ban hành đạo luật cho toàn
dân phải ăn vận theo lối sành điệu Âu Châu, nếu bất tuân phải chịu tử hình.
Nhà thiên văn học nọ đến năm
1920, đã tái khai cuộc chứng minh một trận nữa, lần này ông chỉnh tế ngăn nắp
trong một bộ y phục rất mực bảnh bao nhẵn nhụi. Và lần này mọi người thiên hạ
cùng tán đồng nấc nở ý kiến của ông.
Nếu tôi kể lại
cho bạn nghe những chi tiết này về tiểu tinh cầu B 612, và nếu tôi ký thác cho
bạn cái số hiệu của nó, ấy chỉ bởi tại những người lớn. Những người lớn, họ ưa
thích những con số. Khi anh nói với họ về một người bạn mới, họ chẳng bao giờ
hỏi anh về cái cốt yếu. Họ chẳng bao giờ hỏi: “Giọng nói của anh ta nghe ra thế
nào? Anh ta yêu chuộng trò chơi gì? Anh ta có thích sưu tập chuồn chuồn bươm
bướm chăng?" Họ lại hỏi: “Y bao nhiêu tuổi? Tứ tuần? Anh em, tớ thầy của
y, lao xao sau trước là bao nhiêu? Y cân nặng mấy trăm ký lô? Thân phụ của y
lĩnh lương hằng tháng là bao nhiêu thế?" Và chỉ từ đó trở đi thôi, họ mới
tin rằng mình biết gã nọ. Nếu anh nói với những người lớn: “Tôi có một ngôi nhà
kiều diễm xây bằng gạch hồng thắm, với những chậu hoa phong lữ thảo ở bệ cửa
sổ, và những cặp bồ câu đậu ở mái nhà..." họ sẽ không thể nào hình dung ra
được cái nhà của anh. Phải bảo họ rằng: “Tôi có thấy một ngôi nhà trị giá một
trăm nghìn phật lăng." Thì khi đó họ sẽ thốt to: “Ồ! Sao mà xinh thế nhỉ."
Vậy đó, nếu anh bảo: “Bằng
chứng hoàng tử quả có thật ở trong đời, ấy là chú rất quyến rũ dễ yêu, chú
cười, chú muốn một con cừu. Một phen người ta muốn một con cừu, thì đó là một
phen có đủ bằng chứng là người ta hiện hữu", thì những người lớn sẽ nhún
vai và coi anh là con nít! Nhưng nếu anh bảo: “Tinh cầu từ đó hoàng tử tới đây
là tiểu tinh cầu B 612" thì khi đó họ sẽ tâm đầu ý hiệp với anh ngay, siết
tay du khoái hả hê ngay, gọi rằng tâm phúc tương cờ ngay, và để yên cho anh túc
mục an lành với bao câu hỏi họ lăng xăng ngay. Họ là như vậy đó. Cũng chẳng nên
hờn giận họ làm chi. Con trẻ phải nên rất mực độ lượng với những người lớn.
Nhưng cố nhiên, chúng ta là
kẻ am hiểu sự đời, chúng ta cứ mà tha hồ cợt cười những con số! Tôi còn muốn
khởi đầu câu chuyện này theo điệu mở đầu chuyện thiên thần tiên nữ nữa là khác.
Tôi còn ắt muốn nói:
“Thuở xưa kia từng đã một
lần hoàng tử bé con, bé nhỏ, đã từng phen lưu trú tại một tinh cầu chơi với bé
bỏng, bé tí, có lớn hơn tí chút hoàng tử mà thôi, và hoàng tử đã từng có thiết
tha mong chờ một người bạn thiết..." Đối với những ai am hiểu cõi đời tồn
sinh mát mẻ, thì đó thật quả ắt có vẻ xác thực chân chính hơn nhiều.
Bởi vì tôi không muốn người
ta đọc cuốn sách tôi theo lối phiêu hốt lai rai. Tôi cảm thấy xiết bao sầu não
khi kể những kỷ niệm này. Đã sáu năm tròn rồi, người bạn bé nhỏ của tôi đã từ
biệt ra đi với con cừu của tôi. Nếu tôi gắng thử miêu tả lại chàng, ấy cũng là
cốt để đừng quên nhau. Buồn xiết bao nếu phải quên một người bạn thiết. Đâu có
phải ai ai trong thiên hạ cũng đã có một người bạn thiết. Và chính tôi, tôi
cũng có thể từ sớm sang chiều, trở thành giống như những người lớn chỉ biết lưu
tâm ý tới những con số mà thôi. Chính cũng vì đó mà tôi đã mua một hộp màu và
bút chì vậy. Thật khổ nhọc xiết bao, cái việc khởi đầu trở lại vẽ hình, họa
bóng, vào cái tuổi của tôi khi mà người ta từ bấy tới nay nào có bao giờ biết
mưu đồ gì khác ngoài cái sự rắp ranh vẽ một con trăn khép bụng và một con trăn
mở lòng, vào lúc lên sáu! Tất nhiên, tôi sẽ gắng thử họa những chân dung giống
được chừng nào hay chừng đó. Nhưng tôi không hoàn toàn chắc dạ là mình sẽ thành
công. Một tấm vẽ đi qua, hỏng rồi, một tấm khác không còn giống như hình được
nữa. Một dư ảnh gái đã lạc gót sen hương, một dư huệ về sau không níu giữ trong
ngón tay sầu xe chỉ nữa. Về tầm vóc hình dài, tôi cũng nhầm lẫn chút ít. Đây,
hoàng tử quá to. Kia, hoàng tử quá bé. Tôi cũng ngại ngùng trước màu sắc y phục
của em. Vậy nên chi tôi quờ quạng loăng quoăng thế này, thế nọ, thế đó, thế
kia, được cũng tốt, không được cũng cam. Rồi nữa, tôi cũng sẽ còn lầm lẫn về
đôi chi tiết quan trọng hơn. Nhưng cái đó, chỉ xin người hãy phải nên tha thứ.
Người bạn thiết của tôi chẳng bao giờ ban cho tôi một lời giải thích. “C’est
les vipères!". Rồi thôi. Tôi bước bên đường kêu gọi mãi. Nhớ người bạn cũ
thuở anh niên. Nhưng bặt âm. Người bạn chắc có lẽ đã tưởng rằng tôi giống bạn.
Nhưng khổ thay, tôi chẳng biết làm thế nào nhìn thấy cho ra những con cừu ở bên
kia những thùng chứa. Có lẽ tôi cũng là có phần nào giống như những người lớn.
Có lẽ tôi là kẻ đã phải về già.
V.
Mỗi ngày, tôi biết
thêm chút ít về tinh cầu, về ly biệt, về viễn du. Cái đó tới rất dịu dàng, tùy
cơn ngẫu nhĩ ưu tư. Vậy đó, ngày thứ ba, tôi được biết tấn bi kịch của những
cây cẩm quỳ.
Lần này nữa cũng là nhờ con
cừu, vì chứng đột ngột hoàng tử bé hỏi tôi, dường như chàng đang chịu một cơn
nghi hoặc trầm trọng:
"Thật vậy chăng ru,
rằng những con cừu ăn cây cối nhỏ?"
"Vâng. Chính thật là
vậy."
"A! Tôi hài lòng
lắm."
Tôi chẳng rõ vì sao cái việc
cừu ăn cây cối nhỏ lại là việc trọng đại. Nhưng hoàng tử nhỏ tiếp:
"Vậy thì hẳn nhiên là
cừu cũng ăn cây cẩm quỳ?"
Tôi bèn nói cho hoàng tử
hiểu rằng cẩm quỳ không phải là loại cây cối nhỏ, mà thuộc loại cây to bự như
những ngôi nhà thờ, và cho dẫu chàng có lôi theo với mình một bầy voi đồ sộ,
cũng hồ dễ mà làm nao núng được mỗi một cây cẩm quỳ khổng lồ đơn độc đó thôi.
Ý tưởng một bầy voi lớn rộng
xui hoàng tử cười to:
Nhưng rồi hoàng tử lại thâm
thúy nhận xét thêm:
"Những cây cẩm quỳ,
trước khi lớn rộng, thì cũng phải khởi đầu bằng hình thù thân thể nhỏ
nhoi."
"Đúng vậy! Nhưng tại
sao chú muốn rằng những con cừu của chú phải ăn cây cẩm quỳ?"
Chú đáp: “Hi! Khéo
hỏi!" như chừng đó là một chuyện cố kỳ nhiên. Tôi phải gắng gỗ kịch liệt
cho thông minh nảy nở ra mới tự mình tìm hiểu được một mình vấn đề nọ.
Thật vậy, trên tinh cầu của
hoàng tử bé, cũng như trên mọi tinh cầu, có những cỏ lành, và những cỏ dữ. Do
đó, có những hạt giống lành của cỏ lành, và những hạt giống dữ của cỏ dữ. Nhưng
hạt giống thì nhỏ, nên mắt không nhìn ra. Chúng nằm ngủ yên trong thớ đất u
huyền cho tới lúc cao hứng ùa về với một hạt nào trong lũ hạt nọ, và cao hứng
hạt nọ đột khỏi cơn thức giấc bò ra. Thế là hột nọ duỗi thân một cái, và thoạt
tiên e ấp nảy mầm, hướng tới ánh nắng mà ngoi đầu lên cho dài ra thành một đọt
cỏ non bé bỏng diễm kiều vô hại thơ ngây như hồn tuyết bạch gái. Nếu là một
ngọn lá cải củ, hoặc tường vi, thì thiên hạ có thể để mặc tình tha hồ nó mọc.
Nhưng nếu là một ngọn cỏ dữ, thì phải liệu mà rứt nhổ nó đi liền liền, khi
người ta nhận ra nó là bê bối. Mà trên tinh cầu của hoàng tử bé thì có những
hạt giống kinh khủng... ấy là những chủng tử cẩm quỳ. Đất đai tinh cầu bị nhiễm
độc bởi những phôi châu ác liệt nọ. Mà một cây cẩm quỳ, nếu người ta đối phó
muộn màng một chút, thôi thì không còn mong chi trừ khử nó được nữa. Nó sẽ làm
rầy rà cho toàn khối tinh cầu. Nó sẽ làm rầy rà cho toàn khối tinh cầu. Nó sẽ
đâm rễ nó xuyên qua cho nứt rạn cả khối. Nếu tinh cầu quá nhỏ, nếu những cây
cẩm quỳ quá nhiều, thì tinh cầu ắt vỡ toang vì chúng.
“Đấy là một vấn đề kỷ
luật, sau này hoàng tử bảo tôi thế. Khi ta xong xuôi cuộc tắm rửa thân mình
buổi mai, thì phải chăm sóc kỹ lưỡng tới cuộc tắm rửa tinh cầu. Phải tự ước
thúc mình một cách đề huề đều đặn trong công việc trừ khử những cây cẩm quỳ
ngay khi ta chợt phân biệt ra chúng với những cây tường vi. Hai loại này, thuở
sơ sinh non dại trông giống hệt nhau. Công việc làm thật là chán ngấy, nhưng
chả khó nhọc gì."
Và một ngày nọ, hoàng tử bé
khuyên tôi hãy chịu khó gắng công hoàn thành một bức họa đẹp, để mà đem sự nọ
tạc vào kỹ lưỡng trong đầu óc những trẻ con xứ sở tôi. Hoàng tử bảo: “Nếu có
ngày chúng nó viễn du, thì việc đó sẽ hữu ích cho chúng lắm. Đôi lúc kể ra thì
cái sự trì hoãn công việc làm cũng chẳng là điều đáng ngại. Nhưng nếu sự vụ có
liên can tới cẩm quỳ, thì đó lại là một thảm họa khôn lường. Tôi có biết một
tinh cầu, tại đó một gã lười lưu trú. Gã coi nhẹ ba cây cối nhỏ..."
Và, thể theo những chỉ bảo
của hoàng tử bé, tôi đã vẽ tinh cầu nọ. Tôi không thích lấy giọng nhà đạo đức.
Nhưng cái hiểm họa của cẩm quỳ lại rất ít kẻ am hiểu, và kẻ lạc lõng nơi một
tiểu tinh cầu bị hăm dọa bởi những nguy cơ đồ sộ đến nỗi tôi phải xin phép, một
lần, được sự dè dặt thường hằng vào trong vòng ngoại lệ, và xin nói liều. Tôi
xin nói: “Hỡi các bé con! Hãy coi chừng đó, những cây cẩm quỳ!" Chính vì
muốn báo trước cho những bạn thiết biết một mối nguy cơ từ lâu, cũng như tôi,
họ đã từng cọ vào sát mép mà chẳng hay chẳng biết, vâng, chính vì thế mà tôi đã
cố gắng mài miệt rất nhiều để hoàn thành bức tranh ấy. Bài học tôi đưa ra, thật
cũng đáng cái công lao. Các anh sẽ tự hỏi có lẽ: Tại sao trong cuốn sách này
chẳng có bức nào đồ sộ như bức tranh cẩm quỳ? Lời đáp rất đơn giản: Tôi đã gắng
gỗ, nhưng không thể thành công. Lúc tôi vẽ những cây cẩm quỳ, tôi đã bị thôi
thúc bởi tình cảm bức bách.
VI.
A! Hoàng tử bé ơi, tôi đã
lần hồi hiểu, theo vậy đó, cuộc đời bé bỏng sầu tư của chú. Từ lâu, chú chỉ có
một chút khiển muộn, là bóng chiều vàng êm ả. Tôi đã rõ chi tiết mới mẻ này,
vào buổi mai ngày thứ tư, lúc chú bảo:
"Tôi yêu chuộng những
buổi chiều hồng. Chúng ta hãy đi nhìn một cảnh mặt trời lặn..."
"Nhưng phải
chờ..."
"Chờ gì?"
"Chờ cho mặt trời
lặn."
Thoạt tiên, chú đã tỏ vẻ
ngạc nhiên, rồi sau đó chú đã tự cười mình lẩn thẩn. Chú bảo:
"Tôi cứ tưởng mình luôn
luôn ở tại quê hương xứ sở."
Thật vậy. Khi tại Huê Kỳ,
mặt trời đứng ngọ, thì ai cũng biết rằng tại Pháp, mặt trời đương lặn. Chỉ cần
có thể chạy bay trong một phút sang Pháp là có thể ngắm một cảnh hoàng hôn. Rủi
thay nước Pháp lại quá xa vời. Nhưng, tại trên tinh cầu tí tẻo của hoàng tử bé,
hoàng tử chỉ cần kéo đẩy sơ cái ghế ngồi một chút. Và hoàng tử nhìn thấy cảnh
mặt trời lặn tùy thích bất cứ lúc nào...
"Một ngày nọ, tôi đã
nhìn mặt trời lặn liên tiếp bốn mươi ba lần!"
Và ít lâu sau, chú nói thêm:
"Bác biết đó... lúc
người ta buồn quá đỗi, người ta yêu dấu cảnh mặt trời lặn xiết bao..."
"Cái ngày chú nhìn bốn
mươi ba lần nọ, chú đã buồn quá đỗi phải không?
VII.
Ngày thứ năm, vẫn cũng vì
con cừu, sự bí ẩn trong cuộc đời hoàng tử bé được biểu lộ. Đột ngột hoàng tử
hỏi tôi, không nhập đề gì ráo, như đó là kết quả một vấn đề đã được trầm ngâm
suy gẫm lâu rồi.
"Một con cừu, nếu có ăn
cây cối nhỏ, thì nó cũng ăn những đóa hoa."
"Một con cừu thì ăn bất
cứ cái gì nó gặp. Bạ đâu ăn đó rất mực bừa bãi vậy."
"Cả những cành hoa có
gai nhọn?"
"Ừ. Cả những cành hoa
có gai nhọn."
"Vậy thì những gai
nhọn, dùng vào việc chi?"
Tôi không biết điều đó. Lúc
ấy tôi hết sức bận, loay hoay vặn một cái đinh bù lon ăn cứng trong máy phi cơ.
Tôi bận tâm lo lắng lắm, vì trận hỏng máy này đã bắt đầu cho thấy quá trầm
trọng, và nước uống cứ hao cạn hoài xui tôi lo sợ nặng nề: càng ngày càng khốn
đốn về sau.
"Những gai nhọn dùng
vào việc chi?"
Hoàng tử bé không bao giờ
rút lui câu hỏi, mỗi phen chú đã nêu nó ra rồi. Tôi đã bực mình vì cái bù lon,
nên đáp bừa:
"Gai nhọn, không dùng
vào cái tích sự chi ráo, đó chỉ là cái ác hại thuần túy của hoa!"
"Ồ!"
Nhưng sau một lúc im lặng
chú văng ra một câu, với giọng thật là oán hận:
"Tôi không tin lời bác!
Hoa mảnh khảnh lắm. Hoa thơ dại lắm. Hoa phải tự gắng làm cho mình yên dạ phần
nào hay phần nấy. Hoa tự nghĩ là mình ắt ghê gớm lắm với những gai nhọn của
mình..."
Tôi không trả lời. Lúc đó
tôi tự nhủ: “Nếu cái đinh bù lon này mà còn cứng cổ, thì ta sẽ đập một nhát búa
vào thì nó phải nhảy tung ngay". Hoàng tử nhỏ lại quấy rầy ý tưởng tôi:
"Và bác tưởng, bác
tưởng rằng hoa..."
"Nhưng không! Không!
Tôi chẳng tưởng tư gì ráo ráo! Tôi trả lời bạ đâu bù đó. Tôi bận tâm lo chuyện
hệ trọng!"
Chú đờ đẫn nhìn tôi.
"Bận tâm lo chuyện hệ
trọng!"
Chú nhìn tôi bàn tay cầm
búa, ngón tay đen sì những dầu nhớt, đương nghiêng thân trên một cái vật chú
xem ra xấu xí quá.
"Bác nói chuyện nghe
như những người lớn!"
Câu đó làm tôi thấy hổ thẹn
chút ít. Nhưng chú vẫn tiếp tục:
"Bác lẫn lộn tuốt luốt
hết! Lẫn lộn tuốt hết."
Trông chú thật quả là cáu
tiết. Chú lắc đầu tóc vàng óng bay tung trong gió:
"Tôi biết một tinh cầu
có một Ông Cụ mặt đỏ như gấc chín. Chẳng bao giờ ông ta ngó một ngôi sao. Chẳng
bao giờ ông ta yêu ai hết. Chẳng bao giờ ông ta làm một cái việc chi khác,
ngoài cái việc làm những bài toán cọng. Và suốt ngày ông ta lặp đi lặp lại y
hệt như bác: “Tôi là một con người trang nghiêm! Tôi là một con người trang
nghiêm" và cái đó làm ông ta phình to lên cái lỗ mũi tự hào. Nhưng đó
không phải một con người, đó là một cái nấm!"
"Một cái gì?"
"Một cái nấm!"
Hoàng tử bé bây giờ mặt mày
tái xanh vì tức giận.
"Từ hàng triệu năm rồi,
hoa đã tạo gai. Từ hàng triệu năm rồi cừu vẫn cứ ăn hoa. Và cái sự tìm hiểu xem
tại sao mà hoa phải nhọc mệt tạo mãi những gai nhọn chẳng dùng được vào việc gì
gì hết cả, sự đó chẳng phải là chuyện nghiêm trang hay sao? Cuộc chiến tranh
giữa cừu và hoa, không phải là chuyện hệ trọng hay sao? Chẳng nghiêm trang hệ
trọng hơn những bài toán cọng của ông cụ bự đỏ như gấc chín hay sao? Và nếu tôi
có biết, chính tôi có biết một đóa hoa duy nhất ở đời, không đâu có cả, ngoài
tinh cầu tôi, và nếu một con cừu bé có thể rỡn chơi liếm sơ qua một chút, mà
tiêu diệt tan hoang mất cái đóa hoa ấy như vậy đó trong một buổi mai dịu dàng
và chẳng nhận thấy rằng cái việc mình làm kia gớm guốc thế nào, đó không phải
là chuyện hệ trọng hay sao?
Chú đỏ mặt, rồi tiếp:
"Nếu có một kẻ yêu một
đóa hoa duy nhất chỉ duy có một mà thôi trong hàng triệu triệu tinh cầu, chừng
đó đủ để kẻ ấy sung sướng lúc nhìn ngàn sao ở trên trời. Anh ta tự nhủ: “Đóa
hoa của mình hiện nằm tại đó, nơi đó, chốn kia...". Nhưng nếu con cừu ăn
đóa hoa, thì sự đó đối với anh ta cũng như thể là đột nhiên trong một nháy ngàn
ngàn ngôi sao thình lình tắt lịm! Và đó, không phải là chuyện hệ trọng hay sao!
Chú không nói thêm gì được
nữa. Đột nhiên, chú òa lên khóc. Đêm xuống rồi. Tôi bỏ rơi tay búa. Tôi chả còn
sá gì búa dao bù lon nữa, chả thiết chi tới chuyện chết khác, chết đói. Trên
một tinh cầu, tinh cầu của tôi, trên Địa cầu của tôi, có một hoàng tử bé cần
được an ủi! Tôi ôm chú vào lòng. Tôi ru. Tôi bảo: “Đóa hoa chú yêu dấu đó không
gặp nguy hại gì đâu... Tôi sẽ vẽ thêm một cái rọ bịt mõm vào cái mồm con cừu
của chú... Tôi sẽ vẽ một tấm áo giáp sắt cho đóa hoa của chú... Tôi
sẽ...". Tôi chẳng còn biết nói chi nữa. Tôi thấy mình vụng về quá. Tôi
không biết làm cách gì để đi tới cõi lòng chú, gặp gỡ linh hồn chú... Thật
huyền bí không xiết, là cái xứ sở của lệ vàng.
Chương 2
VIII.
Tôi
đã sớm biết rõ đóa hoa kia. Từ xưa, trên hành tinh của hoàng tử bé, luôn luôn
có những cành hoa rất đơn sơ, điểm trang bằng một hàng cánh hoa thưa thớt,
không choán chỗ gì nhiều, không làm phiền rộn ai. Các đóa hoa hiển hiện một
sớm mai trên đồng cỏ, rồi tàn rụng lúc chiều hôm. Nhưng còn đóa hoa riêng
biệt nọ đã nảy mầm một ngày kia, do một chủng tử chẳng rõ từ đâu tới, và
hoàng tử bé đã từng chăm sóc thiết thân cái ngọn lá kia, trông không giống
chút nào những ngọn lá khác. Đó có thể là một loại cẩm quỳ mới. Nhưng mà cành
cây nhỏ sớm dừng phát triển, và khởi sự soạn sửa cho nảy nở một đóa hoa.
Hoàng tử bé chứng giám cuộc hình thành một búp hoa đồ sộ, đã linh cảm chắc
chắn rằng một sự hiển hiện huyền ảo sẽ xảy tới, nhưng đóa hoa vẫn không ngừng
soạn sửa cho càng thêm kiều diễm, mỗi mỗi ngày cư trú êm đềm trong căn phòng
xanh lục. Nường chọn lựa kỹ lưỡng màu sắc cho mình. Nường vận xiêm y một cách
thật thong dong chậm rãi, nường sửa sang, xếp đặt từng mỗi mỗi cánh hoa của
mình. Nường không muốn xuất hiện tả tơi nhàu nát như những cành mỹ nhân thảo,
hoặc những đóa hoa anh túc. Nường chỉ muốn xuất hiện trong vẻ sáng ngời lộng
lẫy mở phơi của dung nhan kiều lệ. Ê, vâng ạ. Nường rất ưa làm duyên! Xiêm y
huyền bí của nường như vật lạ hằng hằng soạn sửa từng ngày, từng tuần, từng
cữ... Và thế đó một sáng mai kia, chính lúc vừng hồng trỗi dậy, nường đã lồ
lộ hiện thân thập thành tráng lệ.
Nường,
nường đã chăm nom chỉnh bị xiết bao tỷ mỷ chú tâm nường lại giả vờ ngáp dài
một cái, và dã dượi bảo rằng:
"A!
thiếp mới chớm trở giấc. Xin chàng thứ lỗi. Đầu tóc của thiếp tóc còn xổ bung
rối bù."
Hoàng tử
bé bấy giờ không kìm hãm nỗi lòng lâng lâng thán phục:
"Sao
mà nường đẹp thế!"
"Phải
chăng? Thật chăng? Chàng hãy nhớ rằng thiếp sinh ra đời song song với vừng
dương đó ạ..."
Hoàng tử bé cũng đoán biết là nường ta chẳng phải nhũn nhặn khiêm nhượng gì cho lắm, nhưng sao mà nàng xui lòng cảm động đến thế!
"Có
lẽ đã tới giờ điểm tâm, nàng nói tiếp, chàng có chút độ lượng bao dung nào
đối với thiếp thì, xin hãy..."
Và hoàng
tử bé ngượng ngùng đầy mặt, đã chạy đi tìm chiếc thùng tưới đầy ắp nước trong
veo phơi phới mang về phục vụ đóa hoa.
Thế đó,
nường đã sắp khiến chàng chịu bao cơn loay hoay bối rối, ấy cũng bởi cái thói
ưa làm đỏm khoe khoang pha chút hoài nghi e e ngại ngại. Chả hạn một ngày kia
nói tới bốn cái gai nhọn của nường, nường đã bảo:
"Trên
tinh cầu của tôi không có cọp đâu, hoàng từ bé đáp, vả chăng cọp không có ăn
cỏ."
"Thiếp
không phải là một lá cỏ", đóa hoa đã dịu dàng đáp.
"Xin
lỗi nường..."
"Thiếp
chẳng sợ gì cọp, chỉ duy có ghê sợ những trận gió lò mà thôi. Chắc đâu rằng
chàng có một tấm bình phong che gió?"
"Ghê
sợ gió lò... thật chả hay ho gì, đối với một ngành thảo một, hoàng tử bé nhận
xét như vậy. Đóa hoa này coi có bộ ưa sinh chuyện phiền phức đa đoan lắm
lắm..."
"Chiều
hôm sương xuống chàng hãy đặt thiếp trong bầu tròn. Nơi nhà chàng rét buốt
lắm. Chẳng đặt định đúng hướng gì lắm đó. Nơi quê tôi..."
Nhưng
nàng chợt ngừng môi. Nàng đã về đây trong hình hài hạt giống. Nường biết đâu
vào đâu mà nói tới những cõi miền xa lạ. Ngượng nghịu xấu hổ vì bị bắt quả
tang sắp giở trò bố láo một cách khờ khạo vụng về, nường đã ho ho hai ba
tiếng hắc hắc, cố tình đẩy hoàng tử vào cõi lầm lỗi cho mới cam tâm:
"Tấm
bình phong kia?..."
"Tôi
sắp đi tìm đó mà, sao mà nường lắm lời thế!"
Thế là
nường lại húng hắng ho thêm, cũng là cố tình khiến chàng phải ân hận thì lòng
nàng mới cam!
Thế đó,
hoàng tử bé mặc dù rất chí ý trong tình yêu dấu, cũng đành phải cảm thấy nghi
hoặc cái cô nàng đa đoan. Chàng đã coi trọng những lời chẳng hệ trọng gì, và
chàng trở nên khốn khổ vô cùng.
"Đáng
lẽ ra thì tôi chả nên nghe cô ta làm chi, hoàng tử bảo tôi một bận như thế,
chả bao giờ nên nghe đóa hoa nó nói. Chỉ nên nhìn hoa và hít mùi hương của
hoa thôi. Đóa hoa của tôi tỏa thơm cho tinh cầu tôi, thế mà tôi không biết
thỏa lòng chừng đó. Câu chuyện những móng vuốt nhọn của con hùm đã làm tôi
phát cáu, đáng lẽ phải khiến tôi cảm động mới là đúng."
Chú bé
còn thổ lộ thêm:
"Tôi
chẳng biết gì ra gì gì cả. Đáng lẽ tôi nên xét đoán theo những lời nàng nói
ra. Nàng làm thơm tôi và soi sáng cho tôi. Đáng lẽ tôi chẳng nên bỏ đi trốn.
Đáng lẽ tôi phải đoán thấy tình ý yêu dấu của nàng ở phía sau những mánh khóe
lai rai kia mới phải. Hoa mang mâu thuẫn nhiều lắm ở trong mình! Nhưng xưa
kia tôi còn nhỏ quá, đâu có biết cách thương yêu đúng lối."
IX.
Tôi
tưởng chừng chàng đã nhân một đoàn chim di thê mà thoát vòng thao túng của cô
nàng. Buổi sáng lần ra đi, chàng đã xếp đặt tinh cầu gọn ghẽ. Chàng đã nạo kỹ
những ngọn hỏa sơn đương thời kỳ nổi trận làm mưa làm gió. Chàng có được hai
hỏa sơn náo động. Và kể thật là tiện lợi cho việc nấu nướng bữa điểm tâm.
Chàng cũng có được một hỏa sơn đã tắt. Nhưng theo lối của chàng, “Ai biết đâu
ra đâu", vậy là chàng nạo kỹ luôn cả hỏa sơn đã tắt. Nếu được nạo kỹ,
thì những hỏa sơn cháy đều đặn êm đềm, không có sôi trào cuồng bạo. Hỏa sơn
phun lửa cũng như ống khói nhả khói. Cố nhiên trên địa cầu chúng ta, chúng ta
quá nhỏ nhoi, thì cái việc nạo hỏa sơn là không thể được rồi. Do đó mà hỏa
sơn gây cho chúng ta lắm điều phiền não.
Hoàng
tử bé cũng nhổ kỹ những gốc cẩm quỳ còn sót, với một chút ưu sầu. Chàng đã
tưởng sẽ rằng bao giờ trở lại. Nhưng mọi công việc thông thường này, buổi mai
đó dường như êm dịu vô biên đối với chàng. Và khi chàng tưới nước lần cuối
cho đóa hoa, và sắp sửa đặt nàng yên trú trong bầu tròn thì chợt chàng cảm
thấy lòng nao nao muốn khóc.
"Vĩnh
biệt nhé", chàng bảo hoa.
Nàng
không đáp.
"Vĩnh
biệt nhé", chàng lập lại.
Nường ho
ho vài tiếng. Nhưng không phải vì chứng cảm hàn.
"Thiếp
đã ngu dại lắm, cuối cùng nường nói thế. Thiếp xin lỗi chàng. Chàng hãy gắng
mà vui."
Chàng
ngạc nhiên không thấy nàng thốt lời nào oán trách cả. Chàng đờ đẫn đứng im,
tay cầm cái bầu tròn chới với trong khoảng không. Chàng không hiểu nỗi niềm
dịu dàng thân thiết ấy của đóa hoa.
"Nhưng
thật đó, thiếp yêu chàng, hoa bảo vậy. Chàng chả có ngờ ra cái gì hết, đó là
lỗi tại thiếp. Cũng chẳng có chi hệ trọng. Nhưng chàng cũng khờ dại y như
thiếp đó thôi. Chàng gắng mà sống cho vui đi... Để yên cái bầu tròn nằm đó.
Thiếp chả cần tới nó nữa."
"Nhưng
còn cơn gió..."
"Thiếp
đâu có cảm hàn gì nhiều đến thế... Gió thổi chiều hôm mát mẻ rất tốt đối với
cơ thể thiếp. Thiếp là một cành hoa."
"Nhưng
còn những con thú vật..."
"Thiếp
cũng phải liều liệu mà chịu kham một vài con sâu bọ chứ, nếu muốn được biết
mùi con bướm. Dường như nó đẹp lắm chứ chẳng phải chơi đâu. Nếu không đó, thì
đào đâu ra kẻ thăm viếng? Chàng sẽ ở xa, xa lắm. Còn những con thú vật to bự,
thiếp chả sợ gì. Thiếp có móng nhọn của thiếp đó."
Và nường
đã ngây thơ đưa ra bốn cái gai nhọn. Rồi nàng tiếp:
"Cũng
đừng nấn ná lai rai nữa làm chi. Con đường thôn lắm. Ngày dài chi mô. Hồ đồ
mở môi kề cà, là đáng bực lắm. Chàng đã quyết đi, thôi thì hãy đi cho
trót."
X.
Chàng đã
từng ở trong vùng những tiểu tinh cầu 325, 326, 327, 328, 329 và 330. Chàng
bèn khởi sự thăm viếng chúng vậy, cốt để tìm một công việc giải sầu và cũng
để học hỏi thêm.
Tinh cầu
thứ nhất có một vì vua cư trú.
Vị vua
nọ, vận xích bào và da lông chồn bạch, nghiễm nhiên chễm chệ trên một cái
ngai vàng rất đơn sơ và rất trọng thể.
"A!
Đây là một con dân, vị vua nọ thốt to lúc nhìn thấy thoáng hoàng tử bé."
Và hoàng
tử bé tự nhủ:
"Làm
sao ngài lại có thể nhận ra ta được, vì bấy nay có bao giờ ngài gặp gỡ ta
đâu."
Chàng
không rõ là: đối với vua chúa, thì thế gian được tài tình rút gọn một cách
đơn giản lạ thường. Mọi người trong thế gian đều là con dân trăm họ của một
đấng Con Trời.
"Lại
gần đây cho trẫm xem rõ mày mặt", nhà vua bảo thế, vì ngài rất lấy làm
hãnh diện được dịp đóng vai vua chúa với một con người, con kẻ, con dân.
Hoàng tử
bé đưa mắt nhìn quanh kiếm một chỗ ngồi, nhưng tinh cầu này toàn thể bị ngổn
ngang lấp phủ bởi cái áo bào lộng lẫy lông chồn quá ư đồ sộ bao la. Chàng
đành đứng im và vì mỏi mệt quá, chàng ngáp dài.
"Triều
nghi không cho phép thiên hạ đứng trước mặt một vì vua mà ngoác miệng ra
ngáp. Trẫm cấm nhà ngươi cái sự vụ ngáp đó."
"Tôi
không tự kiềm chế nỗi cái ngáp", hoàng tử bé đáp, và lóng cóng ngại
ngùng khôn xiết. “Tôi đã trải một cuộc hành trình dằng dặc, và chưa có ngủ
chút nào, nên thèm ngủ quá..."
"Thế
thì", vua phán. "Trẫm ra lệnh cho nhà ngươi hãy ngáp. Ngáp đi. Từ
bao năm nay trẫm cũng chưa gặp cơ duyên run rủi có được một phen gió nhìn
thần dân ngáp. Những cái ngáp, ngáp ngắn ngáp dài, đối với quả nhân là thứ
của lạ. Nào! Ngáp đi. Ngáp nữa đi. Trẫm ra lệnh cho nhà ngươi ngáp đó."
"Sự
vụ này xui tôi lóng cóng ngẩn ngơ... tôi không còn có thể nữa..." hoàng
tử bé lúng túng nói, đỏ mặt tía tai.
"Hừ!
Hừ!" Vua đáp. "Thế thì... ta ra lệnh cho nhà ngươi lúc thì ngáp,
lúc thì..."
Nhà vua
cà lăm lặp cặp chút ít và có vẻ bực mình.
Bởi vì
nhà vua chủ trương triệt để cốt yếu cái điều: uy quyền của mình phải được
thiên hạ tôn trọng. Ngài không dung thứ sự nham nhở bất tuân. Còn ra thể
thống gì nữa. Vua này là vua tuyệt đối chuyên chế chí tôn. Tuy nhiên vì ngài
rất nhân hậu, nên ngài ban ra những mệnh lệnh hữu lý.
Ngài
thường nói: “Nếu ta ra lệnh cho một vị tướng lãnh phải biến thể ra làm hình
hài con chim biển, và nếu vị tướng không tuân lệnh ta, thì lỗi không phải ở
nơi vị tướng. Lỗi là ở ta vậy."
"Tôi
được phép ngồi chăng?", hoàng tử bé e ấp thưa bẩm.
"Trẫm
ra lệnh cho nhà ngươi ngồi xuống", nhà vua đáp và long trọng kéo bớt một
vạt áo lông chồn trắng lên.
Nhưng
hoàng tử bé ngạc nhiên. Tinh cầu bé bỏng tí hon. Nhà vua trị vì trên cái gì
mới được nhỉ?
"Tâu
bệ hạ", chàng hỏi... "Xin bệ hạ mở lượng hải hà cho phép hạ thần
nêu tiếng hỏi..."
"Ta
ra lệnh cho nhà ngươi hãy hải hà nêu lên tiếng hỏi", nhà vua vội vã nói.
"Tâu
bệ hạ... bệ hạ trị vì trên cái chi?"
"Trên
tất cả", nhà vua đáp, "một cách thật đơn giản".
"Trên
tất cả?"
Nhà vua
làm một cử chỉ nhỏ, biểu thị tinh cầu mình, những tinh cầu khác và những ngàn
sao.
"Trên
tất cả những cái đó?", hoàng tử bé hỏi.
"Trên
tất cả những cái đó...", nhà vua trả lời.
Bởi vì
đây không chỉ là một nhà vua chuyên chế, mà còn là một vị chúa tối thượng chí
cao trị vì trên càn khôn cùng vũ trụ suốt năm tháng thời gian chon von tuế
nguyệt.
"Và
ngàn sao tuân lệnh bệ hạ?"
"Tất
nhiên", nhà vua đáp. "Chúng chúng ngàn sao lập tức tuân lệnh. Trẫm
không dung tha sự vô kỷ luật."
Một
quyền uy khôn xiết như vậy xui hoàng tử bé bàng hoàng kinh thán. Nếu xưa kia
chàng mà nắm được quyền bính đó, ắt là chàng đã từng có thể chứng giám, không
phải chỉ bốn mươi bốn, mà bảy mươi hai, hoặc tới cả trăm hoặc không chừng hai
trăm cảnh trời lặn trong một ngày, mà chả cần chi phải xê dịch cái ghế đi nửa
bước. Và vì chàng cảm thấy hơi buồn khi sực nhớ tới tinh cầu bé bỏng của mình
bị bỏ rơi xa biệt, chàng đánh bạo thỉnh cầu vị chúa ban một hồng ân:
"Tôi
muốn nhìn thấy một cảnh mặt trời lặn... Xin ngài vui lòng cho tôi được... Xin
bệ hạ ra lệnh cho mặt trời hãy đi ngủ..."
"Nếu
ta ra lệnh cho một vị tướng phải bay từ một đóa hoa này sang đóa hoa kia theo
điệu con bướm, hoặc phải viết một vở bi hùng kịch, hoặc biến dạng cho thành
ra hình hài hải điểu, và nếu như vị tướng không thi hành mệnh lệnh, thì ai lả
kẻ quấy, vị tướng nọ hay là trẫm này?"
"Hắn
là bệ hạ quấy", hoàng tử cương quyết nói.
"Đúng.
Phải yêu cầu nơi mỗi kẻ mỗi người cái gì mà người ấy có thể cho ra được. Uy
quyền trước hết phải thiết lập trên cơ sở lý tính. Nếu nhà ngươi ra lệnh cho
con dân nhảy xuống biển, thì dân con sẽ nổi loạn làm cách mạng con dân, lật
đổ nhà ngươi nhào xuống khỏi ngai vàng chín bệ. Ta có quyền đòi hỏi sự tuân
lệnh, bởi vì những mệnh lệnh ta ban ra đều hợp lý."
"Vậy
thì cảnh mặt trời lặn của tôi?" Hoàng tử bé nhắc trở lại, vì chàng chẳng
bao giờ quên một câu hỏi nào, một khi chàng đã nêu nó ra.
"Cảnh
mặt trời lặn của ngươi, ngươi sẽ có nó. Ta sẽ đòi hỏi điều đó cho ngươi.
Nhưng thể theo thuật cầm quyền, ta sẽ chờ cho tới lúc những điều kiện thuận
lợi đầy đủ đi về."
"Lúc
nào thì tới lúc?"
"Hừ!
Hừ!" nhà vua đáp, sau khi tra xét một cuốn lịch bự, hừ hừ, "vào
khoảng... vào khoảng bảy giờ bốn mươi chiều nay! Và nhà ngươi sẽ có dịp nhìn
thấy rõ mệnh lệnh ta được tuân theo một cách nghiêm mật khôn hàn."
Hoàng tử
bé lại ngáp. Chàng tiếc rẻ cơn tịch dương xí hụt của mình. Và chàng cũng đã
thấy chán ngán buồn tình chút ít:
"Tôi
chả còn biết lưu lại đây nữa để làm gì, chàng nói với vị vua. Tôi sắp xin
đi!"
"Đừng
đi, nhà vua đáp", nhà vua vốn rất lấy làm hãnh diện được có một con dân.
"Đừng đi, trẫm sắp ban chức thượng thơ cho ngươi đó!"
"Thượng
thơ bộ gì?"
"Bộ...
tư pháp!"
"Nhưng
có ai đâu để mà xét xử!"
"Nào
đã biết đâu, nhà vua bảo. Trẫm chưa ngự giá tuần du khắp vương quốc. Trẫm đã
già lắm rồi, và xứ sở cũng không có đủ chỗ để mà đặt một cỗ xe ngựa, còn đi
bộ thì gân xương ta lỏng lẻo chịu sao nổi."
"Ồ!
Nhưng tôi đã nhìn thấy", hoàng tử bé nói khi nghiêng mình nhìn thêm một
trận nữa về mặt bên kia tinh cầu. "Bên kia cũng chẳng có một ai..."
"Nếu
vậy nhà ngươi hãy tự mình xét xử mình vậy, nhà vua đáp. Đó là điều khó nhất.
Tự xét xử mình, còn khó khăn gấp mấy xét xử kẻ khác. Nếu nhà ngươi mà tự xét
xử mình được công minh, nhà ngươi quả nhiên là một bậc hiền thánh đích nhiên
thượng thừa hy hữu vậy."
"Tôi",
hoàng tử bé đáp, "tôi có thể tự mình xét xử mình bất cứ ở nơi chốn nào.
Hà tất phải ở lại đây. Ích chi mô."
"Hừ,
hừ!" nhà vua nói, "ta tưởng rằng đâu đó trên tinh cầu này có một
con chuột cống già. Đêm đêm ta nghe nó rục rịch kêu rêu heo hút. Nhà ngươi sẽ
thỉnh thoảng lên án nó từng trận trận mà chơi. Và như vậy, số kiếp nó sẽ tùy
thuộc nơi quyền tài phán công minh tối thượng của nhà ngươi. Nhưng cứ mỗi một
phen ngươi lại xá miễn cho nó, là cốt để dành dụm con chuột lại cho còn đó mãi
mãi về sau. Suốt xứ, chỉ có một nó duy nhất mà thôi."
"Tôi",
hoàng tử bé đáp, "tôi không thích lên án tử hình ai cả, và tôi tưởng
mình sắp xin ra đi."
"Không",
nhà vua bảo.
Nhưng
hoàng tử bé, soạn sửa chỉnh bị đã xong, không có ý muốn làm phiền lòng vị
chúa già.
"Nếu
bệ hạ muốn được hạ thần tuân mệnh một cách thật tinh tế dòn dã, thì bệ hạ có
thể thử ra một cái lệnh hợp lý xem sao. Chả hạn, bệ hạ có thử ra lệnh cho hạ
thần ra đi gấp bây giờ. Dường như tình thế đã tới chỗ rất mực thuận lợi
rồi..."
Thấy nhà
vua không đáp, hoàng từ ban đầu có ý ngần ngừ đôi chút, rồi thở dài một
tiếng, đứng dậy cất bước.
"Trẫm
ban cho khanh chức đại sứ của trẫm đó", nhà vua vội vã kêu to một lời
như thế.
Trông
ngài có vẻ uy nghiêm tối thượng.
"Những
người lớn quả thật là kỳ dị", hoàng tử bé tự nhủ trong lòng, suốt trên
lộ trình dằng dặc.
XI.
Tinh cầu
thứ nhì có một kẻ cư trú, tính tình thích khoe khoang:
"A!
A! Hôm nay là ngày kẻ thán phục mình tới viếng mình kia đó!", gã khoe
khoang kêu to một tiếng như vậy lúc vừa chớm chợt thấy thoáng hoàng tử bé ở
xa xa.
Bởi vì
đối tượng những kẻ khoe khoang thì thiên hạ gồm toàn những kẻ thán phục mình.
"Xin
chào", hoàng tử bé nói. "Ngài có một cái mũ đội trên đầu trông ngộ
nghĩnh kỳ cục lai rai, ron ren dấm dớ thật."
"Đó
là để chào nhau đó", kẻ khoe khoang trả lời. "Đó là để chào đáp
nhau lúc thiên hạ tung hô ca ngợi mình. Khổ thay, chốn này chả bao giờ có một
ai bén mảng tới."
"À!
Thế nào ư ra thế"? Hoàng tử bé nói và chưa hiểu ý ra làm sao.
"Hãy
vỗ hai bàn tay vào nhau cho lốp đốp đi", kẻ khoe khoang khuyên bảo như
vậy.
Hoàng tử
bé vỗ hai bàn tay vào nhau lốp đốp. Gã khoe khoang bèn từ tốn ôn tồn khiêm
nhượng nâng mũ lên một cách yểu điệu dập dìu.
"Cái
vụ này coi a có mòi thú vị đây, có mòi rỡn vui du hý hơn cái vụ viếng ông vua
bữa trước", hoàng tử bé tự nhủ ở trong cái cõi lòng hí hửng hân hoan của
mình. Và chàng ta lại tiếp tục khởi trận điệp điệp vỗ hai bàn tay vào nhau
nghe ra càng tươi vui lốp đốp. Gã khoe khoang lại điệp điệp đáp điệu chào bằng
cách dìu dặt nâng lại lại lên lên...
Sau năm
phút luyện tập thao diễn đón đưa đú đởn, hoàng tử bé thấy ngán ngẩm mệt mỏi
cho cái trò rỡn chơi đơn điệu quá độ đùa dai này:
"Còn
như muốn cho cái mũ nó rơi xuống một trận, thì phải làm sao", hoàng tử bé
hỏi.
Nhưng gã
khoe khoang không nghe gì ra gì trong cái câu hỏi đó. Bọn khoe khoang chỉ già
mồm già mũi, nên tai mắt thì bao giờ cũng chỉ có nghe ra duy cái tiếng tung
hô tụng niệm ngợi ca thôi.
"Có
thật chăng, có thật chăng là nhà ngươi thán phục ngợi ca ta?", gã hỏi
hoàng tử bé một câu như thế.
"Sao
gọi là thán phục ngợi ca?"
"Thán
phục ngợi ca à? Ấy có nghĩa là du dương nhìn nhận rằng là ta đây đúng là con
người đẹp nhất, ăn vận bảnh bao nhất, thắt ca vát xum xuê nhất, giàu sang phú
hậu nhất trên nền, tài danh phong nhã nhất trên bậc, từ vào trong cho chí ra
ngoài, tràn lan khắp phong cảnh của tinh cầu tư lự, thông minh nết đất, văn
chương tính trời."
"Nhưng
ngài có một mình ngài trên cái tinh cầu của ngài mà!"
"Vẫn
xin ngươi hãy làm hài lòng ta đi chứ. Sao thì sao, mặc. Cứ vẫn chúc tụng ngợi
ca đi!"
"Ta
chúc tụng ngợi ca nhà ngươi đó nhé, hoàng tử bé nói, và hơi nhún đôi vai một
tí, nhưng mà làm thế có gì đâu mà ngươi lấy làm hí hửng hân hoan lưu tâm vào
nhiều chi quá vậy?"
Và hoàng
tử bé quay lưng, trở gót chân đi.
"Những
người lớn quả thật là kỳ cục", hoàng tử bé tự nhủ trong lòng mình một
câu như vậy, trên suốt lộ trình trong trận viễn du.
XII.
Tinh cầu
tiếp theo có cư trú một chàng ăn nhậu. Cuộc viếng thăm này rất vắn vủn, nhưng
lại xui hoàng tử bé triền miên tư lự u sầu:
"Ngài
làm chi đó?" Chàng bảo ông nhậu, lúc nhìn thấy ông ta lặng lẽ ngồi lì
bên một mớ con-lét-xon tụ đủ những be sành, bầu sỏi, bình son đã can rượu nằm
ngồi bê bết ngổn ngang bên một lô con-lét-xon những chai đầy ăm ắp đứng.
"Ta
nhậu nhậu ta", ông nhậu đáp vậy, với giọng ưu phiền, não dạ thảm đạm làm
sao.
"Tại
sao ngài nhậu?", hoàng tử bé hỏi.
"Ta
nhậu để ta quên", ông nhậu đáp.
"Để
quên cái chi?", hoàng tử bé hỏi, lòng đã thấy ái ngại cho ông.
"Để
nhâm nhi quên đi cái niềm thị phi xấu hổ", ông nhậu đáp và cúi gầm cái
đầu tư lự xuống.
"Xấu
hổ cái chi?" hoàng tử bé hỏi, lòng đã thấy có ý muốn giúp đỡ giùm ông ta
một cái.
"Xấu
hổ cái nhậu!", ông nhậu kết thúc một cách bất khả vãn hồi trong lặng lẽ
vậy quanh.
Và hoàng
tử bé quay gót chân đi, hoang mang khôn xiết.
"Những
người lớn quả thật sao mà kỳ cục thế", chàng tự nhủ trong lòng trên suốt
lộ trình viễn du trong cuộc.
XIII.
Tinh cầu
thứ tư có cư trú một ông làm ắp phe. Ông này lăng xăng bận rộn đến nỗi không
buồn ngẩng đầu lên lúc hoàng tử bé tới.
"Xin
chào", hoàng tử bé nói. "Điếu thuốc của ngài đã tắt cái đầu
lửa".
"Ba
và hai là năm. Năm và bảy là mười hai. Mười hai và ba, mười lăm. Xin chào.
Mười lăm và bảy, hai mươi hai. Hai mươi hai và sáu, hai mươi tám. Hai mươi
sáu và năm, ba mươi mốt. Húp! Thế là ra năm trăm một triệu sáu trăm hai mươi
hai ngàn bảy trăm ba mươi mốt."
"Năm
trăm triệu cái chi?"
"Hử?
mày vẫn đứng đó? Năm trăm một triệu cái... cái chi tao cũng chẳng biết nữa...
cái chi tao quên mất rồi... Tao bận công việc quá xá đi mà! Tao nghiêm trọng
đứng đắn lắm, tao đây, tao không có lai rai đâu mà rỡn đùa với những vụ nhâm
nhi nhảm nhí! Hai và năm là bảy..."
"Năm
trăm một triệu cái chi", hoàng tử bé hỏi trở lại, vì chàng vốn chẳng bao
giờ chịu rút lui một câu hỏi, một khi đã mở miệng nêu nó ra rồi.
Người ắp
phe ngẩng đầu:
"Từ
năm mươi bốn năm ta sống tại cái tinh cầu này, ta chỉ bị quấy nhiễu ba bận mà
thôi. Bận thứ nhất đó là cách đây hai mươi hai năm, bởi một con bọ rầy chẳng
biết từ đâu rớt tới một hột. Nó gây nên một tiếng ầm kinh khiếp, làm cho ta
tính lộn bốn chỗ trong một bài toán cộng. Lần thứ nhì đó là cách đây mười một
năm, bởi một trận đau xương trở lên chứng. Ta không thì giờ thể dục. Ta không
thì giờ dạo quanh. Ta không lai rai, ta đứng đắn trang nghiêm. Lần thứ ba...
là đây! Vậy là khi nãy ta đã tính tới con số năm trăm một triệu..."
"Triệu
cái chi?"
Ông ắp
phe biết rằng khôn nỗi hy vọng yên bình được.
"Triệu
những cái thứ nhỏ nhít mà đôi khi thiên hạ thấy ra ở trên trời."
"Những
con ruồi?"
"Không,
không phải, những cái vật vàng óng làm cho những đứa lười biếng nó mơ mộng
đăm chiêu ở bên thân mình của phố thị. Chúng nó mang cái dạ bần thần lếu láo
đìu hiu cầu nguyện bước lan đi... Nhưng ta đây, ta nghiêm trang đứng đắn, ta!
Ta không thì giờ đâu mà mộng mị chiêu đăm."
"A!
những ngôi sao?"
"Phải,
phải đó. Những ngôi sao."
"Và
ngài đem ra làm cái chi với năm trăm triệu ngôi sao đó?"
"Năm
trăm một triệu sáu trăm hai mươi ngàn bảy trăm ba mươi mốt. Ta đứng đắn
nghiêm trang, ta đưa ra con số chắc chắn, rõ rệt, chính xác."
"Và
ngài đem ra làm cái chi với những ngôi sao đó?"
"Làm
cái chi với những ngôi sao?"
"Vâng."
"Không
đem làm cái chi cả. Ta sở hữu chúng."
"Ông
sở hữu những ngôi sao?"
"Ừ.
Những ngôi sao nằm trong vòng cõi sở hữu của ta."
"Nhưng
tôi vốn có biết một ông vua..."
"Những
ông vua không có sở hữu một cái chi hết cả. Ông vua là ông “trị vì"
trên. Hoàn toàn khác biệt."
"Và
ông sở hữu những ngôi sao, sự đó không dùng vào được sự gì ráo?"
"Dùng
vào sự mua lấy những ngôi sao khác, nếu thảng hoặc có kẻ tìm kiếm được đâu
ra."
"Cái
ông này", hoàng tử bé tự nhủ trong lòng, "cái ông này lý luận có bề
hơi giống một người sau rượu."
Tuy
nhiên chàng còn chất vấn thêm:
"Làm
sao mà người ta có thể sở hữu được những ngôi sao?"
"Ngôi
sao, chúng là của ai?" Ông ắp phe cằn nhằn hỏi giật trở lại một cái.
"Tôi
chả biết. Chúng chả là của ai cả."
"Vậy
thì rõ ràng chúng là của ta vậy, bởi vì ta là kẻ đầu tiên đệ nhất đã nghĩ tới
chúng trước tiên."
"Chừng
đó đã đủ?"
"Tất
nhiên. Khi mày tìm thấy một viên kim cương không của ai cả, thì nó là của
mày. Khi mày tìm thấy một hòn đảo không của ai cả, thì nó là của mày. Khi mày
tìm thấy một con vịt không của ai cả, thì nó là của mày. Khi mày tìm thấy một
ý tưởng đười ươi trước tiên, thì mày đem cấp phát văn bằng dược khoa cho nó:
nó là của mày. Còn ta, ta sở hữu những ngôi sao, bởi vì chưa bao giờ có kẻ
nào trước ta đã nghĩ tới cái sự chiếm hữu chúng nó cả."
"Cái
đó quả đúng như vậy. Nhưng ngài đem chúng dùng làm cái chi?"
"Ta
quản lý chúng. Ta đếm đi đếm lại chúng. Ta đếm tới đếm lui chúng. Cái đó khó
nhọc lắm. Nhưng ta vốn xưa kia tới bây giờ mới thấy đây là một người nghiêm
trang đứng đắn!"
Hoàng tử
bé vẫn còn chưa thấy thỏa mãn trong lòng.
"Tôi,
nếu tôi có một cái khăn quàng cổ, thì tôi có thể đem quấn nó quanh cổ và mang
nó đi. Tôi, nếu có một đóa hoa, thì tôi có thể ngắt đóa hoa của tôi, và mang
nó đi. Nhưng ông, thì ông không thể hái ngắt được những đóa ngôi sao đâu! Xin
đi lạc lối thanh hà. Xin đi sai điệu cung hà thanh đi."
"Vâng,
nhưng ta có thể đem gửi chúng nó cho nhà băng."
"Thế
có nghĩa là thế nào?"
"Thế
có nghĩa là ta viết ra trên một mặt giấy nhỏ tổng số những ngôi sao của ta.
Rồi thì ta đem tấm giấy nọ mà khóa kỹ vào trong một cái ngăn tủ."
"Rồi
thôi?"
"Rồi
thôi. Chừng đó đã đủ vậy!"
Ngộ
nghĩnh thật, hoàng tử bé tự nhủ. Cũng là khá thơ mộng đó. Nhưng coi có mòi
không được đứng đắn mấy chút cho lắm.
Hoàng tử
bé có những ý tưởng rất khác ý tưởng những người lớn về những sự vật đứng
đắn. "Tôi", chàng bảo, tôi có một đóa hoa tôi tưới nước hằng
ngày. "Tôi có ba hỏa sơn tôi nạo than khói hàng tuần. Vì tôi cũng nạo
gọt cho những hỏa sơn đã tắt. Ai biết đâu. Ai đâu ngờ được hết. Đó là cần ích
cho những hỏa sơn của tôi, và cần ích cho đóa hoa của tôi, mà tôi sở hữu.
Nhưng còn ông, ông chả có ích lợi chi cho những ngôi sao cả..."
Ông ắp
phe mở miệng, nhưng chẳng tìm ra một lời nào để đáp, và hoàng tử bé trở gót
chân đi. "Những người lớn quả thật là hoàn toàn kỳ lạ", chàng tự
nhủ một cách đơn sơ như thế suốt trên cuộc viễn du...
|
Chương 3
XIV.
Tinh cầu thứ năm thật
là rất lạ. Đó là tinh cầu bé bỏng nhất trong mọi tinh cầu. Chỉ vừa đủ chỗ cho
một ngọn đèn lồng và cho một kẻ coi sóc thắp đèn. Hoàng tử bé không cách gì tự
minh giải cho mình rõ sự vụ: trên một tinh cầu không nhà cửa, không dân cư, lưu
lạc vật vờ giữa càn khôn man mác, thì một ngọn đèn lồng ở ngã ba đường không có
ngã ba còn có thể phụng sự cho ai hoặc cho cái gì mới được? Tuy nhiên chàng tự
nhủ:
"Có lẽ rằng cái anh
chàng này thuộc nòi phi lý máu xương. Tuy nhiên anh ta cũng không đến nỗi phi
lý quá như ông vua, gã khoe khoang, ông làm áp phe và ông nhậu. Ít ra nữa thì
công việc anh ta làm cũng còn có một chút ý nghĩa chi đó. Khi anh ta thắp ngọn
đèn lồng thì cũng có thể gọi là làm một việc giống như làm nảy sinh thêm ra một
cái ngôi sao nữa, hoặc một đóa hoa rạng rỡ nữa. Lúc anh ta tắt ngọn đèn thì
cũng như là ru đóa hoa hoặc ngôi sao vào torng giấc ngủ. Đó là một công việc
xinh xắn lắm vậy. Mà đã xinh, thì hẳn nhiên là hữu ích thật sự rồi vậy."
Khi hoàng tử cập bờ tinh
cầu, chàng kính cẩn chào người thắp đèn:
"Xin chào ông ngày mới.
Vì sao ông vừa tắt ngọn đèn lồng đi như rứa?"
"Đó là hiệu lệnh",
người thắp đèn đáp. "Chào chú ngày lành".
"Hiệu lệnh là gì?"
"Ấy là tắt ngọn đèn
vậy. Chào chú đêm lành".
Và anh ta thắp ngọn đèn lên.
"Nhưng tại sao ông lại
vừa thắp ngọn đèn trở lại?"
"Đó là hiệu lệnh",
người thắp đèn đáp.
"Tôi không hiểu",
hoàng tử bé nói.
"Chẳng có gì để hiểu
cả", người thắp đèn nói. "Hiệu lệnh là hiệu lệnh. Chào chú ngày
lành".
Và chàng ta tắt ngọn đèn
lồng.
Rồi chàng ta cầm lấy tấm mu
xoa ca rô đỏ mà thấm mồ hôi trên trán.
"Tôi làm một nghề kinh
khủng đó chú thấy không. Xưa kia thì công việc cũng là hữu lý. Tôi tắt đèn buổi
sáng, và thắp đèn lúc chiều hôm. Ngoài ra thì giờ còn lại của ban ngày thì tôi
nghỉ ngơi, thì giờ còn lại ban đêm thì tôi yên ngủ..."
"Và từ đó về sau, hiệu
lệnh đã thay đổi?"
"Hiệu lệnh không thay
đổi", người thắp đèn bảo. "Đó là bi kịch! Tinh cầu mỗi năm mỗi quay
nhanh chóng hơn, còn hiệu lệnh thì không thay đổi!"
"Thế rồi?", hoàng
tử bé nói.
"Thế rồi tới ngày nay
tinh cầu cứ mỗi phút là quay xong một vòng, thì tôi không còn một giây nghỉ
ngơi. Mỗi phút tôi phải thắp lên và tắt xuống mỗi bận!"
"Kỳ lạ thật. Mỗi ngày
xứ anh chỉ có một phút!"
"Chẳng có chi kỳ lạ
hết", người thắp đèn bảo. "Từ lúc ta nói chuyện với nhau tới bây giờ,
là một tháng tròn rồi đó."
"Một tháng?"
"Vâng. Ba mươi phút. Ba
mươi ngày! Chào chú đêm lành".
Và anh ta thắp ngọn đèn trở
lại.
Hoàng tử bé nhìn chàng và
thấy yêu mến cái anh chàng thắp đèn này sao mà trung thành với hiệu lệnh đến
thế... Hoàng tử nhớ lại những cơn mặt trời lặn, những trận tịch dương ngậm ngùi
mà thuở xưa chàng đã xoay quanh ghế ngồi để tìm ngó. Chàng muốn giúp đỡ ông bạn
thiết này:
"Bác biết đó nhé... tôi
biết một phương cách giúp bác nghỉ ngơi lúc nào bác muốn..."
"Luôn luôn tôi muốn,
người thắp đèn bảo. Bởi vì người ta có thể vừa trung thành vừa lười
biếng." Hoàng tử bé tiếp:
"Tinh cầu của bác nhỏ
bé quá đến nỗi chỉ bước chơi ba bước là đi xong một vòng. Bác chỉ cần bước chậm
chậm một chút là luôn luôn đứng dưới bóng mặt trời. Lúc nào bác muốn nghỉ ngơi
thì bác bước bước đi... và tùy ý bác muốn bao nhiêu thì ban ngày sẽ kéo dài ra
bấy nhiêu."
"Cái đó chẳng giúp gì
cho ta lắm đâu, người thắp đèn nói. Điều ta muốn trong đời, là ngủ."
"Rủi thật", hoàng
tử bé nói.
"Rủi thật", người
thắp đèn nói. "Chào chú ngày lành".
Và chàng tắt ngọn đèn lồng.
"Anh chàng này",
hoàng tử bé tự nhủ khi tiếp tục cuộc hành trình, "anh chàng này sẽ bị mọi
kẻ khác xem khinh, từ ông vua đến gã khoe khoang, ông nhậu, ông áp phe. Tuy
nhiên, chính chàng mới là kẻ duy nhất mà ta thấy không lố bịch đó. Ấy có lẽ vì
chàng bận tâm lo tới những gì khác hơn là chính bản thân mình."
Hoàng tử thở dài luyến tiếc
và tự nhủ thêm:
"Chàng nọ là kẻ duy
nhất mà ta có thể kết làm bạn thiết. Nhưng tinh cầu của y quả thật là quá bé.
Không đủ chỗ cho hai người..."
Điều mà hoàng tử bé không
dám tự thú nhận với mình, ấy là: chàng luyến tiếc tinh cầu lai láng hạnh phúc
kia nhiều nhất là bởi lẽ: tại đó trong khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chàng
có thể hưởng được đến một ngàn bốn trăm bốn mươi cơn mặt trời lặn! [1]
[1] Ấy là ẩn ngữ mạt thể suy tư?
XV.
Tinh cầu thứ sáu là một tinh
cầu rộng hơn gấp mười lần. Có một ông già cư trú, ông ta viết những cuốn sách
thật bự.
"Kìa một nhà thám
hiểm!", ông ta thốt lớn khi thoáng thấy hoàng tử bé.
Hoàng tử bé ngồi trên chiếc
bàn, và thở có chiều hổn hển chút ít. Chàng đã du lịch nhiều biết mấy dặm
đường!
"Chú từ đâu tới?"
cái ông cụ già hỏi.
"Cuốn sách bự nọ là
sách gì thế?". Hoàng tử bé hỏi. "Ngài làm chi tại đây?"
"Ta là nhà địa
lý", ông già nói.
"Nhà địa lý là
gì?"
"Là một nhà bác học
biết rõ biển khơi ở đâu, sông ngòi ở đâu, sa mạc ở đâu."
"Cái đó nghe ra có mòi
thích thú đấy, hoàng tử bé nói. Ừ! đó mới là nghề nghiệp đích thực đó."
Và chàng đưa mắt ngó bốn
xung quanh một cái, nhìn khắp quả tinh cầu của nhà địa lý. Chàng chưa bao giờ
nhìn thấy một tinh cầu uy nghiêm thế này.
"Thật là đẹp đó, cái
tinh cầu của ông. Đây có đại dương không?"
"Ta không thể biết được
điều đó, nhà địa lý nói."
"A!" (hoàng tử bé
thất vọng). "Còn núi rừng?"
"Ta không thể biết điều
đó", nhà địa lý nói.
"Còn những phố thị, còn
những sông ngòi và sa mạc?"
"Ta cũng không thể biết
được nốt", nhà địa lý nói.
"Nhưng ông là nhà địa
lý kia mà!"
"Cái đó đúng", nhà
địa lý nói, "nhưng ta đâu phải là nhà thám hiểm. Nhà địa lý đâu có phải là
kẻ kê khai toán định những phố thị, những sông ngòi, những núi rừng, những đại
dương và những sa mạc. Nhà địa lý quan trọng lắm, đâu có phải rỡn đâu mà lang
thang phôi pha tháng ngày đìu hiu đi dạo! Nhà địa lý không rời bàn giấy của
mình. Ngồi tại phòng giấy mà tiếp kiến các nhà thám hiểm. Nhà địa lý chất vấn
họ, và ghi vào sổ những kỷ niệm của họ. Và nếu những kỷ niệm của một kẻ trong
bọn họ xem ra có vẻ đáng lưu tâm, thì nhà địa lý liền cho người đi mở cuộc điều
tra về đạo đức của nhà thám hiểm."
"Để làm chi vậy?"
"Bởi vì một nhà thám
hiểm nếu rủi mà y nói dối một cái, thì có phải là tạo ra bao nhiêu nhào đổ đảo
điên trong sách vở của nhà địa lý hay không? Và sự tình ngổn ngang cũng vậy,
nếu nhà thám hiểm là một tay ghiền rượu."
"Tại sao vậy?",
hoàng tử bé hỏi.
"Tại vì những bọn say
rượu nhìn một ra hai. Do đó xui nhà địa lý lầm lạc theo, nhà địa lý ắt sẽ ghi
hai ngọn núi tại một nơi chỉ có một ngọn núi mà thôi."
"Tôi biết một kẻ",
hoàng tử bé nói, "nếu y làm nghề làm hiểm thì hỏng bét".
"Có thể lắm. Thế nên,
khi mà đạo đức của nhà thám hiểm xem ra có bề tốt đẹp, thì người ta làm một
cuộc điều tra về sự khám phá của y".
"Người ta sẽ đi xem
xét?"
"Không. Như vậy phức
tạp lắm. Người ta chỉ yêu cầu nhà thám hiểm đưa ra những bằng chứng. Nếu sự vụ
vấn đề là sự khám phá một trái núi to, thì người ta đòi hỏi y mang về những hòn
đá bự."
Nhà địa lý đột nhiên có
giọng kích động.
"Nhưng còn chú bé, chú
từ xa tới! Chú là một nhà thám hiểm! Chú hãy mô tả cho ta nghe tinh cầu của chú
ra sao!"
Và nhà địa lý, mở rộng cuốn
sổ ra, cầm con dao gọt nhọn đầu cây bút chì. Ban đầu người ta ghi bằng bút chì
những chuyện kể của những nhà thám hiểm. Người ta chờ đợi nhà thám hiểm đưa ra
đủ bằng chứng rồi mới ghi lại bằng mực đen trên giấy trắng.
"Thế nào?" nhà địa
lý chất vấn. "Thế nào? Ta khởi sự chứ?"
"Ồ! nơi xứ sở
tôi", hoàng tử bé nói, "chẳng có gì ra trò, chẳng có gì đáng lưu ý
lắm đâu, thật bé bỏng lắm. Tôi có ba ngọn hỏa sơn. Hai ngọn đương phun lửa, và
một đã tắt. Nhưng ai biết đâu bao giờ."
"Ai biết đâu bao
giờ", nhà địa lý nói.
"Tôi cũng có một đóa
hoa."
"Chúng ta không ghi
chép hoa", nhà địa lý nói. "Nói nghe lạ chưa! Sao vậy? Hoa là
cái xinh nhất!"
"Nhưng vì hoa vốn là
phù du".
"Sao gọi là phù du? Phù
du nghĩa là gì?"
"Địa lý lục", nhà
địa lý nói, "là những cuốn sách quý nhất trong mọi thứ sách. Chúng chẳng
thể trở thành trần hủ, lỗi thời, quá mối bao giờ. Ít khi có cái sự vụ một ngọn
núi dời chỗ, di lịch địa điểm. Rất ít khi một đại dương cạn ráo hết nước. Chúng
ta viết, chúng ta ghi chép những sự vật thiên thu, những sự vụ vạn đại, những
sự kiện vĩnh viễn muôn năm, trường tồn tuế nguyệt."
"Nhưng những ngọn hỏa
sơn đã tắt, bất ngờ có thể tỉnh giấc trở cơn, phun lửa trở lại, hoàng tử bé
ngắt lời. Sao gọi là “phù du"?"
"Dù hỏa sơn tắt, dù hỏa
sơn phun lửa, thì cũng vậy thôi đối với thiên hạ, nhà địa lý học nói, cái đáng
kể đối với chúng ta là trái núi. Trái núi thì không đổi dời."
"Nhưng sao gọi là “phù
du"?" hoàng tử bé lặp lại lần nữa, hoàng tử bé vốn là kẻ suốt đời
không bao giờ đã chịu rút lui một câu hỏi, mỗi một khi đã nêu nó ra rồi.
"Phù du có nghĩa là “bị
đứng trước hiểm họa sắp điêu tàn tiêu diệt?"
"Cố kỳ nhiên."
"Đóa hoa của ta là phù
du", hoàng tử bé tự nhủ, "và nó chỉ có bốn chiếc gai nhọn để tự bảo
vệ tấm thân trước cõi đời! Thế mà ta đã nỡ bỏ nó lại một mình nơi quê ta!"
Đó là niềm luyến tiếc ăn năn
trở cơn lần thứ nhất trong tấm lòng hoàng tử bé, nhưng chàng thu lại can đảm:
"Ngài khuyên tôi nên đi
viếng gì bây giờ?", chàng hỏi.
"Hành tinh Địa cầu, nhà
địa lý đáp. Địa cầu có một tiếng tăm tốt lắm đó... Nghe nói đó là nơi thường
xảy ra những sự vụ ly kỳ và thơ mộng phiêu bồng nhất vũ trụ."
Và hoàng tử bé quay gót ra
đi, mơ màng nghĩ tới đóa hoa cũ của mình.
XVI.
Tinh cầu thứ bảy vậy là trái
đất.
Trái đất không phải là một
tinh cầu lai rai như những lai rai tinh cầu! Người ta đếm ra có tới một trăm
mười một ông vua tại trái đất (cố nhiên không quên những ông vua da đen) bảy
ngàn nhà địa lý, chín trăm ngàn nhà áp phe, bảy triệu rưỡi gã say ca múa cô đơn
dưới nguyệt, ba trăm mười một triệu gã khoe khoang lố bịch, nghĩa là khoảng hai
nghìn triệu con người lớn.
Để cho các bạn có một ý niệm
về kích thích Trái Đất, tôi sẽ nói rằng trước cuộc phát minh điện khí, người ta
đã phải duy trì cấp dưỡng tại Trái Đất, trên toàn thể sáu châu, quả thật là cả
một binh đoàn đích thực gồm bốn trăm sáu mươi hai ngàn năm trăm mười một người
thắp ngọn đèn lồng bên các vệ đường phiêu bồng bốn biển.
Lùi khá xa mà ngó thì quả đó
là một cảnh tượng huy hoàng. Những vận động của binh đoàn khổng lồ đó được điều
chỉnh như những vận động của một vũ khúc ca kịch. Thoạt tiên là phiên những
người thắp đèn lồng của Nouvelle Zélande và của Australie. Rồi sau khi đã thắp
xong những ngọn đèn, thì bọn người này đi ngủ. Bấy giờ là tới lượt những người
thắp đèn lồng của Trung Hoa và Sibérie bước vào cuộc vũ lộng. Rồi bọn này cũng
biến lẩn đi trong những hậu phòng sân khấu. Lúc bây giờ là tới phiên những
người thắp đèn lồng của nước Nga và Ấn Độ. Rồi tới phiên Nam Mỹ. Rồi Bắc Mỹ. Và
không bao giờ bọn chúng nhầm lẫn lộn xộn trong thứ tự ra sân khấu trình diễn.
Thật là vĩ đại nguy nga.
Duy chỉ có người thắp ngọn
đèn lồng duy nhất tại Bắc cực, và bạn đồng nghiệp thắp ngọn duy nhất tại Nam
cực, là sống cuộc đời nhàn rỗi uể oải thong dong: mỗi năm chỉ làm việc hai lần.
XVII.
Khi người ta muốn mở cuộc
tài khí, chơi cuộc tài tình, thì có lúc người ta phải gian dối chút ít. Quả
thật là tôi không thật thà gì lắm, khi nói với bạn về những người thắp sáng đèn
lồng. Tôi có thể gây một ý niệm sai lầm về địa cầu chúng ta cho những ai không
biết nó. Con người choán rất ít chỗ trên mặt đất. Nếu cái số hai nghìn triệu
dân cư trên địa cầu đứng sít lại bên nhau, như trong buổi mít tinh, thì họ có
thể yên ổn đứng trong một khoảng vuông hai mươi cây số mỗi chiều. Ta có thể dồn
toàn khối nhân loại về trên một hòn đảo nhỏ nhoi heo hút nào đó trong Thái Bình
Dương.
Những người lớn, cố nhiên,
sẽ không tin lời anh. Họ tưởng mình choán nhiều chỗ lắm. Họ tưởng mình quan
trọng như những cây cẩm quỳ. Anh hãy khuyên họ thử làm một phép tính. Họ chuộng
con số lắm: điều anh đề nghị sẽ làm họ hài lòng. Nhưng bạn đừng để mất thì giờ
với cái hình phạt nọ. Vô ích. Bạn tin cậy nơi tôi.
Hoàng tử bé, một khi ghé địa
cầu, đã ngạc nhiên vô cùng vì chẳng thấy bóng một ai cả. Chàng đã e sợ mình
nhầm lẫn hành tinh, thì chợt thấy một cái vòng khoanh màu nguyệt bạch, rục rịch
trong cát.
"Chào chú đêm
lành", con rắn nói.
"Tôi đã rơi vào hành
tinh nào đây vậy?", hoàng tử bé hỏi.
"Vào trái đất, tại Phi
Châu", con rắn đáp.
"A!... thế thì té ra
trên trái đất chả có một ai cả?"
"Đây là sa mạc. Trong
sa mạc không có người. Trái đất lớn lắm", con rắn nói.
Hoàng tử bé ngồi xuống một
hòn đá và ngước mắt nhìn lên trời:
"Tôi tự hỏi, chàng nói,
phải chăng các ngôi sao được soi tỏ là cốt để cho mỗi người có thể mai sau tìm
thấy trở lại ngôi sao của mình. Hãy nhìn tinh cầu của tôi. Nó nằm ngay trên đầu
tôi đó... Nhưng xa biệt xiết bao!"
"Nó đẹp thật", con
rắn nói. "Chú tới đây làm gì?"
"Tôi gặp chuyện bối rối
khó xử với một đóa hoa", hoàng tử bé nói.
"A!" con rắn thốt.
Và cả hai cùng im lặng.
"Người ta ở đâu?",
hoàng tử bé rốt cuộc lên tiếng trở lại. "Trong sa mạc kể cũng cô đơn
thật..."
"Tìm tới nơi chốn của
con người", ta cũng vẫn cô đơn, "con rắn nói."
Hoàng tử bé nhìn con rắn
thật lâu rồi nói:
"Ngươi thật là một con
vật kỳ cục, ngươi mỏng manh như một cái ngón tay..."
Hoàng tử bé mỉm cười một
cái:
"Ngươi không quyền uy
gì lắm đâu... ngươi cũng chẳng có chân... đi du lịch lai rai, ngươi cũng chẳng
thể nào du lịch được..."
"Ta có thể mang chú đi
thật xa, còn hơn cả một chiếc tàu thủy", con rắn nói.
Nó cuộn tròn thân quanh
xương mắt cá hoàng tử bé, như một chiếc xuyến vàng:
"Kẻ nào bị ta chạm nhẹ
một cái, kẻ đó bị ta giao trả lại cho thớ đất mà nó đã từ trong đó rúc ra, con
rắn nói thêm như thế. Nhưng chú thì trong sạch, và chú từ một ngôi sao mà xuống
đây...
Hoàng tử bé không trả lời
gì.
"Ta thấy ái ngại cho
chú quá, chú yếu đuối xiết bao trên cái Trái Đất cứng như hoa cương thạch này.
Một ngày nào nếu chú quá luyến tiếc tinh cầu của chú, thì ta có thể giúp chú.
Ta có thể..."
"Ồ! Ta rất hiểu",
hoàng tử bé thốt, "nhưng tại sao ngươi cứ luôn luôn ăn nói bằng ẩn ngữ bí
hiểm mãi như thế?"
"Mọi ẩn ngữ, ta giải
đáp được hết", con rắn nói. Và cả hai im lặng.
XVIII.
Hoàng tử bé băng qua
sa mạc và chỉ gặp một đóa hoa. Một đóa hoa ba cánh, một đóa hoa ba cánh, một
đóa hoa nhỏ nhít tí tẻo.
"Chào hoa ngày
lành", hoàng tử bé nói.
"Chào chú ngày
lành", đóa hoa nói.
"Người ta ở đâu?",
hoàng tử bé lễ phép hỏi.
Đóa hoa, vốn từng có thấy
một đoàn lữ khách đi qua:
"Ngươi ta? Hình như có
chừng độ sáu, bảy chi đó. Cách đâu bao năm rồi, ta có thấy thoáng họ đi qua một
lần. Nhưng làm sao mà tìm ra họ được. Gió đưa đẩy họ đi. Họ không có rễ, điều
đó gây nên khó khăn bối rối cho họ rất nhiều."
"Vĩnh biệt", hoàng
tử bé thốt.
XIX.
Hoàng tử bé leo lên một ngọn
núi cao. Những ngọn núi duy nhất mà chàng đã từng có biết là ba hỏa sơn sâu tới
hai đầu gối chàng. Và chàng đã từng sử dụng ngọn hỏa sơn nguội như sử dụng một
cái ghế con. “Từ một đỉnh núi cao như chóp núi này chàng tự nhủ, ta sẽ nhìn
thoáng qua một cái là thấy khắp cả hành tinh, khắp cả mọi người..." Nhưng
chàng chỉ nhìn thấy những chóp nhọn lởm chởm bén như đao.
"Chào đó", chàng
nói vu vơ khống khứ.
"Chào đó... chào đó...
chào đó...", tiếng vang đáp lại.
"Các ngươi là
ai?", hoàng tử bé hỏi.
"Các ngươi là ai... các
ngươi là ai... các ngươi là ai...", tiếng vang đáp lại.
"Xin hãy là bạn thiết
của ta, ta cô đơn lắm", chàng nói.
"Ta cô đơn lắm... ta cô
đơn lắm... ta cô đơn lắm...", tiếng vang đáp lại.
“Hành tinh này sao mà kỳ cục
thế!“, chàng tự nhủ. „Nó khô khan khô đét nó nhọn hoắt đắng cay, nó đìu hiu
chát ngấm. Con người ở tại đây thì thiếu hẳn tưởng tượng. Ai bảo gì, thì chỉ
biết lặp trở lại ba lần bốn lần cái điều họ bảo... Tại xứ sở mình, mình đã có
một đóa hoa: bao giờ nàng cũng mở môi giật giành nói trước. Người ta chưa kịp
mở miệng, thì nàng đã tuôn ra một tràng..."
XX.
Nhưng rồi sau khi bước bước
mãi xuyên qua những cát, những đá, những chỏm cứng, những cồn mềm, những gió
lục, những nắng xanh, cuối cùng hoàng tử chợt thấy ra một con đường. Và mọi mọi
con đường đều dẫn tới những con người ta.
"Chào người đó",
chàng bảo.
Đó là một thửa vườn đầy hoa
hồng nở.
Hoàng tử bé nhìn chúng, tất
cả đều giống hệt đóa hoa của chàng. Chàng đờ đẫn kinh ngạc hỏi:
"Các nường là ai?"
"Chúng ta là những đóa
hồng", những đóa hồng đáp thế.
"A!" hoàng tử bé
thốt...
Và chàng cảm thấy vô cùng
khổ sở. Đóa hoa của chàng từng đã kể lể rành mạch cho chàng rõ là nàng ta vốn
là một cành thiên hương duy nhất trong chủng loại của nàng, một mình lộng lẫy
nằm ở giữa vũ trụ bên cạnh càn khôn. Thế mà tại đây, coi kìa, có cả một loạt
năm nghìn đóa, giống hệt như nhau, xum xít trong một thửa vườn xum xuê chật
ních.
"Nàng ắt sẽ phật ý bực
mình lắm, chàng tự nhủ, nếu nàng nhìn thấy cái cảnh này... nàng ắt sẽ húng hắng
ho tràn lan ra một cách thật đồ sộ và sẽ giả bộ chết đi để thoát khỏi lố bịch.
Và ta ắt sẽ phải buộc lòng giả bộ chăm sóc nàng, bởi vì, nếu ta không làm thế,
ắt nàng sẽ tự để cho thân nàng chết đi thật sự, để mà làm nhục ta, cho ta xấu
hổ một phen..."
Rồi chàng tự nhủ thêm:
"Ta đã tưởng mình giàu sang vô hạn với một đóa hoa duy nhất, té ra mình
chỉ có sở hữu một đóa hồng thông thường mà thôi. Té ra hoa của mình và ba ngọn
hỏa sơn của mình sâu chỉ tới hai đầu gối của mình, và một ngọn thì có lẽ tắt
ngấm vĩnh viễn, té ra mọi cái đó không đủ khiến cho ta thành một vị hoàng tử
lớn lao chi cho lắm..." Và duỗi thân xuống cỏ, chàng nằm khóc miên man.
XXI.
"Chào chú", con
chồn nói.
"Chào chú", hoàng
tử lễ độ đáp lại, "ngoảnh nhìn mà chẳng thấy chi hết."
"Ta ở tại đây",
giọng nói vẳng lên, "ta ở tại đây, dưới gốc cây táo..."
"Chú là ai?",
hoàng tử bé nói, "Chú xinh lắm đó..."
"Ta là một con
chồn", con chồn nói.
"Hãy tới đây chơi với
ta nhé", hoàng tử bé đề nghị. "Ta buồn quá đỗi..."
"Ta chẳng thể chơi đùa
với chú được", con chồn nói. "Ta chưa được tuần dưỡng nên tính khí
chưa thuần".
"A! xin lỗi nhé",
hoàng tử bé thốt.
Nhưng, sau cơn suy ngẫm,
chàng nói thêm:
"Tuần dưỡng có nghĩa là
gì?"
"Chú không phải người
của xứ này", con chồn nói, "chú tìm kiếm chi đây?"
"Ta tìm kiếm con
người", hoàng tử bé đáp. "Tuần dưỡng có nghĩa là gì?"
"Con người", con
chồn nói, "con người họ có những khẩu súng và họ đi săn bắn. Thật là điều
rầy rà lắm đó. Họ cũng nuôi những con gà mái tơ nữa. Đó là điều duy nhất có ý
nghĩa nơi xứ sở con người... Gà mái ôi! Gà mái tơ hơ hớ... Chú đi tìm gà mái đó
ư?"
"Không", hoàng tử
bé đáp. "Ta tìm kiếm những người bạn thiết. Tuần dưỡng có nghĩa là
gì?"
"Đó là một điều bị quên
lãng quá nhiều", con chồn đáp: "Đó có nghĩa là tạo nên những mối liên
lạc..."
"Tạo nên những mối liên
lạc?"
"Hẳn thế, con chồn nói.
Đối với tôi, chú hiện giờ chỉ là một đứa trẻ giống y như trăm nghìn đứa trẻ bé
khác. Và ta không cần thiết gì tới chú. Và chú cũng chẳng cần gì tới ta. Đối
với chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang như trăm nghìn con chồn lũi phất
phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi. Nhưng nếu chú tuần thiện dưỡng
ta, thì chúng ta sẽ cần tới nhau. Chú sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối
với ta. Ta sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với chú..."
"Ta bắt đầu hiểu rồi
đó", hoàng tử bé nói. "Có một đóa hoa... ta tưởng nàng đã tuần dưỡng
ta..." "Có thể lắm, con chồn nói. Trên Trái Đất, thấy xiết bao
là sự vật... vạn chủng thiên ban..."
"Ồ! không phải ở trên
Trái Đất", hoàng từ bé nói.
Con chồn có vẻ động tính
hiếu kỳ:
"Ở trên một hành tinh
khác?"
"Có những kẻ đi săn,
trên hành tinh ấy?"
"Không."
"Mọi sự, chẳng có một
cái gì là hoàn hảo", con chồn thở ra một cái.
Nhưng con chồn trở lại với ý
tưởng của nó:
"Đời ta tẻ nhạt. Ta
đuổi bắt những con gà mái, loài người đuổi bắt ta. Mọi con gà mái đều giống
nhau, và mọi con người đều giống nhau (dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người
phố thị đìu hiu...). Vậy nên ta có u sầu chán ngán đôi chút. Nhưng, nếu chú
tuần dưỡng ta, cuộc sống của ta sẽ sáng sủa ra, kể như có bóng mặt trời chiếu
vào vậy. Ta sẽ biết một tiếng động của một bàn chân bước đi, nghe khác hẳn mọi
tiếng chân bước khác. Những bước chân khác khiến ta chui vào hang trong đất.
Bước chân của chú lại gọi ta ló đầu ra ngoài hang nghe như âm thanh một giọng
nhạc. Và này coi kìa! Chú thấy ở đằng xa kia kìa những cánh đồng lúa mì đó chớ?
Ta không ăn bánh mì. Lúa mì đối với ta vô dụng. Những cánh đồng lúa mì chả có
nhắc nhở ta cái gì ráo. Và cái điều đó, thật đáng buồn! Nhưng chú có những sợi
tóc màu vàng óng. Vậy nên sự vụ sẽ trở thành huyền diệu, một khi chú đã tuần
dưỡng ta xong! Lúa mì, màu vàng óng, từ đó về sau sẽ nhắc nhở ta nhớ tới chú.
Và từ đó ta sẽ yêu dấu tiếng gió thổi thánh thót trong lúa mì hiu hiu..."
Con chồn dừng lại và nhìn
thật lâu hoàng tử bé:
"Nếu chú vui lòng...
hãy tuần dưỡng ta đi!"
"Ta muốn lắm",
hoàng tử bé đáp, "nhưng ta không có thì giờ nhiều. Ta còn phải kiếm những
bạn thiết, khám phá thêm, còn nhiều sự vật phải tìm hiểu biết."
"Người ta chỉ hiểu biết
những sự vật được người ta tuần dưỡng", con chồn nói. "Con người ngày
nay không còn thì giờ để hiểu biết gì hết. Họ mua những đồ vật làm sẵn ở tại
chợ, nơi những người lái buôn chuyên bán những bạn thiết, nên con người không
có nữa những bạn thiết. Nếu chú muốn có một bạn thiết, hãy tuần dưỡng ta
đi!"
"Phải hết sức nhẫn
nại", con chồn đáp. "Thoạt tiên, chú sẽ ngồi hơi xa ta một chút, như
vậy vậy đó, nằm vậy đó trong cỏ. Như vậy đó. Ta sẽ đưa đôi con mắt tròn mà liếc
nhìn chú, và chú sẽ không nói một tiếng nào. Ngôn ngữ vốn là cội nguồn của ngộ
nhận. Nhưng, mỗi ngày mỗi qua, thì chú mỗi có thể ngồi xích lại mỗi gần ta hơn
mỗi chút..."
Ngày hôm sau, hoàng tử bé
trở lại.
"Tốt hơn là nên trở lại
vào cái giờ của bữa trước, một giờ nhất định, con chồn nói. Nếu chú đến, chả
hạn, vào lúc bốn giờ chiều, thì khởi từ lúc ba giờ chiều, cõi lòng ta đã bắt
đầu sung sướng. Rồi giờ khắc càng tiến tới gần thêm, ta sẽ càng tăng thêm sung
sướng. Tới bốn giờ chiều thì, ha! ta loay hoay, e ngại, ta ngồi đứng không an;
ta sẽ khám phá được ý nghĩa vô ngần hắt hiu của phù du mênh mông hạnh phúc!
Nhưng nếu chú tới bất kể lúc nào, thì ta sẽ chẳng biết đâu vào đâu mà mò ra cho
đúng cái giờ phải chuẩn bị cho cái trái tim, cái phút phải vận y phục vào cho
cái cõi lòng đón chào tươm tất... Cần phải có những nghi thức mơ mộng, những
điển lễ phôi pha."
"Sao gọi là điển
lễ?", hoàng tử bé nói.
"Đó cũng lại là một cái
gì bị quên lãng đi nhiều quá", con chồn nói. "Điển lễ, nghi tiết, là
cái gì làm cho cái ngày này nó không giống mọi cái ngày khác, nó làm cho cái
một giờ này không giống cái mọi giờ khác. Có điển lễ, chả hạn, nơi những người
đi săn. Chúng nó khiêu vũ cới gái thôn làng ngày thứ năm. Thế là ngày thứ năm
là ngày huyền diệu! Ta sẽ đi dạo mon men tới tận mép đồng nho. Còn nếu bọn đi
săn mà khiêu vũ bất cứ lúc nào, thì mọi mọi ngày ngày ngày sẽ giống hệt như
nhau, và ta sẽ không có buổi nghỉ ngơi, không có giờ hội hè hoan lạc."
Và thế đó, hoàng tử bé khởi
sự tuần dưỡng con chồn. Và lúc tới giờ sắp từ giã:
"A!", con chồn
nói, "Ta sắp khóc mất rồi..."
"Đó là lỗi tại chú, ta
không có ý đem lại khổ tâm cho chú, nhưng vì chú đã muốn rằng ta tuần dưỡng
thiện dụ chú..."
"Hẳn nhiên", con
chồn nói.
"Thế thì chú chả có
được lợi gì hết trong vụ này!"
"Trong vụ này ta được
lợi đó", con chồn nói, "ấy bởi cái màu lúa mì."
Rồi nó nói thêm:
"Hãy về nhìn lại những
đóa hồng đi. Chú hiểu rằng riêng cái đóa hồng của chú là đóa hoa duy nhất trong
cõi hồ sơn. Và suốt bình sinh của chú, bất cứ đi đâu, cách biệt nơi nào, chú
vẫn đưa tâm hồn hướng về ban sơ hồ sơn hồi tưởng mãi, đúng như lời thi sĩ xưa
kia “Sa Mạc hồi khan Thanh Cấm Nguyệt. Hồ Sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân..."
Người xưa quả nhiên không có nói dối ta đâu. Chú sẽ trở lại vĩnh biệt ta, và ta
sẽ biếu chú một bí ẩn để làm quà."
Hoàng tử bé quay gót đi nhìn
lại những nụ hồng:
"Các nàng không có gì
giống đóa hồng của ta, các nàng hiện chẳng là cái gì ráo, chàng bảo những đóa
hồng như vậy. Chẳng có ai đã tuần dưỡng các nàng và các nàng cũng chẳng có tuần
dưỡng ai cả. Các nàng cũng như con chồn của ta trước đây. Trước đây nó chỉ là
một con chồn giống trăm nghìn con chồn khác. Nhưng ta đã biến nó nên bạn thiết
của ta, và bây giờ nó trở thành duy nhất trong cõi hồ sơn ứng mộng cho Sa Mạc
trổ bông Vũ Lâm Xuân hồi khan Thanh Cấm Nguyệt (!)"
Và những nụ hồng thật đã rất
mực bực lòng bối rối.
"Các nàng đẹp, nhưng
các nàng trống rỗng ở bên trong", chàng còn nói thêm như thế. "Người
ta không thể vì các nàng mà chết đi trong ngậm ngùi tưởng niệm. Hẳn nhiên, đóa
hồng của ta, một bộ hành đi qua ắt tưởng là nó giống các nàng. Nhưng riêng nó,
nó lại quan trọng hơn hết thảy các nàng, bởi vì chính nó được ta tự tay tưới
nước. Bởi vì chính nó đã được ta che giữ sau một tấm bình phong. Bởi ví chính
nó đã được ta bắt sâu, tỉa bọ (trừ một vài con để lại nhằm những cánh bướm mai
sau). Bởi vì chính nó đã được ta lắng tai nghe than van, hoặc nghe tán hươu tán
vượn diễm kiều tài tử, hoặc đôi lúc lại được nghe cả cái lặng im căm nín như
chiều Xuân vắng vẻ thanh hà. Bởi vì đó là đóa hồng của hồn ta tưởng nhớ."
Và chàng trở lại với con
chồn:
"Vĩnh biệt chồn
nhé", chàng nói...
"Vĩnh biệt chú
đó", chồn nói. "Đây là điều bí ẩn. Thật rất đơn sơ: người ta chỉ nhìn
thấy rõ là với trái tim. Các cốt thiết, cái tinh thể, cái đó vô hình đối với
hai con mắt."
"Cái tinh thể cốt
thiết, nó vô hình đối với hai con mắt", hoàng tử bé lặp lại, để ghi nhớ về
sau.
"Chính cái thì giờ chú
đã tiêu hao mất đi vì đóa hồng của tôi... hoàng tử lặp lại, để ghi nhớ về sau.
"Con người đã quên chân
lý đó", con chồn nói. "Nhưng chú chớ nên quên. Chú trở thành có trách
nhiệm vĩnh viễn đối với cái gì chú đã một lần tuần dưỡng một phen. Chú có trách
nhiệm với đóa hồng của chú."
"Tôi có trách nhiệm với
đóa hồng của tôi"... hoàng tử bé lặp lại, để ghi nhớ về sau.
|
đặt vé máy bay eva air
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
phong ve korean air
giá vé máy bay đi mỹ khứ hồi
đặt vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich